Một góc trang đầu tiên của sách Tin Mừng Gio-an (Ga 1)
trong Codex Sinaiticus (thế kỷ IV). Hai cột trong hình, tiếng Hy
Lạp viết chữ hoa,
là nửa trang theo chiều dọc, vì mỗi trang có bốn cột (xem hình
cuối bài viết).
Dẫn nhập
Truyền thống cho rằng tác giả sách
Tin Mừng Gio-an (Tin Mừng thứ tư) là Tông Đồ Gio-an. Vị Tông Đồ này xuất hiện
nhiều lần trong Tin Mừng Nhất Lãm. Truyền thống cũng đồng hoá Tông Đồ Gio-an
với người môn đệ Đức Giê-su yêu mến trong Tin Mừng thứ tư. Tại sao truyền thống
đồng hoá tác giả sách Tin Mừng thứ tư với Tông Đồ Gio-an? Phần phân tích sau
đây sẽ thử trả lời câu hỏi này.
Từ hơn một thế kỷ nay, các nhà nghiên
cứu Tin Mừng thứ tư đã đặt lại vấn đề tác giả sách Tin Mừng này. Năm 1984, tác giả Édouard Cothenet viết: “Kể từ nửa cuối
thế kỷ thứ II, một truyền thống chắc chắn gán Tin Mừng thứ tư cho Tông Đồ Gio-an, con ông Dê-bê-đê. Sự quy kết này đã bị nghi
ngờ lần đầu tiên vào năm 1820; kể từ đó, vấn đề này trở thành đối tượng của
những cuộc tranh luận sôi nổi”(É. COTHENET, “L’évangile
selon saint Jean” dans É. COTHENET, P. LE FORT, (et al.), Les écrits de saint Jean et
l’épître aux Hébreux,(Petite Bibliothèque des Sciences Bibliques, NT 5),
Paris, Desclée, 1984, p. 141).
Năm 1998,
Raymond E. Brown (đã từng là thành viên của Uỷ Ban Kinh Thánh Giáo Hoàng)
đã viết về lập trường của Uỷ Ban Kinh Thánh Giáo Hoàng liên quan đến vấn đề này
như sau: “Vào năm 1907, trước sự khước từ ngày càng tăng về việc đồng hóa giữa người môn đệ Đức Giê-su yêu mến
và tác giả Tin Mừng [thứ tư] với Gio-an, con ông Dê-bê-đê, Uỷ Ban Kinh Thánh
Giáo Hoàng tại Rô Ma đã tuyên bố rằng Tông Đồ Gio-an là tác giả sách Tin Mừng.
Nhưng đến năm 1955 thư ký của Uỷ Ban này đã viết rằng: Những nhà giải thích
Kinh Thánh được ‘hoàn toàn tự do’ trước lời tuyên bố trên vì nókhông liên quan đến đức tin và phong hóa. Vì thế,
không có lập trường Công Giáo khép kín về việc xác định tác giả Tin Mừng Gio-an
(hoặc các Tin Mừng khác)” (R. E. BROWN, “Note sur l’identification de l’auteur
du quatrième évangile” dans Id., Une
retraite avec saint Jean ‘pour que vous ayez la vie’, Paris, Le Cerf, 2004, p. 126;
original: A Retreat With John
the Evangelist, That You May Have Life, 1998).
Lời trích trên đây cho phép độc giả “hoàn toàn tự do” để tìm hiểu vấn đề
tác giả sách Tin Mừng thứ tư. Uỷ Ban Kinh Thánh Giáo
Hoàng đã sáng suốt khi khẳng định: Những nhà giải thích Kinh Thánh được hoàn
toàn tự do nghiên cứu về vấn đề tác giả Tin Mừng thứ tư, vì điều này không liên
quan đến đức tin và phong hoá. Thực ra, hiện nay vấn đề ai là “tác giả thực sự”
không còn quan trọng nữa trong việc tìm hiểu Tin Mừng. Dù ai là tác giả thực sự
của Tin Mừng thứ tư đi nữa thì vẫn không làm thay đổi nội dung sách Tin Mừng. Điều
thuộc thẩm quyền của Hội Thánh chính là nội dung mặc khải trong sách Tin Mừng
thứ tư.
Vấn đề tác giả sách Tin Mừng thứ tư thuộc lãnh vực nghiên cứu lịch sử. Bài
viết này không nhằm nghiên cứu lịch sử, mà chỉ trình bày sơ lược hai mục: (I)
Tìm hiểu xem các tác giả thế kỷ II-III nói gì về tác giả sách Tin Mừng thứ tư.
(II) Sau đó sẽ quan sát sách Tin Mừng thứ tư trong tình trạng hiện nay xem có
thể nói gì về tác giả sách Tin Mừng này.
I. Tác giả sách Tin Mừng thứ tư vào thế kỷ II-III
Một số trích dẫn tài liệu các tác giả thế kỷ II-III như Irénée (khoảng năm
130–202), Papias (khoảng năm 100–150), Eusèbe de Césarée (khoảng năm 270–338), Polycrate (khoảng năm 125–200),
Clément d’Alexandrie (khoảng năm 150–200) và Tertullien (khoảng
năm 160–240) cho thấy sự phức tạp của vấn đề tác giả sách Tin
Mừng thứ tư.
1. Irénée (130–202)
Chứng cứ quan trọng của Irénée về tác giả sách Tin Mừng thứ tư được trình
bày trong chuyên luận Chống
lạc giáo (traité Contre les Hérésies), cuốn
III, 1,1: “Gio-an, người môn đệ của Chúa, chính người này đã tựa vào ngực
của Người, người môn đệ này cũng đã xuất bản sách Tin Mừng trong khi lưu trú
tại Ê-phê-xô, ở A-xi-a”(IRÉNÉE de
Lyon, Contre les Hérésies, III,
1,1, (Sources Chrétiennes [SC] 211), 1974, p. 25).
Rõ ràng là tác giả Irénée muốn đồng hóa “Gio-an” với “người môn đệ Đức Giê-su yêu mến”
trong Tin Mừng thứ tư, nhưng đó là Gio-an nào? Vì như sẽ thấy trong phần sau:
Có nhiều môn đệ mang tên Gio-an: Gio-an tư tế, Gio-an kỳ mục.
Nếu Irénée hiểu
“Gio-an môn đệ của Chúa” nói trên là “Gio-an Tông Đồ” thì cũng không chắc đây
là “Tông Đồ Gio-an con ông Dê-bê-đê”, vì thời đó, tước hiệu Tông Đồ được hiểu
theo nghĩa rộng. Jean Colson cho biết: “Tên gọi Tông Đồ vào thế kỷ II không
nhất thiết có nghĩa là một Tông Đồ trong Nhóm Mười Hai. Chính Irénée cũng gọi bảy mươi hai môn đệ trong Tin
Mừng Lu-ca với tên gọi Tông Đồ” (J. COLSON, L’énigme
du disciple que Jésus aimait, (Théologie
historique 10), Paris, Beauchesne, 1969, p. 32).
Có lẽ mối bận tâm của Irénée về tác giả Tin Mừng thứ tư không mang tính
khoa học như độc giả ngày nay. Mạch văn cho thấy lập luận của Irénée mang tính
hộ giáo, các lý chứng nhằm chống lại các lạc giáo và biện hộ cho sự chính thống
của Hội Thánh. Khi khẳng định “Gio-an, môn đệ của Chúa” là tác giả sách Tin
Mừng thứ tư, có lẽ Irénée quan tâm đến việc tạo uy thế cho sách Tin Mừng thứ tư
để sách Tin Mừng này được Hội Thánh đón nhận vào Quy Điển các sách Tân Ước.
2. Papias (100–150) và Eusèbe de Césarée (270–338)
Trong sách Lịch sử Giáo Hội (Histoire
ecclésiastique), Eusèbe kể lại những gì Papias đã nói: “Nếu như có ai đó
thuộc nhóm các kỳ mục đến, tôi sẽ hỏi thăm về những lời nói của các kỳ mục:
Những điều mà An-rê, hay Phê-rô, hay Phi-líp-phê, hay Tô-ma, hay Gia-cô-bê, hay
Gio-an, hay Mát-thêu, hay người nào đó trong các môn đệ của Chúa, đã nói; và
những điều Ariston và Gio-an kỳ mục, môn đệ của Chúa, đã nói” (EUSÈBE de
Césarée, Histoire
ecclésiastique, III, 39,4,
(SC 31), 1952, p. 154).
Trong danh sách
trên, Papias phân biệt “Gio-an Tông Đồ” và “Gio-an kỳ mục, môn đệ của Chúa” (le
presbytre Jean, disciple du Seigneur), kiểu xưng hô này gần với Irénée đã trích
dẫn trên đây: “Gio-an, người môn đệ của Chúa” (Jean, le disciple du Seigneur).”
Người ta không rõ, “Gio-an” theo Irénée và “Gio-an kỳ mục” theo Papias là một
hay hai nhân vật khác nhau.
Theo Eusèbe: “Tông Đồ Gio-an bị kết án phải ở trên đảo Pát-mô”(EUSÈBE de Césarée, Histoire ecclésiastique, III, 13,1, 1952, p. 121), gợi đến tác giả sách
Khải Huyền. Nhưng sách Khải Huyền cho biết người bị kết án
phải ở trên đảo Pát-mô chính là Gio-an tác giả sách Khải Huyền chứ không phải
tác giả Tin Mừng thứ tư.
3. Polycrate
(125–200)
Polycrate viết
cho Giám mục Rô-ma là Victor về vấn đề lễ Phục Sinh, được Eusèbe thuật lại
trong Lịch sử Giáo
Hội (V 24,2-3) như
sau:“Chúng tôi cử hành cách chu đáo ngày đó,
không cắt xén cũng không thêm thắt điều gì. Quả thật, chính ở Tiểu Á đã an nghỉ
những vị nổi tiếng, những vị này sẽ sống lại trong ngày quang lâm của Chúa, khi
Người sẽ đến trong vinh quang từ các tầng trời và sẽ tìm kiếm tất cả các thánh:
Phi-líp-phê, một trong mười hai Tông
Đồ, đã an nghỉ ở Hiérapolis cùng với hai
người con gái già nua trong sự trinh tiết, và một người con gái khác đã sống
trong Thần Khí và an nghỉ ở Ê-phê-xô. Còn Gio-an, người đã tựa vào ngực Chúa,
là tư tế (hiéreus) và đã mang cây đèn vàng (pétalon), tử đạo và
thầy dạy; vị này đã an nghỉ tại Ê-phê-xô” (EUSÈBE de Césarée, Histoire ecclésiastique, V, 24,2-3, livre V-VII, (SC 41),
Paris, Le Cerf, 1955, p. 67-68).
Polycrate nói rõ
Gio-an tư tế là người đã tựa vào ngực Chúa; đây là môn đệ Đức Giê-su yêu mến
hiện diện ở Ga 13,23. Điều lạ là theo Polycrate, người môn đệ này là một tư tế
(prêtre, hiéreus). Trong mạch văn, Polycrate phân biệt: Tông Đồ Phi-líp-phê và
tư tế Gio-an. Polycrate đồng hóa “Gio-an
tư tế” với “môn đệ Đức Giê-su yêu mến”, nên Gio-an mà Irénée nói tới: “Gio-an,
người môn đệ của Chúa, chính người này đã tựa vào ngực của Người” (Contre
les Hérésies, III, 1,1) là Gio-an tư tế, chứ không phải Gio-an Tông Đồ.
Dựa vào từ “tư
tế” (prêtre, hiéreus) trong lời của Polycrate, được Eusèbe thuật lại như trên,
một số tác giả cho rằng, người môn đệ Đức Giê-su yêu mến trong Tin Mừng thứ tư
không phải là “Tông Đồ Gio-an con ông Dê-bê-đê” nhưng là một “tư tế” ở
Giê-ru-sa-lem có tên là Gio-an. Chẳng hạn, năm 1969, J. Colson phủ nhận việc
đồnghóa “người môn đệ Đức Giê-su yêu mến” với
“ Tông Đồ Gio-an” và cho rằng người môn đệ này là một tư tế ở Giê-ru-sa-lem,
tên là Gio-an, người môn đệ này quen biết vị thượng tế (Ga 18,13-15) và có một
ngôi nhà ở Giê-ru-sa-lem (xem J. COLSON, L’énigme
du disciple que Jésus aimait, 1969,
tr. 42 và tr. 112).
4. Clément
d’Alexandrie (150–200)
Eusèbe kể lại lời Clément d’Alexandrie như sau: “Còn Gio-an, sách cuối cùng
[của bốn Tin Mừng], khi đã xem xét những điều cụ thể được trình bày trong các
Tin Mừng, được các môn đệ thúc đẩy và được Thánh Thần linh hứng, Gio-an đã viết
Tin Mừng tâm linh. Đó là những gì Clément đã nói” (EUSÈBE de Césarée, Histoire ecclésiastique, VI, 14,7, (SC 41), 1955, p. 107).
Lời của Clément d’Alexandrie trích dẫn trên có thể thuộc về một truyền
thống khác, dịch giả tác phẩm Histoire
ecclésiastique chú thích:
“Rất có thể Clément kể lại một truyền thống nữa của các vị kỳ mục. Irénée nhắc
lại là Tin Mừng thánh Gio-an được viết sau cùng, và quy điển Muratori cho biết
Tin Mừng được viết ra do yêu cầu của các môn đệ hay của những người thân cận
với Tông Đồ. Đặc tính tâm linh của Tin Mừng chỉ được Clément nhấn mạnh” (EUSÈBE de Césarée, Histoire ecclésiastique, chú thích câu VI, 14,7, p. 107-108).
5. Tertullien (160–240)
Theo Tertullien,
Tông Đồ Gio-an đã phải ra trước toà án ở Rô-ma và bị nhấn chìm trong vạc dầu
sôi. Tertullien viết: “Nếu anh em ở miền biên giới nước Ý, anh em có Rô-ma, mà
uy thế của nó cũng mang đến chỗ dựa cho chúng ta. Phúc thay Hội Thánh! Các Tông
Đồ đã truyền đạt hết đạo lý và đã đổ máu đào cho Hội Thánh (...) Ở đó [Rô-ma]
Tông Đồ Gio-an đã bị nhấn chìm trong dầu đun sôi: người đã ra khỏi vạc dầu
không thương tích và bị đưa đi lưu đày trên một hòn đảo” (TERTULLIEN, Traité de la prescription contre
les hérétiques,XXXVI, 3, (SC 46), Traduction de P. de Labriolle, Paris, Le
Cerf, 1957, p. 138).
É. Cothenet nhận
định về những gì Tertullien viết như sau: “Cực hình bằng dầu sôi mà Gio-an đã
bị kết án ở Rô Ma dưới thời hoàng đế Domitien, được Tertullien nói đến lần đầu
tiên, chỉ thuần tuý là huyền thoại” (É.
COTHENET, “L’évangile selon saint Jean” dansÉ. COTHENET,
P. LE FORT, (et al.), Les
écrits de saint Jean et l’épître aux Hébreux, 1984, p. 145).
Tóm lại, các tác
giả thế kỷ II-III nói nhiều cách khác nhau về nhân vật Gio-an được cho là tác
giả Tin Mừng thứ tư: “Gio-an môn đệ của Chúa” (Irénée); “Gio-an kỳ mục, môn đệ
của Chúa” (Papias); “Còn Gio-an, người đã tựa
vào ngực Chúa, là tư tế” (Polycrate); “Gio-an
đã viết Tin Mừng tâm linh” (Clément
d’Alexandrie). Như thế, các tài liệu trong thế kỷ II-III không cho phép
xác định cách khoa học và rõ ràng về ai là tác giả Tin Mừng thứ tư; và cũng
không có bằng chứng chắc chắn để đồng hóa “người môn đệ Đức Giê-su yêu mến” với
“Tông Đồ Gio-an con ông Dê-bê-đê” trong Tin Mừng Nhất Lãm.
Các bút tích thế
kỷ II-III, như đã trình bày, mang tính hộ giáo và có nhiều nét huyền thoại. Các
tác giả thường dựa vào các truyền thống cũng như các truyền thuyết khác nhau.
Tuy nhiên, những bản văn như trên phù hợp với bối cảnh và cách suy nghĩ của thế
kỷ II-III. Cần phân biệt các truyền thống khác nhau cũng như
thể văn thời đó, trước khi đưa ra những kết luận mang tính lịch sử.
II. Tác giả theo
bản văn Tin Mừng thứ tư
Đọc Tin Mừng thứ
tư, độc giả có thể thoáng thấy những khủng hoảng chính của cộng đoàn đón nhận
Tin Mừng. Chẳng hạn, những người Do Thái tin vào Đức Giê-su bị trục xuất khỏi
hội đường (Ga 9,22.34; 12,42; 16,2). Việc soạn thảo Tin Mừng trong giai đoạn
cuối, có thể được thực hiện sau biến cố xung đột giữa Do Thái giáo và Ki-tô
giáo cuối thể kỷ I. Tin Mừng thứ tư mô tả phần nào tình trạng xã hội và Giáo
Hội thời đó.
Bản văn Tin Mừng thứ tư hiện nay để lại nhiều dấu hiệu cho thấy Tin Mừng
được biên soạn qua nhiều giai đoạn khác nhau. Trong Tin Mừng có nhiều câu văn,
nhiều ý tưởng lặp lại (répétitions), có những ý tưởng thêm vào (ajouts), có
những lời giải thích (gloses) minh nhiên hoặc mặc nhiên của người thuật chuyện
cắt ngang câu chuyện đang kể. Trong nội dung Tin Mừng, có những điểm không hợp
lý (incohérences) về cách sắp xếp bản văn, về cấu trúc và về thần học. Đặc biệt
là một số vấn đề nan giải (apories) có thể giải thích nhiều cách khác nhau. Từ
những nhận xét trên, có thể kết luận Tin Mừng được biên soạn trong nhiều giai
đoạn khác nhau, với nhiều tác giả khác nhau. Nhóm chịu trách nhiệm biên soạn
Tin Mừng thứ tư được gọi là “trường phái Gio-an” (l’école johannique).
Về các giai đoạn
hình thành Tin Mừng thứ tư, ngày nay các tác giả đưa ra nhiều giả thuyết khác
nhau về các giai đoạn biên soạn sách Tin Mừng. Nhìn chung, các tác giả thống
nhất là Tin Mừng thứ tư được biên soạn với ba giai đoạn chính (xem: M.
GOURGUES, “Note sur le disciple bien-aimé et la formation de l’‘évangile
spirituel’”, dans Id., Pour que
vous croyiez… Piste d’exploration de l’Évangile de Jean, 1982, p. 277-280; J.-P. LÉMONON,
“Chronique johannique (1981-1992)”, LV(L), n° 209 (1992) 95-104).
Người môn đệ Đức Giê-su yêu mến là
người đứng đầu “trường phái Gio-an” chịu trách nhiệm biên soạn sách Tin Mừng.
Ba giai đoạn chính hình thành có thể tóm kết như sau:
I. Giai đoạn I được gán cho người môn đệ
Đức Giê-su yêu mến. Người môn đệ này là chứng nhân trực tiếp
biến cố Thương Khó của Đức Giê-su
và chính người môn đệ này đã viết ra lời chứng về Đức Giê-su (21,24).
II. Giai đoạn II do một hay nhiều môn đệ
thuộc trường phái Gio-an biên soạn. Bản văn “Tin Mừng sơ khởi” này có kết luận
ở 20,30-31, đây là kết luận thứ nhất trong sách Tin Mừng hiện nay. Tác giả (hay
nhóm tác giả) của giai đoạn II này được gọi là “tác giả sách Tin Mừng”
(l’évangéliste).
III. Giai đoạn III do một hay nhiều thành viên trường phái Gio-an biên soạn, được gọi
là “soạn giả sách Tin Mừng” (le rédacteur). Soạn giả này đã biên soạn ch. 21 và
viết kết luận thứ hai ở 21,24-25. Soạn giả có thể đã điều chỉnh, thêm bớt một
số đoạn văn trong sách “Tin
Mừng sơ khởi” đã có sẵn.
Phân chia quá trình hình thành Tin Mừng thứ tư thành ba giai đoạn chính như
trên chỉ có tính quy ước và tương đối, vì người ta không có tài liệu để xác
định sự hiện hữu của ba giai đoạn trên. Rất có thể giữa các giai đoạn chính này
còn có các giai đoạn trung gian. Các tác giả nghiên cứu các giai đoạn hình
thành Tin Mừng thứ tư đưa ra nhiều giả thuyết khác nhau, với nhiều giai đoạn
khác nhau, nhưng có thể tóm kết vào ba giai đoạn chính như trên.
Kết luận
Truyền thống đồng hoá năm nhân vật sau đây thành một nhân vật: Gio-an,
con ông Dê-bê-đê:
1) Tông Đồ Gio-an, con ông Dê-bê-đê.
2) Người
môn đệ Đức Giê-su yêu mến trong Tin Mừng thứ tư.
3) Tác
giả sách Tin Mừng thứ tư.
4) Tác
giả ba thư Gio-an.
5) Tác
giả sách Khải Huyền.
Tuy nhiên, phần
lớn các tác giả Kinh Thánh ngày nay cho rằng năm nhân vật trên đây là năm nhân
vật khác nhau. Đặc biệt “tác giả Tin Mừng thứ tư” không phải là một người mà là
một trường phái, tạm gọi là “trường phái Gio-an” (école johannique) và sách Tin
Mừng này được biên soạn qua nhiều giai đoạn khác nhau.
Trong tác phẩm
đồ sộ (4 volumes) của John Meier (2001) về Đức Giê-su lịch sử, tác giả đề nghị
phân biệt năm nhân vật khác nhau liên quan đến Tông Đồ Gio-an. J. Meier viết: “Hầu
hết các nhà chú giải Tân Ước ngày nay phân biệt năm nhân vật khác nhau, mà phần
lớn, nếu không muốn nói là tất cả, đã đồng hóa với nhân vật Gio-an con ông Dê-bê-đê,
bởi truyền thống Ki-tô giáo. Năm nhân vật không bao giờ lẫn lộn với nhau trong
bản văn Tân Ước là (1) Gio-an, con ông Dê-bê-đê, (2) Môn đệ vô danh trong Tin
Mừng thứ tư: ‘người môn đệ Đức Giê-su yêu mến’, (3) Tác giả vô danh của Tin
Mừng thứ tư, (4) Tác giả vô danh của ba thư, được gọi là thư Gio-an, và (5) Vị
ngôn sứ có thị kiến, người đã viết sách Khải Huyền và tự xưng mình là Gio-an” (J. P. MEIER, “Jean”, dans Id., Un
certain Juif Jésus, les données de l’histoire, vol. III: Attachements, affrontements,
ruptures, (Lectio Divina),
Paris, Le Cerf, 2006, p. 147-156, original: Jesus,
A marginal Jew, vol. III: Companions and Competitors, 2001, New York, Doubleday).
Tìm hiểu vấn đề
tác giả sách Tin Mừng thứ tư như trên giúp độc giả giải thích được phần nào
những điều xem ra không hợp lý trong bản văn Tin Mừng thứ tư hiện nay. Chẳng
hạn, vì Tin Mừng được biên soạn qua nhiều giai đoạn, nên độc giả hiểu tại sao
lại có hai kết luận sách Tin Mừng (kết luận ở 20,30-31 và 21,24-25); tại sao
cuối chương 14, Đức Giê-su nói với các môn đệ: “Hãy đứng dậy, chúng ta đi khỏi đây” (14,31), nhưng rồi lại không đi, Đức Giê-su còn nói với các môn đệ
thêm ba chương nữa (Ga 15–17) rồi mới đi…
Đặt lại vấn đề
tác giả sách Tin Mừng thứ tư trong tinh thần tôn trọng bản văn, không áp đặt
lên bản văn những gì bản văn không nói đến, giúp độc giả có cơ may thưởng thức
được những nét độc đáo của thần học Tin Mừng thư tư. Có thể đọc thêm các bài viết
liên quan đến vấn đề này: “Tông Đồ Gio-an trong Tin Mừng Nhất Lãm và người môn đệ
Đức Giê-su yêu mến trong Tin Mừng thứ tư”; “Bốn môn đệ vô danh trong Tin Mừng thứ tư”. Vấn đề tác giả sách Tin Mừng Gio-an
vào thế kỷ II-III và nghiên cứu ngày nay đã được trình bày chi tiết trong tập
sách: Người môn đệ Đức Giê-su yêu mến trong Tin Mừng thứ tư là
ai?, Nxb. Phương
Đông, 276 trang.
Ngày nay, các
tác giả thường gọi “Tin Mừng Gio-an” là “Tin Mừng thứ tư” (le quatrième
Évangile, the Fourth Gospel), vì là cuốn sách Tin Mừng thứ tư trong bốn sách
Tin Mừng. Gọi như thế để tránh sự đồng hoá tên gọi “Gio-an” với “Tông Đồ Gio-an
con ông Dê-bê-đê”. Tuy nhiên, độc giả vẫn có thể gọi Tin Mừng này bằng tên gọi
quen thuộc là “Tin Mừng Gio-an” khi hiểu đây là tựa đề một cuốn sách Tin Mừng.
Khi nói đến “Tin Mừng Gio-an” là nói đến nội dung mặc khải trong sách “Tin Mừng
thứ tư”./.
Ngày 04 tháng 09
năm 2011.
Giu-se Lê Minh
Thông, O.P.
http://leminhthongtinmunggioan.blogspot.com/2011/09/ai-la-tac-gia-sach-tin-mung-gio.html
Email:
josleminhthong@gmail.com
Các bài viết liên quan:
1. “Tông Đồ Gio-an trong Tin
Mừng Nhất Lãm và người môn đệ Đức Giê-su yêu mến trong Tin Mừng thứ tư”
2. “Bốn môn đệ vô danh trong
Tin Mừng thứ tư”
3. Người môn đệ Đức Giê-su yêu
mến trong Tin Mừng thứ tư là ai?
Sách Kinh Thánh Codex Sinaiticus, thế
kỷ IV.