BÀ ĐẦY ƠN PHÚC
L.M.Nguyễn công Đoan S.J.
Ngày 7 tháng 12 năm 2020
Nguồn: ktcgkpv.org
Nhân dịp lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội, đọc lại một
vài trang Sách Thánh liên hệ.
Một trong những bản văn Sách Thánh khơi nguồn cho Hội Thánh từ
những thế kỷ đầu để chiêm ngắm Đức Trinh Nữ Maria, người mẹ đã sinh Chúa Giê-su
bởi Quyền Phép Chúa Thánh Thần, là đoạn Tin Mừng theo thánh Luca,
nay mở đầu các mầu nhiệm kinh Mân Côi : “Thiên thần truyền tin cho Đức
Bà chịu thai”, kể việc Thiên Sứ Gáp-ri-en được Thiên Chúa sai đến nói với
trinh nữ Maria ở làng Na-da-rét, xứ Ga-li-lê, tỏ cho Trinh nữ biết ý muốn của
Thiên Chúa. Đáp lại, Trinh Nữ đã tin lời Sứ Thần, quảng đại và tín thác nộp
mình cho Thiên Chúa vô điều kiện : “Này tôi đây là nữ tỳ của Thiên
Chúa, xin cứ xảy ra cho tôi theo như lời ngài”.
Đoạn Tin Mừng này kể cho chúng ta về bước khởi đầu của việc
Thiên Chúa sai Con Một hằng hữu trong lòng Chúa Cha, sinh xuống làm con một
người phụ nữ, sống trọn thân phận con người, rồi chết trên thập giá và sống
lại, chiến thắng tội lỗi và cả cái chết, giải thoát cả “con cháu E-và” khỏi
quyền lực tội lỗi và sự chết, cho loài người trở nên con cái Thiên Chúa và tham
dự sự sống vinh quang và vĩnh cửu của Thiên Chúa :
Khi thời gian tới hồi viên mãn, Thiên Chúa đã sai Con mình tới,
sinh làm con một người phụ nữ, và sống dưới Lề Luật, 5để chuộc những ai
sống dưới Lề Luật, hầu chúng ta nhận được ơn làm nghĩa tử. 6Để chứng thực
anh em là con cái, Thiên Chúa đã sai Thần Khí của Con mình đến ngự trong lòng
anh em mà kêu lên : “Áp-ba, Cha ơi !” 7Vậy anh em không còn phải
là nô lệ nữa, nhưng là con, mà đã là con thì cũng là người thừa kế, nhờ Thiên
Chúa. (Gl 4,4-7).
Lời chào của thiên sứ Gáp-ri-en sớm đượckết với lời chào của bà
I-a-ve1 thành kinh Kính Mừng, thường là kinh đầu tiên chúng ta
học khi còn ngồi trên đầu gối cha mẹ. Mỗi ngày ba lần, sáng, trưa, chiều,
chuông nhà thờ ngân vang mời gọi chúng ta ngừng tay đọc kinh Truyền Tin...
tất cả đều nhắc chúng ta nhớ về nguồn cội và căn tính của mình là những người
đã được cứu chuộc nhờ Chúa Giê-su Con Thiên Chúa đã “xuống thế làm người,
sinh bởi Đức Bà Maria trọn đời Đồng Trinh”.
Đoạn Tin Mừng này của thánh Lu-ca là một kiệt
tác văn chương, gói ghém cả lịch sử cứu độ được mạc khải từ thời tổ phụ
Áp-ra-ham qua các ngôn sứ cho đến khi thực hiện. Trinh nữ Maria nhỏ bé khiêm
hạ, ở xóm nghèo Na-da-rét trên miền núi Ga-li-lê, đã được Thiên Chúa chọn để
thay mặt loài người lãnh nhận quà tặng tuyệt vời của tình yêu Thiên Chúa, mà
bao đời hằng trông đợi, bao ngôn sứ đã loan báo để giữ ngọn lửa đợi trông.
Đoạn văn này chất chứa nhiều ý nghĩa được gợi lên nhờ quy chiếu
vào Cựu Ước, nhất là các lời ngôn sứ mà chúng ta phải nghiền ngẫm và xin ơn
Chúa Thánh Thần soi sáng để có thể đón nhận những gì Thiên Chúa muốn tỏ cho
chúng ta về Thiên Chúa, về Chúa Giê-su, về Đức Trinh Nữ Maria và về chúng ta,
như thánh Phê-rô đã dạy :
Các ngôn sứ đã nghiên cứu tìm hiểu ơn cứu độ này, và đã tuyên
sấm về ân sủng dành cho anh em. 11Thần Khí Đức Ki-tô ở nơi các
ngài, đã báo trước những đau khổ dành cho Đức Ki-tô, và vinh quang đến sau
những đau khổ đó, nên các ngài đã tìm hiểu xem Thần Khí muốn cho thấy việc đó
xảy ra vào thời nào, trong hoàn cảnh nào. 12Thiên Chúa đã mặc khải cho các
ngài biết là các ngài có phận sự truyền đạt thông điệp ấy, không phải cho chính
mình, mà là cho anh em. Đó là thông điệp mà nay các người giảng Tin Mừng đã
loan báo cho anh em, nhờ tác động của Thánh Thần là Đấng đã được cử đến từ
trời. Chính các thiên thần cũng ước mong được tìm hiểu kỹ lưỡng thông điệp
ấy. (1Pr 1,11-12).
Trong thư thứ hai thánh Phê-rô căn dặn thêm :
Như vậy chúng tôi lại càng thêm tin tưởng vào lời các ngôn sứ.
Anh em chú tâm vào đó là phải, vì lời ấy như chiếc đèn tỏ rạng giữa chốn tối
tăm, cho đến khi ngày bừng sáng và sao mai mọc lên soi chiếu tâm hồn anh
em. 20Nhất là anh em phải biết điều này : không ai được tự tiện giải
thích một lời ngôn sứ nào trong Sách Thánh. 21Quả vậy, lời ngôn sứ không
bao giờ lại do ý muốn người phàm, nhưng chính nhờ Thánh Thần thúc đẩy mà có
những người đã nói theo lệnh của Thiên Chúa. (2Pr 1,19-21)
Qua lời thư thánh Phê-rô, chúng ta thấy rằng ý nghĩa tron vẹn
của đoạn Tin Mừng rất phong phú này phải học từ Truyền Thống của Hội Thánh do
các giáo phụ truyền lại từ những thế kỷ đầu, và theo huấn quyền của Hội Thánh
được Chúa Thánh Thần dẫn dắt giải thích cho chúng ta, giáo huấn này cô đọng
tron kinh Tin Kính và trong những tín điều Hội Thánh tuyên xưng. Những tác gỉa
ngoài công giáo, những tay bút nghiệp dư và thậm chí một số nhà chú giải Công
Giáo tự cho là “khoa học”, nhan nhản trên internet ngày nay, thường giản lược ý
nghĩa, nội dung theo quan điểm duy lý, phủ nhận quyền năng của Thiên Chúa mà
Thiên sứ đã giải thích : “Đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể
làm được” (Lc 1,37). Chúng ta cần gắn bó với đức tin của Mẹ
chúng ta là Hội Thánh duy nhất, thánh thiện, Công Giáo và tông truyền để khỏi
hoang mang vì những luận điệu của những kẻ không tin Thiên Chúa, hoặc lòng tin
như cậy sậy bị cuốn theo chiều gió. Ngày nay với đủ mọi luồng gió trong nếp
sống “hậu vô thần”2 và qua mọi phương tiện truyền thông điện tử, lời căn dặn
của thánh Phê-rô càng khẩn thiết : “Ma quỷ3, thù địch của anh
em, như sư tử gầm thét, rảo quang tìm mồi cắn xé. Anh em hãy đứng
vững trong đức tin mà chống cự” (1Pr 5,8-9).
*******
Từ Tin Mừng Phục Sinh đến Tin Mừng
Giáng Sinh
Sau khi được đầy Thánh Thần, thánh Phê-rô cùng với mười một tông
đồ đứng lên rao giảng. Chúng ta nghe các Ngài khởi từ sự việc các Ngài được đầy
Thánh thần, đang gây xôn xao, bàn tán trong đám đông, ngược dòng lịch sử vạch
cho người ta thấy điều họ đang chứng kiến và ngạc nhiên là điều Thiên Chúa đã
hứa từ lâu : Thiên Chúa hứa ban Thánh Thần, nhưng việc này lại là kết quả
của một biến cố mới xảy ra trước đó, ấy là Đức Giê-su Na-da-rét bị nộp, bị đóng
đinh thập giá, đã chết, sống lại và được tôn vinh bên hữu Thiên Chúa, chính
Ngài gởi Thánh Thần xuống, như anh chị em đang thấy...
Thêm ba ngàn người gia nhập cộng đoàn 120 người đã có mặt trong
nhà Tiệc Ly khi Thánh Thần ngự xuống. Sau khi công bố Tin Mừng và người ta đã
tin, các tông đồ phải dạy người ta, như Chúa Giê-su đã căn dặn : “Làm
cho muôn dân thành môn đệ và dạy họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền” (Mt 28,20).
Sách Công Vụ kể : “Các tín hữu chuyên cần nghe các Tông Đồ
giảng dạy, luôn luôn hiệp thông với nhau, siêng năng tham dự lễ bẻ
bánh, và cầu nguyện không ngừng.” (Cv 2,42).
Các Tông Đồ có gì để giảng dạy thêm cho các tín hữu ? Nhiều
thứ lắm.
Ngày đầu họ mới nghe tóm tắt cuộc đời, cái chết và sự sống lại
của Chúa Giê-su để ban ơn tha tội, và họ đã chịu phép
rửa để gia nhập cộng đoàn môn đệ. Các môn đệ đã đi theo Chúa trên những con
đường xứ Ga-li-lê và Giu-đa, nhưng vẫn chưa sống theo đường lối của Chúa, vẫn
trang giành địa vị với nhau, vẫn muốn hủy diệt người khác. Nay nhờ Thánh Thần
họ đã hiểu thế nào là làm môn đệ, là đi theo Chúa, và đến phiên họ phải dạy các
tín hữu sống làm môn đệ ở bất cứ đâu, trong bất cứ hoàn cảnh nào, nghĩa là sống
theo lời Chúa dạy và theo đường lối của Chúa. Muốn thế họ cần được nghe thế hệ
đã ở với Người từ ban đầu kể lại lời Chúa đã dạy, cách Chúa đã sống, Chúa đã
gặp những khó khăn, thuận lợi nào, đã ứng xử thế nào ; những người chung
quanh đã phản ứng thế nào, những đụng độ nào đã dẫn tới cái chết thê thảm trên
thập giá, và tại sao các môn đệ lại có thể tiếp tục đi theo Ngài giữa tất cả
những thách đố kia, và nay có thể hiên ngang làm chứng, rao giảng ? Các
tông đồ kể lại cuộc sống, việc làm và giáo lý của Chúa không phải chỉ
như họ đã thấy, nhưng như họ đã hiểu.
Ngày đầu đứng lên rao giảng, các Tông đồ chỉ tóm tắt cuộc đời
của Chúa Giê-su từ khi ông Gio-an Tiền Hô rao giảng và làm phép rửa sám hối,
tập trung vào mầu nhiệm Chúa Giê-su chịu đóng đinh thập giá, chết, mai táng và
phục sinh để đem lại ơn tha tội, được Thiên Chúa tôn vinh và đã gởi Thánh Thần
xuống để các môn đệ có thể đi rao giảng.
Chúa Giê-su đã hứa : “Khi nào Thần Khí sự thật đến,
Người sẽ dẫn anh em tới sự thật toàn vẹn.” (Ga 16,13).
Chúa Giê-su là Sự Thật. Cả cuộc sống của Chúa trong thân phận con người là Sự
Thật về Thiên Chúa và về ơn cứu độ của Thiên Chúa. Thánh Thần giúp các tông đồ
và Hội Thánh nhận ra rằng từ khi làm người trong lòng mẹ, từ giây phút đầu
tiên, Đức Giê-su đã là Con Thiên Chúa, đã là Đấng Cứu Độ trần gian chứ không
phải chỉ từ khi chịu phép rửa hay khi sống lại từ cõi chết.
Tin Mừng cứu độ bắt đầu từ khi “Đức Chúa Trời sai thánh thiên
thần truyền tin cho rất thánh Đức Bà Maria, và Rất Thánh Đức Bà chịu thai bởi
phép Đức Chúa Thánh Thần”. Trong cuộc đời rao giảng, trong cuộc thương khó,
trong nhà các môn đệ họp nhau cầu nguyện để chờ đón Thánh Thánh, thân mẫu Chúa
Giê-su thấp thoáng có mặt. Nhưng trong trình thuật truyền tin thì Đức Trinh Nữ
Maria lại giữ vai chính, đại diện cho “con cháu E-và” để đón nhận Tin
Mừng Thiên Chúa gởi đến qua Sứ thần Gáp-ri-en.
Lời loan báo Tin Mừng Cứu độ này không phải là điều bất ngờ,
nhưng là lúc Thiên Chúa thực hiện lời hứa tự ngàn xưa, như thánh Phao-lô
viết : “khi thời gian tới hồi viên mãn , Thiên Chúa đã sai Con mình
tới, sinh làm con một người phụ nữ, và sống dưới Lề Luật”(Gl
4,4). Để vào sâu trong ý nghĩa của đoạn khởi đầu Tin Mừng này, chúng ta
cần nhớ lại những lời hứa trong Cựu Ước, từ sách Sáng Thế tới các ngôn sứ.
Sứ Thần Gáp-ri-en được sai đến...
(Lc 1,26)
Bà Ê-li-sa-bét có thai được sáu tháng, thì Thiên Chúa
sai sứ thần Gáp-ri-en đến một thành miền Ga-li-lê, gọi
là Na-da-rét, 27gặp một trinh nữ đã thành hôn với một người tên
là Giu-se, thuộc dòng dõi vua Đa-vít. Trinh nữ ấy tên
là Ma-ri-a.
Hai chương đầu của sách Tin Mừng Lu-ca quen gọi
là Tin Mừng thời thơ ấu, trình bày cho thấy Tin Mừng Cứu Độ trong
Chúa Giê-su Ki-tô bắt đầu từ khi Ngài đi vào kiếp sống làm người trong lòng Đức
Mẹ Đồng Trinh Maria. Từ giây phút đầu tiên ấy người con trong lòng Đức Mẹ đã là
Con Đấng Tối Cao, là Đấng Cứu Độ Trần Gian rồi. Chúa Giê-su không chỉ cứu linh
hồn chúng ta bằng cái chết và sự phục sinh của Ngài, nhưng cứu trọn kiếp người
của chúng ta từ lòng mẹ tới lòng đất, bằng cả cuộc sống làm người của Ngài, vì
Ngài là Chúa và là Đấng Cứu Độ Trần Gian từ lòng mẹ tới lòng đất, để đưa kiếp
người từ lòng đất lên lòng Cha trên trời.
Tác giả sách Tin Mừng dùng lối kể xen kẽ giữa vị Tiền Hô và Đấng
Cứu Độ, để so sánh, làm nổi bật tính hơn hẳn về bản tính và sứ mạng. Trong
khuôn khổ bài này, tôi để độc giả tự đọc lại trong sách Tin Mừng để thấy cách
kể truyện xen kẽ đối chiếu này. Tôi xin tập trung vào trình thuật Sứ Thần đối
thoại với Đức Maria và kết quả.
Lời dẫn nhập
Lời dẫn nhập trích dẫn ở trên đã giới thiệu các nhân vật và nơi
chốn :
Bà E-li-sa-bét đã có thai được sáu tháng, tóm lại việc Thiên sứ báo tin cho
ông Da-kha-ri-a trong Đền thờ. Lời Sứ Thần đã ứng nghiệm. Người con của ông bà
già này sẽ đi trước dọn đường cho Chúa, nên đã ở trong bụng mẹ sáu tháng rồi.
Sứ Thần vẫn là Gáp-ri-en, đã hiện ra với ông
Da-ca-ri-a trong đền thờ
Nơi chốn : tại nhà trinh nữ, ở một
thành miền Ga-li-lê tên là Na-da-rét. So với việc Sứ Thần hiện ra với ông
Da-ca-ri-a là tư tế đang khi thi hành chức vụ dâng hương trong Đền Thờ ở
Giê-ru-sa-lem, thì sự tương phản thật hết chỗ nói : một ngôi nhà nhỏ ở
Na-da-rét, nơi “khỉ ho cò gáy”, chẳng hề được nhắc đến trong Cựu Ước (x. Ga 1,46),
cả xứ Ga-li-lê là vùng xa xôi ở phía Bắc, bị coi như vùng đất của dân ngoại
(x. Mt 4,18).
Người được Sứ Thần đến gặp : một trinh nữ đã đính
hôn4 với một người tên là Giu-se, thuộc dòng dõi Đa-vít, tên trinh
nữ5 ấy là Maria. Chúng ta được biết tên và gốc tích hôn
phu trước. Các sách Tin Mừng đều cho biết tên ông Giu-se, nhưng chỉ có Tin Mừng
Thời thơ ấu theo Mát-thêu và Lu-ca mới cho
biết ông thuộc dòng dõi Đa-vít, để cho biết tại sao Chúa Giê-su là “con vua
Đa-vít”. Cả hai sách Tin Mừng này sẽ kể rõ là Đức Trinh Nữ thụ thai bởi quyền
năng Thánh Thần chứ không phải do sự kết hợp vợ chồng như Gio-an, con của ông
Da-ca-ri-a và bà Ê-li-sa-bét.
Lu-ca nói đến trinh nữ hai lần, trước và
sau việc “đã đính hôn”, rồi cho đến khi sắp sinh con mà phải về
nguyên quán của Giu-se là Be-lem nhân cuộc kiểm tra dân số toàn thiên hạ, Lu-ca vẫn
dùng từ “đã đính hôn” : “Ông lên đó
khai tên cùng với người đã đính hôn với ông là
bà Ma-ri-a, lúc ấy đang có thai”. Việc Lu-ca “kiên
trì” dùng từ “đính hôn” cho tới khi Chúa Giê-su sinh ra hiển nhiên không
phải vô tình, mà chủ ý làm nổi bật việc Chúa Giê-su sinh làm người, không phải
do sự kết hợp vợ chồng, nhưng bởi quyền năng Thánh Thần.
Nội dung cuộc đối thoại giữa Sứ Thần với Trinh Nữ Maria tập
trung giải thích hai điểm : người con trinh nữ sẽ sinh là ai, có sứ mạng
gì, và trinh nữ sẽ thụ thai bằng cách nào.
Lời chào của Sứ Thần
Sứ thần vào nhà trinh nữ và nói : “Mừng vui lên, hỡi Đấng
đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng bà.” 29Nghe lời ấy, bà rất bối rối, và tự hỏi
lời chào như vậy có nghĩa gì (Lc 1,28-29)
So với cảnh Sứ Thần hiện ra với ông Da-ca-ri-a để thấy sự tương
phản :
Bỗng một sứ thần của Chúa hiện ra với ông, đứng bên phải hương
án. 12Thấy vậy, ông Da-ca-ri-a bối rối, và nỗi sợ hãi ập xuống
trên ông. 13Nhưng sứ thần bảo ông : “Này ông Da-ca-ri-a, đừng
sợ, vì Thiên Chúa đã nhậm lời ông cầu xin : bà Ê-li-sa-bét vợ
ông sẽ sinh cho ông một đứa con trai, và ông phải đặt tên cho con
là Gio-an. (Lc 1,11-12)
Phản ứng của ông Da-ca-ri-a khi thấy thiên thần : bối rối
và sợ hãi. Sứ thần trấn an và cho biết tin vui và cho ông biết tên phải đặt cho
con. Nội dung gợi nhớ truyện tổ phụ I-xa-ác và bà Rê-bê-ca (St 25,21). Đứa con
này là kết quả của lời cầu xin.
Ông sẽ được vui mừng hớn hở, và nhiều người cũng được hỷ hoan
ngày con trẻ chào đời. 15Vì em bé sẽ nên cao cả trước mặt Chúa. Rượu lạt
rượu nồng em sẽ đều không uống. Và ngay khi còn trong lòng mẹ, em đã đầy Thánh
Thần. (1,13-14)
Đứa con này đem vui mừng hỷ hoan cho ông và nhiều người, sẽ nên
cao trọng trước mặt Thiên Chúa. Sống theo quy chế na-dia [người được hiến cho
Thiên Chúa] như Sam-son (Tl 13, 2-14), mẹ của Samson cũng son sẻ. Điều mới là
ngay khi còn trong lòng mẹ người con này đã được đầy Thánh Thần.
Sứ mạng của đứa con : là ngôn sứ chuẩn bị một dân sẵn sàng
đón Chúa :
Em sẽ đưa nhiều con cái Ít-ra-en về với Đức Chúa là
Thiên Chúa của họ. 17Được đầy thần khí và quyền năng của ngôn
sứ Ê-li-a, em sẽ đi trước mặt Chúa, để làm cho lòng cha ông quay về với
con cháu, để làm cho tâm tư kẻ ngỗ nghịch lại hướng về nẻo chính đường ngay, và
chuẩn bị một dân sẵn sàng đón Chúa.” (1,16-17).
Lời Sứ thần chào Đức Trinh Nữ Maria
Sứ thần đến tận nhà Đức Trinh Nữ. Lời chào mở đầu bằng lời mời
gọi “Mừng vui lên” gợi một tin vui bất ngờ. Sứ Thần không gọi tên Trinh
Nữ, mà gọi bằng một thứ danh hiệu “Hỡi Người được sủng ái !”6 rồi
như giải thích thêm : “Đức Chúa ở cùng bà”. Rõ ràng là được Đức
Chúa sủng ái, đến mức “Đức Chúa ở cùng bà”.
Biết các sách Ngôn sứ trong Cựu Ước thì thấy ngay lời chào này
xuất xứ từ lời hứa ơn cứu độ ở cuối sách Xô-phô-ni-a :
Reo vui lên, hỡi thiếu nữ Xi-on, hò vang dậy đi nào,
nhà Ít-ra-en hỡi !
Hỡi thiếu nữ Giê-ru-sa-lem, hãy nức lòng phấn khởi .
15Án lệnh phạt ngươi, ĐỨC CHÚA đã rút lại, thù địch của
ngươi, Người đã đẩy lùi xa.
Đức Vua của Ít-ra-en đang ngự giữa ngươi, chính là ĐỨC CHÚA.
Sẽ chẳng còn tai ương nào khiến ngươi phải sợ.
16Ngày ấy, người ta sẽ bảo Giê-ru-sa-lem : “Này Xi-on,
đừng sợ, chớ kinh hãi rụng rời.”
17ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của ngươi đang ngự giữa ngươi, Người là
Vị cứu tinh, là Đấng anh hùng. Vì ngươi, Chúa sẽ vui mừng hoan hỷ, sẽ lấy tình
thương của Người mà đổi mới ngươi.
Vì ngươi, Chúa sẽ nhảy múa tưng bừng 18như trong ngày lễ
hội.
“Cô gái Xi-on, cô gái Giê-ru-sa-lem” là hình ảnh thi ca
tượng trưng cho cả Xi-on, Giê-ru-sa-lem ; rất gần với kiểu nói Việt
Nam : cô gái Sai-gon, cô gái Huế, cô gái Hà-nội, cô gái Việt-nam da
vàng...
Niềm vui và vinh quang ở đây gợi nhớ những chương tuyệt vời về
ơn cứu độ và vinh quang của Giê-ru-sa-lem trong sách I-sai-a
60,1-22 ; 62,1-12.
Vì lòng mến Xi-on, tôi sẽ không nín lặng, vì lòng mến
Giê-ru-sa-lem, tôi nghỉ yên sao đành,
tới ngày đức công chính xuất hiện tựa hừng đông, ơn cứu độ của
thành rực lên như ngọn đuốc.
2Rồi muôn dân sẽ được chiêm ngưỡng đức công chính của ngươi, mọi
đế vương sẽ được ngắm nhìn vinh quang ngươi tỏ rạng.
Người ta sẽ gọi ngươi bằng tên mới, chính là tên miệng ĐỨC CHÚA đặt
cho.
3Ngươi sẽ là ngọc miện huy hoàng trong lòng bàn tay ĐỨC CHÚA,
sẽ là mũ triều thiên vương giả Thiên Chúa ngươi cầm ở tay.
4Chẳng ai còn réo tên ngươi : “Đồ bị ruồng bỏ !”
Xứ sở ngươi hết bị tiếng là “Phận bạc duyên đơn.”
Nhưng ngươi được gọi : “Ái khanh lòng Ta hỡi !”
Xứ sở ngươi nức tiếng là “Duyên thắm chỉ hồng .”
Vì ngươi sẽ được ĐỨC CHÚA đem lòng sủng ái, và Chúa lập hôn ước cùng xứ
sở ngươi.
5Như tài trai sánh duyên cùng thục nữ, Đấng tác tạo ngươi sẽ
cưới ngươi về .
Như cô dâu là niềm vui cho chú rể, ngươi cũng là niềm vui cho
Thiên Chúa ngươi thờ.
Trinh nữ Maria nhận được tên mới do Sứ Thần của Chúa công
bố : “Người được sủng ái” và Đức Chúa ngự giữa Xi-on, bây
giờ ngự nơi “Người được sủng ái”.
Sự hiện diện của Sứ Thần làm cho ông Da-ca-ri-a “bối rối và
sợ hãi”. Còn Đức Trinh Nữ Maria, người được Thiên Chúa sủng ái thì không
bối rối và sợ hãi vì sự hiện diện cùa Sứ Thần, nhưng bối rối và tự hỏi về ý
nghĩa của lời chào do Sứ Thần nói. Sứ Thần giải thích, không gọi bằng danh hiệu
nữa mà gọi đích danh :
Sứ thần liền nói : “Thưa bà Ma-ri-a, xin đừng sợ, vì
bà được nghĩa với Thiên Chúa. 31Và này đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con
trai, và đặt tên là Giê-su. 32Người sẽ nên cao cả, và sẽ được gọi là
Con Đấng Tối Cao. Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng
vua Đa-vít, tổ tiên Người. 33Người sẽ trị vì
nhà Gia-cóp đến muôn đời, và triều đại của Người sẽ vô cùng vô tận.
Thiên Chúa xác nhận với ông Mô-sê : “Ngươi được nghĩa
với Ta, nên ta sẽ làm điều ngươi vừa xin”7 (Xh 33,17).
Trinh Nữ Maria không chỉ được nghĩa, mà được Thiên Chúa sủng ái. Trinh nữ không
xin gì cả, nhưng Thiên Chúa chọn Đức Trinh Nữ để thực hiện lời hứa của Ngài.
Nội dung lời giải thích là lời hứa cho nhà Đa-vít trong sách I-sai-a. Nhân
một cơn hốt hoảng trước nguy cơ bị xâm lược :
Thời vua A-khát, con vua Giô-tham, cháu
vua Út-di-gia-hu, trị vì Giu-đa, thì
vua A-ram là Rơ-xin, và vua Ít-ra-en là Pe-các,
con ông Rơ-man-gia-hu, lên đánh Giê-ru-sa-lem, nhưng không thể tấn
công được. 2Người ta báo tin cho nhà Đa-vít rằng :
“A-ram đã đóng rinh trước gió. (7,1-2)
Thiên Chúa sai ngôn sứ I-sai-a đi công bố nhà vua lời hứa :
ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng phán thế này : Chuyện đó sẽ
không xảy ra, sẽ không có,
8vì đầu của A-ram là Đa-mát, đầu của Đa-mát là Rơ-xin….9Đầu của
Ép-ra-im là Sa-ma-ri,
đầu của Sa-ma-ri là con của Rơ-man-gia-hu.8
Nếu các ngươi không vững tin, thì các ngươi sẽ không đứng vững. (7,7-9)
Xem ra lời hứa vẫn chưa làm cho vua và dân an lòng, lòng tin của
họ chưa vững như Thiên Chúa đã truyền. Thên Chúa hạ cố cho vua xin một dấu hiệu
để củng cố lòng tin cho vua và dân. Không biết thực chất vì sao vua không dám
xin, nên Thiên Chúa tự ý cho một dấu hiệu :
Chính Chúa Thượng sẽ ban cho các ngươi một dấu :
Này đây người thiếu nữ9 sẽ mang thai, sẽ sinh hạ con trai, và đặt tên
là Em-ma-nu-en…
17ĐỨC CHÚA sẽ đem lại cho ngài, cho dân ngài, cho thân phụ
ngài
những ngày như chưa từng có, kể từ khi Ép-ra-im tách khỏi
Giu-đa (7,14.17)
Không có tài liệu nào trong Sách Thánh hoặc lịch sử nói đến một
hoàng tử thời đó có tên là Emmanuel. Nhưng tự cái tên có ý nghĩa
tương trưng : Thiên Chúa ở cùng chúng ta, như thấy
trong Sách Thủ Lãnh kể về ông Ghít-ôn :
Thần sứ của ĐỨC CHÚA đến và ngồi dưới cây tùng ở Óp-ra. Cây
này là của ông Giô-át, thuộc gia đình A-vi-e-de. Con ông là Ghít-ôn bấy giờ
đang đập lúa trong bồn đạp nho để tránh mặt người Ma-đi-an. 12Thần sứ ĐỨC
CHÚA hiện ra với ông và nói : “Chào chiến sĩ can trường ! ĐỨC
CHÚA ở với ông.” 13Ông Ghít-ôn đáp : “Ôi, thưa Ngài, nếu
ĐỨC CHÚA ở với chúng tôi, thì sao chúng tôi đến nông nỗi này ?
Đâu cả rồi những kỳ công mà cha ông đã kể lại cho chúng tôi nghe, rằng :
chẳng phải ĐỨC CHÚA đã đưa chúng ta lên khỏi Ai-cập sao ? Thế mà bây
giờ ĐỨC CHÚA đã bỏ rơi chúng tôi, trao chúng tôi vào tay người Ma-đi-an.”
14Bấy giờ ĐỨC CHÚA quay lại nhìn ông và nói : “Hãy
mạnh bạo lên đường cứu Ít-ra-en khỏi tay quân Ma-đi-an. Không phải chính Ta sai
ngươi sao ?” 15Nhưng ông đáp : “Ôi, thưa Ngài, con lấy gì mà cứu
Ít-ra-en ? Này dòng họ con thấp kém nhất trong chi tộc Mơ-na-se, mà con
lại nhỏ nhất trong nhà cha (con.” 16ĐỨC CHÚA phán với ông : “Ta
sẽ ở với ngươi, và ngươi sẽ đánh quân Ma-đi-an như đánh có một người.” (Tl 6,11-16).
Sứ thần tiếp tục nói về tên gọi, sứ mạng và địa vị của người con
do Đức Trinh Nữ sinh ra. Tên con trẻ sẽ là Giê-su, viết đầy đủ theo
tiếng Hip-ri là GIÊ-HÔ-SU-A, Giô-su-ê [Đức Chúa cứu], giống như người đã kế
thừa sứ mạng của Mô-sê : cứu dân khỏi ách lưu đầy Ai-cập và đưa vào Đất
Hứa (trong sách Xuất Hành và sách Giô-su-ê).
Địa vị thì hơn hẳn con ông Da-ca-ri-a, Ngài là Con Đấng
Tối Cao. Sứ mạng là thừa kế, và hơn thế nữa, thể hiện trọn vẹn lời Thiên
Chúa đã hứa cho dòng dõi Đa-vít (x. 2S 7).
Trinh nữ Maria hỏi Sứ Thần về cách thức của việc thụ thai, vì
tuy đã đính hôn với Giu-se, nhưng thường là một năm sau mới tổ chức đám cưới,
rước dâu, chẳng lẽ kêu nhà trai cưới lẹ đi ? Con nhà gia giáo thì đâu có
“cưới lẹ” được, lại càng không thể “ăn cỗ trước các cụ”10 !
Sứ thần đáp : “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền
năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà ; vì thế, Đấng Thánh sắp
sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa. 36Kìa bà Ê-li-sa-bét, người họ
hàng với bà, tuy già rồi, mà cũng đang cưu mang một người con trai : bà ấy
vẫn bị mang tiếng là hiếm hoi, mà nay đã có thai được sáu tháng, 37vì đối
với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được.” (1,35-37)
Sứ Thần dùng những cách nói gợi lại quyền năng tạo dựng :
Lúc khởi đầu, Thiên Chúa sáng tạo trời đất. 2Đất còn trống
rỗng, chưa có hình dạng, bóng tối bao trùm vực thẳm, và thần khí Thiên
Chúa bay lượn trên mặt nước (St 1,1)
Và sự hiện diện của Thiên Chúa trên Lều Tạm mà ông Mô-sê dựng
theo lệnh của Thiên Chúa :
Đám mây che phủ Lều Hội Ngộ, và vinh quang ĐỨC CHÚA đầy
tràn Nhà Tạm. 35Ông Mô-sê không thể vào Lều Hội Ngộ vì đám mây
đậu trên đó, và vinh quang ĐỨC CHÚA đầy tràn Nhà Tạm. (Xh 40,34-35)
Và Đền Thờ vua Sa-lo-môn đã xây :
Khi các tư tế ra khỏi Cung Thánh, thì có đám mây toả đầy
Đền Thờ ĐỨC CHÚA. 11Các tư tế không thể tiếp tục thi hành nhiệm vụ
được vì đám mây : quả thật, vinh quang ĐỨC CHÚA đã tràn ngập Đền Thờ
ĐỨC CHÚA. (1V 8,10-11)
Như vậy đây là một công trình tạo dựng mới của Thiên Chúa và một
sự hiện diện mới của Thiên Chúa. Người con mà Trinh Nữ sinh ra là một sự mới mẻ
hoàn toàn : Vì thế, Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con
Thiên Chúa. (Lc 1,35).
Trinh nữ không xin một dấu hiệu nào, nhưng Sứ Thần cho một dấu
hiệu, đúng hơn là Sứ Thần báo tin cho Trinh Nữ biết : 36Kìa
bà Ê-li-sa-bét, người họ hàng với bà, tuy già rồi, mà cũng đang cưu mang
một người con trai : bà ấy vẫn bị mang tiếng là hiếm hoi, mà nay đã có
thai được sáu tháng, 37vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không
thể làm được.
Trinh Nữ không cần dấu hiệu để tin. Lời Sứ Thần nhằm nói với
chúng ta : Sự mới lạ Thiên Chúa muốn thực hiện nơi Trinh Nữ là do quyền
năng Thiên Chúa, Đấng đã tạo thành vũ trụ và muôn loài bằng Thần Khí của Ngài.
Về phương diện cấu trúc văn chương thì tác giả chuẩn bị cho hồi tiếp
theo : cuộc gặp gỡ giữa hai bà mẹ : bà già son sẻ đã mang thai 6
tháng nhờ ông chồng già, bà mẹ trẻ mới mang thai nhờ quyền năng Thánh Thần. Bào
thai trong lòng bà mẹ già son sẻ là người dọn đường cho Chúa, bào thai trong
lòng bà mẻ trẻ là Đấng Thánh, là Con Thiên Chúa.
Trinh Nữ chỉ xin được biết rõ ý muốn của Thiên Chúa, khi biết rõ
rồi thì nộp mình hoàn toàn cho Lời Thiên Chúa :
Bấy giờ bà Ma-ri-a nói : “Vâng, tôi đây là nữ tỳ
của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi11 như lời sứ thần nói.” Rồi sứ
thần từ biệt ra đi. (Lc 1,38).
Trinh Nữ không phải làm gì cả, chỉ cần bằng lòng đón nhận Lời
Thiên Chúa. Đấng đã phán “hãy có ánh sáng, lập tức ánh sáng có (St 1,3),
nay Thiên Chúa đã phán với Trinh Nữ thì chỉ cần Trinh nữ ưng thuận là Lời Thiên
Chúa thành sự thật12.
“Đức Bà đi viếng bà thánh I-sa-ve”
Ngay sau khi Trinh Nữ đã nộp mình cho Lời Thiên Chúa thì Sứ Thần
từ biệt ra đi vì đã hoàn thành sứ mạng.
Trinh Nữ Maria cũng vội vã lên đường, từ
Ga-li-lê lên miền núi xứ Giu-đa, thăm bà E-li-sa-bét. Lu-ca mô
phỏng trình thuật vua Đa-vít rước Hòm Bia Giao Ước từ Ky-ri-at Giê-a-rim về
Giê-ru-sa-lem (2S 6).
Lu-ca cho chúng ta nhận ra Đức Maria được bao phủ bởi Quyền Năng
Thiên Chúa để mang “Con Thiên Chúa” đã thành bào thai trong lòng, Đấng sẽ thiết
lập Giao Ước Mới và là chính Giao Ước Mới. Đức Trinh Nữ đã thành Hòm Bia Giao
Ước Mới.
Trong cuộc rước Hòm Bia thời Đa-vít, xảy ra tai nạn chết người,
Đa-vít sợ : “Thế này thì Hòm Bia Đức Chúa đến với tôi thế nào
được” (2S 6,9), vua cho “chuyển hướng sang nhà ông Obed
Edom người thành Gát”. Sau ba tháng, nghe tin gia đình Obed Edom được chúc
lành, Đa-vít liền đi rước phúc về nhà mình : vua đi trước nhảy múa quay
cuồng, toàn dân theo sau lớn tiếng hô vang… Đa-vít đưa Hòm Bia đặt trong Lều
vua đã dựng cho Hòm Bia.
Trong trình thuật của Lu-ca,
Bà Ê-li-sa-bét vừa nghe tiếng
bà Ma-ri-a chào, thì đứa con trong bụng nhảy lên, và bà được
đầy tràn Thánh Thần, 42liền kêu lớn tiếng và nói rằng : “Em
được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em
đang cưu mang cũng được chúc phúc. 43Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa
tôi đến với tôi thế này ? 44Vì này đây, tai tôi vừa nghe tiếng em chào,
thì đứa con trong bụng đã nhảy lên vui sướng. 45Em thật có phúc, vì đã tin
rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em (1,41-45).
Thánh Thần đã ngự xuống trên Đức Trinh Nữ bây giờ tràn sang cho
bà Ê-li-sa-bét và đứa con trong bụng bà, để hai mẹ con thành ngôn sứ công bố
điều mầu nhiệm Thiên Chúa đã thực hiện nơi Đức Trinh Nữ. Đứa con 6 tháng trong
bụng mẹ, ở phía trước, nhảy mừng, như vua Đa-vít nhảy mừng trước Hòm Bia, bà mẹ
lớn tiếng kêu lên – như đám đông theo sau lớn tiếng hò reo. Bà Ê-li-sa-bét
không hò reo, nhưng lớn tiếng công bố mầu nhiệm :
Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ. Trong Kinh Thánh, người phụ
nữ được chúc phúc là người phụ nữ có sinh con. Trong trình thuật vua Đa-vít
kiệu Hòm Bia, bà Mi-khan tiêu biểu cho người phụ nữ không được chúc phúc :
không có con.
Khi đã hoàn tất việc dâng các lễ toàn thiêu và lễ kỳ an,
vua Đa-vít nhân danh ĐỨC CHÚA các đạo binh chúc phúc cho dân... Khi
vua Đa-vít trở về để chúc phúc cho nhà mình, bà Mi-khan, con
gái vua Sa-un, ra đón vua và nói : “Vua Ít-ra-en hôm nay
thật là danh giá, khi để hở hang trước mắt các nữ tỳ của tôi tớ mình, hở hang
chẳng khác gì một đứa vô danh tiểu tốt !” 21Vua Đa-vít nói
với bà Mi-khan : “Trước nhan ĐỨC CHÚA, Đấng đã chọn tôi thay vì thân
phụ bà và cả nhà thân phụ bà, để đặt tôi làm người lãnh đạo dân ĐỨC
CHÚA là Ít-ra-en, trước nhan ĐỨC CHÚA tôi sẽ vui đùa. 22Tôi
sẽ còn hạ mình hơn thế nữa, tôi sẽ coi mình là thấp hèn ; nhưng đối với
các nữ tỳ mà bà nói, đối với chúng, tôi sẽ được danh giá.” 23Và bà Mi-khan,
con gái vua Sa-un, không có con cho đến ngày chết.
Đức Trinh Nữ Maria “được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ”
vì đang mang trong lòng người con rất đặc biệt. Sứ Thần đã cho biết người con
Đức Trinh Nữ là Đấng Thánh, Con Đấng Tối Cao, Con Thiên Chúa.
Bà Ê-li-sa-bét tiếp tục nói về người con ấy : hoa
trái trong lòng em, người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc. Đây
là một điểm tế nhị phải giải thích. Bản văn Hy-lạp dùng cùng một từ eulogemene
/ eulogemenos13, nói về con người thì có nghĩa là được Thiên
Chúa chúc phúc, nhưng nói về Thiên Chúa thì có nghĩa là được chúc tụng. Trong
trình thuật về cuộc Thương Khó, Tin Mừng Mác-cô kể : “Vị
Thượng Tế hỏi Đức Giê-su : ông có phải là huios tou
eulogetou nghĩa là con của Đấng được chúc tụng không ?”
(14,61). Cho đến nay khi nói đến Thiên Chúa, người Do Thái đạo đức vẫn dùng
kiểu nói này hoặc tương tự. Vậy phải chăng trong mạch văn này, người con trong
lòng Trinh nữ Maria là “Con Thiên Chúa” thì cũng là Đấng được chúc
tụng ?
Đức Trinh Nữ Maria được Thiên Chúa chúc phúc hơn mọi người phụ
nữ thì cũng mang phúc cho người khác, mà người đầu tiên chính là mẹ con bà
Ê-li-sa-bét. Vua Đa-vít sợ không dám để Hòm Bia đến với mình, còn bà
Ê-li-sa-bét đã được Hòm Bia Giao Ước Mới đến với bà thì kêu lớn tiếng : “Bởi
đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này ?”
Làm sao bà nhận ra ? Chính bà được đầy tràn Thánh Thần, và con trong lòng
bà cũng được đầy tràn Thánh Thần để nhận ra Chúa mà sau này mình sẽ phải dọn
một dân để đón nhận thì hôm nay đã đến với mình rồi đây. Đứa con trong bụng
mình nhảy mừng là dấu hiệu cho mẹ nhận ra người mẹ trẻ vừa bước vào nhà mình
đây là Thân Mẫu Chúa tôi, như vậy thai nhi trong bụng Trinh Nữ là “Chúa
tôi”.
Lời cuối cùng của bà Ê-li-sa-bét công bố “bí quyết” của Đức
Trinh Nữ để đón nhận phúc lành cho mình và cho mọi người : “Em thật có
phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì người đã nói với em”. Trinh
Nữ Maria đã thừa kế lòng tin của tổ phụ Áp-ra-ham. Tổ phụ đã tin lời Thiên Chúa
hứa, “ra đi mà không biết mình đi đâu” (Hr 11,8), “ông đã
tin Đức Chúa, và vì thế Đức Chúa kể là người công chính” (St 15,6)
và là “bạn của Thiên Chúa” (Is 41,8). Trinh Nữ đã tin lời
Thiên Chúa và nộp mình trọn vẹn cho Thiên Chúa như người nữ tỳ để Thiên Chúa toàn
quyền sử dụng mà thực hiện lời Ngài đã phán, nên được làm “Thân Mẫu Chúa tôi”.
Ba trình thuật Sứ Thần truyền tin cho ông Da-ca-ri-a, Sứ Thần
truyền tin cho Trinh Nữ Maria và cuộc thăm viếng làm thành ba bức họa nối kết
với nhau, nhưn một bức bình phong ba tấm, để giúp chúng ta chiêm ngắm mầu nhiệm
nhập thể qua vai vế của hai bà mẹ và hai thai nhi, làm nổi bật lên : thai
nhi trong lòng Trinh Nữ Maria là ai và Trinh Nữ Maria là ai.
Niềm vui ơn cứu độ đã được ban cho loài người. “Thân Mẫu Chúa
tôi” cất lời ca ngợi Tình Thương và lòng thành tín của Thiên Chúa, Đấng đã ban
ơn cứu độ theo đúng lời đã thề hứa với tổ phụ Abraham : bài ca ngợi khen “magnificat”
mà chúng ta hát mỗi ngày trong Kinh Chiều.
Đấng Vô Nhiễm Nguyên Tội
Từ những thế kỷ đầu, trong sự phát triển của đức tin nhờ quyền
năng Thánh Thần như Chúa Giê-su đã hứa (x. Ga 16,12-13), các
Giáo Phụ đã hiểu ra rằng lời sứ thần chào Đức Trinh Nữ Maria là “Đấng đầy ân
sủng” còn cho thấy một đặc ân khác Thiên Chúa đã ban cho Đức Mẹ là “không
mắc tội tổ tông truyền” [vô nhiễm nguyên tội].
Sách Sáng Thế (St 3) kể về tội tổ
tông là nghi ngờ tình thương của Thiên Chúa và bất tuân lời Thiên Chúa, nghe
lời Xa-tan xúi giục, đi đường tắt để nên bằng Thiên Chúa. Kết quả là thấy mình trần
truồng và sợ sự hiện diện của Thiên Chúa, rồi bị đuổi ra khỏi vườn địa đàng,
không còn được chung phần sự sống vĩnh cửu của Thiên Chúa. Đức Trinh Nữ Maria
đã được Thiên Chúa ưu ái tuyệt vời, chọn làm mẹ của Con Thiên Chúa làm người,
nên Thiên Chúa đã cho Đức Trinh Nữ được hưởng trước và trọn vẹn ơn cứu độ, mà
người con do Trinh Nữ sinh ra sẽ đem cho cả loài người, nghĩa là từ khi thành
thai trong lòng lòng mẹ, từ giây phút đầu tiên của đời sống, Đức Trinh Nữ Maria
đã là Đấng được đầy ân sủng, sống trong ơn nghĩa của Thiên Chúa để xứng đáng
làm mẹ của Con Thiên Chúa làm người.
Chúng ta không thể chọn ai làm mẹ của mình, nhưng Thiên Chúa
chọn Trinh Nữ Maria và “trang điểm” tâm hồn để làm mẹ : sinh ra, nuôi
dưỡng và dạy dỗ14 Con Thiên Chúa nên người. Người Mẹ của Con Thiên Chúa
thì không thể trải qua một giây phút nào trong cuộc đời mà không sống trong ơn
nghĩa của Thiên Chúa.
Năm 1854, Đức Thánh Cha Pi-ô IX đã dùng quyền giáo huấn tối cao
do Chúa Giê-su trao cho thánh Phê-rô “củng cố lòng tin của anh em”, công
bố tín điều Đức Mẹ không hề mắc tôi tổ tông truyền15. Bản định tín dựa vào lời
Sứ Thần chào Đức Mẹ và cách Hội Thánh hiểu điều ấy từ những thề kỷ đầu.
Năm 1858, ngày 11 tháng 2, Đức Mẹ bắt đầu hiện ra với cô bé chăn
chiên Bernadette Soubirous ở hang đá Lộ Đức, chẳng được học hành gì, mười mấy
tuổi rồi mới đang học giáo lý dọn rước lễ lần đầu. Cô bé hỏi tên, nhưng bà chỉ
mỉm cười, yêu cầu cô bé tiếp tục tới đó mỗi ngày suốt hai tuần lễ, nhưng hết
hai tuần lễ bà vẫn chưa cho cô biết tên. Cô phải chờ mãi tới ngày 25/3, bà mới
trả lời "que soy era Immaculada Councepciou." “Ta
là Đấng vô nhiễm nguyên tội từ khi thành thai trong lòng mẹ”.
Công Đồng Va-ti-ca-nô II dàng nguyên chương thứ 8 của Hiến
Chế Tín Lý về Hội Thánh để nói về vai trò của Đức Trinh Nữ Maria trong
Hôi Thánh, trong đó có trình bày giáo lý về tín điều này. Sách Giáo Lý
của Hội Thánh Công Giáo cũng trình bày (số 489-493).
Nhờ phép Rửa chúng ta được “khỏi tội tổ tông”, thông phần ơn
nghĩa cùng Thiên Chúa do Chúa Giê-su Con Thiên Chúa, Đấng đã “tự hóa ra
không”, sinh làm người, làm con Đức Trinh Nữ Maria, đem lại cho chúng ta
nhờ “hạ mình vâng phục cho đến nỗi bằng lòng chết và chết trên thập giá”
(Pl 2,6-8). Đức Trinh Nữ đã tham dự vào sự vâng phục này khi tự nộp
mình để lời Thiên Chúa được thể hiện.
Còn chúng ta thì sao ? Chúng ta đón nhận lời Thiên Chúa như
thế nào ?
Bà Ê-li-sa-bét ca tụng Đức Trinh Nữ Maria : “Em thật có
phúc vì đã tin rằng Thiên Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em”.
Chúa Giê-su mở rộng mối phúc ấy cho tất cả mọi người :
Khi Đức Giê-su đang giảng dạy, thì giữa đám đông có
một người phụ nữ lên tiếng thưa với Người : “Phúc thay người mẹ đã cưu
mang và cho Thầy bú mớm !” 28Nhưng Người đáp lại : “Đúng hơn
phải nói rằng : Phúc thay kẻ lắng nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa”. (Lc 11,27-28).
Giê-ru-sa-lem, ngày áp lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội 2020
Linh mục Giu-se Nguyễn công Đoan, S.J.
1) Trong tiếng Hy-lạp, tên bà
là Elisabeth, nhưng các thừa sai ban đầu phiên âm theo tiếng Bồ đào Nha thành
I-sa-ve.
2) Thời kỳ “vô thần”, người
ta còn tranh luận về Thiên Chúa, thời “hậu vô thần” này người ta
coi như vấn đề về Thiên Chúa đã giải quyết xong rồi, không cần nói đến nữa,
không cần nghĩ đến nữa. Hãy lo sống cho thoải mái, vì cuộc sống ngắn ngủi, đừng
để cho những cái gọi là “đao đức”, “luân lý”, “nhân nghĩa”... ràng buộc mình.
Quyền lực, của cải, hưởng thụ là trên hết. Nhân vị, nhân phẩm là những từ vô
nghĩa. Chỉ cần “mài lưỡi như mài gươm sắc, lời thâm độc tựa tên lắp vào cung”
(Tv 64/63,4) để chà đạp mọi người dưới chân, bằng tweet, bằng nhãn hiệu, bằng
lời dối trá... lặp lại trăm lần, ngàn lần thì cả cái dân tự cho là văn minh
nhất thế giới cũng tin, để mình đứng trên đầu trên cổ cả một dân và nếu được,
cả thế giới... Người ta đã nên như Thiên Chúa, ngang hàng với Thiên Chúa, đúng
như lời Xa-tan xúi giục từ ban đầu.
3) Ngày nay có nhiều nhà thần học
công giáo cũng không tin là có Xa-tan, trong khi nhiều kẻ khác lại thờ Xa-tan.
Thành công lớn nhất Xa-tan. Chúc mừng ngươi nhé, hỡi Xa-tan!
4) Dịch sát bản Hy-lạp là “đính
hôn”, luật Cựu Ước khác với luật Việt-Nam, đính hôn đã là vợ chồng trên
pháp lý rồi, muốn bỏ nhau là phải làm thủ tục ly dị, chứ không chỉ trả lại trầu
cau. Tuy nhiên chưa cử hành đám cưới thì chưa về chung sống với nhau (x. Mt 1,18).
Vì thế bản dịch của PVCGK dịch là thành hôn.
5) Lu-ca theo bản
LXX Cựu Ước, dùng từ Parthenos trong Is 7,14,
có nghĩa rõ: Trinh nữ; bản Híp-ri dùng từ almah, có nghĩa
chung là một phụ nữ trẻ. Có hai cuộc tranh luận quanh bản văn này: 1/ tranh
luận giữa Hội Thánh Công Giáo với những người không tin Đức Mẹ trọn đời Đồng
Trinh; 2/ tranh luận về lịch sử bản văn sách I-sai-a: bản LXX có trước hay bản
Híp-ri có trước. (Tôi sẽ bàn thêm trong phần phụ thêm sau bài này).
6) Hy-lạp: kecharitomene về
văn phạm làquá khứ phân từ thụ của động từ charitoo nghĩa là
đã được và hiện được ân nghĩa, sủng ái. Bản La-tinh dịch là “đầy ân sủng”.Trong
sách Xuất Hành, ông Mô-sê mở đầu lời cầu xin Chúa: “Nếu con được nghĩa với
Ngài...” (33,13), và Thiên Chúa xác nhận: “Ngay cả điều ngươi vừa nói đó, Ta
cũng sẽ làm, vì ngươi đã được nghĩa với ta, và ta biết đích danh ngươi”
(33,17).
7) Ông Mô-sê xin Chúa cùng đi với
ông và dân trên đường lên Đất Hứa (Xh 33,13-16).
8) Ta nghe phảng phất bài hịch “Nam
quốc sơn hà nam đế cư” trước đe dọa xâm lược từ phương Bắc.
9) X. chú thích 5 ở trên.
10) Kiểu nói hài hước ở miền Bắc
nước ta.
11) Ds: xin cứ xảy ra,
xin cứ được thực hiện.
12) Thực tế, đây là một kiểu mẫu
cầu nguyện cho chúng ta: tìm Thánh Ý Thiên Chúa và nộp mình hoàn toàn cho ý
Chúa thể hiện nơi mình. Trên núi O-liu, Chúa Giê-su cũng sẽ cầu nguyện: xin cho
ý Cha thể hiện chứ không phải ý con (Lc 22,42). Và khi dạy chúng ta
cầu nguyệ, Chúa Giê-su cũng dạy xin “Ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên
trời” (Mt 6,10). Tin Mừng Lu-ca không kể lời này trong kinh Lạy Cha
(11,2-4), phải chăng vì chúng ta không dám xin như vậy trước khi chiêm ngắm
Chúa Giê-su cầu nguyện và nghe chính Chúa xin điều này với tất cả những gì hàm
chứa trong đó, và Chúa đã cầu nguyện tha thiết đến đổ mồ hôi máu. Lời ưng thuận
vô điều kiện của Trinh Nữ Maria cũng đã đưa Người vào một cuộc phiêu lưu đầy
truân chiên như thế nào khi gắn liền cuộc sống mình với Con Thiên Chúa sinh làm
con mình.
13) Bởi động từ eulogein,
nói tốt về, ca tụng.
14) “Đức Giê-su đến
Na-da-rét là nơi người đã được dạy dỗ” (Lc 4,16)
15) Bản định tín “Ineffabilis
Deus”, xác nhận rằng đó là điều Hội Thánh vẫn tin về Đức Trinh Nữ Maria và
mọi tín hữu Công Giáo phải tuyên xưng.