Những Hành trình trước đã giúp bạn đi vào những đặc nét
của Tin Mừng Mác-cô. Tuy nhiên, những
điều viết trong Mác-cô không đơn thuần là những biến cố biệt lập, nhưng là
những gì thiết yếu tạo thành toàn bộ sứ điệp Kinh Thánh. Chủ đề Người Tôi tớ chịu đau khổ có một giá
trị riêng của nó. Đúng như vậy, nhưng
bạn cũng phải nhận ra sứ điệp của Mác-cô trong văn mạch của toàn bộ sứ điệp
Kinh Thánh.
Trong một
số Hành trình, chúng ta đã trích dẫn Kinh Thánh Do-thái (Cựu Ước). Đôi khi chúng ta cũng so sánh Tin Mừng
Mác-cô với Mát-thêu hoặc Phao-lô. Hành
trình này cho bạn cơ hội tiến thêm một bước nữa trong việc học hỏi Kinh Thánh,
bằng cách so sánh Mác-cô với những tác giả Tin Mừng Nhất lãm khác, tức là với
Mát-thêu và Lu-ca.
Từ nhất
lãm (synoptic) là từ Hy-lạp, cho thấy nếu đem ba sách Tin Mừng đặt cạnh
nhau thì tổng quát người ta sẽ nhận thấy chúng có cùng chất liệu với cùng một (nhất,
syn) cái nhìn (lãm, optic) giống nhau. Từ vấn đề nhất lãm ám chỉ về nỗi khó khăn để hiểu được
quan hệ giữa Mát-thêu, Lu-ca và Mác-cô (các tác giả Tin Mừng Nhất lãm) cũng như
những khác biệt riêng rẽ của từng vị.
Những bài tập trong Hành trình này giới thiệu một số tương đồng và dị
biệt giữa các sách Tin Mừng Nhất lãm để giúp chúng ta hiểu sâu xa hơn trong
việc học hỏi Kinh Thánh. Khi học hỏi
Tin Mừng Mác-cô, bạn đã ý thức được một số khác biệt giữa các tác giả nhất lãm:
·
Mác-cô không có trình thuật về
Giáng sinh của Chúa Giê-su (Những trình thuật về thời Thơ ấu), còn Mát-thêu và
Lu-ca thì có những trình thuật về việc Chúa Giê-su sinh ra.
·
Trình thuật về Phục sinh trong
Mác-cô ngắn gọn và kết thúc bất ngờ.
Còn Mát-thêu và Lu-ca lại có những cuộc hiện ra của Chúa Giê-su Phục
sinh với nhiều người.
Những dị biệt giữa các tác giả nhất lãm cho thấy là họ
viết sách Tin Mừng cho những cộng đồng đặc biệt có những nhu cầu và những vấn
đề riêng biệt. Rõ ràng Mác-cô cần phải
trả lời cho những vấn đề của một cộng đoàn đang bị bách hại và đau khổ. Ngài trả lời những câu hỏi của họ bằng cách
trình bày Đức Giê-su như Con Thiên Chúa chịu đau khổ. Mát-thêu và Lu-ca cũng cho chúng ta thấy Đức Giê-su là Chúa,
nhưng một Đức Chúa có ý nghĩa đối với những cộng đoàn đặc biệt.
Mặc dù mỗi mặc khải được trình bày phù hợp với cộng đoàn
riêng biệt của tác giả, nhưng đó vẫn là một mặc khải chung cho mọi độc
giả. Như thế, những điều viết trong Tin
Mừng Nhất lãm nói với một cộng đoàn, đồng thời cũng nói với hết thảy
các cộng đoàn nữa. Sách Tin Mừng Mác-cô
phù hợp với cộng đoàn của ngài và cũng phù hợp với các cộng đoàn của chúng ta.
Bài tập sau đây cho bạn cơ hội so sánh giữa các tác giả
nhất lãm. Trước hết, bài tập xem ra rời
rạc và lẫn lộn. Tuy nhiên nếu chịu khó
cẩn thận làm bài tập, bạn sẽ hiểu được rõ hơn những điểm giống nhau và khác
nhau giữa các trình thuật Tin Mừng.
Bài tập này gồm có hai trình thuật: chữa lành bà mẹ vợ ông Phê-rô và ông Gio-an
rao giảng thống hối. Các trình thuật
này được đặt song song với trình thuật của Mác-cô. Trình thuật Mác-cô để ở giữa trang, Mát-thêu bên trái và Lu-ca
bên phải.
Bạn hãy
đọc trình thuật Mác-cô trước, sau đó là Mát-thêu và Lu-ca. Cố gắng đưa mắt nhìn cả trình thuật của
Mát-thêu lẫn Lu-ca để nhận ra những điểm giống với trình thuật Mác-cô. Dùng bút và thước kẻ, đánh dấu cả ba bản văn
như sau:
a)
Nếu cùng một từ trong Mác-cô
cũng gặp thấy trong Mát-thêu hoặc trong Lu-ca, thì bạn hãy gạch dưới từ
ấy một gạch.
b)
Nếu cùng một từ trong Mác-cô
cũng gặp thấy trong Mát-thêu và trong Lu-ca, thì bạn hãy gạch dưới từ ấy
hai gạch. (Vì lý do kỹ thuật, chúng tôi
thay thế hai gạch dưới bằng cách đánh máy những từ ấy ở dạng nghiêng và đậm)
c)
Nếu cùng một từ gặp thấy trong
Mát-thêu và trong Lu-ca, nhưng không thấy trong Mác-cô, thì bạn
để từ ấy trong ngoặc đơn.
Mát-thêu 8:14-15 Mác-cô
1:29-31 Lu-ca 4:38-39
Vừa
ra khỏi hội đường Đức Giê-su rời khỏi
hội
đường
Ca-phác-na-um, đường,
Đức Giê-su đến Đức
Giê-su đi đến đi vào
nhà ông Phê-rô, nhà
hai ông Si-mon và nhà ông Si-mon.
An-rê. Có ông Gia-cô-bê
và
ông Gio-an cùng đi theo.
thấy bà mẹ vợ ông Phê-rô Lúc
đó, bà mẹ vợ ông Si- Lúc ấy, bà mẹ vợ ông
Si-mon
đang nằm liệt và mon
đang lên cơn sốt, đang bị
sốt nặng.
lên cơn sốt. nằm
trên giường.
Lập
tức họ nói cho Người Họ xin Người chữa bà.
biết
tình trạng của bà.
Người đụng vào tay bà, Người
lại gần, cầm lấy tay Đức Giê-su
cúi xuống gần bà,
bà mà đỡ dậy; ra lệnh cho cơn sốt,
cơn sốt dứt ngay cơn
sốt dứt ngay và cơn sốt rời khỏi bà:
và bà chỗi dậy tức
khắc bà chỗi dậy
phục vụ và
bà phục vụ phục
vụ
Người. các
ngài. các ngài.
Mát-thêu 3:7-10 Lu-ca 3:7-9
Thấy nhiều người thuộc phái Pha-ri-sêu Đám đông lũ lượt kéo đến xin ông Gio-an
và phái Xa-đốc đến chịu phép rửa, làm phép rửa;
ông nói với họ rằng: ông
nói với họ:
“Nòi rắn độc kia, ai đã chỉ cho các anh “Nòi rắn độc kia, ai đã chỉ cho các anh
cách trốn cơn thịnh nộ của Thiên Chúa cách trốn cơn thịnh nộ của Thiên Chúa
sắp giáng xuống vậy?
Các anh hãy sinh sắp giáng
xuống vậy? Các anh hãy sinh
hoa quả xứng với lòng sám hối. Và đừng hoa quả xứng
với lòng sám hối. Và đừng
tưởng có thể nghĩ bụng rằng: “Chúng ta vội nghĩ
bụng rằng: “Chúng ta đã có
đã có tổ phụ Áp-ra-ham.”
Vì, tôi nói cho tổ phụ
Áp-ra-ham”; vì, tôi nói cho các
các anh hay, Thiên Chúa có thể làm cho anh hay, Thiên Chúa có thể làm cho
những hòn đá này trở nên con cháu ông những hòn đá này trở nên con cháu ông
Áp-ra-ham. Cái
rìu đã đặt sát gốc cây: Áp-ra-ham. Cái rìu đã đặt sát gốc cây:
bất cứ cây nào không sinh quả tốt đều bất cứ cây nào không sinh quả tốt đều
bị chặt đi và quăng vào lửa...” bị chặt đi và quăng vào lửa.”
[Để có thể
dễ dàng hơn cho bạn trả lời, sau đây là bản văn bằng Anh ngữ:
Matthew 8:14-15 Mark 1:29-31 Luke 4:38-39
Immediately upon Leaving the leaving the synagogue,
he
Jesus entered synagogue,
he entered the
house
Peter’s house, entered
the house of Simon.
of
Simon and
Andrew with James
and John.
and found Peter’s Simon’s
mother- Simon’s mother-
mother-in-law in-law
lay ill in-law was in
the
in bed with with
a fever, grip of a
severe
a fever. and
the first fever, and
they
thing
they did interceded
with
was
to tell him him
for her.
about her.
He took her by He
went over to He stood over
her
the hand, and her
and grasped and addressed
the fever left her
hand and himself
to the
her. helped
her up, fever,
and it
and
the fever left
her.
left
her.
She got up at once She immediately She got up
and began to wait began
to wait immediately
and
on him. on
them. waited on
them.
Hai đoạn sau đây chỉ có trong Mát-thêu và Lu-ca, chứ
không có trong Mác-cô.
Matthew 3:7-10 Luke 3:7-9
When he saw that many of He
would say to the
the Pharisees and Sadducees crowds that came out
were stepping forward for to be baptized by him:
this bath, he said to them:
“You brood of vipers! “You
brood of vipers!
Who told you to flee Who
told you to flee
from the wrath to come? from
the wrath to come?
Give some evidence that Give
some evidence that
you mean to reform. you
mean to reform.
Do not pride yourselves Do
not begin by saying
on the claim, ‘Abraham to
yourselves, ‘Abraham
is our father.’ I
tell you, is our father.’ I tell you,
God can raise up God
can raise up
children to Abraham children
to Abraham
from these very stones. from these stones.
Even now the ax is Even
now the ax is
laid to the root of the laid
to the root of the
tree. Every tree
that is tree. Every tree that is
not fruitful will be cut down not fruitful will be cut down
and thrown into the fire...” and thrown into the fire.”
Sau đây là bản trả lời mẫu cho trình thuật Chữa lành bà
mẹ vợ ông Phê-rô. Vì không thể đánh máy
hai gạch dưới và để thay thế cho hai gạch dưới, chúng tôi đánh máy từ ấy
ở dạng chữ nghiêng đậm.
Matthew 8:14-15 Mark 1:29-31 Luke 4:38-39
Immediately upon Leaving the leaving the synagogue, he
Jesus entered synagogue, he entered the house
Peter’s house, entered the house of Simon.
of
Simon and
Andrew with James
and John.
and found Peter’s Simon’s
mother- Simon’s
mother-
mother-in-law in-law
lay ill in-law
was in the
in bed with with
a fever, grip
of a severe
a fever. and the first fever, and
they
thing
they did interceded
with
was
to tell him him
for her.
about her.
He took her
by He went
over to He
stood over her
the hand, and her
and grasped and addressed
the fever left her hand and himself to the
her. helped her up, fever,
and it
and
the fever left
her.
left
her.
She (got up)
at once She immediately She (got up)
and began to wait began
to wait immediately
and
on him. on them. waited on
them.
Sau đây là bản trả lời mẫu cho trình thuật Ông Gio-an rao
giảng thống hối .
Matthew 3:7-10 Luke 3:7-9
When he saw that many of He
would say to the
the Pharisees and Sadducees crowds that came out
were stepping forward for to be baptized by him:
this bath, he said to them:
(“You brood
of vipers! (“You
brood of vipers!
Who told you to flee Who
told you to flee
from the wrath to come? from
the wrath to come?
Give some evidence that Give
some evidence that
you mean to reform. you
mean to reform.
Do not) pride (yourselves) Do not) begin by saying
on the claim, (‘Abraham to (yourselves, ‘Abraham
is our father.’ I
tell you, is our father.’ I tell you,
God can raise up God
can raise up
children to Abraham children to Abraham
from these) very (stones. from these stones.
Even now the ax is Even
now the ax is
laid to the root of the laid
to the root of the
tree. Every tree
that is tree. Every tree that is
not fruitful will be cut down not fruitful will be cut down
and thrown into the fire...”) and thrown into the fire.”)]
Bạn hãy lưu ý là cả ba trình thuật trong bài tập “Chữa
lành bà mẹ vợ ông Phê-rô” đều có từ nhà (house). Nhưng chỉ thấy Mác-cô và Lu-ca viết là “nhà
ông Si-mon” trong khi Mát-thêu viết là “nhà ông Phê-rô.” Những từ chỗi dậy (got up)
gặp trong Mát-thêu và Lu-ca, nhưng không có trong Mác-cô, cho nên tôi để trong
ngoặc đơn.
Trong bài
tập “Ông Gio-an rao giảng thống hối,” bạn sẽ thấy lời tuyên bố đặt trong ngoặc
kép hầu như hoàn toàn giống nhau trong cả hai bản văn. Chỉ có hai chỗ khác biệt trong số 74 từ
trong bản Anh ngữ: Mát-thêu sử dụng
những từ “pride yourselves on the claim” trong khi Lu-ca viết “begin by
saying.”
Qua hai
bài tập trên, có thể rút ra những điểm sau đây:
* Mát-thêu và Luca đã sử dụng cùng một nguồn
liệu để viết sách Tin Mừng của các ngài.
Nếu bạn nhìn lại bản Anh ngữ “Ông Gio-an rao giảng thống hối,” 69 trong số 74 từ hoàn toàn như nhau. Chắc chắn sự giống nhau không phải là ngẫu
nhiên. Thầy giáo nào nhận được những
bài làm của nhóm học trò giống y như nhau mà lại chẳng bảo chúng chép lại của
người khác (plagiarism)? Qua thí dụ
trên và nhiều thí dụ khác trong Lu-ca và Mát-thêu, người ta tin rằng cả hai tác
giả viết Tin Mừng đã có cùng một nguồn liệu chứa đựng những câu nói của Chúa
Giê-su. Nguồn liệu chung này đã được
đem vào sách Tin Mừng Mát-thêu và Lu-ca được mệnh danh là “Nguồn Q.” Tiêu đề ám chỉ về một nguồn liệu vô danh; chữ “Q” viết tắt của từ Đức-ngữ quelle
nghĩa là “nguồn.”
* Mác-cô hoặc đã không có Nguồn Q, vì người ta
không gặp thấy những câu nói ấy của Đức Giê-su trong sách Tin Mừng của ngài,
hoặc là ngài đã tự ý không muốn sử dụng nguồn ấy. Nhiều học giả tin ý kiến thứ nhất có phần đúng hơn.
* Trong một số trình thuật (thí dụ việc Chúa
chữa lành bà mẹ vợ ông Phê-rô), có nhiều điểm giống nhau trong cả ba tác
giả. Dùng cách so sánh, các học giả kết
luận rằng Mác-cô là tác giả đầu tiên viết sách Tin Mừng, còn Mát-thêu và Lu-ca
đã chép lại nhiều phần trong sách Tin Mừng của Mác-cô để đem vào sách Tin Mừng
của họ. Các học giả cho là Mác-cô được
viết khoảng năm 70 sau công nguyên (xem lại Hành trình 12). Thời gian viết Mát-thêu và Lu-ca vào khoảng
10 năm sau, tức là năm 80 sau công nguyên.
* Các học giả cũng cho rằng Mát-thêu và Lu-ca
đã có những nguồn liệu riêng chỉ thấy xuất hiện trong sách Tin Mừng của các
ngài. Một thí dụ về điểm này có thể gặp
thấy trong Lu-ca 15, câu truyện người con hoang đàng. Mặc dù đây là đoạn Kinh Thánh rất quen thuộc, nhưng trình thuật
chỉ gặp thấy trong Lu-ca mà thôi. Điểm
này rất đáng lưu ý, mặc dù những bài tập bạn mới làm không nêu rõ những đoạn
nào chỉ gặp thấy nguyên trong Mác-cô, hoặc trong Mát-thêu, hoặc trong Lu-ca.
Những giả thiết trình bày ở trên cho các học giả một cấu
trúc tư tưởng về việc hình thành các sách Tin Mừng. Bạn hãy nhớ là những phương tiện truyền thông tân thời (như máy
ghi âm và ghi hình) không có ở thời các Ki-tô hữu thế kỷ thứ nhất đâu. Nếu những điều Mác-cô chép lại đã không bắt
đầu khoảng năm 70 sau công nguyên thì cũng là vào khoảng 30 hoặc 40 năm sau khi
Đức Giê-su chết.
Qua học
hỏi về Mác-cô chương 13 (Hành trình 12), bạn đã thấy các Ki-tô hữu sơ khai tin
rằng cuộc tái lâm của Đức Ki-tô sẽ xảy ra đang khi họ còn sống. Truyền thống kể lại là các cộng đoàn Ki-tô
hữu sơ khai đã tụ họp nhau để kể lại câu truyện Đức Giê-su nhằm thâu nạp những
người tòng giáo và giúp cho đức tin của họ thêm sâu xa. Những biến cố đưa đến việc viết xuống sứ
điệp Tin Mừng đã tiếp tục xảy ra từ khi kể lại câu truyện Đức Giê-su tới khi
viết lại câu truyện Đức Giê-su, nói khác đi, từ lúc truyền khẩu cho tới lúc
thành văn. Như chúng ta đã thấy trong
Hành trình 4, diễn tiến này gồm có ba giai đoạn:
·
những điều Đức Giê-su thực sự
nói;
·
những điều các môn đệ đã rao
giảng về Đức Giê-su và những lời nói của Ngài;
·
những điều các tác giả sách
Tin Mừng đã viết về những gì Đức Giê-su đã nói.
Ý thức về khai triển của sách Tin Mừng kéo dài từ những
điều Đức Giê-su thực sự nói cho tới khi người ta viết về những điều Đức Giê-su
nói, biểu đồ sau đây cho thấy các tác giả đã lấy nguồn liệu từ đâu để viết sách
Tin Mừng của các ngài.
Mác-cô Nguồn Q
L Lu-ca Mát-thêu M
Giải thích về thuyết hai nguồn (Mác-cô và Nguồn Q) như
sau:
·
Mác-cô đã có nguồn liệu riêng
của ngài (Nguồn Q) khi viết Tin Mừng.
·
Mát-thêu đã mượn từ Mác-cô lẫn
Nguồn Q, đồng thời cũng có nguồn liệu riêng của ngài.
·
Lu-ca đã mượn từ Mác-cô lẫn
Nguồn Q, đồng thời cũng có nguồn liệu riêng của ngài.
Với những gì đã thâu nhận được qua Hành trình này, có thể
bạn sẽ bỡ ngỡ về sự linh hứng của sứ điệp Tin Mừng. Có phải sứ điệp ấy được Thiên Chúa linh hứng, hay là do tác giả
này chép lại từ tác giả khác?
Từ được
linh hứng có nghĩa Thiên Chúa thực sự là tác giả của Kinh Thánh. Là tác giả chính, Thiên Chúa đã sử dụng
những cá nhân làm tác giả loài người để họ viết xuống Kinh Thánh mà dạy một
cách chắc chắn, trung thành và không sai lầm những chân lý Người muốn vì phần
rỗi của chúng ta. Thiên Chúa đã khích
động tác giả để họ viết và Người đã giúp họ hiểu đúng tất cả những gì Người
muốn họ viết. Sứ điệp Kinh Thánh là sứ
điệp của chân lý, vì Thiên Chúa, tác giả chính, là chân lý. Mác-cô trình bày chân lý của Thiên Chúa,
nhưng chưa phải là chân lý trọn vẹn, bởi vì các sách Tin Mừng khác và
các thánh thư cũng trình bày còn nhiều hơn nữa. Ngay đến tất cả Kinh Thánh cũng chưa nói lên được chân lý trọn
vẹn, vì ngôn ngữ loài người không thể thông đạt hết được về Thiên Chúa.
Trong Tin
Mừng Mác-cô, chân lý là ở nơi Đức Ki-tô, Người Tôi tớ và Con Thiên Chúa
chịu đau khổ. Đây là lý do tại sao
Mác-cô khai triển lời tuyên xưng của Phê-rô trong 8:29. Nếu chỉ dừng lại ở đoạn này thì người ta sẽ
chỉ coi Đức Ki-tô như là một người làm phép lạ. Điều ấy không phải là chân lý của Thiên Chúa. Nhưng lời tuyên xưng của Phê-rô chỉ đầy đủ
khi được liên kết với lời tuyên xưng của viên đại đội trưởng Rô-ma (15:39) tin
rằng Đức Ki-tô là Con Thiên Chúa sau khi ông hiểu được ý nghĩa thập giá. Vậy Mác-cô, với tính cách là tác giả loài
người, trình bày chân lý đầy đủ của Thiên Chúa là tác giả chính, vì bản văn đã
được Thiên Chúa linh hứng và chỉ có thể nói lên chân lý mà thôi.
Tuy nhiên,
Thiên Chúa không lấy đi khả năng tự nhiên để suy nghĩ và hành động của tác
giả. Tác giả không chỉ là một con múa
rối trong tay Thiên Chúa, nhưng họ có tự do.
Nhưng nếu tác giả vẫn được sự tự do của con người thì chúng ta có thể
bảo Kinh Thánh không sai lầm không? Đặc
tính không sai lầm đặt căn bản ở việc Thiên Chúa là tác giả và Người là chân
lý toàn vẹn. Điều này không có
nghĩa là Kinh Thánh không sai lầm trong những lãnh vực khác, ngoại trừ không
sai lầm trong sứ điệp cốt yếu của Thiên Chúa.
Các tác
giả là con người và có thể sai lầm, đã đưa vào Kinh Thánh những ý kiến cá nhân
của họ, nhưng những ý kiến này không ảnh hưởng tới chân lý của sứ điệp. Bạn nhớ là Mác-cô tin chắc Đức Giê-su sẽ tái
lâm đang khi Mác-cô còn sống, cũng như ngài đã ghi sai ngày Chuẩn bị lễ Vượt
qua. Đã đành là Mác-cô không biết khi
nào ngày tận thế sẽ xảy ra, nhưng ngài phải biết ngày Chuẩn bị lễ Vượt qua là
khi nào chứ. Trong Hành trình 13, chúng
ta đã khám phá việc ngài ghi ngày tháng có tính cách thần học chứ không phải
lịch sử.
Các tác
giả viết Kinh Thánh mang não trạng “đông phương” hơn là não trạng “tây
phương.” Như vậy, hiểu lối suy luận
theo cách hiểu tây phương của chúng ta không áp dụng được vào trường hợp của
các ngài. Tác giả là con người, cho nên
trình bày sứ điệp bằng ngôn từ của loài người, do đó đã giới hạn sứ điệp ấy qua
thể văn xuôi hoặc thi ca. Tuy nhiên sự
giới hạn do những văn thể đặc biệt ấy tự nó cũng không làm cho sứ điệp thành
sai lạc. Bất kể tác giả sử dụng văn
loại nào hoặc đưa vào ý kiến nào đi nữa, thì sứ điệp cốt yếu vẫn là do Thiên
Chúa linh hứng như một xác quyết chân lý đích thực đưa chúng ta đến cứu rỗi.
Sau hết,
chúng ta phải nhận thấy là tác giả không hành động vô căn cứ. Tác giả được linh hứng, nhưng là được linh
hứng với tính cách như một phần tử của một cộng đồng. Tác giả nhận sứ điệp từ những người trước đó đã kể lại câu truyện
Đức Giê-su và tác giả còn đang tiếp tục được nuôi dưỡng trong câu truyện này do
cộng đồng hiện thời của mình. Do đó, là
phần tử của một cộng đồng, tác giả đôi khi thách thức, khích lệ, an ủi và bày
tỏ đức tin của cộng đồng. Đây không còn
là một biểu lộ đức tin có tính cách cá nhân nữa, mà là tính cách cộng
đồng. Chính vì hiểu đức tin như vậy – tức là cảm nghiệm về Thiên Chúa – mà tôi có thể
định nghĩa Kinh Thánh là bộ sách của đức tin, được viết do những người có đức
tin gửi đến cho một cộng đồng đức tin.
Trong Hành trình 15, bạn đã có những khám phá sau đây:
·
Tin Mừng Nhất lãm được biết do
Mát-thêu, Mác-cô và Lu-ca. Mặc dù chúng
ta có thể đặt những sách Tin Mừng này cạnh nhau và so sánh, nhưng mỗi Tin Mừng
đã được sắp đặt theo cách mặc khải của tác giả về Đức Giê-su là ai và theo nhu
cầu của cộng đồng.
·
Kỹ thuật gạch dưới những từ
trong ba bản văn cho thấy về thuyết hai nguồn liệu, theo đó Mát-thêu và Lu-ca
đã có trong tay bản chép Tin Mừng của Mác-cô, những lời nói của Đức Giê-su gặp
thấy trong Nguồn Q và những tư liệu của các ngài. Các học giả tin rằng Mác-cô đã viết Tin Mừng trước nhất (năm 70
sau công nguyên) và khoảng 10 năm sau Mát-thêu và Lu-ca mới nối gót ngài.
·
Kinh Thánh là sách được linh
hứng. Thiên Chúa là tác giả chính. Tuy nhiên Thiên Chúa không sử dụng người
viết như con múa rối, nhưng đã ban cho họ khả năng để có thể tỏ ra chân lý nào
đó về Người.
·
Cho dù tác giả có thể sai lầm
qua những ý kiến và niềm tin cá nhân của họ, nhưng Kinh Thánh vẫn không sai
lầm. Trong trường hợp ấy, sai lầm của
người viết vẫn không làm sai lạc được sứ điệp cốt yếu về ơn cứu rỗi.
Perrin, Norman. The
New Testament: An Introduction. New York:
Harcourt Brace
Jovanovich, Inc., 1974.
Smith, Richard.
“Inspiration and Inerrancy.” Jerome
Biblical Commentary, ed. Raymond
E. Brown, et al., Vol. I.
Englewood Cliffs, N.J.: Prentice-Hall,
1969.
Spivey, Robert and D.
Moody Smith. Anatomy of the New
Testament: A Guide to Its
Structure and Meaning,
3rd ed. New York: Macmillan Publishing Co., 1979.
Throckmorton, Burton
H. Gospel Parallels, 4th
ed. Nashville/New York: Nelson
Publishing Co., 1979.