Đoạn văn Ga
16,4b-11 nói về sự ra đi của Đức Giê-su và việc Đấng Pa-rác-lê sẽ đến. Khi đến,
Đấng Pa-rác-lê sẽ chứng minh thế gian sai lầm về tội, về sự công chính và về sự
xét xử. Như đã trình bày trong bài viết “Đấng Pa-rác-lê là ai?”,
“Đấng Pa-rác-lê – Thần Khí sự thật” là đề tài độc đáo riêng của Tin Mừng Gio-an
và được trình bày qua năm đoạn văn: (1) 14,15-17; (2) 14,25-26; (3) 15,26-27;
(4) 16,7-11; (5) 16,12-15. Cả năm đoạn văn này thuộc về 3 chương (Ga 14–16).
Đoạn văn Ga 16,4b-11 là mặc khải của Đức Giê-su về sự cần thiết
Người phải ra đi và về vai trò của Đấng Pa-rác-lê trong tương quan với thế
gian. Đấng Pa-rác-lê chứng minh thế gian sai lầm như thế nào, cho ai và để làm
gì?
Các mục: (1) Bản
văn Ga 16,4b-11, (2) Phân đoạn và bối cảnh Ga 16,4b-11, (3) Cấu trúc 16,4b-11, (4) Chứng minh thế gian sai lầm về tội, về sự công chính và về sự xét
xử, trình bày sau đây sẽ giúp trả lời phần nào câu hỏi trên.
1. Bản văn Ga 16,4b-11:
(Bản dịch: Bản văn Gio-an, TIN MỪNG và BA
THƯ, Hy Lạp – Việt.)
Đức Giê-su nói với
các môn đệ:
16,4bNhững điều này, Thầy đã không nói với anh em từ đầu, vì Thầy còn ở lại với
anh em. 5Nhưng bây giờ
Thầy đi về với Đấng đã sai Thầy, mà không ai trong anh em hỏi Thầy: ‘Thầy đi
đâu?’ 6Nhưng vì Thầy
nói ra các điều ấy, nỗi ưu phiền
tràn ngập lòng anh em. 7Chính
Thầy nói sự thật với anh em: Sẽ có lợi cho anh em nếu Thầy ra đi. Nếu Thầy
không ra đi, Đấng Pa-rác-lê sẽ không đến với anh em; nhưng nếu Thầy đi, Thầy sẽ sai Đấng ấy đến với anh
em.
16,8Khi Đấng ấy đến, Người sẽ chứng minh thế gian sai lầm về tội, về sự công
chính và về sự xét xử. 9Về
tội: Họ không tin vào Thầy. 10Về sự công chính: Thầy đi
về với Cha, và anh em không còn thấy Thầy. 11Về
sự xét xử: Thủ lãnh của thế gian này đã bị xét xử.
2.
Phân đoạn và bối cảnh Ga 16,4b-11
Đoạn văn 16,4b-11
thuộc về đoạn văn lớn hơn: 16,4b-15. Ở 16,4, có sự phân cách giữa 16,4a và
16,4b qua từ “những điều này” (tauta). Đức Giê-su nói ở 16,4a: “Những điều này,
Thầy nói với anh em”, lời này ám chỉ những gì Đức Giê-su đã nói trước đó
(15,18–16,3). Trong khi từ “những điều này” (tauta) ở 16,4b nói về những điều
Đức Giê-su chưa nói: “Những điều này (tauta), Thầy đã không nói với anh em từ
đầu, vì Thầy còn ở lại với anh em” (16,4a). Bây giờ Người đi về với Cha (16,5),
nên Người nói với các môn đệ.
Đoạn văn 16,12-15 vẫn nói về Đấng Pa-rác-lê, nhưng có sự thay đổi đề tài
giữa 16,11 và 16,12. Đoạn văn 16,7-11 trình bày hoạt động của Đấng Pa-rác-lê
trong tương quan với thế gian: “chứng minh thế gian sai lầm...” (16,8), còn
16,12-15 trình bày hoạt động của Đấng Pa-rác-lê nơi các môn đệ. Như thế, hoạt
động của Đấng Pa-rác-lê liên quan đến hai đối tượng khác nhau: Đấng Pa-rác-lê
và thế gian (Ga 16,7-11); Đấng Pa-rác-lê và các môn đệ (16,12-15).
Những quan sát
trên cho phép tách đoạn văn 16,4b-11 làm thành một tiểu đoạn tương đối độc lập
để phân tích. Đồng thời, tiểu đoạn 16,4b-11 cũng soi sáng cho đoạn văn trước
nó. Thật vậy, trong đoạn văn Ga 15,18–16,4a, Đức Giê-su cho các môn đệ biết họ
sẽ bị thế gian bách hại và giết chết thì trong đoạn văn tiếp theo 16,4b-11,
Đấng Pa-rác-lê sẽ cho các môn đệ biết sự thật về thế gian. Đấng Pa-rác-lê sẽ
chứng minh thế gian sai lầm về cả ba phương diện: Về tội, về sự công chính và
về sự xét xử (16,8-11). Hoạt động của Đấng Pa-rác-lê ở 16,8-11 liên hệ chặt chẽ
với tương quan giữa các môn đệ và thế gian thù ghét trong đoạn văn 15,18–16,4a.
Trong tiểu đoạn
16,4b-7, sự ra đi của Đức Giê-su (16,4b-5) làm cho nỗi buồn lấp đầy lòng các
môn đệ (16,6), nhưng sự ra đi này là điều kiện để Đức Giê-su sai Đấng Pa-rác-lê đến với các môn đệ. Người nói ở 16,7: “Chính Thầy nói sự
thật với anh em: Sẽ có lợi cho anh em nếu Thầy ra đi. Nếu Thầy không ra đi,
Đấng Pa-rác-lê sẽ không đến với anh em; nhưng nếu Thầy đi, Thầy sẽ sai Đấng ấy
đến với anh em.”
Nỗi buồn của các
môn đệ có thể hiểu theo nghĩa rộng. Các môn đệ đang buồn rầu, xao xuyến và sợ
hãi vì Đức Giê-su sắp bước vào cuộc Thương Khó và vì đang bị thế gian thù ghét
và bách hại. Trong hoàn cảnh này, vai trò của Đấng Pa-rác-lê mang tính quyết
định cho sự tồn tại của cộng đoàn các môn đệ. Bởi vì Đấng Pa-rác-lê giúp các
môn đệ hiểu ý nghĩa của biến cố Thương Khó.
3.
Cấu trúc Ga 16,4b-11
Tại sao không dịch
từ Hy Lạp ho paraklêtos ra tiếng Việt mà lại giữ nguyên ngữ: “Đấng Pa-rác-lê”? Xin
độc giả xem bài viết “Đấng Pa-rác-lê là ai?”. Trong đoạn văn 16,4b-15, tên gọi “Đấng Pa-rác-lê”
(tiếng Hy Lạp: ho paraklêtos) chỉ xuất hiện 1 lần ở 16,7, sau đó mỗi khi nói
đến Đấng Pa-rác-lê bản văn dùng đại từ “Đấng ấy (ekeinos)” (16,8.13.14).Đoạn
văn 16,4b-11 có thể được cấu trúc thành 2 tiểu đoạn: 16,4b-7 và 16,8-11.
Đoạn văn 16,4b-11 chia làm hai tiểu đoạn: (1) Tiểu đoạn thứ nhất (16,4b-7) nói
về điều kiện để Đức Giê-su sai Đấng Pa-rác-lê đến. Biến cố Đức Giê-su ra
đi, nghĩa là Người sắp bước vào cuộc Thương Khó, đã làm cho các môn đệ tràn
ngập nỗi buồn (16,6). Nhưng việc Đức Giê-su ra đi là cần thiết và có lợi cho
các môn đệ, bởi vì sau khi về với Cha, Đức Giê-su sẽ sai Đấng Pa-rác-lê đến với
các môn đệ (16,7). (2) Tiểu đoạn thứ hai (16,8-11) nói đến vai trò của Đấng
Pa-rác-lê: Chứng minh thế gian sai lầm về tội, về sự công chính và về sự xét xử.
Cần đặt công việc của
Đấng Pa-rác-lê trong đoạn văn 16,8-11 vào bối cảnh vụ kiện trong Tin Mừng thứ
tư. Đó là vụ kiện giữa ánh sáng và bóng tối, giữa Đức Giê-su và những kẻ chống
đối Người, giữa các môn đệ và “thế gian thù ghét”. Khuôn mặt của “thế gian thù
ghét” được mô tả trong Ga 14–17 với sáu đặc điểm riêng như sau: (1) Thù ghét
(15,18.19.23.25), (2) Bách hại (15,20; 16,2), (3) Có tội (15,22,24; 16,9), (4)
Thuộc về thủ lãnh thế gian (14,30; 16,11), (5) Không biết Đức Giê-su và Chúa
Cha (15,21; 16,3), (6) Được mời gọi tin và biết Đức Giê-su (17,21.23). Xem định
nghĩa “thế gian thù ghét” và các nghĩa của từ “thế gian” (kosmos) trong bài
viết “Thế gian là gì? Thế gian là
ai?” cũng như trong tập sách: YÊU và GHÉT trong Tin Mừng
Gio-an, Phần I, tr. 124-130, tr.144-150.
4. Chứng minh thế gian sai lầm
Động từ Hy Lạp “elegkhô”
tạm dịch là “chứng minh sai lầm”. Động từ này rất
khó giải thích trong mạch văn. Xem sự phức tạp của bản văn và những cách hiểu
khác nhau về động từ “elegkhô” trong tập sáchĐẤNG PA-RÁC-LÊ – Thần Khí sự
thật – trong Tin Mừng thứ tư, tr.
216-270. Các nhà chú giải hiểu
câu “chứng minh thế gian sai lầm”(elegxei
ton kosmon)” (16,8a) theo hai hướng: (1) Hiểu 16,8a theo hướng Đấng Pa-rác-lê
làm công việc “chứng minh sai lầm” trực tiếp với thế gian. (2) Hiểu 16,8a theo
hướng: Đấng Pa-rác-lê không “chứng minh sai lầm” trực tiếp với thế gian, mà soi
sáng cho các môn đệ biết sự thật về thế gian. Chúng tôi đồng thuận với ý kiến
của các tác giả cho rằng: Đấng Pa-rác-lê chỉ mặc khải cho các môn đệ. Bởi vì
thế gian không thấy và không biết Đấng Pa-rác-lê (14,17) nên Đấng này không nói
trực tiếp với thế gian.
Tuy có một số khó khăn và bất hợp lý về văn
bản, tiểu đoạn 16,8-11 được xây dựng
chặt chẽ: Câu 16,8 thông báo ba lãnh vực Đấng Pa-rác-lê sẽ chứng minh thế gian sai lầm, sau đó là phần giải thích
lấy lại từng điểm một (16,9-11).
Ba đề tài ở 16,9-11: “tội”, “công chính” và “xét xử” có cấu trúc đồng tâm (xem
bảng cấu trúc Ga 4b-11): A: “tội” (16,9), B: “sự công chính” (16,10), A’: “sự
xét xử” (16,11). Hai yếu tố tiêu cực A và A’ song song với nhau. Yếu tố A
(16,9) liên quan đến tội của thế gian; yếu tố A’ (16,11) nói về việc thủ lãnh
thế gian đã bị xét xử. Yếu tố tích cực ở trọng tâm (B) nói về sự công chính của
Đức Giê-su. Yếu tố B cho biết những kẻ chiến thắng trong vụ kiện giữa ánh sáng
và bóng tối là chính Đức Giê-su và các môn đệ. Đồng thời các yếu tố A và A’ khẳng
định sự thất bại của thế gian và thủ lãnh thế gian. Mạch văn 15,18–16,11 cho
phép hiểu “thế gian chống đối và từ chối tin” có liên quan đến cả ba vấn đề:
“Tội”, “sự công chính” và “sự xét xử”.
a)
Về tội
Về tội của thế gian, Đức
Giê-su cho các môn đệ biết ở Ga 15,22.24: Tội của thế gian là không thể bào
chữa được, vì họ đã nghe lời Đức Giê-su, đã thấy những việc Người làm nhưng vẫn
không tin vào Người. Những kẻ chống đối Đức Giê-su không chỉ là không tin mà
còn tìm cách loại trừ Người. Khi tìm cách giết Đức Giê-su, những kẻ chống đối
đang thuộc về quỷ và làm công việc của quỷ (Ga 8,44). Thần học Tin Mừng Gio-an
nhấn mạnh đến tội không tin vào Đức Giê-su. Vì thế, biến cố Đức Giê-su chết
trên thập giá làm lộ ra tội không tin của thế gian và của những kẻ chống đối
Người.
b) Về sự công chính
Về sự công chính, thế
gian tưởng mình công chính và phụng thờ Thiên Chúa khi tìm giết Đức Giê-su và
các môn đệ của Người (16,2). Nhưng theo thần học Tin Mừng thứ tư, Đức Giê-su đi
về với Cha trong sự chết của Người, nghĩa là chính trong biến cố Thương Khó mà thế gian
áp đặt cho Đức Giê-su, Người tôn vinh Cha,
và Cha tôn vinh Người. Khi bách hại và giết chết Đức Giê-su và các môn đệ, thế
gian lầm tưởng là công chính thuộc về mình, nhưng thực ra, sự công chính thuộc về
Đức Giê-su và các môn đệ.
c) Về sự xét xử
Về sự xét xử, Đức Giê-su đã báo trước thế gian
sẽ bị xét xử trong Giờ của Người ở Ga 12,31. Người đã tuyên bố cuối sứ vụ công
khai: “Bây giờ là lúc xét xử thế gian này. Bây giờ thủ lãnh thế gian này sẽ bị
tống ra ngoài” (12,31). Tuy nhiên, ở 16,11, không phải thế gian bị xét xử mà là
thủ lãnh thế gian đã bị xét xử. Sự xét xử ở 16,11 đi đến tận gốc rễ của thế lực
đen tối. Theo thần học Tin Mừng thứ tư, thế gian bách hại Đức Giê-su và các môn
đệ, nên thế gian chịu sự chi phối của “thủ lãnh thế gian” (12,31; 14,30;
16,11). Nhân vật này được xếp ngang hàng với “quỷ” (8,44; 13,2), “Xa-tan”
(13,27) và “Ác Thần” (17,15). Nếu như “thủ lãnh thế gian” đã bị xét xử thì thế
gian và thủ lãnh thế gian đã hoàn toàn thất bại và Đức Giê-su đã thực sự chiến
thắng thế gian (16,33).
Ba vấn đề: “Tội”, “sự
công chính” và “sự xét xử” ở 16,8-11 mô tả sự thật về biến cố Giờ của Đức
Giê-su trong bối cảnh một vụ kiện. Các nhân vật trong vụ kiện giữa “ánh sáng –
bóng tối” đối lập nhau: Một bên là Đức Giê-su (16,10a) và các môn đệ (16,10b); một bên là “thế gian” (16,8)
và “thủ lãnh thế gian” (16,11). Như thế, vai trò của Đấng Pa-rác-lê là xét lại
vụ kiện Đức Giê-su và mặc khải cho các môn đệ biết sự thật về biến cố Thương
Khó – Phục Sinh. Đấng Pa-rác-lê làm rõ: Ai có tội, sự công chính thuộc về ai và
ai đã bị xét xử.
Kết luận
Cùng với một số tác giả, chúng tôi hiểu câu:
“elegxei ton kosmon” (16,8a) là “Sẽ chứng minh thế gian sai lầm.” Đấng
Pa-rác-lê làm điều này trước các môn đệ, nghĩa là Người mặc khải cho các môn đệ
biết sự thật về thế gian trong bối cảnh một vụ kiện. Đấng Pa-rác-lê không đối
đầu trực tiếp với thế gian vì kẻ bị tố cáo là thế gian vắng mặt trong Ga 13–17.
Thế gian có tội vì không tin vào Đức Giê-su
(16,9). “Sự công chính” hay “không công chính” song song với “vô tội” hay “có
tội”. Sự công chính thuộc về Đức Giê-su vì Người đi về với Cha (16,10).
Khi sự thật được bày tỏ: “Thế
gian có tội”, “Đức Giê-su vô tội” thì lời tuyên bố án phạt được công bố. Ở đây
án xử không dành cho thế gian mà dành cho thủ lãnh thế gian tức là Xa-tan.
Công việc “chứng minh thế
gian sai lầm” của Đấng Pa-rác-lê vừa ở bên ngoài, vừa ở bên trong các môn đệ.
Bên ngoài, vì Đấng Pa-rác-lê xác định thế gian có tội (16,9) và cho biết thủ
lãnh thế gian đã bị xét xử. Bên trong các môn đệ, vì Đấng Pa-rác-lê mặc khải
cho các môn đệ những điều đó để họ xác tín và giữ vững niềm tin trong hoàn cảnh
bị khủng hoảng.
Với sự xuất hiện các đại
từ “Thầy” (ngôi thứ nhất, số ít) và “anh em”
(ngôi thứ hai, số nhiều), đoạn văn 16,4b-11 là lời Đức Giê-su nói với các môn đệ về hoạt động của Đấng Pa-rác-lê
trong tương lai gần: Sau khi Đức Giê-su đi về với Cha, Đấng Pa-rác-lê sẽ đến và
hoạt động nơi các môn đệ. Đồng thời đối với cộng đoàn Gio-an vào cuối thế kỷ I,
những lời mặc khải của Đức Giê-su ở 16,4b-11 giúp cộng đoàn sau biến cố Phục Sinh, xác tín là
Đấng Pa-rác-lê đang ở giữa họ. Đấng Pa-rác-lê đang ở với và đồng hành với các
môn đệ qua mọi thời đại và không ngừng mặc khải cho người tin biết sự thật về
thế gian. Nhờ đó, trong hoàn cảnh khó khăn thử thách, người tin vẫn kiên trì
giữ vững niềm tin. Độc giả có thể đọc thêm các bài viết liên quan đến Ga
16,4b-11: “Đấng Pa-rác-lê là ai?”, “Thế gian là gì? Thế gian là
ai?”, và phân tích chi tiết về đề tài: “Chứng minh thế gian sai lầm”
trong tập sáchĐẤNG PA-RÁC-LÊ – Thần Khí sự
thật – trong Tin Mừng thứ tư, tr.
216-270./.
Ngày 20 tháng 05 năm 2012
Giu-se Lê Minh Thông, O.P.
http://leminhthongtinmunggioan.blogspot.com/2012/05/ga-164b-11-ang-pa-rac-le-va-gian.html
Email: josleminhthong@gmail.com