Con
Thiên Chúa Hằng Sống Tự Hóa Ra Không
Chuyến đi khứ hồi từ lòng Cha
trên Trời (Ga 1,1-18)
qua lòng Mẹ dưới đất (Lc 1,26-38) – xuống tận lòng đất (Mt 22,40)
trước khi trở về trong lòng Cha (Ga 13,1)
Nguồn: dongten.net
Dẫn nhập
Năm nay Lễ Truyền
Tin – mừng bước khởi đầu của màu nhiệm Nhập Thể mà thư Phi-lip-phê 2,6-7 diễn
tả là : “Từ địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, Người đã tự hóa ra không,
mang lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế”,
diễn ra ngay trước Lễ Lá, đưa chúng ta vào Tuần Thánh, để chiêm ngắm, cảm
nghiệm, theo Người xuống tận đáy của chuyến đi xuống rồi theo Người trong
chuyến trở lên vinh quang trong lòng Cha. Đây là chuyến đi khứ hồi của Con
Thiên Chúa thi hành sứ mạng vì chúng ta: “Vì loài người chúng tôi và để
cứu rỗi chúng tôi, Người đã từ trời xuông thế…”
Trước hết cũng nên
đọc lại đoạn đầu thư Hip-ri và một dụ ngôn trong sách Tin mừng để giúp chúng ta
thấy tại sao Thiên Chúa lại đi tới chỗ sai chính Con Một Yêu Dấu xuống làm
người như lời cuối cùng ngỏ với loài người chúng ta.
Thuở xưa, nhiều lần nhiều cách,
Thiên Chúa đã phán dạy cha ông chúng ta qua các ngôn sứ ; 2nhưng
vào thời sau hết này, Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta qua Thánh Tử .
Thiên Chúa đã nhờ Người mà dựng nên vũ trụ, đã đặt Người làm Đấng thừa
hưởng muôn vật muôn loài. 3Người là phản ánh vẻ huy hoàng, là
hình ảnh trung thực của bản thể Thiên Chúa. Người là Đấng dùng lời
quyền năng của mình mà duy trì vạn vật. Sau khi đã tẩy trừ tội lỗi,
Người lên ngự bên hữu Đấng Cao Cả trên trời. 4Danh hiệu Người được
thừa hưởng, cao cả hơn danh hiệu các thiên thần bao nhiêu, thì Người lại trổi
hơn họ bấy nhiêu. (Hr 1,1-4).
Đoạn này nói đến
địa vị trổi vượt của Con Thiên Chúa, vượt trên các ngôn sứ và chuyến hành trình
“khứ hồi của Người” với sứ mạng tẩy trừ tội lỗi; đồng thời cho biết đây là thời
sau hết của mạc khải, vì Thiên Chúa đã nói Lời cuối cùng, Thiên Chúa không còn
ai khác để sai đến và cũng không còn lời nào khác để nói với chúng ta.
Người đầu tiên
được Thiên Chúa ngỏ lời là Áp-ra-ham, ông đã tin lời Thiên Chúa, đã không tiếc
gì với Thiên Chúa, nên ông đã thành “bạn” của Thiên Chúa.
Hơn 400 năm sau
Thiên Chúa đã nói với dòng dõi ông qua một người là Mô-sê, nhưng Mô-sê cũng
không làm theo đúng ý Thiên Chúa, tuy Thiên Chúa vẫn kiên nhẫn dạy dỗ và sử
dụng ông để chuyển đạt Luật của Giao Ước cho dân. Nhưng trí nhớ của họ chẳng
bền và các ngẫu thần mà Áp-ra-ham đã từ bỏ một lần dứt khoát, thì họ vẫn bị hấp
dẫn và cũng không nhận Thiên Chúa là nơi nương tựa duy nhất như tổ phụ
Áp-ra-ham, mà vẫn thích dựa vào các thế lực chính trị chung quanh.
Sách Đệ Nhị Luật ca tụng Mô-sê: Trong Ít-ra-en, không còn xuất hiện một ngôn sứ nào như
ông Mô-sê, người mà ĐỨC CHÚA biết rõ, mặt giáp
mặt . 11ĐỨC CHÚA đã sai ông thực hiện mọi điềm thiêng dấu lạ tại
nước Ai-cập, phạt Pha-ra-ô cùng tất cả bề tôi và cả nước. 12Ông Mô-sê đã
biểu dương tất cả sức mạnh bàn tay ông và gây tất cả nỗi kinh hoàng lớn lao
trước mắt toàn thể Ít-ra-en. (34,10-12)
Thư Hip-ri không ngần ngại so sánh Mô-sê với Chúa
Giê-su để cho thấy Chúa Giê-su hơn hẳn Mô-sê thế nào –
Do đó, thưa anh em là những
người trong dân thánh, những người được hưởng chung ơn gọi bởi trời, anh
em hãy ngắm nhìn Đức Giê-su là Sứ Giả, là Thượng Tế , là Trung
Gian cho chúng ta tuyên xưng đức tin. 2Người trung thành với Đấng đã
đặt Người lên chức vụ đó, cũng như ông Mô-sê đã trung thành khi
thi hành chức vụ đối với toàn thể nhà Thiên Chúa . 3Như người làm nhà
đáng tôn vinh hơn chính ngôi nhà, thì Đức Giê-su cũng được coi
là đáng tôn vinh hơn ông Mô-sê. 4Quả thật, nhà nào cũng phải có người
làm ra, và Đấng làm ra mọi sự là Thiên Chúa. 5Ông Mô-sê đã trung
thành khi thi hành chức vụ đối với toàn thể nhà Thiên Chúa, với tư cách là
tôi tớ để làm chứng về các điều Thiên Chúa sẽ phán truyền. 6Còn
Đức Ki-tô thì trung thành với tư cách là nưgời Con đứng đầu nhà Thiên
Chúa. Mà nhà Thiên Chúa là chính chúng ta, miễn là chúng ta giữ vững đến cùng
lòng tin tưởng và thái độ hiên ngang về niềm hy vọng của chúng ta. (Hr 3,1-6).
Tại sao Thiên Chúa
đã đi đến giải pháp cuối cùng là sai chính Con Một đến lám người để nói với
chúng ta như lời cuối cùng? Tin Mừng Mát-thêu cho
câu trả lời bằng dụ ngôn những người làm vườn nho:
Các ông hãy nghe một dụ ngôn
khác : “Có gia chủ kia trồng được một vườn nho ; chung quanh vườn, ông rào
giậu ; trong vườn, ông khoét bồn đạp nho, và xây một tháp canh. Ông cho tá điền
canh tác, rồi trẩy đi xa. 34Gần đến mùa hái nho, ông sai đầy tớ đến gặp
các tá điền để thu hoa lợi. 35Bọn tá điền bắt các đầy tớ ông: chúng đánh
người này, giết người kia, ném đá người nọ. 36Ông lại sai một số đầy tớ
khác đông hơn trước: nhưng bọn tá điền cũng xử với họ y như vậy. 37Sau
cùng, ông sai chính con trai mình đến gặp chúng, vì nghĩ rằng: “Chúng sẽ nể con
ta” 38Nhưng bọn tá điền vừa thấy người con, thì bảo nhau: “Đứa thừa tự
đây rồi! Nào ta giết quách nó đi, và đoạt lấy gia tài nó!” 39Thế là chúng
bắt lấy cậu, quăng ra bên ngoài vườn nho, và giết đi. 40Vậy xin hỏi: Khi
ông chủ vườn nho đến, ông sẽ làm gì bọn tá điền kia?” … (Mt 21,33-38; xin mời
đọc tiếp trong sách Tin Mừng)
Hành trình Con Thiên Chúa đến
cắm lều giữa chúng ta trong Tin Mừng theo thánh Gio-an
Trong Tin Mừng thứ
tư, lời tựa tả cho chúng ta cuộc khởi hành từ trong lòng Cha, nơi Người vẫn ở
từ đời đời, đến làm người, “cắm lều giữa chúng ta”,
với sứ mạng “kể ra cho chúng ta biết về Cha.”
Để hiểu ý nghĩa hai câu vắn vỏi này, phải so sánh với sách Xuất Hành. Sau vụ
“Con bê bằng vàng” (chương 32), ông Mô-sê có sáng kiến dựng một cái Lều bên
ngoài trại:
Ông Mô-sê lấy một
chiếc lều và đem dựng cho mình bên ngoài trại, cách một quãng xa. Ông
gọi lều ấy là Lều Hội Ngộ. Ai thỉnh ý ĐỨC CHÚA thì ra Lều Hội Ngộ, ở
ngoài trại. 8Mỗi khi ông Mô-sê ra Lều, toàn dân đứng lên, ai nấy
đứng ở cửa lều mình và nhìn theo ông Mô-sê cho đến khi ông vào trong
Lều. 9Mỗi khi ông Mô-sê vào trong Lều, thì cột mây đáp xuống,
đứng ở cửa Lều, và ĐỨC CHÚA đàm đạo với ông Mô-sê. 10Khi
thấy cột mây đứng ở cửa Lều, toàn dân đứng dậy; và ai nấy phủ phục ở cửa lều
mình. 11ĐỨC CHÚA đàm đạo với ông Mô-sê, mặt giáp mặt, như
hai người bạn với nhau. Rồi ông Mô-sê trở về trại ; nhưng phụ tá của
ông là chàng thanh niên Giô-suê, con ông Nun, thì cứ ở trong Lều,
không rời khỏi đó. (Xh 33,7-11). Thiên Chúa chấp
nhận sáng kiến của ông[1].
Suốt dọc
sách Tin Mừng thứ tư này, Người nhắc đi nhắc lại rằng Người từ nơi Chúa Cha đến
để thi hành ý muốn của Cha, nói lời của Cha và làm các việc của Cha. Đó là cách
thức Người kể ra cho chúng ta biết về Cha: Người là sự hiện diện hưu hình của Cha:
“Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha… Những lời Thầy nói với anh em, Thầy
không tự mình mà nói: nhưng Cha ở trong Thầy làm những việc của Người. Hãy tin
Thầy! Thầy ở trong Cha và Cha ở trong Thầy” (Ga 14,9-11). Trong thư
thứ nhất, thánh Gio-an sẽ nói:
Điều vẫn có ngay từ lúc
khởi đầu,
điều chúng tôi đã nghe, điều
chúng tôi đã thấy tận mắt, điều chúng tôi đã chiêm ngưỡng,
và tay chúng tôi đã chạm đến,
đó là Lời sự sống.
2Quả vậy, sự sống đã được tỏ
bày, chúng tôi đã thấy và làm chứng,
chúng tôi loan báo cho anh em
sự sống đời đời: sự sống ấy vẫn hướng về Chúa Cha
và nay đã được tỏ bày cho chúng
tôi.
3Điều chúng tôi đã thấy và đã
nghe, chúng tôi loan báo cho cả anh em nữa,
để chính anh em cũng được hiệp
thông với chúng tôi, mà chúng tôi thì hiệp thông với Chúa Cha và với
Đức Giê-su Ki-tô, Con của Người.
4Những điều này, chúng tôi viết
ra để niềm vui của chúng ta được nên trọn vẹn. (1Ga 1,1-4).
Niềm vui của người
kể và niếm vui của người nghe được trọn vẹn, vì cả hai bên cùng được “hiệp thông với Chúa Cha và vời Đức Giê-su Ki-tô, Con của Người”.
Chúa Cha sai Con đến với chúng ta vì mục đích ấy. Người viết ra kinh nghiệm của
mình cũng vì mục đích ấy.
Khi kể về bữa ăn
cuối cùng giữa Thầy Trò, Tin Mừng thứ tư kể cho chúng ta bước khởi hành cuộc
hành trình của Con trở về trong lòng Cha:
“Trước lễ Vượt Qua, Đức Giê-su biết giờ của Người đã đến
giờ phải bỏ thế gian mà về với Chúa Cha. Người vẫn yêu thương
những kẻ thuộc về mình còn ở thế gian, và Người yêu thương họ đến cùng” (13,1).
Người từ Cha mà
đến cũng vì yêu, Người về với Cha cũng vì yêu. Người kể điều cuối cùng về Cha
bằng lời nói và việc làm. Trong thư I, thánh Gioan sẽ
tóm lại bằng Danh Mới của Thiên Chúa: Thiên Chúa là Tình Yêu.
Trong sách Xuất Hành, sau vụ dân thờ hình tượng con bê bằng vàng,
ông Mô-sê đã xin và Thiên Chúa đã tha cho dân, rồi trao cho ông hai tấm bia
Thiên Chúa tự tay khắc luật Giao Ước để đem xuống cho dân, nhưng xuống tới chân
núi, thấy cảnh gai mắt, ông lại nổi giận và tự tay đập vỡ hai bia đá, coi như
tự tiện phá bỏ Giao Ước của Thiên Chúa, lại tuyên bố thánh chiến tiêu diệt
những kẻ bị cọi là thủ phạm (Xh 32,14-29).
Sau đó ông nhận ra mình chưa biết đường lối của Thiên Chúa, chứng tỏ mình chưa
biết Thiên Chúa, tuy đã được vào trong đám mây với Thiên Chúa, nên ông cầu xin:
“Nếu quả thật con đã được
nghĩa với Ngài, xin khấng tỏ cho con biết đường lối của Ngài, để con biết Ngài,
và được nghĩa với Ngài.” (33,12).
Thiên Chúa truyền
cho ông tự tay đẽo hai tấm bia đá giống hai tấm bia của Thiên Chúa mà ông đã tự
tay đập vỡ dưới chân núi rồi tự tay vác lên núi, không cho ai đi theo để giúp
ông như lần trước. Lần này Thiên Chúa đến cho ông biết đường lối của Thiên
Chúa:
ĐỨC CHÚA ngự xuống trong
đám mây và đứng đó với ông. Người xưng danh Người là ĐỨC CHÚA. 6ĐỨC
CHÚA đi qua trước mặt ông và xướng: “ĐỨC CHÚA! ĐỨC CHÚA! Thiên Chúa
nhân hậu và từ bi, hay nén giận, giàu nhân nghĩa và thành tín, 7giữ
lòng nhân nghĩa với muôn ngàn thế hệ, chịu đựng lỗi lầm, tội ác và tội lỗi,
nhưng không bỏ qua điều gì, và trừng phạt con cháu đến ba bốn đời vì lỗi lầm
của cha ông.”
Vậy thì Thiên Chúa
là Đấng nhân hậu từ bi, nhân nghĩa với muôn ngàn thế hệ. Thiên Chúa sẽ trừng
phạt, mà khi Thiên Chúa ra tay trừng phạt thì trừng phạt ba bốn đời cơ. Nhưng
muốn thấy Thiên Chúa trừng phạt thế nào thì chịu khó chờ sau muôn ngàn thế hệ, chứ không phải như ông đã trừng phạt
tức thì theo cơn nóng giận.
Con Thiên Chúa đến
làm người mới cho chúng ta biết Thiên Chúa là Tình Yêu, và
đã ban chính Con Một cho loài người, để làm “Con Chiên Thiên Chúa Đấng xóa
tội trần gian”.
Con đường mà Con
Thiên Chúa đã đi khi từ trong lòng Cha đến với chúng ta, rồi từ giữa chúng ta
về lại trong lòng Cha là đường lối của Thiên Chúa mà Mô-sê đã xin Thiên Chúa
cho ông biết để ông biết Thiên Chúa.
Con đường ra khỏi
thế giới này là cái chết. Con Thiên Chúa đã không được cất lên trời trên cỗ xe
và ngựa bằng lửa như E-li-a (2V 2,11), mà đi
chung con đường của anh chị em mình, nhưng đặc biệt hơn. Người không có chỗ để
nằm mà trút hơi thở cuối cùng và không có thân nhân vuốt mắt, cũng không có
“bốn tấm dài hai tấm ngắn”, và một ngôi mộ đào cho mình như người Việt Nam.
Người ra đi trên một cây gỗ su xi mà chính người phải tự mình vác lên một ngọn
đồi ở ngoài cổng thành Giê-ru-sa-lem để lính Rô-ma treo Người lên đó. Tin Mừng
thứ tư thì nói “ở giữa hai người khác”, còn các Tin
Mừng nhất Lãm thì nói “giữa hai kẻ gian phi” hoặc “hai tên trộm cướp”.
Người tiếp tục đến
cùng con đường “hóa ra không” ngay trong thân phận con người. Người bị lột hết,
không chỉ áo sống mà cả phẩm giá con người. Nhờ một người môn đệ ẩn danh, nhưng
quyền thế và giàu có là Giô-xép A-ri-ma-thê, bây giờ mới xuất đầu lộ diện để
gặp thẳng Phi-la-tô, xin lãnh xác Thầy để mai táng, Người mới khỏi bị quăng
xuống hố như những từ tù bị án xử treo lên cây gỗ. Cuộc mai táng vội vàng vì là
chiều ngày dọn Chiên Vượt Qua để ăn mừng lễ. Nhưng ông cũng kịp đi mua một tấm
vải mới để liệm (Mc 15,46). Một môn đệ ẩn danh
quyên thế khác là Ni-cô-đê-mô đem một trăm cân một dược trộn với trầm hương
tới. Hai ông tẩm liệm theo đúng tục lệ Do Thái. Chúa đã sinh làm người Do Thái,
chết như một tên tội phạm nhưng được mai táng như một người Do Thái. Chúa không
có phần mộ dành sẵn cho mình, được đặt vào ngôi mộ của ông Giô-xép.
Thế là cuộc mai
táng nối lại với lúc Chúa sinh ra. Không có chỗ cho Mẹ nằm sinh con, không có
chỗ cho Mẹ đặt con mới sinh. Thế mà lại sinh ngay tại Be-lem, nguyên quán của
tổ tiên là Đa-vít. Không có thân nhân để nhờ vả, không có họ hàng tới viếng
thăm, chỉ có mấy con vật tiếp đón, như nhận ra chủ của mình[2],
nhường cho cái máng cỏ làm nôi. Mẹ đã mang theo được tấm khăn trong chuyến đi
từ Na-da-rét lên Be-lem để bọc con mới sinh và đặt nằm trong máng cỏ.
Nằm trong Máng Cỏ,
Người đã nói lên ý nghĩa cuộc hành trình của Người: trở nên thức ăn đem sự sống
mới cho loài người: SỰ SỐNG CỦA THIÊN CHÚA.
Tin Mừng thứ Tư sẽ
giải thích Người trở thành của ăn của uống như thế nào và ta sẽ ăn và uống bằng
cách nào.
Trước hết ăn và uống Lời của
Người, vì “Lời của Người là Thần Khí và Sự Sống” (6,63). Người là của
ăn trở thành sự sống đời đời, vì “Người là Bánh Thiên Chúa ban,
Bánh từ trời xuống, Bánh thật: Bánh của Thiên Chúa, là Bánh từ trời xuống và
đem sự sống cho thế gian”. Người nói thẳng: “Tôi là Bánh hằng sống sống, từ trời xuống. Ai ăn Bánh này sẽ sống
đời đời. Hơn nữa Bánh tôi sẽ cho, chính là Thịt của tôi để đem sự sống cho thế
gian”.
Lời tuyên bố của
Người chói tai thính giả trong Hội đường. Nhưng Người không tìm cách giảm nhẹ
mà đẩy tới cùng: “Thật, tôi bảo thật các ông: nếu các ông
không ăn thịt và uống máu Con Người, các ông không có sự sống nơi mình.
Điều bị đảo ngược
ở đây là của ăn thức uống hằng ngày trở thành máu thịt của chúng ta, nuôi dưỡng
sự sống của chúng ta, còn Máu và Thịt của Người lại biến đổi chúng ta, cho
chúng ta chính sự sống của Người:
54Ai ăn thịt và uống máu tôi,
thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết, 55vì
thịt tôi thật là của ăn, và máu tôi thật là của uống. 56Ai ăn thịt và uống
máu tôi, thì ở lại trong tôi, và tôi ở lại trong người ấy. 57Như Chúa
Cha là Đấng hằng sống đã sai tôi, và tôi sống nhờ Chúa Cha thế nào, thì kẻ ăn
tôi, cũng sẽ nhờ tôi mà được sống như vậy.” (6,53-57).
Các Tin Mừng Nhất
Lãm sẽ kể cho chúng ta việc Chúa Giê-su tự trao mình làm của ăn và của uống cho
chúng ta trong bữa Tiệc Ly dưới hình bánh hình rượu: “Hãy cầm lấy mà ăn, đây là Mình Thầy, hiến dâng vì anh em”; “Hãy
cằm lây mà uống, chén này là chén Máu của Thầy, đổ ra vì anh em” (Mt 26,26-28; Mc 14,22-25; Lc 22,19-20 // 1Cr 11,23-25).
Để trở thành bánh, lúa mì phải được xay ra và nướng trong lò; để trở thành
rượu, trái nho phải được ép lấy nước cốt và để trong thùng cho lên men. Cái
chết trên thập giá vừa là cối xay vừa là bồn ép; những đau khổ đau khổ tột cùng
suốt cuộc khổ nạn là lò nướng bánh và ngôi mộ là bồn chứa cho nước nho lên men
thành rượu. Khi ra khỏi mộ trong phục sinh vinh hiển thì Chúa đã thành Bánh và
Rượu để ban sự sống của Thiên Chúa cho chúng ta.
Hành trình về trong vinh quang
của Cha
Con Thiên Chúa đã
đến như quà tặng của Tình Yêu mà Cha cho nhân loại để trở thành Anh Cả của
chúng ta, chung trọn vẹn thân phận con người với chúng ta (X. Hr 2,5-18). Hành trang Người mang theo xuống trần
gian là nguyên khối Tình Yêu của Cha. Người đển kể cho chúng ta biết Cha của
Người là Tình Yêu, không chỉ kể bằng lời, nhưng kể bằng việc làm, bằng đời sống
và bằng chính mạng sống. Cuối cùng bằng chính sự Phục Sinh để cho thấy Cha là
Tình Yêu, mạnh hơn sự chết.
Giu-se bên Ai Cập
hỏi anh em, khi họ chưa nhận ra ông, về “cha các ngươi”, để cuối cùng nói cho
họ biết: đó là cha tôi. Ông giải thích cho anh em: ‘chính là để duy trì sự sống của anh em mà Thiên Chúa đã gửi
tôi đi trước anh em” (45,5). Anh em vẫn chưa dám tin là ông
thật tình tha cho họ, nên sau khi cha chết, họ còn “mạo di chúc của cha” để xin
tha, ông giải thích lần nữa:
“Các anh
ông Giu-se thấy cha mình đã chết thì bảo nhau: “Không
khéo Giu-se còn hận chúng ta và trả lại cho chúng ta tất cả điều
ác chúng ta đã gây ra cho nó!” 16Họ sai người đến nói với ông: “Cha của
chú trước khi chết đã truyền rằng: 17Các con hãy nói thế này
với Giu-se: ‘Thôi! Xin con tha tội tha lỗi cho các anh con, vì
họ đã gây ra điều ác cho con.’ Bây giờ, xin chú tha tội cho các kẻ làm tôi
Thiên Chúa của cha chú!” Ông Giu-se khóc, khi họ nói với ông như thế.
18Các anh ông đích thân
đến cúi rạp xuống trước mặt ông và nói: “Này chúng tôi là nô lệ của
chú.” 19Ông Giu-se nói với họ: “Đừng sợ! Tôi đâu có thay quyền
Thiên Chúa! 20Các anh đã định làm điều ác cho tôi, nhưng Thiên Chúa
lại định cho nó thành điều tốt, để thực hiện điều xảy ra hôm nay, là cứu
sống một dân đông đảo. 21Bây giờ các anh đừng sợ, tôi sẽ cấp dưỡng cho các
anh và con cái các anh.” Ông an ủi và chuyện trò thân mật với họ.
Khởi đầu câu
chuyện là “Các anh cậu thấy cha yêu cậu hơn tất cả các anh, thì sinh lòng
ghét cậu và không thể nói năng tử tế với cậu.” (37,4). Khi ông cho
anh em biết sự thật về thân thế của mình lần đầu, phản ứng của họ như thế nào?
Ông Giu-se nói với
anh em : “Tôi là Giu-se đây ! Cha tôi còn sống không ?” Nhưng anh em
không thể trả lời : thấy mình đối diện với ông, họ bàng hoàng. 4Ông Giu-se nói
với anh em : “Hãy lại gần tôi.” Họ lại gần. Ông nói : “Tôi là Giu-se, đứa
em mà các anh đã bán sang Ai-cập. 5Nhưng bây giờ, các anh đừng
buồn phiền, đừng hối hận vì đã bán tôi sang đây : chính là để duy trì sự
sống của anh em mà Thiên Chúa đã gửi tôi đi trước anh em.
Rồi “Ông bá cổ Ben-gia-min, em ông, mà khóc
; Ben-gia-min cũng gục vào cổ ông mà khóc. 15ông hôn tất cả các anh và ôm họ mà khóc, sau đó anh em ông
nói chuyện với ông” (45,3-5,15). Để ý là ông Giu-se khóc,
Ben-gia-min cũng khóc, còn 10 người kia, không ai khóc. Nhưng ít ra họ nói
chuyện với ông. Lần cuối khi họ mạo di chúc của cha để xin tha, thì ông an ủi
và chuyện trò thân mật với họ, nhưng vẫn không thấy họ
thân mật lại với ông.
Rồi ông sai
anh em về báo tin cho cha, gởi xe về đón cha và cả gia đình sang Ai cập với ông
để tránh nạn đói còn kéo dài và được sống (X. St 45,3-15), hoàn thành sứ mạng
cha đã trao cho ông mấy chục năm trước, khi ông 17 tuổi : “Con hãy đi xem các anh con có được yên lành không, xem chiên dê
có được yên lành không, rồi đem tin về cho cha.” (37,14). Giu-se
đã trải qua một hành trình đi xuống, do sự phản bội của anh em, từ địa vị con
cưng của Gia-cóp xuống tận đáy giếng, làm thân nô lệ, rồi xuống tận đáy ngục
tù, để cuối cùng lên địa vị thay Pha-ra-ô, toàn quyền cai trị nước Ai Cập :
“Sau khi Thiên Chúa đã cho ông
biết tất cả những điều ấy, không ai thông minh và khôn ngoan như ông. 40Ông
sẽ là tể tướng triều đình của ta, toàn thể dân ta sẽ phục tùng mệnh
lệnh của ông ; ta lớn hơn ông chỉ vì ngai vua mà thôi.” 41Pha-ra-ô nói
với ông Giu-se : “Coi đây, ta đặt ông cai quản toàn
cõi Ai-cập.” 42Pha-ra-ô rút nhẫn ra khỏi tay mình và xỏ vào tay
ông Giu-se, mặc cho ông y phục vải gai mịn, và đeo vào cổ ông chiếc vòng
vàng . 43Vua cho ông lên xa giá thứ hai của vua, và người ta hô trước
mặt ông : “Quỳ xuống !” Như vậy, vua đặt ông cai quản toàn
cõi Ai-cập.
44Pha-ra-ô nói với
ông Giu-se : “Ta là Pha-ra-ô. Không có lệnh của ông,
không ai được cử động tay chân trong toàn cõi Ai-cập.”
(41,39-44).
Con Thiên Chúa từ
vinh quang Con Một Yêu Dấu hằng ở trong lòng Cha, tự hóa ra không, xuống mặc
lấy thân nô lệ, làm Anh của một loài người phản bội, kể cho chúng ta về Cha của
Ngài và do sự phản bội của anh em, xuống tận đáy âm ty, rồi phá tan cả âm ty để
giải thoát anh em mình khỏi cõi chết. Trong Tin Mừng thứ tư, sứ điệp Người trao
cho bà Maria Ma-đa-lê-na chuyển cho các môn đệ : « Hãy đi gặp anh em Thầy và bảo họ : ‘Thầy lên cùng Cha của
Thầy, cũng là Cha của anh em, lên cùng Thiên Chúa của Thầy, cũng là Thiên Chúa
của anh em.’” (20,17)
Ông Giu-se
thì bảo anh em về báo tin choc ha, và sai xe, ngựa về đón cha với cả gia đình
xuống với mình, còn Chúa Giê-su thì nhắn : « Thầy lên cùng Cha của Thầy cũng là Cha của anh em ».
Trước khi xuống tận đáy âm ty, Chúa Giê-su đã xin Cha trong lời nguyện hiến
tế :
“Lạy Cha, con muốn rằng
con ở đâu, thì những người Cha đã ban cho con cũng ở đó với con, để họ
chiêm ngưỡng vinh quang của con, vinh quang mà Cha đã ban cho con, vì Cha đã
yêu thương con trước khi thế gian được tạo thành. 25Lạy Cha là Đấng công
chính, thế gian đã không biết Cha, nhưng con, con đã biết Cha, và những người
này đã biết là chính Cha đã sai con. 26Con đã cho họ biết danh Cha, và sẽ
còn cho họ biết nữa, để tình Cha đã yêu thương con, ở trong họ, và con cũng ở
trong họ nữa.”
Nhưng trước khi họ
được vào trong vinh quang, nơi Người đang ở thì họ phải tiếp tục sứ mạng Cha đã
trao cho Người :
Con không xin Cha cất họ khỏi
thế gian, nhưng xin Cha gìn giữ họ khỏi ác thần. 16Họ không thuộc về
thế gian cũng như con đây không thuộc về thế gian. 17Xin Cha lấy sự
thật mà thánh hiến họ. Lời Cha là sự thật. 18Như Cha đã sai con
đến thế gian, thì con cũng sai họ đến thế gian.
Tiếp tục sứ mạng
của Người thì các môn đệ cũng sẽ chung thân phận với Người :
“Nếu thế gian ghét anh em,
anh em hãy biết rằng nó đã ghét Thầy trước. 19Giả như anh em thuộc về thế
gian, thì thế gian đã yêu thích cái gì là của nó. Nhưng vì anh em
không thuộc về thế gian và Thầy đã chọn, đã tách anh em khỏi thế gian, nên
thế gian ghét anh em. 20Hãy nhớ lời Thầy đã nói với anh em : tôi tớ
không lớn hơn chủ nhà. Nếu họ đã bắt bớ Thầy, họ cũng sẽ bắt bớ anh em.
Nếu họ đã tuân giữ lời Thầy, họ cũng sẽ tuân giữ lời anh em. 21Nhưng họ sẽ
làm tất cả những điều ấy chống lại anh em, vì anh em mang danh Thầy, bởi họ
không biết Đấng đã sai Thầy »
Nhưng các môn đệ
đã được Cha bảo đảm ngay từ bây giờ ; không chỉ nhóm môn đệ đã từng theo
Người mấy năm nay, mà cả những ai sẽ nhờ lời các môn đệ làm chứng mà tin vào
Người, nghĩa là cả « dòng dõi » sẽ được sinh ra nhờ lời rao
giảng :
“Con không chỉ cầu nguyện cho
những người này, nhưng còn cho những ai nhờ lời họ mà tin vào con, 21để
tất cả nên một, như Cha ở trong con và con ở trong Cha để họ cũng ở trong
chúng ta . Như vậy, thế gian sẽ tin rằng Cha đã sai con. 22Phần con,
con đã ban cho họ vinh quang mà Cha đã ban cho con, để họ được nên một như
chúng ta là một : 23Con ở trong họ và Cha ở trong con, để họ được
hoàn toàn nên một ; như vậy, thế gian sẽ nhận biết là chính Cha đã sai con và
đã yêu thương họ như đã yêu thương con.
Người bảo đảm
không chỉ với lời cầu nguyện của Người, nhưng bằng một sự hiện diện mới :
Thầy nói thật với anh em : Thầy
ra đi thì có lợi cho anh em. Thật vậy, nếu Thầy không ra đi, Đấng Bảo
Trợ sẽ không đến với anh em ; nhưng nếu Thầy đi, Thầy sẽ sai Đấng ấy đến với
anh em. 8Khi Người đến, Người sẽ chứng minh rằng thế gian sai
lầm về tội lỗi, về sự công chính và việc xét xử : 9về tội
lỗi : vì chúng không tin vào Thầy ; 10về sự công
chính : vì Thầy đến cùng Chúa Cha, và anh em không còn thấy Thầy nữa
; 11về việc xét xử : vì Thủ lãnh thế gian này đã bị xét xử rồi.
12“Thầy còn nhiều điều phải nói
với anh em. Nhưng bây giờ, anh em không có sức chịu nổi. 13Khi nào Thần
Khí sự thật đến, Người sẽ dẫn anh em tới sự thật toàn vẹn. Người sẽ không
tự mình nói điều gì, nhưng tất cả những gì Người nghe, Người sẽ nói lại, và
loan báo cho anh em biết những điều sẽ xảy đến. 14Người sẽ tôn vinh Thầy,
vì Người sẽ lấy những gì là của Thầy mà loan báo cho anh em. 15Mọi
sự Chúa Cha có đều là của Thầy. Vì thế, Thầy đã nói: Người lấy những gì là
của Thầy mà loan báo cho anh em.
Như vậy trong hành
trình trở lên với Cha, Chúa Giê-su mang theo một hành trang rất nặng. Ngay khi
thấy dấu hiệu chứng tỏ thập giá đã kề bên, một đàng Người khiếp sợ như muống
ngọng, nhưng đàng khác Người đã tuyên bố thành quả đạt được nhờ cây thập giá.
Bây giờ, tâm hồn Thầy xao xuyến ! Thầy biết nói gì đây ?
Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này, nhưng chính vì giờ này mà con đã đến. 28Lạy
Cha, xin tôn vinh Danh Cha.” Bấy giờ có tiếng từ trời vọng xuống : “Ta đã tôn
vinh Danh Ta, Ta sẽ còn tôn vinh nữa !” 29Dân chúng đứng ở đó nghe
vậy liền nói : “Đó là tiếng sấm !” Người khác lại bảo : “Tiếng một
thiên thần nói với ông ta đấy !” 30Đức Giê-su đáp : “Tiếng ấy đã
vọng xuống không phải vì tôi, mà vì các người. 31Giờ đây đang diễn ra cuộc
phán xét thế gian này. Giờ đây thủ lãnh thế gian này sắp bị tống ra ngoài ! 32Phần
tôi, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi.” 33Đức Giê-su nói
thế để ám chỉ Người sẽ phải chết cách nào
Chúng ta chứng
kiến một cảnh gợi lại cảnh ở núi Xi-nai, Mô-sê nói, Thiên Chúa trả lời trong
tiếng sấm sét (Xh 19,19), khiến dân khiếp
sợ :
Khi nghe tiếng sấm sét,
tiếng tù và, khi thấy ánh lửa và núi bốc khói, toàn dân sợ hãi run rẩy và đứng
xa xa. 19Họ nói với ông Mô-sê : “Xin chính ông nói với
chúng tôi, chúng tôi mới dám nghe ; nhưng xin Thiên Chúa đừng nói với chúng
tôi, kẻo chúng tôi chết mất !” 20Ông Mô-sê bảo dân : “Đừng sợ
hãi, vì Thiên Chúa đến là để thử thách anh em và làm cho anh em luôn luôn
kính sợ Người, ngõ hầu anh em đừng phạm tội.” 21Dân đứng xa xa, còn
ông Mô-sê thì tiến lại gần đám mây đen, nơi Thiên Chúa đang ngự. (Xh 20,18-21)
Tiếng sấm sét ở
Xi-nai nhằm cho dân kính sợ Thiên Chúa, tiếng sấm vang lên ở sân Đền Thờ hôm
nay báo giờ phán xét thế gian đã tới. Cuộc phán xét này không phải để tiêu
diệt, nhưng để giải thoát loài người khỏi quyền lực của thủ lãnh thế gian là kẻ
đã đem tội lỗi và cái chết vào cho loài người khi xúi tổ tiên nghi ngờ Tình
Yêu, bất tuân lệnh Thiên Chúa, giơ tay lên cây hái trái cấm trong vườn Địa
Đàng.
Hánh trang Chúa
Giê-su mang theo trên hành trinh đi lên là phần thưởng, là chiến lợi phẩm Con
Thiên Chúa đoạt từ tay thủ lãnh thế gian nhờ cây thập giá, vì Người mạnh hơn,
như gười đã nóiu :
« Nếu tôi dùng ngón tay
Thiên Chúa mà trừ quỷ, thì quả là Triều Đại Thiên Chúa đã đến giữa
các ông. 21Khi một người mạnh được vũ trang đầy đủ canh giữ lâu đài của
mình, thì của cải người ấy được an toàn. 22Nhưng nếu có người mạnh thế
hơn đột nhập và thắng được người ấy, thì sẽ tước lấy vũ khí mà người
ấy vẫn tin tưởng và sẽ đem phân phát những gì đã lấy được. » (Lc 11,20-22).
Sách Sáng Thế kể việc Áp-ra-ham chất củi lên vai con
một yêu dấu lên núi để dâng chính người con ấy làm của lễ toàn thiêu, như Thiên
Chúa truyền cho ông. Hai người tôi tớ và con lừa phải chờ ở dưới chân núi. Chỉ
có hai cha con cùng đi lên núi. Tới nơi, ông đã lập bàn thờ, xếp củi lên, để
lửa sẵn một bên, rồi trói con đặt lên trên và giơ tay cầm lấy con dao để kết
thúc cuộc tế lễ. Bấy giờ Thiên Chúa mới ngăn tay ông lại, Người chỉ nhận tấm
lòng của ông và trả lại đứa con một yêu dấu cho ông, để đứa con một trở thành
dòng dõi đông đúc như sao trời cát biển (St 22,1-19).
Con Một yêu dấu
của Thiên Chúa, thì Người để cho người ta chất cây thập giá lên vai cho Con vác
lên núi. Người không chặn tay bọn lính, để mặc chúng lột trần truồng và đóng
đinh Con của Người vào cây gỗ su xi, dựng lên một cách thô bạo trước mặt đám
đông khách thập phương kéo nhau về Thành Thánh dự lễ Vượt Qua, là lễ kỷ niệm
đêm Thiên Chúa đã giải thoát họ khỏi ách nô lệ bên Ai-cập. Con Thiên Chúa bị
treo lên cây thập giá, là nhục hình người Rô-ma dành xử tử nô lệ. Thế là Con
Thiên Chúa, vốn ngang hàng với Thiên Chúa, đã đi đến cùng trong hành trình
« tự hóa ra không, mang lấy thân nô lệ và vâng lời cho đến nỗi bằng
chết và chết trên cây thập giá » (Pl 2, 6-8).
Vẫn theo bài thánh
ca trong thư Phi-líp-phê Thiên Chúa đáp lại
bằng cách siêu tôn Con :
Chính vì thế,
Thiên Chúa đã siêu tôn
Người và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu .
10Như vậy, khi vừa
nghe danh thánh Giê-su, cả trên trời dưới đất và trong nơi âm phủ,
muôn vật phải bái quỳ ; 11và
để tôn vinh Thiên Chúa Cha, mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng : “Đức Giê-su Ki-tô
là Chúa »
Chiến lợi phẩm của Con Thiên
Chúa
Bài thánh ca trong
thư gởi tín hữu Ê-phê-sô trình bày đó la kế
hoạch của Thiên Chúa :
Chúc tụng Thiên Chúa là Thân
Phụ Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta.
Trong Đức Ki-tô, từ cõi
trời, Người đã thi ân giáng phúc cho ta hưởng muôn vàn ơn phúc của Thánh Thần.
4Trong Đức Ki-tô, Người
đã chọn ta trước cả khi tạo thành vũ trụ,
để trước thánh nhan Người, ta
trở nên tinh tuyền thánh thiện,nhờ tình thương của Người .
5Theo ý muốn và lòng nhân ái
của Người, Người đã tiền định cho ta làm nghĩa tử nhờ
Đức Giê-su Ki-tô,
6để ta hằng ngợi khen ân sủng
rạng ngời, ân sủng Người ban tặng cho ta trong Thánh Tử yêu dấu.
7Trong Thánh Tử, nhờ
máu Thánh Tử đổ ra chúng ta được cứu chuộc, được thứ tha tội
lỗi theo lượng ân sủng rất phong phú của Người.
8Ân sủng này, Thiên Chúa đã
rộng ban cho ta cùng với tất cả sự khôn ngoan thông hiểu.
9Người cho ta được
biết thiên ý nhiệm mầu :
thiên ý này là kế hoạch yêu
thương Người đã định từ trước trong Đức Ki-tô.
10Đó là đưa thời
gian tới hồi viên mãn là quy tụ muôn loài trong trời đất dưới quyền một
thủ lãnh là Đức Ki-tô. (1,3-10)
Thư Cô-lô-xê cũng có bài thánh ca tương tự :
« Người là khởi nguyên,
là trưởng tử trong số những người từ cõi chết sống lại, để trong mọi sự
Người đứng hàng đầu.
Vì Thiên Chúa đã muốn làm cho
tất cả sự viên mãn hiện diện ở nơi Người, 20cũng như muốn nhờ
Người mà làm cho muôn vật được hoà giải với mình.
Nhờ máu Người đổ ra trên thập
giá, Thiên Chúa đã đem lại bình an cho mọi loài dưới đất và muôn vật trên trời. » (Cl 1,18-20).
Máu
Điều chúng ta khó
hiểu và khó chấp nhận là tại sao trong kế hoạch đời đời của Thiên Chúa lại có
yếu tố quyết định là Máu của Con Thiên Chúa phải đổ
ra trên thập giá ? Đó là màu nhiệm vượt sức trí khôn
chúng ta. Chúng ta cố gắng hiểu phần nào theo Sách Thánh. Các thụ tạo có sự
sống mà kinh nghiệm giác quan cho thấy được thì Sự sống ở trong máu. Sau khi
Ca-in giết em : ĐỨC CHÚA phán với Ca-in :
“A-ben em ngươi đâu rồi ?” Ca-in thưa : “Con không biết. Con là
người giữ em con hay sao ?” 10ĐỨC CHÚA phán : “Ngươi đã làm gì vậy
? Từ dưới đất, tiếng máu của em ngươi đang kêu lên Ta ! (St 4,9-10)
Sau nạn Hồng Thủy,
Thiên Chúa phán với Nô-ê:
Mọi loài di động và có sự sống
sẽ là lương thực cho các ngươi ; Ta ban cho các ngươi tất cả những thứ đó,
cũng như đã ban cỏ xanh tươi. 4Tuy nhiên các ngươi không được ăn thịt
với mạng sống của nó, tức là máu. 5Nhưng Ta sẽ đòi mỗi con vật
phải đền nợ máu các ngươi, tức là mạng sống của các ngươi ; Ta sẽ đòi con người
phải đền nợ máu, Ta sẽ đòi mỗi người phải đền mạng sống của người anh
em mình.
6 Ai đổ máu con người, thì
máu nó sẽ bị con người đổ ra,
vì Thiên Chúa đã làm ra
con người theo hình ảnh Thiên Chúa. (St 9,3-6)
Câu trên đây có vẻ
như cho chúng ta thêm một cách giải thích về con người được dựng nên giống hình
ảnh Thiên Chúa: con người không chỉ là loài có sự sống, mà sự sống của con
người là do hơi thở của Thiên Chúa. Các loài khác có sự sống ở dưới nước và
trên mặt đất là kết quả của Lời Thiên Chúa phán vào ngày thứ năm trong công
trình tạo dựng, sau khi trời đất, và biển đã ổn định:
Thiên Chúa phán: “Nước phải
sinh ra đầy dẫy những sinh vật lúc nhúc, và loài chim phải bay lượn trên
mặt đất, dưới vòm trời.” 21Thiên Chúa sáng tạo các thuỷ quái khổng lồ,
cùng mọi sinh vật vẫy vùng lúc nhúc dưới nước tuỳ theo loại, và mọi giống chim
bay tuỳ theo loại. Thiên Chúa thấy thế là tốt đẹp. 22Thiên Chúa chúc phúc
cho chúng rằng : “Hãy sinh sôi nảy nở thật nhiều, cho đầy biển ; và chim
phải sinh sản cho nhiều trên mặt đất.” 23Qua một buổi chiều và một buổi
sáng : đó là ngày thứ năm.
24Thiên Chúa phán : “Đất
phải sinh ra các sinh vật tuỳ theo loại : gia súc, loài bò sát và dã thú tuỳ
theo loại.” Liền có như vậy. 25Thiên Chúa làm ra dã thú tuỳ theo loại,
gia súc tuỳ theo loại và loài bò sát dưới đất tuỳ theo loại. Thiên Chúa thấy
thế là tốt đẹp.
Sau các loài sinh
vật dưới nước và chim trời: việc tạo dựng các loài thú trên mặt đất gia
súc, bò sát, dã thú được kể giữa ngày thứ năm, , và ngày thứ sáu, là ngày Thiên
Chúa dựng nên con người.
Thiên Chúa phán: “Chúng ta
hãy làm ra con người theo hình ảnh chúng ta, giống như chúng ta, để con
người làm bá chủ cá biển, chim trời, gia súc, dã thú, tất cả mặt đất và mọi
giống vật bò dưới đất.”
27Thiên Chúa sáng tạo con người
theo hình ảnh mình,
Thiên Chúa sáng tạo con người
theo hình ảnh Thiên Chúa,
Thiên Chúa sáng tạo con người
có nam có nữ.
28Thiên Chúa ban phúc lành cho
họ, và Thiên Chúa phán với họ: “Hãy sinh sôi nảy nở thật nhiều, cho đầy
mặt đất, và thống trị mặt đất. Hãy làm bá chủ cá biển, chim trời,
và mọi giống vật bò trên mặt đất.” 29Thiên Chúa phán : “Đây Ta ban cho
các ngươi mọi thứ cỏ mang hạt giống trên khắp mặt đất, và mọi thứ cây có trái
mang hạt giống, để làm lương thực cho các ngươi. 30Còn đối với mọi dã thú,
chim trời và mọi vật bò dưới đất mà có sinh khí, thì Ta ban cho chúng mọi thứ
cỏ xanh tươi để làm lương thực.” Liền có như vậy. 31Thiên Chúa thấy mọi sự
Người đã làm ra quả là rất tốt đẹp! Qua một buổi chiều và một buổi sáng
: đó là ngày thứ sáu.
Con người xuất
hiện cuối cùng, như tột đỉnh công trình tạo dựng. Trình thuật tạo dựng ở chương
thứ hai của sách Sáng Thế giải thích tại sao
con người cao quý hơn các loài vật : vì con người được Thiên Chúa tự tay nặn ra
từ bụi đất, nhưng sự sống của con người do hơi thở của Thiên Chúa mà có : con
người vừa chung phần với các loài thú, vì Thiên Chúa lấy bụi đất nặn thành con
người, vừa vượt trên các loài vật, vì sự sống của con người do chính hơi thở
của Thiên Chúa ban cho. Hơn thế nữa, chỉ có con người được Thiên Chúa dựng nên
theo hình ảnh Thiên Chúa, tạo một nơi ở đặc biệt và đặt con người thay mặt
Thiên Chúa cai quản các sinh vật khác :
7ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa
lấy bụi từ đất nặn ra con người, thổi sinh khí vào lỗ mũi, và con người trở nên
một sinh vật. 8Rồi ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa trồng một vườn cây
ở Ê-đen, về phía đông, và đặt vào đó con người do chính mình nặn ra (St 2,7-8)
Trong lời Thiên
Chúa phán với ông Nô-ê, thì sự sống của loài vật cũng là của Thiên Chúa, nên
con người được ăn thịt, nhưng không được ăn huyết vì huyết là chính sự sống của
loài vật (Đnl 12,16.23-24. Đó là sư phạm của Sách Thánh để
dạy người ta tôn trọng sự sống. Nếu sự sống của loài vật mà phải tôn trọng thì
sự sống của con người càng cao quý và phải tôn trọng hơn nữa.
Của lễ trong Cựu
Ước, ngoài các nông sản đầu mùa (x. Đnl 26,1-11
; Xh 23,14-17.19), còn dâng cả loài vật để nhìn nhận
rằng tất cả là ân huệ của Thiên Chúa, và khi đem con vật làm của lễ thì phải
dâng cả máu và mỡ của nó, vì mỡ cũng được coi là tương đương với máu (Xh 23,18; Lv 3,2-4;4,8-10.13-15),
để nhìn nhận rằng sự sống loài vật cũng thuộc về Thiên Chúa. Đó là một bước sư
phạm nữa để về giá trị mạng sống con người.
Máu loài vật được
dùng để kết giao ước giữa Thiên Chúa và loài người (Xh 24,5-8)
tượng trưng cho sự chung huyết nhục. Thiên Chúa nhận dân làm dân của Chúa, dân
nhận Thiên Chúa là Chúa của mình. Ngày lễ xá tội, để tái lập Giao Ước mà dân đã
vi phạm bằng tội lỗi, lại dùng máu để xá tội.
Thiên Chúa đã tạo
dựng con người với sự ưu ái đặc biệt, “theo hình ảnh của Thiên Chúa”
(St 1,26-27), và “trao hơi thở của Thiên Chúa để
làm cho con người thành loài có sự sống” (St 2,7).
Con Thiên Chúa làm người để dạy bài cuối cùng về câu này : “Theo hình ảnh của Thiên Chúa”, nghĩa là gì ? Là biết yêu mến, vì THIÊN CHÚA LÀ TÌNH YÊU. Thiên Chúa
đã mạc khải Tình Yêu của Người qua công trình tạo dựng, nhưng con người chưa
nhận ra, chưa hiểu. Vì Xa-tan đã xúi con người nghi ngờ Tình Yêu của Thiên Chúa
và nổi loạn. Do đó con người đã đảo lộn mọi tương quan : tương quan với Thiên
Chúa, tương quan giữa người nam và người nữ, giữa anh em cùng chung huyết
nhục ; tương quan giữa con người với thiên nhiên. Tất cả mọi sự dữ trên
trần gian do con người gây ra đều bắt nguồn từ đó. Ngày nay càng rõ hơn bao
giờ, con người áp bức thống trị nhau, không còn tôn trọng mạng sống từ lúc khởi
đầu trong lòng mẹ cho tới chỗ dành cả quyền tự hủy hoại chính mạng sống của
mình, như thể mình là chủ mạng sống. Con người đang hủy hoại mọi sinh vật khác
và cả môi trường sống của loài người.
Nhưng mọi quà tặng
của Thiên Chúa cho loài người trong tạo dựng mới chỉ là công trình của Thiên
Chúa. Thiên Chúa ban quà tặng lớn hơn hết để bày tỏ tình yêu là chính mình, qua
Con Một yêu dấu. Chúa Giê-su là Con Một yêu dấu của Thiên Chúa “xuống” làm người,
nhận lấy sự sống của loài người : không chỉ là tượng trưng nữa, mà
thực sự chung huyết nhục để thành anh em của loài người để dạy cho chúng ta
biết “Thiên Chúa là Tình Yêu” như thế nào. Con Thiên Chúa
đích thân trở thành Giao Ước giữa Thiên Chúa với loài người, mang ý nghĩa hoàn
toàn mới, “bất ngờ”, cho bài ca thứ nhất về người Tôi Tớ của Thiên Chúa
trong Is 42,6:
“Ta là ĐỨC CHÚA, Ta đã gọi ngươi, vì muốn làm sáng tỏ đức
công chính của Ta.
Ta đã nắm tay ngươi, đã gìn giữ
ngươi và đặt làm giao ước với dân,
làm ánh sáng chiếu soi
muôn nước”.
Cả ba sách Tin
Mừng Nhất Lãm (Mt 26,26-29; Mc 14,22-25; Lc 22,19-20; 1Cr 11,23-25) và thư 1 Cô-rin-tô đều kể việc Chúa Giê-su thiết lập Giao
Ước bằng máu của chính mình; riêng Tin Mừng Lu-ca và thư 1Cr, 11,23-26 nói rõ là “Giao Ước
Mới”, nhắc lời Gr 31,31-34.
Sách Ed 11,17-20; 36,22-28 quảng diễn Gr 31,31-34. Mát-thêu và Mác-cô chỉ nói Giao Ước,
nhưng vì là Giao Ước bằng Máu của Chúa Giê-su chứ không phải máu loài vật như
Giao Ước Xi-nai, nên cũng là Mới rồi.
Chúng ta nhận ra
những nét chính trong lời hứa Mô-sê ghi trong sách Đệ nhị Luật 30,6 và các lời hứa Giao Ước Mới trong
Giê-rê-mi-a và Ê-dê-kien quảng diễn cùng một sự can thiệp quyết liệt của
Thiên Chúa, vì dân của Giao Ước Xi-nai nhận được Luật Giao Ước
sau khi chứng kiến bao nhiêu việc kỳ diệu Thiên Chúa đã làm cho họ từ Ai cập
cho tới khi đến bờ Đất Hứa, nhưng: “Chính anh em đã thấy những
gì ĐỨC CHÚA đã làm trước mắt anh em, tại đất Ai-cập, chống
lại Pha-ra-ô, cùng mọi bề tôi và cả nước vua ấy,2đó là các thử thách lớn
lao mắt anh (em) từng thấy, là các dấu lạ điềm thiêng lớn lao ấy. 3Nhưng
cho đến ngày hôm nay, ĐỨC CHÚA đã không cho anh em lòng để biết,
mắt để thấy, tai để nghe”.
Mác-cô gợi lại lời
nhận xét này của Mô-sê và áp dụng cho các môn đệ:
14Các môn đệ quên đem bánh
theo; trên thuyền, các ông chỉ có một chiếc bánh. 15Người răn bảo các ông:
“Anh em phải coi chừng, phải đề phòng men Pha-ri-sêu và
men Hê-rô-đê!” 16Và các ông bàn tán với nhau về chuyện các ông không
có bánh. 17Biết thế, Người nói với các ông: “Sao anh em lại bàn tán về
chuyện anh em không có bánh ? Anh em chưa hiểu chưa thấu sao? Lòng anh
em ngu muội thế! 18Anh em có mắt mà không thấy, có tai mà không nghe
ư? Anh em không nhớ sao: 19khi Thầy bẻ năm chiếc bánh cho năm
ngàn người ăn, anh em đã thu lại được bao nhiêu thúng đầy mẩu bánh?” Các ông
đáp: “Thưa được mười hai.” 20“Và khi Thầy bẻ bảy chiếc bánh cho bốn ngàn
người ăn, anh em đã thu lại được bao nhiêu giỏ đầy mẩu bánh?” Các ông nói:
“Thưa được bảy.” 21Người bảo các ông: “Anh em chưa hiểu ư?”
(8,14-21)
Còn Mát-thêu, trong bài giảng trên núi (Mt 5,1-7,27) và Lu-ca với bài
giảng “ra mắt nhóm Mười Hai” sau khi đã tuyển chọn họ trên núi và cùng nhau đi
xuống (Lc 6,12-49), như giải thích lại Luật Giao Ước
Mô-sê đã nhận ở Xi-nai. Mát-thêu nhấn
mạnh đến yếu tố “tận đáy lòng”, cả khi nói về sự tha thứ trong bài giảng về đời
sống cộng đoàn trong Hội Thánh (18, 21-35).
Trong ba Tin Mừng
Nhất Lãm thì Máu của Chúa Giê-su vừa là máu xá tội vừa là máu lập
Giao Ước mới.
Tin Mừng Gio-an dùng một bút pháp khác. Ngay từ đầu, danh
hiệu đầu tiên ông Gio-an Tiền Hô giới thiệu Chúa Giê-su là “Con Chiên của Thiên Chúa, đấng xóa tội trần gian”. Bữa
ăn cuối cùng với các môn đệ không phải là bữa ăn mừng lễ Vượt Qua như các Tin
Mừng Nhất Lãm, Chúa Giê-su lại nói rất nhiều về ý nghĩa cái chết của Chúa. Chúa
rửa chân cho các môn đệ rồi truyền cho họ ĐIỀU RĂN MỚI, ĐIỀU RĂN CỦA THẦY. Cuộc
khổ nạn xảy ra vào ngày áp lễ Vượt Qua, và giờ giấc được nêu khớp với giờ qui
định cho nghi thức sát tế con chiên Vượt Qua: 12 giờ trưa, con chiên được đem
vào Đền Thờ giao cho các tư tế thì Phi-la-tô trao Chúa Giê-su cho các thượng tế
để chịu treo lên thập giá, và khi tới giờ “dọn mừng lễ” tức là
giờ bắt đầu sát tế chiên vượt qua và mừng ngày Sabbath, người Do Thái xin
Phi-la-tô cho đánh dập ống chân những người bị treo trên thập giá cho họ chết
lẹ để kịp lấy xác xuống, vì theo Luật thì không được để xác treo trên thập giá
trong ngày lễ long trọng đó. Bọn lính tới làm nhiệm vụ kết liễu thì thấy
Chúa Giê-su đã chết rồi, nên không đáng dập ống chân; đúng luật về chiên vươt
qua: không được đánh dập cái xương nào (Xh 12,46),
nhưng một tên lính lấy đòng đâm thủng cạnh sườn Người, lập tức máu và nước chảy
ra. Như vậy việc sát tế hoàn tất, vì phải làm cho máu ra hết. Người viết kể chi
tiết này một cách long trọng “để anh em tin”. Lời
này mở rộng ý nghĩa từ chiên Vượt Qua tới lời loan báo về mạch nước từ bên phải
Đền Thờ chảy ra, đem sự sống biến đồi cả Biển Chết, làm cho biển Chết thành
Biển Sống, đầy cá như đai dương (Ed 47,1-11).
Tin Mừng Gio-an còn kể chi tiết về chiếc áo dài của Chúa
Giê-su là áo dệt, không có đường may: đó là qui định về áo của Thượng Tế (Xh 28,39; 39,27). Như vậy Tin Mừng Gio-an cho thấy Chúa Giê-su là Đền Thờ đích thật
(2,19-22
Máu của Chúa
Giê-su là máu chiên Vượt Qua, là máu Xá tội và Máu Giao Ước, ba trong một. Chúa
Giê-su vừa là của lễ, vừa là Thượng Tế (đề tài mà thư Hip-ri sẽ triển khai tối đa).
Từ lời hứa “cắt bì
con tim” trong sách Đệ nhị Luật tới
các lời loan báo Giao Ước Mới đều đã thành sự trong Chúa Giê-su.
Luật khắc trong tim
Luật của Giao Ước
Xi-nai đã được khắc trên hai tấm bia bằng đá, nhưng từ bia đá vào tới lòng
người và biến thành hành động là con đường dài hơn đường vào Đất Hứa. Đến cuối
hành trình 40 năm, Mô-sê đã nhận ra lý do: “Chính anh em đã thấy những
gì ĐỨC CHÚA đã làm trước mắt anh em, tại đất Ai-cập, chống
lại Pha-ra-ô, cùng mọi bề tôi và cả nước vua ấy,2đó là các thử thách lớn
lao mắt anh (em) từng thấy, là các dấu lạ điềm thiêng lớn lao ấy. 3Nhưng
cho đến ngày hôm nay, ĐỨC CHÚA đã không cho anh em lòng để
biết, mắt để thấy, tai để nghe”. (29,3).
Với tổ phụ
Áp-ra-ham có vẻ dễ dàng quá. Thiên Chúa nói gì ông cũng tin và làm theo, nên
ông thành bạn thân của Thiên Chúa và Thiên Chúa cho ông một dấu trên da thịt để
đánh dấu dòng dõi của ông, hy vọng họ sẽ tự nhận ra họ là con cái nhà ai và
sống xứng đáng với tổ tiên. Nhưng con người vẫn là con người, như kiểu nói Việt
Nam “trí khôn để ngoài da”.
Sự can thiệp quyết
liệt của Thiên Chúa là để cho dòng dõi Áp-ra-ham do Con Thiên Chúa quy tụ trong
Giao Ước Mới có khả năng sống lòng tin chư Áp-ra-ham thì các thư của thánh
Phao-lô và Tin Mừng thứ tư giải thích cho chúng ta: Chính Thánh Thần, Tình Yêu
nối kết Chúa Cha và Chúa Con được gởi đến làm quả tim mới, làm Luật khắc trong
Tim. Thánh Thần vừa dạy vừa dỗ, cho chúng ta biết Thiên Chúa, không chỉ biết
gọi Thiên Chúa là Cha: “Abba”, nhưng có sức
thắng vượt mọi cản trở bên trong bên ngoài để làm cho chúng ta sống như Chúa
Giê-su đã sống, nói theo kiểu của thư I Gio-an : “bước đi như Đấng ấy
đã bước đi” (2,6 ds) , kiểu nói Cựu Ước đã dùng để diễn tả lời
Thiên Chúa đã dùng nói với Áp-ra-ham: “Hãy bước đi trước mặt Ta và nên
hoàn thiện” (St 17,1). Mô-sê
sẽ xin Thiên Chúa, “nếu quả thật con đã được nghĩa
với Ngài, xin khấng tỏ cho con biết đường lối của Ngài, để con biết Ngài, và
được nghĩa với Ngài” (Xh 33,13). Đó cũng là kiểu nói quen thuộc
của Việt Nam ta. Thánh Phao-lô trong các thư, đặc biệt thư Rô-ma, Ga-lát. Tin
Mừng thứ tư thì trong bữa Tiệc Ly Chúa Giê-su nói rõ về vai trò của Chúa Thánh
Thần. Tin Mừng Lu-ca nói về Thánh Thần
như ơn mà Thiên Chúa ban bao gồm mọi ơn (11,13).
Trong Tin Mừng thứ
tư, Chúa Phục Sinh đến với các môn đệ buổi tối đầu tiên thì đã ban sự bình an
và ban Thánh Thần khi trao sứ mạng mà Chúa đã báo trong lời nguyện hiến tế cuối
bữa Tiệc Ly (17,18). Trong Tin Mừng Lu-ca thì Chúa
Phục Sinh đến trao sứ mạng, nhưng bảo các môn đệ phải chờ cho tới khi nhận được
quyền năng từ trên cao, giống như bản thân Chúa đã sống ở Na-da-rét cho tới khi
nhận được quyền năng Thánh Thần sau khi chịu phép rửa va cầu nguyện ở bờ sông
Gio-đan, rồi chịu Xa-tan thử thách trong hoang địa, sau đó mới bắt đầu thi hành
sứ mạng: Được quyền năng Thần Khí thúc đẩy , Đức Giê-su trở về miền Ga-li-lê,
và tiếng tăm Người đồn ra khắp vùng lân cận. 15Người giảng dạy trong
các hội đường, và được mọi người tôn vinh. (4,14-15).
Sứ mạng của các tông đồ và các
Đấng kế vị trong Hội Thánh của Chúa
Mô-sê dẫn một đám
dân đông đúc gồm dòng dõi Áp-ra-ham và một đám đông hỗn tạp thóat ách nô lệ ra
khỏi Ai-cập. Nhạc phụ tới thăm mới chỉ dạy cho ông cách tổ chức dân thế nào cho
có trật tự và có người giúp ông trong việc lãnh đạo, chứ không thể đơn thân dẫn
một đám đông hỗn tạp như thế. Rồi Thiên Chúa xác nhận sáng kiến ấy và lấy Thần
Khí Thiên Chúa ngự nơi Mô-sê mà chia cho họ, vì đây là dân của Thiên Chúa nên
phải có Thần Khí của Thiên Chúa mới có thể dìu dắt họ. Chính Thiên Chúa lãnh
đạo dân của Người qua những con người được Thần Khí Thiên Chúa dẫn dắt
(x. Ds 11,14-30).
Chúa Giê-su quy tụ
một dân mới gồm cả nhân loài, nên Chúa đã chọn những người sẽ lãnh trách nhiệm
là nhóm Mười Hai, tượng trưng cho Mười Hai chi tộc Ít-ra-en, xin Cha gởi Thánh
Thần xuống trên họ và sai họ đi quy tụ những người tin vào Chúa và dạy dỗ họ
tuân giữ đường lối của Chúa. Tin Mừng Mát-thêu diễn
tả lời Chúa trao sứ mạng cho các ông tại điểm hẹn trên một ngọn núi ở Ga-li-lê:
Mười một môn đệ đi tới
miền Ga-li-lê, đến ngọn núi Đức Giê-su đã truyền cho các
ông đến. 17Khi thấy Người, các ông bái lạy, nhưng có mấy ông lại hoài
nghi. 18Đức Giê-su đến gần, nói với các ông: “Thầy đã
được trao toàn quyền trên trời dưới đất. 19Vậy anh em hãy đi và làm cho
muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và
Chúa Thánh Thần, 20dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em.
Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế”. (28,17-20).
Lời kết này
của Mát-thêu cho chúng ta những nét chính yếu để hiểu
về bản chất và sứ mạng của Hội Thánh mà chúng ta tuyên xưng: Hội Thánh duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền,
sự hiện diện của Chúa Giê-su Phục Sinh và Thánh Thần là BẢO ĐẢM DUY NHẤT cho sự
tồn tại và việc thi hành sứ mạng của Hội Thánh.
Chúa Giê-su Phục
Sinh đã nhận lại vinh quang của Con Thiên Chúa và được trao mọi quyền trên trời dưới đất. Tin Mừng thứ tư nói
rõ là quyền ban sự sống và xét xử. Tin Mừng Mát-thêu nói đến quyền xét xử, dưới
dạng dụ ngôn trong bài giảng cánh chung (24-25). Chúng ta tuyên xưng ở cuối
Kinh Tin Kính: “Người lại đến phán xét kẻ sống và kẻ chết”.
Hội Thánh “tông truyền”, do các tông đồ truyền lại không chỉ gồm
một mớ giáo lý, nhưng là Hội Thánh do Chúa Giê-su thiết lập và trao cho các
tông đồ lãnh
đạo, sách Khải Huyền dùng hình ảnh
Giê-ru-sa-lem trên trời:
Đang khi tôi xuất thần, thì người đem tôi lên một ngọn núi cao
hùng vĩ, và chỉ cho tôi thấy Thành Thánh, là Giê-ru-sa-lem, từ
trời, từ nơi Thiên Chúa mà xuống, 11chói lọi vinh quang Thiên
Chúa. Thành rực sáng tựa đá quý tuyệt vời, như ngọc thạch trong suốt tựa
pha lê. 12Thành có tường rộng và cao, với mười hai cửa do mười
hai thiên thần canh giữ, và trên các cửa có ghi tên mười hai chi tộc con
cái Ít-ra-en. 13Phía đông có ba cửa, phía bắc ba cửa, phía nam ba cửa
và phía tây ba cửa. 14Tường thành xây trên mười hai nền móng, trên
đó có tên mười hai Tông Đồ của Con Chiên. (21,10-14).
Sách Công Vụ cho thấy khi rao giảng Tin Mừng và quy tụ
được một số tín hữu thì thánh Phao-lô đặt người đứng đầu dể dẫn dắt cộng đoàn
(14,23). Bản văn dùng kiểu nói trong Cựu Ước “những trưởng lão”. Trong thư gởi
môn đệ thân tín là Ti-tô, thánh Tông Đồ trao nhiệm vụ này cho ông tại đảo
Cơ-rê-ta:
“Tôi đã để anh ở lại
đảo Cơ-rê-ta, chính là để anh hoàn thành công việc tổ chức , và đặt
những kỳ mục trong mỗi thành, như tôi đã truyền cho anh. 6Kỳ
mục phải là người không chê trách được, chỉ có một đời vợ, con cái cũng
tin đạo và không mang tiếng là sống phóng đãng hay bất phục tùng. 7Thật
vậy, giám quản, với tư cách là quản lý của Thiên Chúa, phải là người không chê
trách được, không ngạo mạn, không nóng tính, không nghiện rượu, không hiếu
chiến, không tìm kiếm lợi lộc thấp hèn ; 8trái lại, phải hiếu khách, yêu
chuộng điều thiện, chừng mực, công chính, thánh thiện, biết tự chủ ; 9người
ấy phải gắn bó với lời đáng tin cậy và đúng đạo lý, để vừa có khả năng
dùng giáo lý lành mạnh mà khuyên nhủ, vừa có khả năng bẻ lại những kẻ
chống đối” (1,5-9).
Tên gọi và cách tổ
chức sẽ biến chuyển theo văn hóa mỗi thời đại, nhưng đó là cách thức các tông
đồ truyền lại cho chúng ta một Hội Thánh với giáo lý do các tông đồ rao giảng
và có tổ chức để bảo vệ và giúp cộng đoàn tín hữu khỏi bị lung lạc vì các sai
lầm mà Xa-tan luôn tìm cách gieo vào như Chúa Giê-su đã nói trong gụ ngôn cỏ
lùng (Mt 13,24-30). Tuy Chúa rất kiên nhẫn, chờ đến ngày
thu hoạch cuối cùng (ngày phán xét) mới tách cỏ lùng ra mà đốt, còn lúa thì thu
vào kho thiên đàng. Cỏ lùng bề ngoài giống lúa quá, đến nỗi họ có thể nhân danh
Chúa trừ được quỷ, làm được phép lạ, như Chúa nói:
“Anh em hãy coi chừng các
ngôn sứ giả, họ đội lốt chiên mà đến với anh em ; nhưng bên trong, họ là sói dữ
tham mồi. 16Cứ xem họ sinh hoa quả nào, thì biết họ là ai. Ở bụi gai, làm
gì có nho mà hái? Trên cây găng, làm gì có vả mà bẻ? 17Nên hễ cây tốt
thì sinh quả tốt, cây xấu thì sinh quả xấu. 18Cây tốt không thể sinh quả
xấu, cũng như cây xấu không thể sinh quả tốt. 19Cây nào không sinh quả
tốt, thì bị chặt đi và quăng vào lửa. 20Vậy, cứ xem họ sinh hoa quả nào,
thì biết họ là ai.
21“Không phải bất cứ ai thưa
với Thầy: ‘Lạy Chúa! Lạy Chúa!’ là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng
chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà
thôi. 22Trong ngày ấy, nhiều người sẽ thưa với Thầy rằng : ‘Lạy Chúa,
lạy Chúa, nào chúng tôi đã chẳng từng nhân danh Chúa mà nói tiên tri, nhân danh
Chúa mà trừ quỷ, nhân danh Chúa mà làm nhiều phép lạ đó sao ?’ 23Và
bấy giờ Thầy sẽ tuyên bố với họ : Ta không hề biết các ngươi ; xéo đi cho
khuất mắt Ta, hỡi bọn làm điều gian ác ! (Mt 7,15-23).
Công Đồng Va-ti-ca-nô II, trong Hiến Chế
Tín về Giáo Hội, chương thứ ba « về cơ cấu phẩm trật Giáo Hội và
đặc biệt về chức Giám Mục » nói rõ :
Các Giám Mục nhận lãnh tác vụ
coi sóc cộng đoàn cùng với các linh mục và phó tế làm phụ tá, khi thay mặt
Thiên Chúa lãnh đạo đoàn chiên mà các ngài là những chủ chăn, với tư cách là
Thầy dạy giáo thuyết, tư tế lo phụng vụ thánh và thừa tác viên lo việc cai
quản. Tương tự như phận vụ Chúa trao riêng cho thánh Phê-rô, vị Tông đồ trưởng,
là một phận vụ trường tồn và phải được trao lại cho những người kế vị ngài,
cũng thế, phận vụ chăn dắt Giáo Hội mà các Tông đồ nhận lãnh cũng trường
tồn và được thi hành không gián đọan nhờ thánh chức Giám mục. Vì thế Thánh
Công Dồng dạy rằng chính Chúa đã lập các Giám mục kế vị các Tông Đồ với tư cách
là chủ chăn Giáo Hội, ai nghe các ngài là nghe Đức Ki-tô, còn ai khước từ các
ngài là khước từ Đức Ki-tô và Đấng đã sai Đức Ki-tô (x. Lc 10,16).
Chúa Cha đã trao
mọi quyền cho Chúa Giê-su thì không lấy lại để sai người nào nữa. Cả Thánh Thần
mà Chúa Cha đã hứa thì cũng do Chúa Giê-su gởi xuống : “Phần Thầy, Thầy sẽ gửi cho anh em điều Cha Thầy đã hứa »
(Lc 24,49) ; Thầy ra đi thì có lợi cho anh em. Thật vậy, nếu Thầy không ra
đi, Đấng Bảo Trợ sẽ không đến với anh em ; nhưng nếu Thầy đi, Thầy sẽ
sai Đấng ấy đến với anh em ». (Ga 16,7).
Giê-ru-sa-lem, Chúa Nhật Lòng
Chúa Thương Xót 2021
Lnh mục Giuse Nguyễn công Đoan,
S.J.
--------------------------------------------------
[1] Sau này Thiên Chúa sẽ truyền cho ông hoàn chỉnh cái
Lều (Xh 35-40). Trong trình thuật Truyền Tin, Lc 1,28-35 thiên sứ hình ảnh này để giải thích cho
Đức Trinh Nữ Maria cách thức Trinh Nữ sẽ thụ thai.
[2] X. Is.1,3