II. NHỮNG
ĐIỀU GIO-AN ĐÃ NHÌN THẤY
Khi đề
cập tới tính cách biểu tượng của sách Khải Huyền, ngay từ đầu chúng tôi minh
định là không muốn đề cập đến nội dung thị kiến của Gio-an một cách sơ
sài. Gio-an là một ngôn sứ; ngài nhận một sứ điệp đích thực từ nơi Thiên Chúa.
Giáo huấn của sách Khải Huyền là chân thật và là một ghi chép đúng sự thực về
mạc khải Chúa cho Gio-an biết.
Nhưng
sách Khải Huyền lại là một ghi chép những mạc khải Gio-an đã nhận được
trước kia và chỉ được ghi chép lại sau đó (1:9 và tiếp theo). Có lẽ Gio-an đã
nhận được những mạc khải này trong khoảng thời gian khá dài. Công việc của
Gio-an là dưới linh hứng của Chúa Thánh Thần, ngài sắp đặt những mạc khải ấy
lại để làm thành cuốn sách và chọn lựa cách thức để diễn tả chúng. Cách thức
ngài viết, như đã nói ở phần trước, là văn loại khải huyền Do-thái.
Ngài
nói với chúng ta về rất nhiều điều. Chẳng hạn ngài nói ngài đã nhìn thấy
"có ai giống như Con Người" (1:13), hoặc "có cái gì như
biển trong vắt tựa pha lê" (4:6), hoặc "tôi thấy đứng ở
giữa là một Con Chiên, trông như thể đã bị giết" (5:6), hoặc
"tôi thấy có cái gì như biển trong vắt pha ánh lửa" (15:2)...
Nếu đem gom lại tất cả những từ "giống như," "tựa,"
"như," và "trông như thể" trong cả sách Khải Huyền, ta sẽ
nhận thấy chúng là một trong những đặc nét cơ yếu của sách Khải Huyền. Nói cách
khác, Gio-an không nói ngài đã chính mắt nhìn thấy một người, một biển trong
vắt như pha lê, hoặc một Con Chiên bị giết, nhưng là những điều được biểu tượng
do những hình ảnh trên. Một nhà chú giải sách Khải Huyền đã nói rất đúng rằng
trong sách này rất nhiều điều đã được tác giả suy nghĩ chứ không phải là
nhìn thấy. Những hình ảnh ngài sử dụng và cũng là những gì hầu như ngài
hoàn toàn vay mượn từ sách vở đã có trước kia đều nhằm diễn tả những tư tưởng
đã được mạc khải của ngài.
Đây là
một sự kiện quan trọng cần phải nhớ khi đọc sách Khải Huyền. Thí dụ chúng ta
lấy đoạn 5:6 và những câu tiếp theo. Gio-an đã thấy một Con Chiên đang đứng
mà lại trông như thể đã bị giết. Làm sao một con chiên đã bị giết lại
đứng được? Thực ra Con Chiên không hành động như chiên đã bị giết bởi vì
"Con Chiên đến lãnh cuốn sách từ tay hữu Đấng ngự trên ngai" (c. 7).
Con Chiên đó lại có bảy sừng và bảy mắt. Vậy thì chúng ta phải hiểu thế nào
đây? Hiểu là Gio-an đã thực sự nhìn thấy con vật kỳ lạ như thế đang hành động
sống chết trái ngược ư? Không, không thể hiểu như thế được, vì đây là những
biểu tượng nói lên tư tưởng chứ không phải là những ảo giác. Con Chiên tượng
trưng cho Đức Giê-su, Đấng đã chết theo nghĩa thực, tuy nhiên lại đang sống.
Bảy sừng tượng trưng cho một điều, một điều rõ ràng đối với độc giả của Gio-an
vì họ quen thuộc với Cựu Ước nên hiểu được ý nghĩa của số "bảy" và
"sừng." Bảy mắt tượng trưng cho một điều khác; nhưng trong trường hợp
này vì ý nghĩa kém rõ ràng nên Gio-an đã giải thích biểu tượng ấy cho độc giả
hiểu (c. 6). Cứ như thế, chúng ta sẽ gặp từng biểu tượng và chúng ta không nên
hiểu theo ý nghĩa nào khác ngoài ý nghĩa biểu tượng.
Biểu tượng
Khi
Gio-an nói rằng ngài đã thấy "có ai giống như Con Người" nói những
lời về bảy Hội Thánh được ghi lại trong chương 2-3 trong khi "từ miệng
Người phóng ra một thanh gươm hai lưỡi sắc bén" (1:16), thì chúng ta có
nên đặt câu hỏi: Người có phải lấy thanh gươm ra khỏi miệng trước khi nói hay
là cứ nói trong khi miệng còn ngậm thanh gươm (nếu có thể làm được như vậy)?
Rồi cũng "có ai giống như Con Người" nắm bảy ngôi sao trong tay hữu
(1:16), mà tay hữu đó lại đặt trên Gio-an (1:17). Vậy Người đã phải đặt những
ngôi sao xuống chứ? Và điều gì đã đột ngột xảy ra cho Người sau khi nói xong?
Đọc
Khải Huyền theo cách đó thì thật là điên khùng. Thanh gươm hai lưỡi tượng trưng
cho lời Chúa là một hình ảnh quen thuộc trong Cựu Ước. Biểu tượng bảy ngôi sao
đã được giải thích trong mạch văn. Cho nên một khi biểu tượng đã nói hết ý
nghĩa rồi thì thường không còn tác dụng gì nữa.
Ý nghĩa được hiểu
Tuy
nhiên đôi khi chúng ta thấy có những giải thích sách Khải Huyền theo khuynh
hướng của những người không cần biết rằng Gio-an muốn tất cả những hình ảnh này
chỉ là biểu tượng, cho nên họ mới cố vẽ bức họa con chiên có bảy sừng và bảy
mắt, hoặc bức họa "một Con Thú từ dưới biển đi lên; nó có mười sừng và bảy
đầu; trên mười sừng đều có vương miện, và trên các đầu có danh hiệu xúc phạm đến
Thiên Chúa" (13:1), hoặc ráng giải thích làm thế nào cuốn sách niêm bảy ấn
lại mở được từng ấn một mà lại không bẻ gẫy tất cả một lúc (chương 5)... Đọc
sách Khải Huyền theo lối này quả thực không đúng chút nào.
Như
chúng ta đã nói, hầu hết những biểu tượng Gio-an dùng đều lấy từ Cựu Ước. Tuy
nhiên chúng ta sẽ hiểu hơn nếu đem so sánh sách Khải Huyền của ngài với những
sách khải huyền Do-thái khác để thấy họ giống nhau trong những phương pháp phải
theo. Các ngôi sao trong 1:16 là các thiên thần, còn trong 9:2 là một thiên
thần sa ngã. Cũng vậy, trong Sách Hê-nóc các ngôi sao tượng trưng cho
các thiên thần sa ngã. Văn chương khải huyền Do-thái mô tả kẻ thù của Do-thái
giáo bằng hình ảnh những con thú dữ tợn thế nào, thì Gio-an cũng nói về kẻ thù
của Giáo Hội như vậy, cả hai đều mượn những hình ảnh lấy từ chương 7 sách ngôn
sứ Đa-ni-en. Sách Ét-ra thứ bốn hình dung Đế quốc Rô-ma như một con
phượng hoàng có mười hai cánh và ba đầu. Gio-an dùng biểu tượng khác.
Vậy
biểu tượng là cốt yếu của văn loại khải huyền. Cũng như Gio-an, các sách khải
huyền Do-thái khác đều lập đi lập lại việc sử dụng biểu tượng. Sách Hê-nóc
viết: "Tôi tiến đến gần một ngôi nhà vĩ đại, tường nhà tựa như cẩn
pha lê... mái nhà giống như giải ngân hà... nó bừng cháy như lửa
và lạnh lẽo tựa tuyết băng." Rồi trong một đoạn khác, hoàn toàn
giống như Gio-an: "Tôi đã thấy một vị bô lão, đầu tựa như len
trắng; cùng với ngài là một nhân vật trông như laø người, nhưng hình
dáng lại như một thiên sứ"...
Những con số biểu tượng
Tính cách biểu tượng của những con số là điều rất
hiển nhiên trong các sách khải huyền Do-thái cũng như trong sách của Gio-an.
Con số hay dùng nhất là số bảy (bảy thiên sứ, bảy thần khí, bảy ngọn núi...
trong sách Hê-nóc, Chứng thư của Mười hai Tổ phuï, và Sách
Ét-ra thứ bốn); số bảy mươi, cấp số nhân của số bảy, cũng rất thường dùng
(chương thứ chín sách Đa-ni-en cho con số này một ý nghĩa huyền nhiệm đặc
biệt). Vậy bất cứ ai đọc sách Khải Huyền cũng đều biết số bảy được sử dụng
trong đó. Có bảy thư, bảy ấn, bảy chén, bảy kèn, ai cũng thấy như vậy. Nếu đọc
kỹ hơn chúng ta sẽ thấy có bảy dấu chỉ (chương 12-21), bảy chúc lành trong toàn
cuốn sách, và tên Chúa Ki-tô xuất hiện bảy lần. Chúng ta nên nhớ số bảy là số
tròn đầy đối với Do-thái, nhưng trong Gio-an số bày lại bị tách làm hai nhóm,
nhóm bốn và nhóm ba (thí dụ bốn ấn được mở trước, rồi tới ba ấn kia; bốn kèn
thổi trước, rồi ba kèn sau mới thổi, v.v...). Nếu nhân hai số này với nhau, ta
có số mười hai là một con số khác biểu tượng cho sự tròn đầy. Rồi tới con số
mười hai là con số đẹp ứng với mười hai chi tộc Ít-ra-en.
Các sách khải huyền Do-thái sử dụng số mười hai để
chỉ về các thời đại của thế giới (Sách Ét-ra thứ bốn), các thời kỳ thử thách
(Hê-nóc). Còn Gio-an sử dụng con số ấy để đặc biệt nói đến tình trạng trên trời
của Giáo Hội. Hai mươi bốn Kỳ Mục xuất hiện trong sách Khải Huyền tượng trưng
cho những người được tuyển chọn thuộc cả Cựu Ước lẫn Tân Ước. Thành
Giê-ru-sa-lem trên trời có mười hai cửa, được chia làm bốn nhóm ba cửa (21:12
tt), và mười hai nền móng. Kích thước đo đạc (câu 15 tt) là những cấp số nhân
của số mười hai. Cũng như Gio-an, các sách khải huyền Do-thái khi thì sử dụng
số ba, khi thì số bốn.
Ý nghĩa của những con số
Số bảy và mười hai tượng trưng cho sự đầy đủ và
trọn vẹn, còn những khoảng thời gian hoặc nơi chốn bất định thì được biểu tượng
cách khác. Con số biểu tượng "một ngàn năm" như trong Kh 20:2 là một
thí dụ, và thường gặp trong những sách khải huyền Do-thái. Một biểu tượng khác
được dùng trong 11:9, 12:14 (cũng xem Đn 7:25, 9:27) là nửa số bảy, hoặc
"nửa thời," "bốn mươi hai tháng" (11:2), nghĩa là "một
ngàn hai trăm sáu mươi ngày" (c. 3) hay ba năm rưỡi.
Nếu số bảy là con số toàn bích, thì số sáu lại là
con số bất toàn, và do đó con số của Con Thú trong 13:18 tượng trưng cho sự bất
toàn lớn lao nhất vì là ba lần sáu.
Vì những sách khải huyền Do-thái không thuộc về
Kinh Thánh là tác phẩm của những người không được linh hứng và cũng không có
đặc tính siêu việt như của Gio-an, nên chúng ta chỉ coi những sách ấy thuộc
truyền thống văn chương chung mà thôi. Tất cả đều có nhiều điểm giống nhau,
biết sách này có thể giúp hiểu sách khác. Theo cách này, những sách khải huyền
Do-thái sẽ giúp chúng ta rất nhiều để hiểu sách Khải Huyền của Gio-an. Nếu
chúng ta đã nhận là Gio-an sử dụng những biểu tượng mang ý nghĩa mà độc giả đã
hiểu saün từ trước, ít nhất là trong nhiều trường hợp, thì quả thực chúng ta đã
đi được nửa đường hiểu biết sách Khải Huyền rồi.
"... trên đôi cánh chim bằng"
Tuy nhiên, cũng cần xét một số tư tưởng chủ yếu
được diễn tả bằng biểu tượng mà Gio-an đã mượn từ Kinh Thánh Cựu Ước.
Trong Xuất Hành 19:4, Đức Chúa nói với Ít-ra-en:
"Các ngươi thấy Ta đã xử với Ai-cập thế nào, và đã mang các ngươi như trên
cánh chim bằng mà đem đến với Ta." Cùng tư tưởng ấy được lập lại trong Đệ
nhị luật 32:11. Vậy Gio-an 12:14 cũng lấy hình ảnh đó để nói lên sự che chở của
Thiên Chúa trên It-ra-en Mới là Giáo Hội. Gio-an mô tả Giáo Hội này đã được
mang vào sa mạc như Ít-ra-en khi xưa để được bảo vệ khỏi tay kẻ thù. Cũng thế,
trong 21:3, khi Gio-an nói: "Đây là nhà tạm Thiên Chúa ở cùng nhân
loại," thì đó có nghĩa là nhà tạm mới trong Giáo Hội vinh hiển, tức Giáo
Hội lập lại và hoàn tất nhà tạm cũ của Thiên Chúa ở với Ít-ra-en được nhắc đến
trong Đệ nhị luật 26:11 t. Nhưng chỗ đúng nhất trong Cựu Ước mà Gio-an lấy ý
cho hình ảnh này là sách ngôn sứ Ê-dê-ki-en, sách được Gio-an sử dụng nhiều
nhất (37:27 t): "Nhà của Ta sẽ ở giữa chúng; Ta sẽ là Thiên Chúa của chúng
và chúng sẽ là dân của Ta. Bấy giờ, các dân tộc sẽ nhận biết chính Ta là Đức
Chúa, Đấng thánh hóa Ít-ra-en, khi Ta đặt thánh điện của Ta ở giữa chúng cho
đến muôn đời." Mối bận tâm nhất của Gio-an là số phận của Giáo Hội. Đó là
Ít-ra-en Mới, mà như Thiên Chúa đã thề sẽ bảo vệ dân Người ngày xưa thế nào thì
bây giờ Người cũng hứa bảo vệ những kẻ được Đức Ki-tô cứu chuộc như vậy. Như
Ê-dê-ki-en đã tiên báo một giao ước mới giữa Thiên Chúa và nhân loại về việc
Người sẽ ở cùng dân Người cho đến muôn đời, cũng thế, Gio-an thấy giao ước này
được thể hiện hoàn toàn qua việc Thiên Chúa ở cùng Giáo Hội. Gio-an nói: với
những lời hứa như thế, thì dù bất cứ quyền lực nào của loài người, bất cứ bách
hại nào có tàn ác, cũng không thể làm chúng ta thất vọng. Giáo Hội sẽ tồn tại,
không những tồn tại mà còn chiến thắng nữa. Chiến thắng của Chúa Ki-tô được bảo
đảm.
Ngôn sứ Gio-an
Rõ ràng Gio-an đứng trong hàng ngũ các ngôn sứ qua
nhiều ám chỉ và trích dẫn ngài đã sử dụng. "Có ai giống như Con
Người" trong thị kiến mở đầu (1:13) được mô tả theo ngôn ngữ của những thị
kiến trong Đa-ni-en 10:5 tt và Ê-dê-ki-en 1:26 tt. Trong Kh 10:11, sau khi nghe
được những lời đã nói với ngôn sứ Giê-rê-mi-a (1:10) khi vị này khởi đầu sứ vụ
ngôn sứ, Gio-an đã nuốt đi cuốn sách giống như Ê-dê-ki-en đã làm (2:8 tt). Như
chúng ta đã thấy, sách Đa-ni-en và Ê-dê-ki-en vang vọng trong suốt sách Khải Huyền.
Việc sống lại của hai chứng nhân trong 11:11 được mô tả theo từ ngữ của
Ê-dê-ki-en chương 37, và 11:4 tt lập lại những gì trong Da-ca-ri-a 4:11-14 (lưu
ý: câu 10b-14 được đặt ngay sau câu 6a). Còn rất nhiều những ám chỉ khác về
những sách ngôn sứ trên, cho nên nếu chỉ nhấn mạnh đến một ám chỉ nào đó thì
quả thực là sai.
Ba-by-lon
Một điều đáng lưu ý nhất của sách Khải Huyền là
sách đặc biệt nói đến hình ảnh Ba-by-lon. Trong Khải Huyền, Ba-by-lon tượng
trưng cho đế quốc ngoại giáo Rô-ma, như trong 1 Phê-rô 5:13 rõ ràng Ba-by-lon
có nghĩa là Rô-ma. Đây là một liên tưởng hoàn toàn của riêng Do-thái, bởi vì từ
ngày bị phát lưu tại Ba-by-lon khiến cho Ít-ra-en tan nát và hoàn toàn biến mất
trên trường chính trị, Ba-by-lon đã trở thành một dấu chỉ và biểu tượng kẻ thù
của dân Chúa. Khi tiên báo chắc chắn về chiến thắng sau hết của Giáo Hội trên
quyền lực bạo tàn của đế quốc ngoại giáo, bài ca than khóc Ba-by-lon trong
chương 17 đã trích dẫn những sấm ngôn của ngôn sứ I-sai-a và Ê-dê-ki-en.
Thực ra không có sách Cựu Ước nào mà Gio-an không
sử dụng, nhưng ngài đã không sử dụng chỉ vì những sách ấy quen thuộc với mình.
Gio-an nhận ra lời Chúa trong Cựu Ước chứa đựng những chân lý ngàn đời. Do đó
khi sử dụng và áp dụng Cựu Ước cho hoàn cảnh Giáo Hội, ngài đã chứng tỏ mình
xác tín về sự duy nhất của hành động Thiên Chúa qua lịch sử. Vậy những gì trước
kia Thiên Chúa đã làm cho dân Người thì Người cũng sẽ làm lại như vậy cho Giáo
Hội, vì đó là bản chất của Người.
Đồng thời Gio-an cũng biết có sự khác biệt lớn lao
đã xảy ra trong thế giới sau khi Chúa Giê-su Ki-tô đã sống, chết và sống lại.
Cựu Ước đã được thể hiện trọn vẹn nơi Đức Ki-tô. Do đó, chúng ta thấy những
thay đổi và thích ứng đã được Gio-an đưa vào hình ảnh Cựu Ước; những thay đổi
và thích ứng ấy được ghi lại theo mạc khải mới và đầy đủ hơn của Đức Ki-tô.
Gio-an nói: có một dòng liên hệ trực tiếp nối liền các thời đại Cựu Ước với Tân
Ước, nhưng sự liên hệ ấy đồng thời cũng là một tiến bộ, một khai triển, hoặc
một điều gì tuyệt diệu hơn.
"... như thể tiếng kèn"
Chúng ta hãy lấy một thí dụ để hiểu điều này nghĩa
là gì. Trong chương 4, Gio-an kể lại thị kiến trên trời, rõ ràng được tả lại
theo ngôn ngữ của chương thứ nhất sách Ê-dê-ki-en. Có một cái ngai và "có
một Đấng ngự trên ngai" (c. 2), giống y như trong Ê-dê-ki-en 1:26
"trên cái gì tựa như cái ngai đó, có cái trông như hình dáng một người ở
trên ngai" (lưu ý là cả Ê-dê-ki-en cũng sử dụng từ "tựa như").
Vậy tiếng nói "như thể tiếng kèn" (c. 1) khiến chúng ta liên tưởng
đến Xuất Hành 19:16 kể lại Thiên Chúa hiện ra trên núi Si-nai, và dĩ nhiên ở
đây, trường hợp của Khải Huyền, đó cũng là việc Thiên Chúa hiển linh. Ngai đó
trông "giống như ngọc thạch và xích não... giống như bích ngọc" (c.
3), còn trong Ê-dê-ki-en 1:26 thì "giống như đá lam ngọc." "Ánh
chớp, tiếng sấm tiếng sét...bảy ngọn đuốc" (c. 5) thì từa tựa như Xuất
Hành 19:16 và Ê-dê-ki-en 1:27. "Cầu vồng" (c. 3) cũng gặp thấy trong
Ê-dê-ki-en 1:28: "Như hình cầu vồng xuất hiện trên mây một ngày mưa thế
nào, thì vinh quang Đức Chúa cũng như vậy." Và chắc chắn Gio-an cũng muốn
diễn tả cùng một điều như vậy.
Mỗi sinh vật có bốn mặt
Có những song song khác giúp chúng ta thấy rõ hơn.
Gio-an kể: "Chung quanh ngai có bốn Con Vật, đằng trước và đằng sau đầy
những mắt. Con Vật thứ nhất giống như sư tử, Con Vật thứ hai giống như bò tơ,
Con Vật thứ ba có mặt như mặt người, Con Vật thứ bốn giống như đại bàng đang
bay. Bốn Con Vật ấy, mỗi con có sáu cánh, chung quanh và bên trong đầy những
mắt" (4:6-8). Điều này rõ ràng song song với Ê-dê-ki-en 1:4-10: "...
có cái gì tựa như bốn sinh vật. Đây là dáng vẻ của chúng: chúng trông giống như
người ta. Mỗi sinh vật có bốn mặt và bốn cánh... Còn bộ mặt của chúng, thì
chúng đều có mặt người đằng trước, cả bốn đều có mặt sư tử bên phải, cả bốn đều
có mặt bò rừng bên trái, cả bốn đều có mặt phượng hoàng đằng sau. Những
"mắt" được nói đến trong Gio-an thì trong Ê-dê-ki-en lại nằm chung
quanh những "vành bánh xe" đi theo bốn sinh vật (1:18). Cả Ê-dê-ki-en
lẫn Gio-an đều nói đến "biển trong vắt tựa pha lê" (Kh 4:6) nâng đỡ
cái ngai (Ed 1:22,26).
Như thế rõ ràng Gio-an đã chủ ý diễn tả thị kiến
của ngài dựa theo thị kiến của Ê-dê-ki-en, mặc dù nhiều khi ngài đã tóm kết lại
hoặc đơn giản đi nhưng vẫn giữ gần giống như vậy. Tuy nhiên cũng có một ít thay
đổi đáng kể.
Thị kiến của Ê-dê-ki-en khởi sự với vinh quang
Thiên Chúa ngự trong Đền thánh Giê-ru-sa-lem, dưới bóng đôi cánh Kê-ru-bim,
trên ngai đặt Hòm Bia Chứng Ước. Còn Gio-an khi chủ ý móc nối thị kiến của ngài
với Cựu Ước, ngài muốn nói với chúng ta là đã có sự thay đổi lớn lao rồi.
Thị kiến
Trong thị kiến của Gio-an chứ không phải trong thị
kiến của Ê-dê-ki-en, có hai mươi bốn vị Kỳ Mục đầu đội triều thiên, đứng chung
quanh ngai (4:10). Những vị này, theo nghĩa thông thường của sách Khải Huyền,
tượng trưng cho các Thánh thuộc Cựu và Tân Ước - số biểu tượng mười hai (mười
hai chi tộc, mười hai Tông Đồ...) được nhân đôi. Đây là những vị "đã chiến
thắng," như đã nhắc đến trong những chương đầu của sách Khải Huyền. Những
vị này tạo nên sự khác biệt đáng kể giữa Gio-an và Ê-dê-ki-en. Ê-dê-ki-en viết
trong sự mong đợi, còn Gio-an viết trong sự hoàn tất.
Một khác biệt lớn nữa gặp thấy khi thị kiến của
Gio-an tiếp tục ở chương năm. "Bấy giờ tôi thấy đứng ở giữa ngai và bốn
Con Vật, giữa các vị Kỳ Mục, một Con Chiên, trông như thể đã bị giết; Chiên đó
có bảy sừng và bảy mắt, tức là bảy thần khí của Thiên Chúa đã được sai đi khắp
mặt đất" (5:6). Đây là sự khác biệt lớn nhất giữa sứ điệp của Ê-dê-ki-en
và sứ điệp của Gio-an, đó là Gio-an đã tỏ bày sứ điệp ấy nhân danh Đức Ki-tô
vinh hiển trên trời.
Sách Hê-nóc
Con Chiên đã được ám chỉ về Đấng Mê-si-a, tức
"Sư Tử xuất thân từ chi tộc Giu-đa, Chồi Non của Đa-vít" (5:5). Hình
ảnh Con Chiên đã được lấy từ một số nguồn Cựu Ước. Con chiên trông như thể
đã bị giết là hình ảnh mượn từ lời tiên tri về Đấng Cứu Thế của ngôn sứ
I-sai-a 53:7, "như chiên bị đem đi làm thịt." Nhưng con chiên này
không chỉ là con chiên đã bị giết, mà còn là con chiên chiến thắng, con chiên
đang đứng, có sừng, tức là có quyền lực. Hình ảnh này lấy từ Sách
Hê-nóc là sách đã mô tả Đấng Mê-si-a trông như một con chiên có sừng đang
dẫn dắt dân Chúa tới chiến thắng. Trong cả Sách Hê-nóc lẫn Gio-an, từ Hy-lạp
"chiên" giống nhau và khác với từ "chiên" trong sách ngôn
sứ I-sai-a. Như thế là Gio-an đã tổng hợp hai ý tưởng trong Cựu Ước lại để diễn
tả những khổ đau của Đấng Mê-si-a và khải hoàn của Người. Hình ảnh bảy mắt của
Con Chiên được mượn từ sách ngôn sứ Da-ca-ri-a là sách Gio-an đã sử dụng rất
nhiều hình ảnh từ đó: "Bảy ngọn đèn kia là bảy con mắt của Đức Chúa, đang
rảo khắp cõi đất" (4:10). Gio-an còn đặc biệt giải thích những con mắt ấy
là "bảy thần khí của Thiên Chúa đã được sai đi khắp mặt đất." Bởi vì
hiện giờ cũng như trong thời Cựu Ước, Thiên Chúa không chỉ cai trị và xem xét
toàn thể trái đất, nhưng Người còn hành động cách thiêng liêng hơn khi Người
sai Thần Khí của Chúa Cha và Chúa Con đến.
Việc Gio-an đặt Con Chiên "đứng ở giữa ngai và
bốn Con Vật, giữa các vị Kỳ Mục" là để cho thấy Con Chiên tuy thuộc về
trời, nhưng Người lại nối liền giữa Thiên Chúa và nhân loại. Chính sự chết và
khải hoàn của Chúa Giê-su Ki-tô đã cho thấy khác biệt xa vời giữa Cựu Ước và
Tân Ước.
Muốn đọc Gio-an, người ta phải đọc liên tục, nhất
quán cho đến hết. Giáo huấn tuyệt vời của Khải Huyền là giáo lý đức tin và an
ủi. Đó chính là lời tiên tri đích thực vậy.
Những truyền thống
Chúng ta chỉ có thể đọc Gio-an nếu lưu ý những sự
kiện sau đây. Trước hết như chúng ta đã thấy, tác phẩm của ngài thấm nhuần
những ám chỉ văn chương trong Cựu Ước, và Cựu Ước phải luôn luôn là khởi điểm
khi bắt đầu giải thích sách Khải Huyền. Thứ hai, ngài viết trong một truyền
thống khải huyền là truyền thống sử dụng những chủ đề quy ước qua những biểu
tượng đã được cấu tạo và thừa nhận. Không nhìn nhận sự kiện này và lịch sử lúc
Gio-an viết sách thì cũng giống như muốn giải thích Hiến pháp Hoa-kỳ mà không
biết gì về lịch sử Hoa-kỳ. Và cuối cùng, chúng ta phải luôn luôn nhận ra những
khác biệt Gio-an đã đưa vào trong những tư tưởng Cựu Ước và truyền thống trên,
bởi vì những khác biệt ấy chính là cốt yếu của sứ điệp ngài muốn nói đến. Cũng
như các sách Tân Ước, sách Khải Huyền không thể hiểu được nếu tách rời khỏi mạc
khải của Chúa Ki-tô trong Giáo Hội.
Nếu nắm vững những sự kiện trên, chúng ta sẽ không
sa vào những tin tưởng kỳ cục và bừa bãi của nhiều người đã cố tạo ra khi đọc
sách Khải Huyền. Chúng ta sẽ tránh được nguy hiểm chính, đó là hiểu những hình
ảnh Gio-an sử dụng theo nghĩa đen. Chúa Giê-su Ki-tô được diễn tả khi thì như
Con Chiên, khi thì như Chàng Rể, khi thì như Con Người, tất cả những hình ảnh
này đều có trong Cựu Ước. Nhưng đó là những biểu tượng mà thôi. Đức Ki-tô không
phải thực sự là một Con Chiên, cũng thế, con số "một trăm bốn mươi bốn
ngàn" trong 7:4 không phải là con số thực sự, nhưng chỉ là con số biểu
tượng. Tất cả đều ám chỉ về một thực tại, thí dụ Con Chiên tượng trưng cho một
thực tại, nên chúng ta đừng hiểu thực tại là chính biểu tượng ấy, mà phải hiểu
thực tại là những gì biểu tượng ấy nói lên.
Một nguy hiểm chủ yếu nữa chúng ta sẽ tránh được
nếu giữ những quy tắc trên, đó là muốn làm thỏa mãn tính tò mò của dân chúng
bằng cách biến Khải Huyền thành một cuốn sách mộng mị về tương lai, đoán trúng
về những biến cố lịch sử. Sách Khải Huyền là một lời tiên tri, nhưng việc tiên
đoán hiểu theo ý nghĩa thiêng liêng chứ không phải về những điều vật chất.
Trong những bài kế tiếp, chúng tôi sẽ ứng dụng
những nguyên tắc này và sẽ trình bày một tóm lược về giáo huấn của sách Khải
Huyền. Để tiện lợi, chúng tôi xin chia thành ba phần, giống như các nhà chú
giải Kinh Thánh thường làm. Xin nhớ là sự phân chia này chỉ là vì tiện dụng mà
thôi. Tuy nhiên đối với sách của thánh Gio-an cũng như đối với văn loại khải
huyền ngài đã sử dụng, việc phân chia không phải là dễ dàng. Chúng ta sẽ thấy
toàn bộ của sách Khải Huyền lại ở trong từng mỗi phần của nó. Do đó việc phân
chia chỉ là cách nhấn mạnh đến những điểm nào đó thôi.