Lời chứng của Đức Giê-su và của
Chúa Cha trong Tin Mừng Gio-an
Bài
viết tiếng Pháp:
Le témoignage de Jésus et du
Père dans l’Évangile de Jean.
Tác
giả: Giu-se LÊ MINH THÔNG, O.P.
Blog: http://leminhthongtinmunggioan.blogspot.com/
Email:
josleminhthong@gmail.com
Ngày 19 tháng 07 năm 2014.
Nội dung
I. Dẫn nhập
II. Lời chứng của Đức Giê-su ở 3,11.32-33
1. “Lời chứng” và “làm
chứng” ở 3,11
2. “Lời chứng” và “làm
chứng” ở 3,32-33
III. Lời chứng của Đức Giê-su và Cha ở ch.
5 và ch. 8
1. Bản văn 5,30-40 và 8,13-19
a) Ga 5,30-40
b) Ga 8,13-19
c) So sánh giữa 5,30-40 và 8,13-19
2. Lời chứng của Đức Giê-su không thật (5,31)
hay thật (8,14a)?
a) Nguồn gốc câu: “làm chứng về mình thì không thật”
b) Ga 5,31 và 8,14 trong mạch văn 5,30-40
và 8,13-19
3. Lời chứng của Chúa Cha (5,31-32.37-38)
4. Lời chứng của hai người (8,17-18)
5. Nội dung lời chứng về Đức Giê-su
6. Những kẻ chống đối không đón nhận lời chứng
IV. Kết luận
I.
Dẫn nhập
Bài viết “‘Lời
chứng’ (marturia) và ‘làm chứng’ (martureô) trong Tin Mừng Gio-an” đã trình bày khái quát về đề tài này và liệt kê số lần danh từ “marturia”
và động từ “martureô”. Những bài viết khác đã trình bày chi tiết hơn về lời
chứng của Gio-an Tẩy Giả và của
môn đệ Đức Giê-su yêu mến. Bài
viết này sẽ tập trung phân tích lời chứng của Đức Giê-su và của Chúa Cha. Các lời chứng này tìm
thấy trong Tin Mừng Gio-an như sau:
Lời chứng của Đức Giê-su trình bày bằng danh
từ “marturia” (lời chứng) xuất hiện 6 lần ở 3,11.32.33; 5,31; 8,13.14 và bằng
động từ “martureô” (làm chứng) xuất hiện 10 lần ở 3,11.32; 4,44; 5,31; 7,7;
8,13.14.18a; 13,21; 18,37.
Đề tài này được nói đến trong các chương sau:
- Ch. 3 (5 lần): 3,11.32.33
(danh từ: marturia), 3,11.32 (động từ: martureô).
- Ch. 4 (1 lần): 4,44
(động từ).
- Ch. 5 (2 lần): 5,31a (động từ); 5,31b (danh
từ).
- Ch. 7 (1 lần): 7,7
(động từ).
- Ch. 8 (5 lần): 8,13.14
(danh từ); 8,13.14.18a (động từ).
- Ch. 13 (1 lần): 13,21
(động từ).
- Ch. 18 (1 lần): 18,37
(động từ).
Như thế, đề tài “lời chứng” và “làm chứng” của
Đức Giê-su xuất hiện chủ yếu trong Sách Các Dấu Lạ (Ga 1–12): 14 lần. Trong
phần Sách Giờ Tôn Vinh (Ga 13–21) chỉ có 2 lần động từ “martureô” ở 13,21;
18,37.
Lời chứng của Chúa Cha trình bày bằng danh từ
“marturia” (lời chứng) xuất hiện 2 lần ở 5,34; 8,17 và bằng động từ “martureô”
(làm chứng), 4 lần ở 5,32a.32b.37; 8,18b. Đề tài này chỉ được thấy ở hai chương:
- Ch. 5 (4 lần): 5,34
(danh từ: marturia); 5,32a.32b.37 (động từ: martureô).
- Ch. 8 (2 lần): 8,17
(danh từ); 8,18b (động từ).
Dựa vào những lần danh từ “lời chứng”
(marturia) và động từ “làm chứng” (martureô) xuất hiện trên đây bài viết sẽ tìm
hiểu đề tài này qua hai mục lớn: (I) Lời chứng của Đức Giê-su ở Ga 3, (II) Lời
chứng của Đức Giê-su và Chúa Cha ở Ga 5 và 8. Còn việc làm chứng của Đức Giê-su
ở các chương 4; 7; 13; 18, trong mỗi chương chỉ xuất hiện 1 lần động từ
“martureô” ở 4,44; 7,7; 13,21; 18,37. Những câu này sẽ được
phân tích trong một bài viết khác.
II. Lời chứng của Đức Giê-su ở 3,11.32-33
Trong Ga 3, lời chứng của Đức Giê-su được
chính Người nói với Ni-cô-đê-mô ở 3,11. Còn ở 3,32-33 là thuộc về đoạn văn Gio-an Tẩy Giả nói về lời chứng
của Đức Giê-su. Các trích dẫn Tin Mừng lấy trong: Bản
văn Gio-an, Tin Mừng và ba thư, Hy Lạp – Việt.
1. “Lời chứng” và “làm
chứng” ở 3,11
Sau khi Đức Giê-su mặc khải cho Ni-cô-đê-mô biết:
“Nếu ai không được sinh ra một lần nữa, thì không thể thấy vương quốc Thiên
Chúa” (3,3), Ni-cô-đê-mô đã hiểu lầm về lời
nói của Đức Giê-su. Người đã giải thích ở 3,5-7, nhưng
Ni-cô-đê-mô vẫn chưa hiểu, ông ấy nói với Đức Giê-su ở 3,9: “Làm sao những điều
ấy có thể xảy ra được?” Lần này, Đức Giê-su trả lời Ni-cô-đê-mô bằng hai câu
hỏi khác ở 3,10.12. Giữa hai câu hỏi này là lời Đức
Giê-su nói về lời chứng của Người, điều lạ lùng là Đức Giê-su dùng đại từ ngôi
thứ nhất số nhiều: “chúng tôi” (3,11). Người thuật
chuyện kể ở 3,10-12: “10 Đức Giê-su trả lời và nói với
ông [Ni-cô-đê-mô]: ‘Ông là bậc thầy của Ít-ra-en, mà không biết những điều ấy
sao? 11 A-men, a-men, Tôi nói cho ông: Điều chúng tôi đã biết, chúng tôi nói và
điều chúng tôi đã thấy, chúng tôi làm chứng (marturoumen), và lời chứng
(marturian) của chúng tôi, các ông không đón nhận. 12 Nếu những chuyện dưới đất
Tôi nói với các ông mà các ông không tin, thì nếu Tôi nói với các ông về những
chuyện trên trời làm sao các ông tin?’” (3,10-12). Kể
từ 3,10, nhân vật Ni-cô-đê-mô không còn lên tiếng trong trình thuật nữa. Đoạn
văn tiếp theo (3,13-21) là phần độc thoại của Đức Giê-su về sứ vụ của Người với
ba ý chính: (1) Nguồn gốc của Người (3,13-14), (2) Cách thức Thiên Chúa biểu lộ
tình yêu của Người dành cho thế gian (3,16-17) và (3) Sự xét xử dành cho những
ai không tin vào Đức Giê-su (3,18-21).
Việc Đức Giê-su dùng đại từ ngôi thứ nhất số
nhiều (chúng tôi) ở 3,11 có thể hiểu: “lời chứng” và hành động “làm chứng” của
Đức Giê-su được đồng hóa với “lời chứng” và “làm chứng” của cộng đoàn các môn
đệ. Nói cách khác, Đức Giê-su đứng về phía cộng đoàn, với đại từ “chúng tôi”,
Đức Giê-su nói thay cộng đoàn người tin. Còn Ni-cô-đê-mô, ông được xem là đại
diện cho những người Do Thái, nên Đức Giê-su dùng đại từ ngôi thứ hai số nhiều:
“các ông” để nói với ông ấy ở 3,11.
Ý mở đầu ở 3,11 gợi
đến lời rao giảng của Đức Giê-su và của các môn đệ, Đức Giê-su nói ở 3,11b:
“Điều chúng tôi đã biết, chúng tôi nói.” Ý tiếp theo
là việc làm chứng của Đức Giê-su và của cộng đoàn dựa trên những điều đã
“thấy”, Người nói tiếp ở 3,11c: “Điều chúng tôi đã thấy, chúng tôi làm chứng.”
Cuối cùng Đức Giê-su nói đến sự khước từ lời chứng của những người Do Thái mà
Ni-cô-đê-mô là người đại diện, Đức Giê-su nói ở 3,11d: “Lời chứng của chúng
tôi, các ông không đón nhận.” Sự khước từ này sẽ được làm rõ trong nội dung
sách Tin Mừng qua sự xung đột và chống đối của những người Pha-ri-sêu, những
người Do Thái và các thượng tế.
2. “Lời chứng” và “làm
chứng” ở Ga 3,32-33
Đề tài lời chứng của Đức Giê-su ở 3,32-33
thuộc về diễn từ độc thoại của Gio-an Tẩy Giả (3,31-36), ông nói về nguồn gốc
và sứ vụ của Đức Giê-su với các môn đệ của mình. (Xem mục 3.
“Gio-an làm chứng về Đức Giê-su ở 3,31-36” trong bài
viết: “‘Lời chứng’ và ‘làm chứng’ của
Gio-an Tẩy Giả trong Tin Mừng Gio-an). Gio-an Tẩy Giả mở đầu lời
chứng về Đức Giê-su ở 3,31-33: “31 Đấng đến từ trên
thì ở trên tất cả; kẻ bởi đất thì thuộc về đất và nói chuyện thuộc về đất. Đấng đến bởi trời [thì ở trên tất cả]; 32 điều Người đã thấy và đã
nghe, Người làm chứng về điều ấy, và lời chứng của Người chẳng ai đón nhận.
33 Ai đón nhận lời chứng của Người thì xác nhận rằng: Thiên Chúa thì chân thật.”
Ở 3,32, Gio-an Tẩy
Giả nói về lời chứng của Đức Giê-su như là “Đấng đến từ trên” (3,31a), “Đấng
đến bởi trời” (3,31c). Lời chứng của Đấng này dựa trên những gì “đã thấy” và
“đã nghe”, Gio-an nói ở 3,32a: “Điều Người đã thấy và đã nghe, Người làm chứng
về điều ấy.” Đây là điều Đức Giê-su “đã thấy” và “đã nghe” từ nơi Cha của Người
như Người khẳng định với những người Do-thái ở 8,26: “Đấng đã sai
tôi là Đấng chân thật; và Tôi, những điều Tôi đã nghe nơi Người, Tôi nói những
điều đó trong thế gian.” Cuối sứ vụ công khai, Đức Giê-su tóm kết sứ vụ của Người ở 12,49-50: “49 Vì chính Tôi đã không
nói tự mình, nhưng là Cha, Đấng đã sai Tôi, Chính Người cho Tôi mệnh lệnh để Tôi
nói điều gì và tuyên bố điều gì. 50 Và Tôi biết rằng: Mệnh lệnh của Người là sự
sống đời đời. Vậy những điều Tôi nói, thì như
Cha đã nói với Tôi thế nào, Tôi nói như vậy.” Trước
khi bước vào cuộc Thương Khó, Đức Giê-su nhắc lại ý tưởng trên với các môn đệ ở
14,24: “Ai không yêu mến Thầy thìkhông giữ những lời
của Thầy; và lời mà anh em nghe không phải là của Thầy, nhưng là của Cha,
Đấng đã sai Thầy.” Như thế, tất cả những gì
Đức Giê-su mặc khải và làm chứng là dựa trên những gì Người “đã thấy” và “đã
nghe” từ nơi Cha.
Vế thứ hai của 3,32
là 3,32b, song song với 3,11c, cùng nói về sự khước từ lời chứng, Gio-an nói ở
3,32b: “Lời chứng của Người chẳng ai đón nhận.” Tuy vậy, câu tiếp theo (3,33) nói về “lời chứng của Đức Giê-su” theo hướng tích cực:
“Ai đón nhận lời chứng của Người thì xác nhận rằng: Thiên Chúa thì chân thật”
(3,33). Kiểu hành văn đối lập giữa “đón nhận” hay “không đón nhận”, “tin” hay
“không tin”, “hư mất” hay “được cứu”, “bị xét xử” hay “không bị xét xử” là đặc
thù của Tin Mừng Gio-an. Những cặp đối lập này xuất hiện trong lời chứng của
Đức Giê-su ở 3,13-21 và của Gio-an Tẩy Giả ở 3,31-36. Chẳng hạn Đức Giê-su nói
ở 3,18: “Ai tin vào Ngườithì không bị lên
án; nhưng kẻ không tin thì bị lên án rồi, vì đã không tin vào
danh Con Một Thiên Chúa.” Còn Gio-an Tẩy Giả, ông kết thúc lời chứng ở 3,36: “Ai tin vào Con thì có sự sống đời
đời; còn ai không vâng phục Con thì sẽ không thấy sự sống,
nhưng sự thịnh nộ của Thiên Chúa ở lại trên kẻ ấy.”
III. Lời chứng của Đức Giê-su và Cha ở ch. 5
và ch. 8
Đề tài “lời chứng” và “làm chứng” của Đức
Giê-su và Chúa Cha được thuật lại trong hai đoạn văn: 5,30-40 và 8,13-19. Điểm chung của hai đoạn văn này là cùng nói về các đề tài “xét
xử” (krinô), “lời chứng” (martureô) và “làm chứng” (marturia).
Phần này sẽ trình bày 6 mục: (1) Bản văn 5,30-40 và
8,13-19, (2) Lời chứng của Đức Giê-su không thật (5,31) hay thật (8,14a)? (3)
Lời chứng của Chúa Cha (5,31-32.37-38), (4) Lời chứng
của hai người (8,17-18), (5) Nội dung lời chứng về Đức Giê-su, (6) Những kẻ
chống đối không đón nhận lời chứng.
1. Bản văn 5,30-40 và 8,13-19
Phần dưới đây trích dẫn hai đoạn văn 5,30-40 và 8,13-19 và trình bày bản văn dưới dạng cấu trúc
theo các tiểu đoạn.
a)
Ga 5,30-40
Đoạn văn 5,30-40
thuộc phần diễn từ độc thoại của Đức Giê-su nói với những người Do Thái
(5,19-47) và cấu trúc thành 6 tiểu đoạn:
(1) 5,30: Đức Giê-su
xét xử công minh.
“30 Tôi (Đức Giê-su)
không thể làm điều gì tự mình. Tôi xét xử theo như
Tôi nghe, và sự xét xử của Tôi là công minh, vì Tôi không tìm kiếm ý của Tôi
nhưng là ý của Đấng đã sai Tôi.”
(2) 5,31-32: Chúa Cha
làm chứng về Đức Giê-su (// 5,37-38).
“31 Nếu Tôi làm chứng
về chính mình thì lời chứng của Tôi không thật. 32 Có Đấng khác là
Đấng làm chứng về Tôi và Tôi biết rằng: Lời chứng mà Người làm chứng về Tôi là
thật.”
(3) 5,33-35: Gio-an
Tẩy Giả làm chứng cho sự thật.
“33 Chính các ông
(những người Do Thái) đã cử người đến với Gio-an, và ông ấy đã làm chứng cho sự
thật.
34 Phần Tôi, Tôi không nhận lời chứng do người phàm, nhưng Tôi nói những điều
này để chính các ông được cứu. 35 Ông ấy là ngọn đèn được thắp lên và toả sáng,
chính các ông đã muốn hoan hỷ một thời gian trong ánh sáng của ông ấy.”
(4) 5,36: Việc Đức
Giê-su làm, làm chứng về Người.
“36 Nhưng Tôi, Tôi có
lời chứng lớn hơn lời chứng của Gio-an, đó là những việc mà
Cha đã ban cho Tôi để Tôi hoàn thành chúng. Chính những việc Tôi
làm, làm chứng về Tôi rằng: Cha đã sai Tôi.”
(5) 5,37-38: Chúa Cha
làm chứng về Đức Giê-su (// 5,32).
“37 Và Cha, Đấng đã
sai Tôi, chính Người đã làm chứng về Tôi. Các ông đã không bao giờ nghe tiếng
của Người, cũng chẳng thấy tôn nhan của Người; 38 và các ông không có lời của
Người ở lại trong các ông, vì Đấng Người đã sai đến, chính các ông không tin
vào Đấng ấy.”
(6) 5,39-40: Kinh
Thánh là lời chứng về Đức Giê-su.
“39 Các ông nghiên cứu
Kinh Thánh, vì chính các ông nghĩ rằng trong đó có sự sống đời đời. Chính Kinh
Thánh là những lời chứng về Tôi, 40 và các ông không muốn đến với
Tôi để có sự sống.”
b)
Ga 8,13-19
Đoạn văn 8,13-19
thuộc phần tranh luận giữa Đức Giê-su và những người Pha-ri-sêu (8,12-30) và
được cấu trúc với 4 tiểu đoạn:
(1) 8,13-14: Lời
chứng của Đức Giê-su là thật.
“13 Những người
Pha-ri-sêu nói với Người (Đức Giê-su): ‘Ông làm chứng cho chính mình; lời chứng
của Ông là không thật.’ 14 Đức Giê-su trả lời và nói với họ: ‘Nếu chính Tôi làm
chứng về mình lời chứng của Tôi là thật, bởi vì Tôi biết Tôi từ đâu tới và Tôi
đi đâu. Nhưng các ông, các ông không biết Tôi từ đâu tới và
Tôi đi đâu.’”
(2) 8,15-16: Xét đoán
của Đức Giê-su là thật.
“15 Các ông (những người Pha-ri-sêu), các ông
xét đoán theo người phàm, phần Tôi, Tôi không xét đoán
ai cả. 16 Mà nếu chính Tôi xét đoán, sự xét đoán của Tôi là thật, vì không chỉ
một mình Tôi, nhưng Tôi và Cha, Đấng đã sai Tôi.”
(3) 8,17-18: Lời
chứng của hai người.
“17 Trong Lề Luật của các ông có chép rằng:
‘Lời chứng của hai người là thật.’ 18 Chính Tôi là người làm chứng về mình, và Cha, Đấng đã sai Tôi, làm chứng về Tôi.”
(4) 8,19: Người
Pha-ri-sêu không biết Đức Giê-su và Cha.
“19 Vậy họ (những người Pha-ri-sêu) nói với
Người: ‘Cha của Ông ở đâu?’ Đức Giê-su trả lời: ‘Các ông không biết Tôi, cũng
chẳng biếtCha của Tôi. Nếu các ông biết Tôi, các
ông cũng biết Cha của Tôi.’”
c)
So sánh giữa 5,30-40 và 8,13-19
Những chi tiết giống nhau và khác nhau trong
hai đoạn văn 5,30-40 và 8,13-19 được trình bày qua
bảng sau:
Đoạn văn 5,30-40
không nhấn mạnh “lời chứng của Đức Giê-su” (5,31) mà tập trung vào các “lời
chứng về Đức Giê-su”. Đó là lời chứng của Chúa Cha (5,32.37-38), lời chứng của
Gio-an Tẩy Giả (5,33-35), lời chứng qua những việc Đức Giê-su làm (5,36) và lời
chứng của Kinh Thánh (5,39). Còn đoạn văn Ga 8,13-19
lại nhấn mạnh đến lời chứng của hai người: Lời chứng của Đức Giê-su và của Chúa
Cha. Bảng trên đây cho biết những chi tiết giống nhau và khác nhau trong hai
đoạn văn 5,30-40 và 8,13-19 và có thể xếp thành ba nhóm:
(I) Ba đề tài chung của hai đoạn văn 5,30-40 và 8,13-19.
1) Sự xét xử và xét đoán của Đức Giê-su là
công minh và đúng theo sự thật (5,30 // 8,15-16). Danh
từ “krisis” và động từ “krinô” tiếng Hy Lạp có ba nghĩa: “xét xử”, “kết án”,
“xét đoán”, hiểu theo nghĩa nào còn tùy mạch văn. Ở 5,30
có nghĩa “xét xử” và ở 8,15-16 có thể hiểu theo nghĩa “xét đoán”.
2) Lời chứng của Chúa Cha (5,31-32;
37-38 // 8,17-18).
3) Những kẻ chống đối Đức Giê-su (những người
Do Thái và những người Pha-ri-sêu) “không có” và “không biết” nhiều điều liên
quan đến Chúa Cha và Đức Giê-su (5,37b.38.40; 8,14c.19). (Xem
phân tích dưới đây ở mục “6. Những kẻ chống đối không
đón nhận lời chứng”).
(II) Sáu chi tiết riêng của đoạn văn 5,30-40:
1) Đức Giê-su không làm chứng về mình (5,31).
2) Nhắc lại lời chứng của Gio-an Tẩy Giả (5,33-35).
3) Việc Đức Giê-su làm, làm chứng về Người (5,36).
4) Kinh Thánh là lời chứng về Đức Giê-su (5,39).
5) Những người Do Thái đã không bao giờ nghe
tiếng Chúa Cha, cũng chẳng thấy tôn nhan Người (5,37b).
6) Những người Do Thái không có lời của Chúa
Cha nơi mình, vì họ không tin vào Đấng Người đã sai đến (5,38).
(III) Sáu ý tưởng riêng của đoạn văn 8,13-19:
1) Đức Giê-su làm chứng về Người và lời chứng
của Người là thật (8,13-14a).
2) Đức Giê-su biết Người từ đâu tới và đi đâu
(8,14b).
3) Lời chứng của hai người theo quy định Lề
Luật: Đức Giê-su và Chúa Cha (8,17-18).
4) Những người Pha-ri-sêu không biết Đức
Giê-su từ đâu tới và đi đâu (8,14c).
5) Những người Pha-ri-sêu không biết Cha của
Đức Giê-su ở đâu (8,19a).
6) Những người Pha-ri-sêu không biết Chúa Cha
và Đức Giê-su (8,19b).
Trong hai đoạn văn 5,30-40 và 8,13-19 trên
đây, có hai câu nói của Đức Giê-su (5,31; 8,14a) xem ra mâu thuẫn nhau. Câu hỏi
đặt ra là lời chứng của Đức Giê-su không thật (5,31)
hay thật (8,14a)?
2. Lời chứng của Đức Giê-su không thật (5,31) hay thật (8,14a)?
Trong đoạn văn 5,30-40,
Đức Giê-su nói với những người Do Thái ở 5,31-32: “31 Nếu Tôi làm chứng về
chính mình thì lời chứng của Tôi không thật. 32 Có Đấng khác là Đấng làm chứng
về Tôi và Tôi biết rằng: Lời chứng mà Người làm chứng về Tôi là thật”, sau đó
Đức Giê-su liệt kê một loạt lời chứng về Người (5,32-40).
Trong đoạn văn 8,13-19, những người Pha-ri-sêu sử dụng
câu Đức Giê-su nói ở 5,31 để chất vấn Người. Họ nói với Đức Giê-su ở 8,13: “Ông làm chứng cho chính mình; lời chứng của Ông là
không thật.” Lần này, Đức Giê-su trả lời những người Pha-ri-sêu ở 8,14: “Nếu chính Tôi làm chứng về mình lời chứng của Tôi là
thật, bởi vì Tôi biết Tôi từ đâu tới và Tôi đi đâu. Nhưng các
ông, các ông không biết Tôi từ đâu tới và Tôi đi đâu.”
Như vậy, lời Đức Giê-su nói ở 5,31 và 8,14a đặt ra câu hỏi: Lời chứng của Đức Giê-su về
mình là “không thật” (5,31) hay “thật” (8,14a)? Ở 5,31,
Đức Giê-su nói: “Nếu Tôi làm chứng về chính mình thì lời chứng của Tôi không
thật” (5,31), nhưng ở 8,14a Người lại nói: “Nếu chính Tôi làm chứng về mình lời
chứng của Tôi là thật.” Giải thích thế nào về hai lời nói
trái ngược này? Để trả lời câu hỏi này cần tìm hiểu (a) nguồn gốc câu:
“Làm chứng về chính mình thì không thật” và (b) đặt 5,31;
8,14a trong mạch văn của 5,30-40; 8,13-19.
a)
Nguồn gốc câu: “làm chứng về mình thì không thật”
Lời Đức Giê-su ở 5,31:
“Nếu Tôi làm chứng về chính mình thì lời chứng của Tôi không thật” gợi lại một
số khoản luật trong Cựu Ước (Đnl 17,6; 19,15; Ds 35,30). Theo Sách Đệ Nhị Luật
(Đnl 17,2-7), ai vi phạm Giao Ước, thờ lạy tà thần sẽ
bị xử tử. Cách thức tiến hành được mô tả ở Đnl 17,6:
“Căn cứ vào lời của hai nhân chứng hay ba nhân chứng, mà người đáng chết sẽ bị
xử tử; người ấy sẽ không bị xử tử nếu chỉ căn cứ vào lời của một nhân chứng.”
(Các trích dẫn Cựu Ước lấy theo bản dịch Kinh Thánh,
ấn bản 2011 của Nhóm Phiên Dịch CGKPV). Sách Đệ Nhị Luật chỉ thị về việc làm
chứng trong những tranh tụng trước tòa ở Đnl 19,15:
“Một nhân chứng duy nhất không thể đứng lên buộc tội một người về bất cứ một
tội một lỗi nào; về bất cứ lỗi nào người ấy phạm, phải căn cứ vào lời của hai
nhân chứng hay căn cứ vào lời của ba nhân chứng, sự việc mới được cứu xét.” Ai
làm chứng gian (Đnl 19,18b) sẽ bị xử phạt theo cách:
“Anh em sẽ xử với nó, như nó đã định xử với anh em mình” (Đnl 19,19a). Sách Dân
Số quy định ở Ds 35,30: “Trong mọi trường hợp đánh
chết người, người ta sẽ dựa vào lời khai của các chứng nhân mà xử tử kẻ sát
nhân. Nhưng lời khai của một chứng nhân duy nhất sẽ không thể làm cho ai
bị kết án tử hình.” Như thế, theo
Cựu Ước, lời của một nhân chứng thì chưa đủ giá trị để buộc tội. Tuy nhiên
những trích dẫn Cựu Ước trên đây là trường hợp làm chứng về người khác, chứ
không phải “làm chứng về chính mình” như Đức Giê-su đã nói ở Ga 5,31; 8,13-14.
Có thể lời nói của Đức Giê-su về “làm chứng về
chính mình” ở Ga 5,31 và được những người Pha-ri-sêu lặp lại ở 8,13, gợi đến
một số câu trong văn chương Do Thái. Mishnah Ketubot, chương 2 câu 9 viết:
“không ai có thể làm chứng cho chính mình (No one may testify regarding
himself).” (Xem http://www.emishnah.com/sedarim.html).
Trong bộ Talmud Babylon, tract Rosh Hashana (HaSahanah), chương 3 đoạn 1
viết: “Một cá nhân không thể căn cứ trên chính mình (An individual is not
authorized by himself).” (Xemhttp://halakhah.com/).
Nếu đặt lời nói của Đức Giê-su ở 5,31 và 8,14a trong
mạch văn có thể hiểu ý nghĩa của chúng.
b)
Ga 5,31 và 8,14 trong mạch văn 5,30-40 và 8,13-19
Ở 5,31, lời Đức
Giê-su nói: “Nếu Tôi làm chứng về chính mình thì lời chứng của Tôi không
thật” đặt trong bối cảnh quan niệm Do Thái thời đó và đã được xác định
trong Cựu Ước và trong văn chương Do Thái. Dựa trên quy định của Lề Luật, Đức
Giê-su đưa ra một loạt lời chứng về Người: Lời chứng của Chúa Cha (5,32.37-38),
lời chứng của Gio-an Tẩy Giả (5,33-35), lời chứng qua những việc Đức Giê-su làm
(5,36) và lời chứng trong Kinh Thánh (5,39).
Ngược lại ở 8,13,
những người Pha-ri-sêu chất vấn Đức Giê-su bằng câu chính Đức Giê-su đã
nói với những người Do Thái ở 5,31. Họ nói với Đức Giê-su: “Ông làm chứng
cho chính mình; lời chứng của Ông là không thật” (8,13).
Đức Giê-su trả lời ngược lại với lời Người đã nói ở 5,31.
Người trả lời họ: “Nếu chính Tôi làm chứng về mình lời chứng của Tôi là
thật, bởi vì Tôi biết Tôi từ đâu tới và Tôi đi đâu. Nhưng các ông, các ông
không biết Tôi từ đâu tới và Tôi đi đâu” (8,14). Lý do
“lời chứng của Đức Giê-su là thật” là vì Đức Giê-su biết Người từ đâu tới và sẽ
đi đâu (8,14b); còn những người Pha-ri-sêu thì không biết Đức Giê-su từ đâu tới
và đi đâu (8,14c), nên họ chỉ xét đoán theo người phàm (8,15a). Như vậy, chỉ một mình Đức Giê-su là người có thể làm chứng về chính
mình và lời chứng của Người là thật, vì Người có nguồn gốc thần linh.
Đức Giê-su là Đấng từ trời xuống và Người sẽ lại lên trời như Người đã nói ở 3,13: “Không ai đã lên trời, ngoại trừ Đấng từ trời xuống là
Con Người” (x. 3,31).
Tóm lại, khi Đức Giê-su nói: “Nếu Tôi làm
chứng về chính mình thì lời chứng của Tôi không thật” (5,31) là
nói trong trường hợp khái quát áp dụng cho tất cả mọi người. Còn khi Đức Giê-su
nói: “Nếu chính Tôi làm chứng về mình lời chứng của Tôi là thật” (8,14a) là nói
về trường hợp đặc thù, chỉ áp dụng cho Đức Giê-su mà thôi. Lời
chứng của Đức Giê-su về mình là thật, bởi vì Người là Đấng Thiên Chúa sai đến
để nói lời Thiên Chúa. Nói cách khác, khi nói đến các lời chứng ở
5,30-39, Đức Giê-su nói với tư cách là “con người”, còn khi nói đến lời chứng
của Người và của Chúa Cha ở 8,13-19, Đức Giê-su nói với tư cách là “Con Một
Thiên Chúa là Đấng hằng ở nơi cung lòng Cha” (1,18b). Trong viễn cảnh này, Đức
Giê-su nói về lời chứng của hai người ở 8,17-18: Lời
chứng của Đức Giê-su và Chúa Cha. Trước khi phân tích lời chứng này, phần tiếp
theo sẽ tìm hiểu lời chứng của Chúa Cha về Đức Giê-su ở 5,31-32.37-38.
3. Lời chứng của Chúa Cha
(5,31-32.37-38)
Trong đoạn văn 5,30-40,
Đức Giê-su không làm chứng về chính mình mà nói đến những lời chứng khác. Trong đó, lời chứng quan trọng là lời chứng của Chúa Cha.
Đức Giê-su nói với những người Do Thái ở 5,31-32: “31
Nếu Tôi làm chứng về chính mình thì lời chứng của Tôi không thật. 32 Có Đấng
khác là Đấng làm chứng về Tôi và Tôi biết rằng: Lời chứng mà Người làm chứng về
Tôi là thật.” “Đấng khác” ở 5,32a sẽ được làm sáng tỏ ở 5,37a. Đó là Chúa Cha,
Đấng đã sai Đức Giê-su đến như Đức Giê-su khẳng định ở 5,37a: “Cha, Đấng đã sai
Tôi, chính Người đã làm chứng về Tôi.” Ở 5,32b, Đức Giê-su xác nhận lời chứng
của Cha của Người là đúng sự thật khi nói: “Tôi biết rằng: Lời chứng mà Người
làm chứng về Tôi là thật” (5,32b). Như thế, đoạn văn 5,30-40
nhấn mạnh uy thế lời chứng của Chúa Cha về Đức Giê-su. Còn trong đoạn văn 8,13-19 nhấn mạnh đến lời chứng của hai người.
4. Lời chứng của hai người
(8,17-18)
Đoạn văn 8,17-18
triển khai ý tưởng lời chứng của hai người theo quy định trong các bản văn Cựu
Ước trích dẫn trên đây (Đnl 17,6; 19,15; Ds 35,30). Trước hết
Đức Giê-su cho biết tại sao Người làm chứng về chính mình và lời chứng của
Người là lời chứng thật. Xem mục 2 trên đây: “Lời chứng của Đức Giê-su
không thật (5,31) hay thật (8,14a)?”. Kế đến, Đức
Giê-su dựa trên quy định của Lề Luật, Người nói với những người Pha-ri-sêu ở 8,17-18: “17 Trong Lề Luật của các ông có chép rằng: ‘Lời
chứng của hai người là thật.’ 18 Chính Tôi là người làm chứng
về mình, và Cha, Đấng đã sai Tôi, làm chứng về Tôi.” Các bản văn Đnl 17,6; 19,15 và Ds 35,30 khẳng định lời chứng của hai người thì
có giá trị. Ở đây lời chứng của Đức Giê-su và lời chứng của
Chúa Cha không phải là hai lời chứng của hai người phàm mà là lời chứng của
Thiên Chúa và của Con Thiên Chúa. Vì thế, mức độ tin
cậy là tuyệt đối. Người phàm có thể làm chứng gian để
hại nhau, nhưng lời chứng của Thiên Chúa và Đấng Người sai đến thì chân thật và
luôn phù hợp với sự thật.
5. Nội dung lời chứng về
Đức Giê-su
Hai đoạn văn 5,30-40
và 8,13-19 tập trung vào tính xác thực của lời chứng nên không nói nhiều về nội
dung lời chứng. Lời chứng của Đức Giê-su là thật (8,14a), lời
chứng của Chúa Cha là thật (5,32b). Còn Gio-an
Tẩy Giả, ông là người “làm chứng cho sự thật” (5,33b). Đức Giê-su còn nói đến
lời chứng qua những việc Người làm (5,36) và lời chứng
của Kinh Thánh (5,39). Tất cả các nhân vật trên và những điều
này làm chứng về Đức Giê-su.
Tuy nhiên có thể nhận ra nội dung lời chứng
qua cụm từ “những việc Đức Giê-su làm” ở 5,36c. Đức Giê-su
xác định nguồn gốc “những việc” (les œuvres) làm chứng về Người ở 5,36b: “Đó là
những việc mà Cha đã ban cho Tôi để Tôi hoàn thành chúng.” Như thế, đây
không phải là “công việc riêng của Đức Giê-su” mà là “công việc của Chúa Cha”,
chính Chúa Cha đã trao cho Đức Giê-su công việc của Người và trong sứ vụ công
khai, Đức Giê-su là người thực hiện những công việc đó. Những việc Đức Giê-su
thực hiện, làm chứng rằng Chúa Cha đã sai Người đến thế gian như Đức Giê-su
khẳng định ở 5,36c: “Chính những việc Tôi làm, làm chứng về Tôi rằng: Cha đã
sai Tôi.”
Tóm lại, trong bối cảnh trực tiếp của 5,36, nội dung lời chứng về Đức Giê-su nhằm khẳng định hai
điều: (1) Thiên Chúa là Cha của Đức Giê-su, và (2) Chúa Cha là Đấng sai Đức
Giê-su đến thế gian để hoàn thành công việc của Chúa Cha. Theo nghĩa rộng trong
toàn bộ Tin Mừng Gio-an, nội dung lời chứng về Đức Giê-su là tất cả những gì
sách Tin Mừng này trình bày về căn tính, nguồn gốc và sứ vụ của Người. Nghĩa là tất cả những gì Đức Giê-su đã nói và đã làm, cùng với tất
cả những gì tác giả nói về Đức Giê-su trong sách Tin Mừng đều là những lời xác
thực và đáng tin cậy.
6. Những kẻ chống đối không đón
nhận lời chứng
Đề tài lời chứng trong hai đoạn văn 5,30-40 và
8,13-19 đặt trong bối cảnh tranh luận với những kẻ chống đối Đức Giê-su (những
người Do Thái và những người Pha-ri-sêu). Đoạn văn 5,30-40
là một phần diễn từ của Đức Giê-su nói với những người Do Thái (5,19-47), họ là
những người đang tìm cách giết Đức Giê-su (5,18). Thật vậy, sau khi Đức Giê-su
chữa lành người bị bệnh 38 năm tại hồ nước Bết-da-tha vào ngày sa-bát
(5,1-9), người thuật chuyện cho biết thái độ của những người Do Thái về Đức
Giê-su ở 5,18: “Vậy, vì điều này, những người Do Thái lại càng tìm Người để giết, vì Người không chỉ phá
ngày sa-bát, nhưng còn nói Thiên Chúa là Cha của mình, tự cho mình ngang hàng
với Thiên Chúa.” Tiếp theo là diễn từ độc thoại dài của Đức Giê-su với những
người Do Thái (5,19-47), trong đó có đoạn văn về các
lời chứng (5,30-40).
Trong ch. 8, đoạn văn 8,12-59
gồm hai cuộc tranh luận: (1) Tranh luận thứ nhất giữa Đức Giê-su với những
người Pha-ri-sêu (8,12-30), (2) Tranh luận thứ hai giữa Đức Giê-su với những
người Do Thái (8,31-59). Những cuộc tranh luận trên diễn ra
ngày càng gay gắt và kết thúc bằng hành động ném đá Đức Giê-su. Ch 8 kết
thúc như sau: “Họ (những người Do Thái) liền lượm đá để ném Người (Đức Giê-su).
Nhưng Đức Giê-su ẩn mình và đi ra khỏi Đền Thờ” (8,59).
Bầu khí tranh luận và xung đột này giải thích tại sao những kẻ chống đối đã
không đón nhận lời chứng của Đức Giê-su (xem mục
II. Lời chứng của Đức Giê-su ở 3,11.32-33). Trong bối
cảnh tranh luận về mặc khải của Đức Giê-su về lời chứng và về căn tính thần
linh của Người, Người cho biết tình trạng của những kẻ chống đối trong hai đoạn
văn 5,30-40 và 8,13-19. Hai đoạn văn này cho thấy
những kẻ chống đối (những người Do Thái và những người Pha-ri-sêu) thiếu mười
điều sau:
(1) KHÔNG NGHE tiếng
Chúa Cha (5,37b).
(2) KHÔNG THẤY tôn
nhan Chúa Cha (5,37c).
(3) KHÔNG CÓ lời Chúa
Cha ở lại trong mình (5,38a).
(4) KHÔNG TIN vào Đấng
Chúa Cha sai đến (5,38b).
(5) KHÔNG MUỐN đến với Đức Giê-su để có sự
sống (5,40).
(6) KHÔNG BIẾT Đức
Giê-su từ đâu tới (8,14e).
(7) KHÔNG BIẾT Đức
Giê-su sẽ đi đâu (8,14f).
(8) KHÔNG BIẾT Cha của Đức Giê-su ở đâu
(8,19a).
(9) KHÔNG BIẾT Chúa
Cha (8,19b).
(10) KHÔNG BIẾT Đức
Giê-su (8,19c).
Như thế, những kẻ chống đối Đức Giê-su (những
người Do Thái và những người Pha-ri-sêu trong Tin Mừng Gio-an) đã “không nghe”,
“không thấy”, “không có”, “không tin”, “không muốn” và “không biết” những điều
căn bản trên đây. Không biết nhiều điều như thế, thiếu sót
nhiều điều như thế, thì không ngạc nhiên khi họ không đón nhận lời chứng của
Người và tìm cách giết Người.
Những lời kết tội trên đây cần được hiểu theo hướng tích cực, đó là những lời giáo huấn và mặc khải.
Nghĩa là Đức Giê-su cho những kẻ chống đối biết tại sao họ không hiểu giáo huấn
của Người và không đón nhận mặc khải về căn tính và nguồn gốc thần linh của
Người. Qua đó, Đức Giê-su mời gọi các nhân vật trong câu chuyện, nhất là người
thuật chuyện mời gọi độc giả nhận ra Thiên Chúa là ai và Đức Giê-su là ai, nhờ
đó biết đón nhận lời chứng Đức Giê-su, đón nhận giáo huấn của Đức Giê-su và tin
vào Người.
IV.
Kết luận
Bài viết đã tìm hiểu những đoạn văn nói về
“lời chứng” và “làm chứng” của Đức Giê-su và của Chúa Cha. Trước hết là lời
chứng của Đức Giê-su ở 3,11 và 3,32-33. Đức Giê-su làm
chứng về điều Người “đã thấy” và “đã nghe” từ nơi Cha của Người. Nghĩa là qua
lời nói và việc làm của Đức Giê-su, Người thực hiện công việc Cha giao phó (5,36). Lời chứng của Đức Giê-su không được nói đến trong đoạn
văn 5,30-40, bởi vì theo thuyền thống Do Thái “người
làm chứng về chính mình thì không thật” (5,31). Từ đó, Đức Giê-su đưa ra một loạt
lời chứng về Người: Lời chứng của Gio-an Tẩy Giả (5,33-35), lời chứng qua những
việc Đức Giê-su làm (5,36), lời chứng của Kinh Thánh (5,39), đặc biệt bản văn
nhấn mạnh lời chứng của Chúa Cha về Đức Giê-su ở 5,31-32 và 5,37-38.
Sang đoạn văn 8,13-19,
Đức Giê-su lại cho biết: nếu Người làm chứng về chính mình, lời chứng của Người
là thật, bởi vì Đức Giê-su biết Người từ đâu tới và đi đâu (x. 8,13-14). Theo
Lề Luật quy định: “Lời chứng của hai người là thật” và hai người làm chứng cho
Đức Giê-su: (1) Chính Đức Giê-su làm chứng về mình và lời chứng của Người là
thật (8,14a.18a) và (2) Chúa Cha, Đấng đã sai Đức Giê-su, làm chứng về Người
(8,18b) và lời chứng của Chúa Cha là thật (5,32b). Đây là lời
chứng của Thiên Chúa và của Con Thiên Chúa chứ không phải của người phàm, nên
lời chứng này xác thực và đáng tin cậy.
Trong cả hai đoạn văn nói về lời chứng của Đức
Giê-su và của Chúa Cha (5,30-40; 8,13-19), đều gặp sự
khước từ của những kẻ chống đối. Ở 3,11.32-33,
lời chứng của Đức Giê-su không được đón nhận. Lý do những kẻ chống đối không
đón nhận lời chứng của Đức Giê-su là vì họ đã “không nghe”, “không thấy”,
“không có”, “không tin”, “không muốn” và “không biết” (xem “10 không” trên
đây). Giọng văn tranh luận trong Tin Mừng Gio-an nhằm mục
đích giáo huấn. Qua những lời nói mạnh mẽ, Đức Giê-su mời gọi những kẻ
chống đối nhận ra sự thiếu sót của họ, nhờ đó họ có thể mở lòng đón nhận sự
sống đích thực Đức Giê-su ban tặng cho những ai tin vào Người. Ở cấp độ trình thuật, qua bản văn tác giả mời gọi độc giả xác tín
vào “lời chứng” và việc “làm chứng” của Đức Giê-su và của Chúa Cha. Từ đó lắng nghe và đón nhận giáo huấn của Đức Giê-su như là “lương
thực trường tồn cho sự sống đời đời” (6,27b).
Bài viết này chưa tìm hiểu đề tài: “Kinh Thánh
làm chứng về Đức Giê-su” (5,39). Thật ra liên hệ giữa
Tin Mừng Gio-an và Kinh Thánh là đề tài rộng lớn, nên lời chứng của Kinh Thánh
được tìm hiểu trong các bài viết khác./.
Nguồn: http://leminhthongtinmunggioan.blogspot.com/2013/10/loi-chung-va-lam-chung-cua-uc-gie-su-va.html
Ghi chú:
Tác giả chịu trách nhiệm nội dung bài viết,
vì thế, xin các trang web đăng lại cho hiển thị ngày tháng, nguồn bài viết và
đừng chỉnh sửa hay cắt bớt nội dung. Cảm ơn.
Bài viết này đã đăng ngày 19/10/2013 trên
Blog http://leminhthongtinmunggioan.blogspot.com/ với tựa đề: “‘Lời chứng’ và ‘làm chứng’ của Đức Giê-su và của Chúa
Cha trong Tin Mừng Gio-an.” Nhân dịp viết bài này bằng tiếng Pháp: “Le
témoignage de Jésus et du Père dans l’Évangile de Jean”, bài tiếng Việt được
trình bày lại với tựa đề mới: “Lời chứng của Đức Giê-su và
của Chúa Cha trong Tin Mừng Gio-an” và đề ngày mới.
Xem:
+ Bài viết liên quan:
1- “Lời chứng” (marturia) và “làm
chứng” (martureô) trong Tin Mừng Gio-an.
2- “Lời chứng” và “làm chứng” của
Gio-an Tẩy Giả trong Tin Mừng Gio-an.
3- Ga 21,20-25. Vận mệnh, bút tích
và lời chứng của người môn đệ Đức Giê-su yêu mến.
4- Ga 19,35; 21,24. Lời chứng của
môn đệ Đức Giê-su yêu mến trong Tin Mừng Gio-an.
5- Lời chứng của Đức Giê-su và
của Chúa Cha trong Tin Mừng Gio-an.
+ Mục từ:
- marturia (lời chứng) và
martureô (làm chứng) trong Tin Mừng Gio-an.