GIAO ƯỚC MỚI TRONG MÁU ĐỨC GIÊSU-KITÔ
Lm. Giuse Võ Đức Minh
"Đương lúc họ
ăn,
thì Đức Giêsu cầm lấy
bánh và chúc tụng
rồi bẻ ra và ban cho
họ. Ngài nói :
"Hãy cầm lấy mà
ăn, này là Mình Ta".
Đoạn cầm lấy chén
và tạ ơn,
Ngài ban cho họ mà
rằng :
"Hãy uống chén
này hết thảy ;
vì này là Máu Ta, Máu
Giao Ước
đổ ra vì nhiều người
để nên ơn tha tội" (Mt 26,26-29)
"Và đương lúc họ ăn,
Ngài cầm lấy bánh, chúc tụng ,
rồi Ngài bẻ ra và ban cho họ và nói :
"Hãy cầm lấy ! Này là Mình Ta
!".
Đoạn cầm lấy chén, tạ ơn,
Ngài ban cho họ và họ uống chén này hết
thảy.
Và Ngài nói với họ :
"Này
là Máu Ta, Máu Giao Ước đổ ra vì nhiều người" (Mc 14,22-24)
"Đoạn cầm lấy bánh và tạ ơn,
Ngài bẻ ra và ban cho họ mà rằng :
"Này là Mình Ta phải thí ban vì các
ngươi ;
hãy làm sự này mà nhớ đến Ta".
Và chén sau bữa ăn, cũng như vậy, mà
rằng :
"Chén này là Giao Ước Mới trong
Máu Ta,
phải đổ ra vì các ngươi" (Lc 22,19-20)
"Vì chưng chính tôi đã chịu lấy nơi
Chúa
điều tôi truyền lại cho anh em. Là :
Chúa Giêsu trong đêm Ngài bị nộp,
Ngài đã cầm lấy bánh và tạ ơn xong,
Ngài đã bẻ ra và nói :
"Này là Mình Ta vì các ngươi,
hãy làm sự này mà nhớ đến Ta".
Cũng vậy về chén,
sau khi dùng bữa tối xong, Ngài nói :
"Chén này là Giao Ước Mới trong
Máu Ta,
các ngươi hãy làm sự này mỗi khi uống,
mà nhớ đến Ta".
Vì mỗi lần anh em ăn bánh ấy và uống
chén ấy,
anh em loan báo sự chết của Chúa,
cho tới lúc Ngài đến" (1 Cr 11,23-26)
A. Dưới ánh sáng các lời sấm
ngôn Cựu Ước
Gr 31,31-34 ; 32,40
Ed 36,24-27 ; 37,25-28
Is 42,6 ; 49,8 ; 52,13 - 53,12
Một số bản văn trên của Cựu Ước
làm nổi bật tính chất "Mới" của Giao Ước :
- tha thứ mọi tội lỗi
- biết Thiên Chúa một cách trọn
hảo
- tuân giữ thánh chỉ, giới luật
của Người
- chiều kích nội tâm (tâm hồn
mới, Thần Khí Thiên Chúa)
- sự hiện diện của Thiên Chúa
- sự quy tụ dân Chúa đang tản
mác về lại một mối
- tính phổ cập của ơn cứu độ nhờ
của lễ đền tội và xá tội mà "Người Tôi Tớ đau khổ của Giavê"
thực hiện.
B. Thử tìm bản văn cựu trào
Hiện chúng ta có bốn bản văn Tân
Ước đề cập đến câu chuyện Chúa Giêsu lập Giao Ước Mới trong khung cảnh Bữa Tiệc
Ly.
Thử phân tích một số chi tiết để
cố tìm lại bản văn diễn tả chính lời của Chúa Giêsu trong Biến Cố Lịch Sử đó.
Ta đối diện với hai truyền thống
:
Mc / Mt truyền thống Pha-lệ-tinh
Lc / Phaolô truyền thống Antiôkia
Từ ngữ "Giao Ước đều gặp
thấy ở trong bốn bản văn của hai nguồn truyền thống đó :
Mc / Mt "Này là Máu Ta, Máu Giao Ước"
Truyền thống này như gợi lại một
cách có chủ ý "Giao Ước Sinai"
Xh 24,8 Môsê
lấy huyết mà rảy trên dân. Ông nói : "Này là máu Giao Ước đã kết với
các ngươi"
Lc / Phaolô "Chén
này là Giao Ước Mới trong Máu Ta"
Truyền thống này gợi lại lời
công bố Giao Ước Mới mà Giêrêmia đã công bố (Gr 31,31-34)
Hai truyền thống này như thế có tính
cách độc lập với nhau ; vì vậy đâu là truyền thống và bản văn diễn tả gần nhất
Lời tuyên bố của chính Đức Giêsu trong Bữa Tiệc Ly ?
Ta thử tìm !
Khởi điểm là bản văn của thánh
Phaolô : 1 Cr 11,23-25 là bản văn thành hình sớm nhất. Nhưng bản văn này mang
tính chất phụng vụ, có khuynh hướng giải thích Lời Đức Giêsu cho rõ hơn,
có suy tư thần học "Mới - kainê" và có khuynh hướng
biện giáo "uống
Chén Máu".
Qua phân tích bản văn, ta thấy :
1) từ ngữ sử dụng không phải của Phaolô vì
ngài chỉ truyền lại điều ngài đã lãnh nhận. ;
2) việc bản văn Phaolô hoàn toàn tương tự bản
văn của Luca khiến chúng ta nhận định là bản văn này chính là công thức tế tự
của Hội Thánh đương thời.
Từ đó, ta lần lên
nguồn của nó :
1) niên kỷ bức thư (1 Côrintô) : khoảng 54
2) bản văn Phaolô "truyền lại" cho
người Côrintô : khoảng năm 49
3) Phaolô đã "chịu lấy" từ Chúa :
khoảng năm 45
4) Như vậy, bản văn của Luca phải có trước bản
văn của Phaolô, vì Phaolô nhận được từ truyền thống mà truyền lại.
5) Vậy, xét về đặc tính sê-mít., thì bản văn
Luca là kỳ cựu nhất.
Bằng cách đó, chúng ta có bản
văn thuộc thập kỷ đầu tiên sau Bữa Tiệc Ly. Qua phân tính và tìm hiểu, ta nhận
thấy : 1o cả bốn bản văn đều đồng nhất với nhau khi ghi lại Lời Đức Giêsu tuyên
bố trên Bánh ; 2o Lời tuyên bố trên Chén rượu tuy có sự khác
nhau, nhưng chỉ là những khác biệt thứ yếu, bên ngoài :
Lc / Phaolô "Chén này là Giao Ước Mới trong
Máu Ta"
Mc / Mt "Chén này là Máu Ta, Máu Giáo
Ước"
Cả hai truyền thống đều nói về Chén
Máu đổ ra để thiết lập Giao Ước.
Từ đó, ta ghi lại những điểm
chính yếu của nguồn các truyền thống :
"Này là Mình Ta" (=
Thịt Ta)
"Này là Máu Giao Ước của Ta
(= Giao Ước trong Máu Ta) đổ ra vì nhiều người"
Điều này được chứng minh nhờ
chính lời của Phaolô :
1 "chính tôi đã chịu
lấy nơi Chúa
điều tôi truyền lại cho
anh em ."
Cả hai kiểu nói này đều liên hệ
đến Truyền Thống ;
2 "Tôi đã chịu
lấy" nơi Chúa . (paralambanein)
- para : chịu lấy nhờ được loan
báo, được truyền tụng ;
- apo (nơi) : chỉ gốc, nguồn của
Truyền Thống
Tôi đã chịu lấy . điều phát xuất
từ Chúa (Tradition qui remonte au Seigneur)
C. Mạch văn lời tuyên bố của
Chúa Giêsu
Lời tuyên bố của Chúa Giêsu xảy
ra trong Bữa Ăn Vượt Qua.
Để thấy được nét phong phú của
Bữa Ăn, ta có những yếu tố sau đây :
Mỗi bữa ăn trong não trạng,
phong tục của Đông Phương là cơ hội diễn tả sự hòa bình, bình an, tin tưởng,
huynh đệ ;
Bữa Ăn của Chúa Giêsu, đặc biệt
với những người tội lỗi, thường bao hàm sự tha thứ. Từ đó khiến cho
người biệt phái không thể chấp nhận được, vì Ngài đặt đồng bàn người tội lỗi
lẫn lộn với người công chính ;
Sau biến cố ở Kaisaria của Philíp, mỗi bữa ăn với Chúa Giêsu đều
là bữa ăn báo trước bữa Tiệc thời Thiên Sai ;
Hằng năm, Bữa Tiệc Vượt Qua
đối với Dân là bữa tiệc của ngày lễ kỷ niệm biến cố Dân được giải thoát khỏi
ách nô lệ Ai-cập, đồng thời hướng lòng Dân về viễn tượng ơn cứu độ trong ngày
Đấng Mêsia xuất hiện ;
Bữa Tiệc Vượt Qua này mang
trọn vẹn niềm hy vọng vượt qua => Bữa Tiệc Vượt Qua của Đức Giêsu trước khi
Ngài chịu chết ;
Bữa Tiệc Tạ Ơn, Bữa
Tiệc Thánh Thể : ta nên biết bữa tiệc vượt qua bình thường không phải là
bữa tiệc giao ước ; nhưng Bữa Tiệc Vượt Qua này, nhờ các lời tuyên bố và
hành động của Đức Giêsu, thật sự trở nên Bữa Tiệc Giao Ước.
Tìm hiểu nội dung bữa tiệc vượt
qua :
1 phần chuẩn bị ;
2 phụng vụ trong bữa tiệc đang có
chiên vượt qua để trên bàn và câu chuyện của người trưởng tộc khi nhắc laị cho
mọi người trong gia đình biến cố và ý nghĩa Lễ Vượt Qua ;
3 bữa ăn chính : ăn
chiên vượt qua với rau diếp đắng và bánh không men. Lời chúc tụng đọc trên bánh
đã được bẻ ra ngay từ đầu ; lời tạ ơn cuối bữa ăn được đọc sau chén rượu thứ ba
;
4 kết lễ : hát
thánh vịnh Hallel Vượt Qua :
Tv 113 - 118 : Tiểu tụng Hallel ;
Tv 136 Đại tụng Hallel.
Đặt các lời tuyên bố của Đức
Giêsu trong bữa tiệc Vượt Qua :
Mc / Mt Ngài chúc tụng (Bánh) ; Ngài tạ ơn (Chén)
Lc/ Phaolô sau bữa ăn mới có lời tuyên bố trên Chén rượu.
Những sự kiện trên mang ý nghĩa
gì ?
- Chúa Giêsu, bánh cầm trong tay
và đang có chiên tế lễ vượt qua trước mặt Ngài. Ngài nói : "Này là Mình
Ta".
- Sau bữa ăn, tức đã ăn chiên tế
lễ vượt qua - bữa ăn tạ ơn vì máu chiên đã đổ ra nhắc lại máu giải thoát năm
xưa -, Chúa Giêsu cầm lấy chén rượu trong tay. Ngài nói : "Này là Máu
Ta".
Ý nghĩa việc đó
là : chính Ta (Mình và Máu) là Chiên Vượt Qua thật, chiên đã được tế hiến (= đổ
máu ra).
Điều đem lại ý nghĩa cho các môn
đệ và đánh động họ không phải là việc Đức Giêsu bẻ bánh hoặc rót rượu vào chén,
vì cả hai việc này đều thuộc nghi lễ bình thường của bữa ăn vượt qua, nhưng là
việc ngoại lệ khi Đức Giêsu thêm vào mỗi lời chúc tụng tạ ơn của nghi lễ vượt
qua . Lời tuyên bố giải thích của chính Ngài.
Chính Đức Giêsu trong dịp lễ đã
giải thích nghĩa Chiên Hy Tế. Ngài đồng hóa Ngài với Con Chiên Hy Tế Vượt Qua.
Và như vậy, Đức Giêsu minh nhiên tỏ cho các môn đệ biết trước :
Cái chết sắp tới của Ngài (=
Máu Ngài đổ ra) cũng phải được hiểu là cái chết có sức mạnh đem lại ơn
tha tội như cái chết của Người Tôi Tớ Giavê mà tiên tri Isaia đã loan báo
(Is 52,13 - 53,12). [Giờ Đức Giêsu chết trên thập giá trùng vào giờ người ta
giết chiên vượt qua để mừng lễ].
D. Việc ban giao ước mới trong
máu Đức Giêsu-Kitô
Tại sao Đức Giêsu đã kết hợp hai
việc :
- những lời Ngài giải thích về
Bánh và Chén ;
- việc Ngài chia Bánh và Chén
rượu cho các môn đệ ?
Như đã biết, Bữa Ăn có những yếu
tố : ăn lương thực, diễn tả sự bình an, tin tưởng, huynh đệ, tha thứ. Vì thế,
những người ăn Bánh và uống Chén rượu của Đức Giêsu-Kitô thì được tham gia vào
lời chúc lành của Ngài.
Bánh (= Mình
Đức Giêsu) - Rượu (= Máu Đức Giêsu) - cái chết của Ngài đem lại ơn tha
tội. Ăn bánh và uống rượu : tham gia vào cái chết của Ngài, tức là tham dự vào
kết quả mà cái chết ban ơn cứu độ đem lại.
Koinonia = Máu -
Thịt Đức Kitô (1 Cr 10,16)
Vì cùng chia phần một Bánh, nên
chúng ta là một thân thể (1 Cr 10,17) = Dân Mới của Thiên Chúa, các Tông Đồ
tham dự Bữa Tiệc Ly là tiêu biểu.
Koinonia :
* tham dự vào cái chết tha tội
của Đức Giêsu ;
** tham dự vào sự hiệp thông của
những người được tha tội.
Mỗi lần ăn Bánh, uống Rượu tức
là ăn Mình, uống Máu Đức Giêsu-Kitô, được tham dự vào cái chết của Ngài
; koinonia với Đức Giêsu mà cái chết của Đức Giêsu đem lại ơn tha tội, nên
những ai tham dự vào Tiệc Giao Ước cũng được hồng ân đó.
Vì cùng chia phần một Bánh, nên
tất cả đều là Một Thân Thể trong Đức Kitô (Unum Corpus in Christo).
Từ đó, Bữa Tiệc Giao Ước Mới đem
lại hai hiệu quả :
1) tham dự vào cái chết tha tội
của Đức Giêsu ;
2) tham dự vào sự hiệp thông của
những người được tha tội. Đấy là hồng ân mà Bữa Tiệc Thánh Thể đem lại
"nhiều người" (x. Is
53,12) : anh em, dân Israel, muôn dân.
E. "các con hãy làm việc
này mà nhớ đến Ta !"
Sau Lời chúc lành trên Bánh là
lệnh truyền lặp lại nghi thức đó.
"Fractio panis" : Nghi
thức bẻ Bánh trong Giáo Hội sơ khai.
"Hãy làm việc này mà nhớ
đến Ta", tức là nhớ đến Đức Giêsu. Đây là điểm độc đáo của Giao Ước
Mới trong Máu Đức Giêsu.
"mà nhớ đến Ta" : không
những nhớ đến Đức Giêsu, nhưng còn hướng về thời Thiên Sai, hướng về Ngày Đức
Giêsu trở lại.
Thánh Phaolô viết : "loan
báo cái chết của Đức Giêsu" gắn liền với việc "nhớ Đức Giêsu",
"cho tới khi Người lại đến".
Mỗi khi công bố
cái chết của Đức Giêsu trong Bữa Tiệc Giao Ước, đó chính là công bố, xác nhận
(tin) rằng cái chết của Ngài thực hiện lời sấm ngôn Cựu Ước, và khai mở thời
cứu độ của Giao Ước Mới., đồng thời khẩn xin Thiên Chúa ban Đấng Mêsia trở lại
trong vinh quang.
Mysterium fidei :
"Lớn lao thay mầu nhiệm đức tin !
Mortem tuam annuntiámus, Domine,
et tuam resurrectiónem confitémur,
donec vénias.
Lạy Chúa, chúng con loan truyền việc Chúa chịu chết
và tuyên xưng việc Chúa sống lại
cho tới khi Chúa lại đến.
Mỗi lần Hội Thánh cử hành Tiệc
Giao Ước Mới là Đức Giêsu ban chính Mình Ngài cho các môn đệ cho đến khi Ngài
trở lại. Tiệc Thánh Thể là nguồn mạch sự kiên vững của Hội Thánh cho đến Ngày
Ngài lại đến (x. 1 Cr 11,26).
Nhờ Tiệc Giao Ước Mới này, Hội
Thánh trở nên phong phú nhờ sự hiện diện vĩnh viễn của Đức Giêsu (= Nước Trời)
và nhờ được nối kết với cuộc Khổ Nạn hồng phúc của Ngài.
Khi cử hành Thánh Thể, Hội Thánh
là hiện thân Nước Thiên Chúa ở trần gian này cho đến khi Nước Thiên Chúa được
tỏ hiện.
Tóm lại, Giao Ước Mới trong Máu
Đức Giêsu làm cho tất cả đều quy tụ trong Ngài.
Ai ký Giao Ước ?
- Thiên Chúa (đại diện là Con
Chiên), Đức Giêsu-Kitô ;
- cộng đoàn tín hữu (unus in
Christo), Đức Giêsu-Kitô.
Bữa Tiệc - chính Đức Giêsu-Kitô (thức ăn thức uống)
Giới luật - Đức Giêsu-Kitô trong anh em.
Tuân giữ và vâng phục ? - chính
Đức Giêsu-Kitô, để trở nên của chúng ta vì ta phải "mặc lấy Đức
Kitô" (Gl 3,27)
VỊ THƯỢNG TẾ TRUNG GIAN CỦA GIAO
ƯỚC MỚI (thư Hipri)
Chỉ nhìn vào từ ngữ "Giao
Ước" được sử dụng trong thư Hipri 17 / 33 lần trong toàn bộ Tân Ước đủ để
thấy Tác-giả có chủ ý và quan tâm đặc biệt đến chủ đề này.
Diathêkê [Dt 7,22 ; 8,6-13 ;
9,1-4.15-23 ; 10,16.19 ; 12,24 ; 13,20-21], và ngay cả nội dung bức thư,
Tác-giả cũng đã trích dẫn nguyên văn các đoạn nổi tiếng của Cựu Ước đề cập về
Giao Ước : Xh 24,8 = x. Dt 9,20 ; Gr 31,31-34 = x. Dt 8,8-12.
A. TÍNH CHẤT "MỚI" CỦA
GIAO ƯỚC
Gọi là Giao Ước Mới vì so sánh
với Giao Ước cũ.
Từ ngữ "Mới" sử dụng
cho Giao Ước này để nói lên tính chất luôn luôn mới của Giao Ước, nghĩa là nó
sẽ không bao giờ rơi vào tình trạng cũ.
Mt 9,17 Rượu mới (nêos), bình da cũ.
Mt 26,29 Rượu mới (kainos) trong Nước Cha Ta.
Và tính chất mới hoàn toàn như
thế thì sẽ không bao giờ bị thay thế.
Do đó, Giao Ước Mới cần có một
nền tảng mới, một căn bản mới có khả năng đảm bảo tính chất "Mới"
vĩnh viễn của nó. Vì nếu không, ta không thể gọi là kainê diathêkê được, mà chỉ
là sự làm mới, lặp lại Giao Ước cũ mà thôi., chỉ là tân trang mà thôi.
Giao Ước Mới ở đây không phải là
tân trang, nhưng là mới hoàn toàn vì có căn bản mới. Để thấy rõ đặc tính
"Mới" này của Giao Ước, chúng ta so sánh mối tương quan giữa Tế Tự và
Giao Ước.
Sơ đồ của Tế Tự trong Giao Ước
cũ (Dt 9,1-10) :
Dân Chúa - Tư tế - Lễ vật hy
sinh - Đền thờ - Tư tế - Dân Chúa
Tất cả đều tách rời nhau :
Tư Tế => Lễ vật hy sinh (Dt 9,9-10)
Lễ vật hy sinh => Thiên Chúa (Dt 9,4-7)
Dân Chúa =>Tư Tế (Dt 9,6-7)
Và hiệu quả của tế tự trong Giao
Ước cũ :
Dân Chúa được tinh luyện, được
tha thứ ., nhưng chỉ nhất thời và không thể nào trọn vẹn đến cùng Thiên Chúa
được, hoặc có đến thì đến từ xa xa . vì vẫn còn sự cách biệt.
Trong khi đó, việc tế tự trong
Giao Ước Mới mang tính chất khác hẳn : nền tảng mới này là sự thay đổi tận căn
do Đức Kitô thực hiện nhờ cuộc Khổ Nạn của Ngài.
"Quả là thích hợp
việc Đấng có vạn vật vì Người và do bởi Người
tra tay hướng dẫn số đông con cái về phúc vinh
quang,
thì đã dùng thống khổ
luyện cho thành toàn Đấng khơi nguồn cứu rỗi (Dt
2,10)
"Dẫu là Con,
Ngài đã phải dãi dầu đau khổ
mà học cho biết vâng phục.
Và một khi thành toàn,
Ngài đã nên nguyên nhân cứu rỗi đời đời
Cho những ai vâng phục Người" (Dt
5,8-9)
"Đức Kitô đã đến như Thượng Tế của phúc lành
lai thời
nhờ một nhà tạm lớn lao và trọn lành hơn,
không phải nhân tạo, nghĩa là không thuộc về tạo
thành này,
không phải nhờ máu dê hay máu bê,
nhưng là nhờ chính Máu của Ngài,
Ngài đã vào Thánh Điện - duy chỉ một lần -
Sau khi đã thành đạt việc cứu chuộc muôn đời.
Vì nếu máu dê máu bò và tro tàn thân con bò cái
rảy trên những nhiễm uế
còn thánh hóa cho họ được trong sạch về phần xác,
thì Máu của Đức Kitô, Đấng nhờ Thần Khí hằng có
mà tiến mình làm hy sinh vô tỳ tích dâng lên Thiên
Chúa,
sẽ rảy sạch lương tâm ta hơn biết mấy
khỏi các việc chết
mà phụng sự Thiên Chúa hằng sống"
(Dt 9,11-14)
Như vậy, cuộc Khổ Nạn của Đức
Giêsu-Kitô đã trở nên nền tảng mới của phụng tự trong Giao Ước Mới, trong đó
được hủy bỏ hoàn toàn mọi phân cách :
1) giữa lễ vật
hy sinh và Thiên Chúa. Đức Kitô chính là lễ vật xứng đáng :
"Máu của Đức Kitô, Đấng nhờ Thần Khí hằng có
mà tiến mình làm hy sinh vô tì tích dâng lên Thiên
Chúa" (9,14)
2) giữa lễ vật
hy sinh và tư tế. Đức Kitô hiến dâng chính mình Ngài (9,14.25) :
"Vào những ngày còn trong thân xác,
Ngài đã dâng lên cho Đấng có thể cứu Ngài khỏi chết
những lời cầu xin khẩn nguyện với lớn tiếng kêu van
cùng nước mắt
và Ngài đã được nhậm lời thoát khỏi sợ hãi.
Dẫu là Con, Ngài đã phải đau khổ dãi dầu,
mà học cho biết vâng phục" (5,7-8)
3) giữa Dân
Chúa và tư tế. Cuộc Khổ Nạn của Đức Kitô Thượng Tế đã khiến Ngài
liên đới với mọi người :
"Do đó, trong mọi sự, Ngài đã nên giống các
anh em Ngài
để trở thành Vị Thượng Tế lo việc Thiên Chúa,
vừa biết xót thương, vừa trung tín (= tín cẩn)
cốt để lo tạ tội cho dân.
Và đã trải qua thử thách bằng đau khổ,
thì Ngài có thể đáp cứu những ai chịu thử
thách" (2,17t).
xt. Dt 4,15 - 5,10 Thượng
Tế liên đới với mọi người : Ngài là Vị Thượng Tế đầy tình thương xót.
"Thượng Tế ta có không phải
là người không thể cảm thông với nỗi yếu hèn của ta, song là Đấng đã dãi dầu
thử thách, muôn sự đều tương tự, trừ phi là tội." (4,15)
"Và vì thế, Ngài là trung
gian cho một Giao Ước Mới, ngõ hầu nhờ một cái chết đã xảy ra để chuộc những
tội phạm thời giao ước thứ nhất, những kẻ được kêu gọi có phương lĩnh lấy cơ
nghiệp đời đời đã hứa cho họ" (9,15)
Tóm lại. Tế Tự trong Giao Ước
Mới có nền tảng mới :
- Lễ vật hy sinh và Thiên Chúa =
Đức Kitô
- Lễ vật hy sinh và Tư Tế = Đức
Kitô
- Dân Chúa và Tư Tế = cái chết
của Đức Kitô Trung Gian.
B. ĐỨC KITÔ, VỊ THƯỢNG TẾ TRUNG
GIAN CỦA GIAO ƯỚC MỚI
1. Tha thứ tội lỗi (Gr 31,34b)
a) Giao Ước cũ cũng được ký kết
bằng máu, nhưng là máu của lễ vật hy sinh mà Môsê hay các tư tế dùng để rảy
trên dân. Tác-giả thư Hipri nói đây chỉ là điều "mô phỏng", cho nên
"máu không đổ thì tội vạ không tha" (Dt 9,18-22). Ngược lại, trong
Giao Ước Mới, chính Vị Thượng Tế đổ máu mình, lấy máu Ngài làm lễ
vật hy sinh đền tội và xóa tội, thì chính Ngài "khử trừ sự tội nhờ việc hy
sinh của Ngài " (9,26) ; "Ngài đã hiến dâng mình một lần để cất tội
lỗi nhiều người." (9,28 - xt. 10,1-19). "Ngài đã làm cho những kẻ
được tác thánh nên thành toàn mãi mãi" (10,14).
b) Như thế, đời sống của con
người trong Giao Ước Mới không còn bị nô lệ tội lỗi nữa, vì không những họ được
tha thứ hết mọi tội lỗi, nhưng nếu họ lỡ phạm tội nữa thì họ nại tới Đức
Kitoâ, Vị Thượng Tế Trung Gian, Đấng "lo việc Thiên Chúa, vừa
biết xót thương vừa trung tín cốt để lo tạ tội cho dân" (2,17). "Vậy
ta hãy dạn dĩ tiến lại gần ngai tòa ân sủng hầu được đáp cứu đúng thời"
(4,16). "Do đó, Ngài có thể chung tất cứu những kẻ nhờ Ngài lại gần
Thiên Chúa, sống luôn mãi để chuyển cầu cho họ" (7,25)
c) Từ đó, những ai tự đặt mình ngoài
Giao Ước Mới, không thể bắt gặp được ơn tha thứ : "Vì chưng
nếu ta cố tình phạm tội sau khi đã lĩnh lấy tri thức về sự thật, thì không còn
tế lễ đền tội nữa, nhưng là viễn tượng đáng kinh hãi : cuộc phán xét và lửa
bừng bừng sẽ thiêu đốt phường đối địch. Kẻ nào phạm Luật Môsê, tất phải
chết, không được dung thứ, theo chứng của hai hay ba người, thế thì anh em thử
nghĩ xem, còn đáng phải chịu một hình phạt dữ dằn hơn gấp mấy, kẻ đã chà đạp
Con Thiên Chúa, đã kể Máu Giao Ước đã tác thánh mình dường đồ dung tục, và đã
lăng mạ Thần Khí ân sủng ?" (10,26-29)
d) Cho nên, để sống trong hồng
phúc của con người được tha thứ mọi tội lỗi, Tác-giả thư Hipri khuyến dụ và
nhắc nhở mọi người hãy sống trung thành với Giao Ước Mới :
- đừng lãnh bỏ ơn cứu rỗi (Dt
2,1-4)
- hãy hăm hở gắng vào nơi an
nghỉ của Thiên Chúa (3,6 -4,11)
- khốn cho kẻ chối đạo
(10,26-31)
- hãy kiên nhẫn trong lòng tin
(10,36-39) - xt. 6,4-8
2. Giới luật nội tâm (Gr 31,33)
a) thay đổi Lề
Luật, thay đổi tế vụ :
"vì một tế vụ đổi thay
thì nhất thiết cũng phải có sự
thay đổi Lề Luật" (7,12)
". một đàng có sự bãi bỏ
một tiền lệ
bởi nó đã liệt bại và vô hiệu
lực,
còn một đàng là dẫn vào một hy
vọng hoàn hảo
nhờ đó ta được lại gần Thiên
Chúa" (7,18)
b) nguyên nhân sự bất
lực của Lề Luật :
phụng tự bên ngoài (10,1.4-11)
* Hy tế của Chúa Kitô : việc gắn
bó với ý muốn của Thiên Chúa thay thế Luật bên ngoài :
"Bởi đó, lúc vào trần gian
Ngài nói :
Hy sinh cùng lễ vật Người đã
chẳng màng,
nhưng Người đã nắn nên thân xác
cho con.
Các lễ toàn thiêu cùng tạ tội,
Người đã chẳng đoái.
Bấy giờ con nói : Này con đến, .
để thi hành ý muốn Người, lạy
Thiên Chúa.
Trên kia thì rằng : các hy sinh
cùng lễ vật,
các lễ toàn thiêu cùng tạ tội,
Người đã không màng không đoái,
- các điều ấy được hiến dâng
chiếu theo Lề Luật -
bấy giờ Ngài đã nói :
Này con đến để thi hành ý muốn
Người.
Ngài loại bỏ điều trước, để
thiết lập điều sau.
Chính trong ý muốn ấy, mà ta đã
được tác thánh,
nhờ việc Đức Giêsu-Kitô đã hiến
dâng mình Ngài
- duy chỉ một lần"
(10,5-10)
c) Ơn gọi kitô-hữu
: thi hành ý muốn của Thiên Chúa
"Quả anh em phải có lòng
kiên nhẫn, ngõ hầu sau khi đã thi hành ý muốn của Thiên Chúa, anh em được lĩnh
lấy điều đã hứa" (10,36)
"Xin Thiên Chúa bình an,
Đấng đã dẫn ra khỏi cõi chết Chúa chiên lớn lao trong Máu Giao Ước muôn đời,
Chúa chúng ta, Đức Giêsu, xin Người chuẩn bị anh em xứng mọi sự lành, để thi
hành ý muốn của Người, và thực hiện nơi anh em điều đẹp mắt Người, nhờ Đức
Giêsu-Kitô. Vinh quang cho Ngài đời đời kiếp kiếp. Amen" (13,20-21)
3. Tương quan trực tiếp mỗi
người với Thiên Chúa (Gr 31,33b-34a)
a) Tự do tiến vào
Thánh Điện của Thiên Chúa (nhờ Máu Đ. Kitô)
"Một khi được dạn dĩ để vào Thánh Điện
nhờ Bửu Huyết của Đức Giêsu,
- con đường Ngài đã khai quang cho ta, tân kỳ và sống
động, xuyên qua bức màn, tức là thân xác Ngài -,
một khi ta có Vị Tư Tế lớn lao trên nhà của Thiên Chúa,
ta hãy tiến lại, với một lòng chân thành sung mãn về đức
tin,
bởi đã được rảy máu làm cho lòng dạ sạch khỏi tâm tà ;
và khi thân mình đã được tắm gội bằng nước sạch trong,
ta hãy nắm giữ không nao tín điều về niềm hy vọng,
vì Người trung tín, Đấng đã ban lời hứa" (10,19-23)
b) tiến dâng Thiên
Chúa lễ tế ngợïi khen
"Vậy nhờ Ngài, mọi thời,
ta hãy tiến dâng Thiên Chúa lễ tế ngợi khen,
tức là hoa quả của những môi miệng tuyên xưng danh Người.
Đừng lãng quên đức từ thiện, việc tương tế,
Vì những lễ tế như thế Thiên Chúa vui lòng chiếu
nhận" (13,15-16)
c) vai trò Trung
Gian cần thiết của Đức Giêsu :
"nhờ Bửu Huyết của Đức
Giêsu" (10,19)
"ta có Vị Tư Tế lớn lao trên nhà Thiên Chúa"
(10,21)
"nhờ Ngài." (13,15)
"nhờ Đức Giêsu-Kitô" (13,21)
d) cộng đoàn tín
hữu noi gương lòng tin của các mục tử, vâng phục lời của họ :
"Anh em hãy nhớ đến những người lãnh đạo anh em,
họ đã giảng Lời Thiên Chúa cho anh em.
Hãy nhìn ngắm xem họ kết liễu làm sao mà noi gương
lòng tin của họ" (13,17)
"Anh em hãy vâng lời những người lãnh đạo anh
em,
hãy biết phục tùng, vì họ canh giữ linh hồn anh em,
như những kẻ sẽ phải trả lẽ,
để họ được vui mừng thi hành phận sự,
chứ không phải than phiền,
vì điều ấy chẳng báo bổ gì cho anh em" (13,17)
khích lệ nhau :
"Anh em hãy khuyên răn
nhau" (3,12-13)
"không bỏ bê việc nhóm hội với nhau . một hãy khích
lệ nhau." (10,25)
"hãy theo đuổi bình an với mọi người, và sự thánh
thiện." (12,14-15)