Dẫn nhập
Trong Tin Mừng
Gio-an, từ “thế gian” (kosmos) xuất hiện 78 lần, trong đó Ga 1–12: 33
lần, Ga 13–17: 40 lần và Ga 18–21: 5 lần (xem chi tiết ở cuối bài viết). Từ
“thế gian” (kosmos) trong Tin Mừng Gio-an có thể gây ngộ nhận. Chẳng hạn, Đức
Giê-su nói ở 3,16: “Thiên Chúa đã quá yêu mến thế gian (kosmos), đến nỗi đã ban
Con Một, để bất cứ ai tin vào Người thì không hư mất, nhưng có sự sống đời
đời.” Đến cuối sứ vụ công khai, Đức Giê-su nói Người chỉ can thiệp (cầu nguyện)
cho các môn đệ chứ không can thiệp cho thế gian (kosmos). Người thưa với Cha:
“Con can thiệp cho họ, Con không can thiệp cho thế gian nhưng cho những kẻ Cha
đã ban cho Con, vì họ là của Cha” (17,9). Phải chăng Đức Giê-su đưa các môn đệ
ra khỏi thế gian và Người không quan tâm, không cầu nguyện, không can thiệp cho
thế gian nữa? Thế gian mà Đức Giê-su không can thiệp ở 17,9 là thế gian nào?
Ở 17,18, Đức
Giê-su nói với Cha của Người: “Như Cha đã sai Con đến thế gian (kosmos), Con
cũng sai họ đến thế gian (kosmos).” Thế gian ở đây trở thành đối tượng sứ vụ
của Đức Giê-su, và thế gian là nơi các môn đệ thi hành sứ vụ. Một “thế gian”
khác xuất hiện ở 15,18, đó là thế gian ghét Đức và các môn đệ. Đức Giê-su cho
các môn đệ biết: “Nếu thế gian ghét anh em, anh em hãy biết rằng nó đã ghét
Thầy trước” (15,18). Tại sao ghét? Thế gian đó là ai? Thế gian mà Đức Giê-su
sai các môn đệ đến, là thế gian nào?
Đứng trước những
điều xem ra khó hiểu, cần phân tích ý nghĩa của từ “thế gian” (kosmos) trong
Tin Mừng Gio-an. Từ “thế gian” (kosmos), xuất hiện 78 lần, có thể là từ khóa để
xây dựng thần học Tin Mừng thứ tư. Phần sau sẽ trình bày hai mục lớn: I. Thế
gian là gì? (1. Thế gian vũ trụ, 2. Thế gian trái đất). II. Thế gian là ai? (1.
Thế gian nhân loại, 2. Thế gian chưa tin, 3. Thế gian thù ghét). Các trích dẫn
Tin Mừng Gio-an được lấy trong tài liệu: Bản
văn Gio-an, Tin Mừng và ba thư, Hy Lạp – Việt.
I. Thế gian là gì?
Nhóm nghĩa thứ nhất của từ “thế gian” (kosmos) liên quan đến tạo thành của
Thiên Chúa với hai cấp độ: “Thế gian” chỉ “vũ trụ” và “thế gian” chỉ “địa cầu”,
“trái đất”.
1. Thế gian vũ trụ
Ở đầu và cuối chương 17 (17,5.24)
Tin Mừng thứ tư, Đức Giê-su mặc khải về nguồn gốc và tương quan của Người với
Chúa Cha. Đức Giê-su nói với Cha của Người đầu chương 17: “Vậy giờ đây, lạy
Cha, xin Cha tôn vinh Con bên Cha, vinh quang mà Con đã có bên Cha trước khi có
thế gian” (17,5). Cuối chương 17, Đức Giê-su nói: “Lạy Cha, về những người mà
Cha đã ban cho Con, Con muốn rằng Con ở đâu, thì họ cũng ở đó với Con, để họ
chiêm ngưỡng vinh quang của Con, vinh quang mà Cha đã ban cho Con vì Cha đã yêu
mến Con trước khi thế gian được tạo thành” (17,24).
Ở 17,5 có cụm từ: “trước khi có thế gian (pro tou
ton kosmon einai).” Đây là cách dùng tiếng Hy Lạp: Giới từ (pro) + mạo từ ở
thuộc cách (tou) + danh từ ở đối cách (ton kosmon) + động từ ở lối vô định
(einai). Động từ Hy Lạp “eimi” có nghĩa: “là”, “có”, “hiện hữu” ở lối vô
định: “einai”, và không có thuộc từ (attribut), nên kiểu nói “trước khi có
thế gian” tương đương với “trước khi thế gian hiện hữu”. Trong một số thủ bản
Hy Lạp, cụm từ “trước khi có thế gian” là dị bản: “Trước khi thế gian sinh ra” (pro tou
genesthai ton kosmon). Dị bản này dùng động từ “ginomai” (sinh ra, trở thành) ở
lối vô định (infinitif) thì aoriste: “genesthai”. Như thế, bản văn 17,5 dùng
động từ “eimi” (là, có, hiện hữu) và dị bản là động từ “ginomai” (sinh ra, trở
thành, trở nên) để mô tả thời điểm Đức Giê-su có vinh quang của Người. Thời
điểm được xác định là “trước khi thế gian hiện hữu”, “trước khi thế gian được
sinh ra”.
Ga 17,5 gợi đến câu đầu tiên của Tin Mừng Gio-an
(1,1) nói về sự hiện hữu của Lời (Logos) như sau: “Lời có lúc khởi đầu, và Lời
ở với Thiên Chúa, và Lời là Thiên Chúa”. Trong câu “Lời có lúc khởi đầu”, động
từ “có” là động từ “eimi”, ở thì chưa hoàn thành (imparfait) “ên”, và danh từ
“khởi đầu” (arkhê) gợi lại khởi đầu tạo thành vũ trụ trong câu đầu tiên của
sách Sáng thế (cũng là câu đầu tiên của Kinh Thánh). Trong bản LXX, St 1,1 xuất
hiện cụm từ “lúc khởi đầu” (en arkhêi): “Lúc khởi đầu (en arkhêi),
Thiên Chúa sáng tạo trời và đất” (St 1,1). Sự nối kết giữa Ga 17,5 với Ga 1,1
và St 1,1 cho phép hiểu từ “thế gian” (kosmos) ở 17,5 có nghĩa là tất cả những
gì được tạo thành, tất cả những gì hiện hữu, nghĩa là toàn thể vũ trụ này. Cuối
chương 17, Đức Giê-su lập lại ý tưởng này bằng từ ngữ khác.
Đức Giê-su nói với Cha của Người ở 17,24b: “Cha đã yêu mến Con
trước khi thế gian được tạo thành.” Cụm từ “trước khi thế gian được tạo thành (pro katabolês
kosmou)”, dịch sát là “trước sự khởi đầu của thế gian.” Trong cụm từ này, danh từ
Hy Lạp “katabolê” có nghĩa là “nền móng”, “nền tảng” (foundation), “lúc khởi đầu”, “lúc bắt đầu”, “căn
nguyên” (beginning). Khi mở đầu (17,5) và kết thúc (17,24) chương 17 như trên,
Đức Giê-su khẳng định nguồn gốc và căn tính của Người với hai đặc điểm: 1) Đức
Giê-su có “vinh quang” (doxa) bên Chúa Cha trước khi thế gian hiện hữu. 2) Đức
Giê-su có “tình yêu” Chúa Cha dành cho Người trước khi thế gian được tạo thành.
Với hai khẳng định thần học quan trọng này, từ “thế gian” (kosmos) ở 17,5.24 bao hàm tất cả những gì hiện hữu,
nghĩa là tất cả tạo thành của Thiên Chúa. Theo Heinrich
Schlier, “Thế gian, trước hết là ‘tất cả’, panta.
Thế gian là tất cả những gì được làm ra và những gì hiện hữu.” (“Le monde, c’est d’abord ‘tout’, panta.
Le monde est tout ce qui a été fait et ce qui est”, H. SCHLIER, Essais sur le Nouveau Testament, Paris, Le Cerf, 1968, p. 281). Có thể gọi “thế gian” nói đến ở 17,5.24 là THẾ GIAN
VŨ TRỤ để phân biệt với các nghĩa khác của từ này.
Trong mạch văn Ga 17, THẾ GIAN VŨ TRỤ không theo nghĩa khoa
học hay lịch sử về sự hình thành vũ trụ, nhưng đây là khẳng định thần học quan
trọng về nguồn gốc và căn tính của Đức Giê-su. Thế gian vũ trụ trong tương quan
với vinh quang mà Đức Giê-su đã có (17,5) và với tình yêu của Chúa Cha
dành cho Người (17,24). Trong các kiểu nói trên, giới từ “pro” (trước khi) ở
17,5.24 diễn tả sự “tiền hữu” (préexistance, sự có trước) của Đức Giê-su.
Những lời nói cuối cùng của Đức Giê-su
trong Ga 17 soi sáng cho lời tựa đầu sách Tin Mừng (Ga 1,1-18). Trong lời tựa,
tác giả khẳng định sự tiền hữu của Đức Giê-su bằng những lời mạnh mẽ: “Lời có lúc khởi đầu, và Lời ở với Thiên Chúa, và
Lời là Thiên Chúa” (1,1). “Nhờ Người (Logos), mọi sự được tạo thành, và không có
Người thì chẳng có gì được tạo thành” (1,3). Ở Ga 17, không còn là tác giả mà chính
Đức Giê-su khẳng định sự tiền hữu của Người. Người đã hiện hữu trước khi có thế
gian.
Cách dùng từ “thế gian” (kosmos) ở 17,5.24 cho phép rút ra khẳng định
thần học quan trọng: Thế gian hiện hữu là công trình của Chúa Cha và Con (Đức
Giê-su), nên chủ quyền tối thượng và tuyệt đối trên vũ trụ thuộc về Chúa Cha và
Đức Giê-su. Theo Tin Mừng thứ tư, với chủ quyền này, Đức Giê-su bày tỏ tình yêu
cứu độ của Thiên Chúa dành cho nhân loại.
Từ “thế gian” (kosmos) theo nghĩa THẾ GIAN VŨ TRỤ ít sử dụng trong Tin Mừng
thứ tư, nhưng lại là mặc khải quan trọng về nguồn gốc, căn tính, cương vị và uy
quyền của Đức Giê-su. Ở các nơi khác trong Tin Mừng, từ “thế gian” (kosmos) được dùng theo nghĩa hẹp hơn.
2. Thế gian trái đất
Một số nơi trong Tin Mừng thứ tư cho phép hiểu từ “thế gian” theo nghĩa “trái đất”
như ở 1,9; 16,28; 17,11.13. Tác giả khẳng định trong lời tựa sách Tin Mừng
(1,1-18) như sau: “Người (Logos) là ánh sáng thật, ánh sáng chiếu soi mọi
người, đến trong thế gian (kosmos).” Đức Giê-su nói với các môn đệ ở 16,28:
“Thầy xuất phát từ Cha và đã đến thế gian (kosmos). Nay Thầy lại rời khỏi thế gian
(kosmos) mà đi về với Cha.”
Trong chương 17, Đức Giê-su ngỏ lời với Cha của Người ở 17,11a.13 như sau: “Con
không còn ở trong thế gian (kosmos) nữa, họ (các môn đệ) còn ở trong thế gian (kosmos). Phần Con, Con đến
với Cha” (17,11a). “Bây giờ, Con đến với Cha và Con nói những điều này ở trong
thế gian (kosmos) để họ (các môn đệ) có nơi họ niềm vui trọn vẹn của Con” (17,13).
Các kiểu nói: “Không còn ở trong thế gian” (17,11) hay “rời khỏi thế gian”
(16,28), ám chỉ sự chết thể lý của con người. Quả thế, Đức Giê-su nói về cái
chết của Người bằng hình ảnh ra khỏi thế gian: “Con không còn ở trong thế gian
nữa, họ còn ở trong thế gian; phần Con, Con đi về với Cha” (17,11). Đối với Đức
Giê-su, “không còn ở trong thế gian”, nghĩa là Người đi về với Cha. Lời này báo
trước sự chia ly về mặt thể lý giữa Đức Giê-su và các môn đệ. Người sẽ rời khỏi
thế gian này mà trở về với Cha như Người đã nói với các môn đệ: “Thầy xuất phát
từ Cha và đã đến thế gian. Nay Thầy lại rời khỏi thế gian mà đến cùng Cha”
(16,28).
Như thế, “không còn ở trong thế gian” nghĩa là chết. Người thuật chuyện nói
về giờ chết của Đức Giê-su ở 13,1: “Đức Giê-su biết rằng giờ của Người đã đến
để ra khỏi thế gian này mà về với Cha.” Thế gian ở đây có nghĩa là trái đất, là
nơi con người cư trú và sinh sống. Khi sinh ra, người ta “đến trong thế gian”
(1,9; 16,21; 18,37). Bao lâu còn sống, người ta “ở trong thế gian” (17,11; 1,10;
9,5). Khi chết, người ta “ra khỏi thế gian”, “rời bỏ thế gian” (13,1; 16,28).
Bối cảnh một số câu văn trong Tin Mừng Gio-an cho phép hiểu “thế gian” (kosmos) theo nghĩa “trái đất”, “địa cầu”.
THẾ GIAN TRÁI ĐẤT là nơi con
người sinh sống, là ngôi nhà của nhân loại, trong tương quan với sự sống và sự
chết thể lý của thân phận làm người.
Phần trên đã trả lời câu hỏi “Thế gian là gì?” Theo nghĩa rộng, thế gian là
vũ trụ chỉ tất cả những gì hiện hữu. Theo nghĩa hẹp thế gian là trái đất, là
nơi sinh sống của con người. Trong Tin Mừng Gio-an, từ “thế gian” (kosmos) còn chỉ những nhóm người khác nhau.
II. Thế gian là ai?
Câu hỏi “Thế gian la ai?” đã định hướng nghĩa của từ “thế gian” (kosmos). Thế gian này không còn là
những sự vật (choses) mà là những con người (personnes). Có thể phân biệt ba
nhóm người mà từ “thế gian” (kosmos) nói tới: “Thế gian nhân loại”, “thế gian
chưa tin” và “thế gian thù ghét”.
1. Thế gian nhân loại
Thế gian có nghĩa “nhân loại” được làm rõ trong các kiểu diễn tả: “Yêu mến
thế gian” (3,16), “ánh sáng đến thế gian” (3,19; 12,46) và “ánh sáng của thế
gian” (8,12; 9,5).
a. “Yêu mến thế gian” (3,16)
Toàn bộ nội dung sứ vụ của Đức Giê-su được giới thiệu từ đầu sách Tin Mừng,
Đức Giê-su nói ở 3,16-17: “16 Thiên Chúa đã quá yêu mến thế gian (kosmos), đến nỗi đã ban Con Một, để bất cứ
ai tin vào Người thì không hư mất, nhưng có sự sống đời đời. 17 Vì Thiên Chúa
không sai Con đến thế gian (kosmos) để
lên án thế gian, nhưng để nhờ Người, thế gian (kosmos)
được cứu.”
Từ “thế gian” (kosmos) ở 3,16-17 có
nghĩa phổ quát và ám chỉ nhân loại. Đây không phải là thế gian sự vật (vũ trụ
hay trái đất), bởi vì tình yêu Thiên Chúa dành cho thế gian là để ban sự sống
cho ai tin vào Đức Giê-su. Như thế, đối tượng của tình yêu Thiên Chúa là toàn
thể loài người trên mặt đất. Tất cả mọi người được mời gọi “tin” để không phải
“hư mất”. Ga 3,17 xác nhận cách hiểu này, vì Đức Giê-su đến không phải để “lên
án thế gian” mà để “cứu thế gian”. Thế gian ở đây là những con người (personnes).
Thế gian này là toàn thể nhân loại, không loại trừ một ai. Trong mạch văn
3,16-17, có thể thay từ “thế gian” bằng từ
“nhân loại” hay “loài người”. Thiên Chúa đã yêu thương loài người và đã
sai Con Một của Người đến để cứu nhân loại khỏi sự chết. Như thế, sứ vụ của Đức
Giê-su là trao ban sự sống cho loài người. Bất cứ ai tin vào Người thì có sự
sống đời đời. Đây là khẳng định thần học quan trọng về tính phổ quát của ơn cứu
độ. Thế gian ở 3,16-17 là THẾ GIAN NHÂN LOẠI.
b. “Ánh sáng đến thế gian” (3,19; 12,46).
Theo thần học Tin Mừng thứ tư, ánh sáng được đồng hoá với Đức Giê-su. Kiểu
nói “ánh sáng đến thế gian” ở 3,19 và 12,46 cho phép hiểu từ “thế gian” (kosmos) theo nghĩa “nhân loại”. Đức
Giê-su tuyên bố: “Đây là án xử: Ánh sáng đã đến thế gian, nhưng người ta
đã yêu mến bóng tối hơn ánh sáng, vì các việc của họ thì xấu xa” (3,19). “Tôi
là ánh sáng đến trong thế gian, để bất cứ ai tin vào Tôi thì không ở lại trong
bóng tối” (12,46).
Từ “thế gian” (kosmos) trong kiểu nói “ánh
sáng đến thế gian” (3,19; 12,46) được hiểu là nhân loại. Đức Giê-su đã đến với nhân
loại, nhưng thay vì đón nhận Người, “người ta đã yêu mến bóng tối hơn ánh sáng”
(3,19), nghĩa là không tin vào Đức Giê-su. Đến cuối sứ vụ công khai, Đức Giê-su
nhắc lại rằng Người đến với thế gian nhân loại “để bất cứ ai tin vào Tôi thì
không ở lại trong bóng tối” (12,46).
c. “Ánh sáng của thế gian” (8,12; 9,5)
Trong Tin Mừng Gio-an, Đức Giê-su nhiều lần đồng hoá Người với ánh sáng khi
Người nói: “Chính Tôi là ánh sáng của thế gian” (8,12). Sự đồng hoá này là điểm
độc đáo của thần học Gio-an. Từ “thế gian”
(kosmos) trong kiểu nói này ám chỉ nhân loại, vì liên quan đến việc
“bước đi trong bóng tối” hay “có ánh sáng của sự sống”. Đức Giê-su đã nói với
những người Do Thái ở 8,12: “Chính Tôi là ánh sáng của thế gian. Người theo
Tôi, chắc chắn sẽ không bước đi trong bóng tối, nhưng sẽ có ánh sáng của sự
sống.” Vấn đề là “đi theo ánh sáng” để được sống. Ánh sáng đã đến với loài
người, đến với từng người, để đem lại sự sống cho ai tin vào ánh sáng.
Tóm lại, từ “thế gian” (kosmos)
trong ba kiểu nói: “Yêu mến thế
gian” (3,16), “ánh sáng đến thế gian” (3,19; 12,46) và “ánh sáng của thế gian”
(8,12; 9,5) chỉ “loài người”, nên gọi là THẾ GIAN NHÂN LOẠI. Thế gian theo nghĩa
này là một thực tại khách quan, không
tốt, không xấu theo nghĩa luân lý. Các môn đệ thuộc về thế gian nhân loại này.
“Thế gian nhân loại” là yếu tố quan trọng để xây dựng thần học Tin Mừng thứ tư.
Đức Giê-su được Chúa Cha sai đến với nhân loại, thế gian nhân loại là đối tượng
sứ vụ của Đức Giê-su. Người đến thế gian để cứu nhân loại khỏi sự hư mất và ban
cho con người sự sống đời đời. Ai tin thì có sự sống đời đời ngay từ bây giờ và
cả đời sau. Người đã hứa với Mác-ta ở 11,25-26: “25 Ai tin vào Thầy, dù đã chết
cũng sẽ được sống, 26 và tất cả những ai sống và tin vào Thầy, muôn đời sẽ
không chết.”
Trong chương 1: “Thế gian và những kẻ chống đối Đức Giê-su” của cuốn sách: Yêu
và ghét trong Tin Mừng Gio-an phần I, (tr.
43-162), “thế gian trái đất” và “thế gian nhân loại” được trình bày
chung với nhau. Bài viết này tách ra làm hai nghĩa khác nhau để rõ ràng và dễ
hiểu hơn. “Thế gian trái đất” là sự vật (chose), còn “thế gian nhân loại” là con
người (personne). Từ “thế gian” còn có nghĩa hẹp hơn khi ám chỉ những người chưa
tin vào Đức Giê-su.
2. Thế gian chưa tin
Một trong những đề tài lớn của Ga 17 là sứ vụ của
Đức Giê-su và sứ vụ các môn đệ, qua đó nhắm đến sứ vụ của những người tin qua
mọi thời đại. Khi ngỏ lời với Chúa Cha, Đức Giê-su gọi các môn đệ là “những
người mà Cha đã ban cho Con” (17,6.9). Nhóm môn đệ này có sứ vụ trong thế gian,
vì Người đã nói với Cha ở 17,18: “Như Cha đã sai Con đến thế gian (kosmos), Con
cũng sai họ đến thế gian (kosmos).” Từ nay, các môn đệ được Đức Giê-su sai vào
thế gian để tiếp tục sứ vụ của Người. Sứ vụ của Đức Giê-su đặt nền tảng nơi
Chúa Cha và sứ vụ của các môn đệ đặt nền tảng nơi Đức Giê-su. Chúa Cha đã sai
Đức Giê-su đến thế gian, và khi hoàn thành sứ vụ, Đức Giê-su sai các môn đệ vào
thế gian để tiếp tục sứ vụ rao giảng và làm chứng. Nhờ đó mà “thế gian chưa
tin” có thể nhận biết và tin là Chúa Cha đã sai Đức Giê-su (17,21.23).
Như thế, các môn đệ qua mọi thời đại có sứ vụ làm
cho tất cả những người chưa tin trở thành người tin, nghĩa là trở thành môn đệ
của Đức Giê-su. Từ “thế gian” (kosmos) trong kiểu nói: “Sai họ đến thế gian
(eis ton kosmon)” ở 17,18b ám chỉ tất cả những người chưa tin vào Đức Giê-su.
Các môn đệ thuộc về “thế gian nhân loại”, họ được Đức Giê-su sai đến với “thế
gian chưa tin”, nghĩa là khi trở thành người tin thì nhóm các môn đệ không còn
thuộc về “thế gian chưa tin” nữa. Đồng thời, các môn đệ được sai vào thế gian
chưa tin để rao giảng về Đức Giê-su cho tất cả những ai chưa nghe biết về Người.
Từ “thế gian” (kosmos) ở 17,18b bao hàm tất cả những
người chưa nhận biết Đức Giê-su nên gọi là THẾ GIAN CHƯA TIN. Thế gian này là
đối tượng sứ vụ của các môn đệ qua mọi thời đại. Trong Tin Mừng Gio-an, THẾ
GIAN CHƯA TIN bao gồm cả những kẻ chống lại Đức Giê-su. Đó là những người
Do-thái, những người Pha-ri-sêu, các thượng tế, họ không tin vào Đức Giê-su và
tìm cách bắt Người. Nói chung, “thế gian chưa tin” không có nghĩa xấu. Ngược
lại, Đức Giê-su quan tâm đến thế gian này và trối lại cho các môn đệ sứ vụ làm
cho “thế gian chưa tin” nhận biết và tin vào Người.
Trong thực tế, sứ vụ của Đức Giê-su và sứ vụ của các
môn đệ gặp sự chống đối của hai thế lực: 1) Thế lực bóng tối mà Tin Mừng thứ tư
gọi là “Xa-tan” (satan), “quỷ” (diabolos), “Ác thần” (ponêros) và “thủ lãnh của
thế gian” (arkhôn tou kosmou). Đây là thế lực vô hình, chống lại Thiên Chúa. 2)
Thế lực chống đối thứ hai có khuôn mặt người, họ không tin vào Đức Giê-su và
ghét các môn đệ, họ “thuộc về thế gian” (kosmos) và có thể gọi thế gian này là
“thế gian thù ghét”.
3. Thế gian thù ghét
Trong Tin Mừng Gio-an, từ “thế gian”
(kosmos) được dùng để nói đến sự thù ghét. “Thế gian” ghét ba đối tượng:
ghét Đức Giê-su (7,7), ghét các môn đệ (15,18; 17,14) và ghét Chúa Cha
(15,23-24). Thế gian ghét Đức Giê-su được nói đến lần đầu tiên ở 7,7. Người nói
với các anh em của Người: “Thế gian không thể ghét các anh, nhưng Tôi thì nó
ghét, vì Tôi làm chứng về nó là các việc của nó thì xấu xa.”
Sau khi kết thúc sứ vụ công khai, Đức Giê-su cho các môn đệ biết ở
15,18-19: “18 Nếu thế gian ghét anh em, anh em hãy biết rằng nó đã ghét Thầy
trước. 19 Nếu anh em thuộc về thế gian, thế gian đã yêu thích cái gì là của riêng
nó. Nhưng vì anh em không thuộc về thế gian và chính Thầy đã chọn anh em từ
giữa thế gian, vì điều này, thế gian ghét anh em.” Một trong những lý do để thế
gian ghét các môn đệ là các môn đệ lắng nghe và đón nhận lời Đức Giê-su. Vì tin
vào Đức Giê-su nên các môn đệ bị thế gian thù ghét và họ không thuộc về “thế
gian thù ghét”. Đức Giê-su nói với Cha của Người, trước sự hiện diện của các môn
đệ, ở 17,14: “Con đã ban cho họ lời của Cha và thế gian đã ghét họ vì họ không
thuộc về thế gian cũng như chính Con không thuộc về thế gian.”
Khi thế gian không tin, không đón nhận và ghét Đức Giê-su, thế gian ghét cả
Chúa Cha. Đức Giê-su kết tội thế gian này, khi nói với các môn đệ ở 15,22-24:
“22 Nếu Thầy không đến và nói với họ (thế gian), họ đã chẳng có tội. Nhưng bây giờ, họ không thể bào chữa tội của họ được. 23 Ai ghét
Thầy cũng ghét Cha của Thầy. 24 Nếu Thầy không làm những việc giữa họ, những
điều không một ai khác đã làm, họ đã chẳng có tội. Nhưng nay họ đã thấy và họ
ghét cả Thầy lẫn Cha của Thầy.”
Như thế, theo
thần học Tin Mừng Gio-an, từ “thế gian” (kosmos) còn có nghĩa: THẾ GIAN THÙ GHÉT.
Trong bối cảnh Tin Mừng Gio-an, “thế gian thù ghét” là một nhóm nhỏ những người
không tin. Họ chống đối và thù nghịch với Đức Giê-su. Đó là các nhân
vật: “những người Do Thái”, “những người Pha-ri-sêu” và “các thượng tế”, họ thù
nghịch và tìm cách giết Đức Giê-su. Đàng khác, sự kiện Tin Mừng Gio-an dùng từ “thế gian” (kosmos) để chỉ sự thù ghét cho phép hiểu
“thế gian thù ghét” ám chỉ đến những kẻ ghét và bách hại cộng đoàn các môn đệ
cuối thế kỷ I. Đối với độc giả ngày nay, “thế gian thù ghét” gợi đến sự thù ghét
và bách hại các môn đệ Đức Giê-su ở mọi nơi, mọi thời. Xem phân tích chi tiết
về “các đặc điểm của thế gian thù ghét” và tương quan giữa “thế gian thù ghét”
và “những kẻ chống đối Đức Giê-su” trong tập sách Yêu
và ghét trong Tin Mừng Gio-an phần I, tr.
124-156.
Kết luận
Phần trên đã phân biệt năm nghĩa của từ thế gian: “Thế gian vũ trụ”, “thế gian trái đất”, “thế gian nhân loại”,
“thế gian chưa tin” và “thế gian thù
ghét”. Năm nghĩa này cho thấy sự phong
phú, tinh tế và độc đáo của thần học Tin Mừng Gio-an trong cách dùng từ “thế
gian” (kosmos). Mỗi nghĩa trình bày những điểm thần học quan trọng:
1)
“Thế gian vũ trụ” xác định nguồn gốc và căn tính của Đức Giê-su. Người
đã có vinh quang và tình yêu của Chúa Cha trước khi thế gian được tạo thành.
2)
“Thế gian trái đất” mô tả nơi Đức Giê-su được sai đến để thi hành sứ vụ.
Người được sai đến thế gian và Người sẽ rời bỏ thế gian mà về với Cha của
Người.
3)
“Thế gian nhân loại” là nơi Thiên Chúa bày tỏ tình yêu của Người. Đức
Giê-su được Cha sai đến với nhân loại, đến với mọi người và từng người, để cứu
con người khỏi hư mất và ban cho nhân loại sự sống đời đời.
4)
“Thế gian chưa tin” là nơi các môn đệ thi hành sứ vụ Đức Giê-su giao
phó. Các môn đệ là những người đã tin, được Đức Giê-su sai đến với “những người
chưa tin” để làm họ nhận biết và tin vào Đức Giê-su.
5)
“Thế gian thù ghét” ám chỉ những người đã nghe giáo huấn của Đức Giê-su,
đã thấy những dấu lạ Người làm mà vẫn không tin. Đức Giê-su cho các môn đệ biết
những khó khăn thử thách khi thi hành sứ vụ. Họ có thể bị thù ghét, bị bách hại
vì niềm tin.
Năm nghĩa của từ “thế gian” có thể minh hoạ bằng sơ đồ:
Sơ đồ trên cho thấy, nếu không phân biệt “thế gian thù ghét” với “thế gian
chưa tin” hay với “thế gian nhân loại” thì có nguy cơ hiểu sai ý nghĩa thần học
của Tin Mừng Gio-an. Khi khái quát sự thù ghét của thế gian, như thể hễ “không
tin” là “thù ghét các môn đệ” là không phù hợp với bối cảnh văn chương và bối
cảnh thần học của Tin Mừng thứ tư. Phân biệt các nghĩa của từ “thế gian” cho
phép hiểu rằng: Các môn đệ thuộc về “thế gian nhân loại” và họ được Đức Giê-su
tách ra từ giữa thế gian nhân loại để trở thành những người tin. Vì vậy, họ
không còn thuộc về “thế gian chưa tin”, và được giao sứ vụ đến với “thế gian
chưa tin”, trong đó có “thế gian thù ghét”. “Thế gian thù ghét” này là một nhóm
nhỏ những ai thù ghét và chống đối Đức Giê-su và các môn đệ.
Vòng tròn thứ tư (thế gian chưa tin) và thứ năm (thế gian thù ghét) biểu
thị bằng đường chấm liên lục. Lý do là vì con người, với sự tự do của mình, có
thể qua lại giữa các vòng tròn ấy. Các môn đệ có thể không theo Đức Giê-su nữa
để thuộc về “thế gian chưa tin”, thậm chí có thể đứng về phía “thế gian thù
ghét” để bách hại người tin. Ngược lại, những người hiện nay chưa tin hay thù
ghét, có thể trở thành môn đệ Đức Giê-su trong tương lai.
Tìm hiểu từ “thế gian” như trên không làm mất tính dị nghĩa (nhiều khía
cạnh, không rõ) của từ này trong bản văn Gio-an. Sự dị nghĩa của từ “thế gian”
giúp tránh khoanh vùng hay tách biệt giữa các nhóm nhân vật: “Các môn đệ” và
“thế gian thù ghét”. Không nên hiểu: Những người hiện nay là môn đệ thì mãi mãi
thuộc về Đức Giê-su, và những người thuộc về thế gian thù ghét thì mãi mãi có
tội và hư mất. Thực ra, vấn đề thuộc về ai, thuộc về Thiên Chúa hay thuộc về
quỷ, thuộc về thế gian hay thuộc về Đức Giê-su, là vấn đề không ngừng đặt ra
cho tất cả mọi người (đã tin và chưa tin). Tin Mừng Gio-an cho thấy các môn đệ
có thể bỏ Đức Giê-su, không làm môn đệ của Người nữa (6,66). Ngược lại,
Ni-cô-đê-mô là người Do Thái, thuộc nhóm Pha-ri-sêu, lại cư xử như môn đệ của
Đức Giê-su (19,39-40). Vì thế, để “là” và để “làm” môn đệ đích thực của Đức
Giê-su, con người cần liên lỷ lựa chọn thuộc về Thiên Chúa, thuộc về Đức Giê-su,
thuộc về sự thật, thuộc về đàn chiên của Người và nghe tiếng Người./.
Ngày 26 tháng 06
năm 2011.
Giu-se Lê Minh
Thông, O.P.
http://leminhthongtinmunggioan.blogspot.com/2011/06/tim-hieu-tin-mung-gio-the-gian-la-gi.html
Email: josleminhthong@gmail.com
Danh từ “kosmos”
(thế gian) xuất hiện 78 lần trong Tin Mừng thứ tư ở các nơi như sau:
Ch. 1–12, 33
lần: 1,9.10a.10b.10c.29; 3,16.17a.17b.17c.19; 4,42; 6,14.33.51; 7,4.7;
8,12.23a23b.26; 9,5a.5b.39; 10,36; 11,9.27; 12,19.25.31a.31b.46.47a.47b.
Ch. 13–17, 40
lần: 13,1a.1b; 14,17.19.22.27.30.31; 15,18.19a.19b.19c.19d.19e;
16,8.11.20.21.28a.28b.33a.33b;
17,5.6.9.11a.11b.13.14a.14b.14c.15.16a.16b.18a.18b.21.23.24.25.
Ch. 18–21, 5
lần: 18,20.36a.36b.37; 21,25.
Xem phân tích chi tiết về cách dùng và ý nghĩa danh từ “thế gian” (kosmos)
trong chương 1: “Thế gian và
những kẻ chống đối Đức Giê-su” của cuốn sách:
Yêu
và ghét trong Tin Mừng Gio-an phần I, tr.
43-162.