Bài viết tiếng Pháp:
“Jour” et “nuit” dans
l’Évangile de Jean
Tác giả: Giu-se LÊ MINH THÔNG, O.P.
Blog: http://leminhthongtinmunggioan.blogspot.com/
Email: josleminhthong@gmail.com
Ngày 25 tháng 01 năm 2014.
Nội dung
1. Dẫn nhập
2. “Ngày” và “đêm”
3. Một ngày sứ vụ
a) Ngày và đêm trong sứ vụ
của Đức Giê-su
b) Bóng tối không lấn át
được ánh sáng ban ngày
4. Kết luận
1. Dẫn nhập
Bài viết này đã đăng ngày 22 tháng 4 năm 2012, trên Bloghttp://leminhthongtinmunggioan.blogspot.com/, với tựa đề: “‘Ngày’ và ‘đêm’ trong tương quan với ‘ánh sáng’ và
‘bóng tối.’” Nhân dịp viết bài này bằng tiếng Pháp: “Jour et nuit dans
l’Évangile de Jean”, bài viết tiếng Việt được rút gọn và trình bày lại với tựa
đề:“Ngày và đêm trong Tin Mừng Gio-an.”
Song song với tương phản: “Ánh sáng” – “bóng tối”
như đã trình bày trong bài viết “Ánh sáng và bóng tối trong
Tin Mừng Gio-an”, Tin Mừng thứ tư còn dùng cặp từ Hy Lạp tương ứng:
“hêmera” (ngày) – “nux” (đêm) để diễn tả thần học. Bài viết này sẽ tìm hiểu từ
ngữ “ngày” và “đêm”, sau đó trình bày sứ vụ công khai của Đức Giê-su như một
ngày làm việc từ sáng sớm đến chiều tối.
2. “Ngày” và “đêm”
Tin Mừng Gio-an dùng 31 lần danh từ Hy Lạp “hêmera”
(ngày, ban ngày) ở 1,39; 2,1.12.19.20; 4,40.43; 5,9;
6,39.40.44.54; 7,37; 8,56; 9,4.14; 11,6.9a.9b.17.24.53; 12,1.7.48; 14,20;
16,23.26; 19,31; 20,19.26. Danh từ “nux” (đêm, ban đêm, đêm tối) xuất hiện 6 lần ở3,2; 9,4; 11,10; 13,30; 19,39; 21,3.
Ý tưởng “ngày – đêm” song song với “ánh sáng – bóng
tối” xuất hiện ở hai nơi: 9,4-5 và 11,9-10. Đức Giê-su nói với các môn đệ ở
9,4-5: “4 Chúng ta phải làm công việc của Đấng đã sai Thầy khi còn là ngày (hêmera);
đêm (nux) đến thì không ai có thể làm việc được. 5 Bao lâu Thầy còn ở trong thế
gian, Thầy là ánh sáng (phôs) của thế gian.” Ở Ga 11,9-10, Đức Giê-su nói với
các môn đệ: “Ban ngày (hêmera) chẳng có mười hai giờ sao? Ai đi ban ngày (hêmera)
thì không vấp ngã, vì thấy ánh sáng (phôs) của thế gian này. Nhưng nếu ai đi
ban đêm (nux), thì vấp ngã vì không có ánh sáng (phôs) ở nơi mình.” (Trích dẫn Tin Mừng Gio-an lấy trong Bản
văn Gio-an, TIN MỪNG và BA THƯ, Hy Lạp – Việt).
Những trích dẫn trên cho thấy tương phản: “ngày” – “đêm” ở 9,4-5 và
11,9-10 song song với tương phản: “ánh sáng” – “bóng tối”. Bao lâu Đức Giê-su còn hiện diện trong
thế gian thì bấy lâu còn là “ngày”(hêmera), còn có “ánh sáng” (phôs). Lúc Đức Giê-su bước vào cuộc Thương Khó là “đêm
tối” (nux), là giờ của thế lực “bóng
tối” (stokia), thế lực đen tối.
Như thế, cặp từ “ngày” (hêmera) – “đêm” (nux) trong Tin Mừng thứ tư vừa mô tả thực tế
khách quan về thời gian, vừa mang nghĩa biểu tượng và diễn tả ý nghĩa thần học.
3. Một ngày sứ vụ
Nghĩa biểu tượng của “ánh sáng – bóng tối”, “ngày – đêm” dẫn đến câu hỏi:
“ánh sáng ban ngày” chiến thắng hay thất bại trước “bóng tối ban đêm”? Câu trả
lời còn tùy thuộc vào cách đọc biến cố theo quan điểm
nào. Tin Mừng trình bày cả hai cách đọc biến cố, dẫn đến hai kết luận trái
ngược nhau: (1) “Bóng tối” đã thành công trong việc loại trừ “ánh sáng” (nhìn
từ phía những người chống đối). (2) “Ánh sáng” đã chiến thắng “bóng tối” (khẳng
định thần học của tác giả sách Tin Mừng). Phân tích hai quan điểm trên giúp độc
giả hiểu cách trình bày nghịch lý của sách Tin Mừng.
a) Ngày và đêm
trong sứ vụ Đức Giê-su
Trong thực tế lịch sử, quan điểm cho rằng “bóng tối”
đã loại trừ được “ánh sáng”; “bóng tối” đã chiến thắng “ánh sáng” không phải là
không có cơ sở. Bằng chứng hiển nhiên là Đức Giê-su là ánh sáng, nhưng Người đã
chết treo trên thập giá. Tôn trọng sự kiện lịch sử này, tác giả Tin Mừng trình
bày sứ vụ của Đức Giê-su như một ngày làm việc. Đức Giê-su bắt đầu sứ vụ lúc
sáng sớm và kết thúc vào lúc chiều tối.
Thực vậy, trong lời tựa Tin Mừng, người thuật chuyện giới thiệu Lời (Logos)
là ánh sáng đã đến thế gian (1,9). Lời (Logos) đã trở nên người phàm và cư ngụ
giữa nhân loại (1,14). Như thế, bình minh sứ vụ của Đức Giê-su khởi đầu ngay
trong lời tựa Tin Mừng (1,1-18). Người xuất hiện lần đầu tiên trong sách Tin
Mừng ở 1,29, quy tụ các môn đệ và khởi đầu hành trình rao giảng.
Ngày làm việc của Đức Giê-su đến lúc giữa trưa trong
ch. 8–9. Trong khi tranh luận với giới lãnh đạo Do-thái, Đức Giê-su tuyên bố:
“Chính Tôi là ánh sáng của thế gian. Người theo Tôi, chắc chắn sẽ không đi
trong bóng tối, nhưng sẽ có ánh sáng của sự sống” (8,12). Sang ch. 9, Đức
Giê-su không nói với những kẻ chống đối, nhưng nói với các môn đệ: “Chúng ta
phải làm công việc của Đấng đã sai Thầy khi còn là ngày; đêm đến thì không ai
có thể làm việc được” (9,4). Trong ch. 8 và 9, hai lần Đức Giê-su khẳng định
Người là ánh sáng cho thế gian (8,12; 9,5). Như thế, ch. 8–9 là đỉnh cao sứ vụ
của Đức Giê-su, là lúc giữa trưa, nghĩa là ở giữa sách các dấu lạ (Ga 1–12).
Sứ vụ của Đức Giê-su ngả về chiều ở ch. 11–12. Khi ánh sáng sắp tắt, Đức Giê-su
mời gọi đám đông: “Khi các người có ánh sáng, hãy tin vào ánh sáng, để trở nên
con cái ánh sáng” (12,36a). Ở 13,1-30, khi
Giu-đa rời bữa ăn cuối cùng giữa Đức Giê-su và các môn đệ để thực hiện ý định
nộp Đức Giê-su thì trời tối (nux). Người thuật chuyện kể: “Sau khi nhận lấy
miếng bánh, ông ấy đi ra ngay lập tức. Lúc đó, trời đã tối (nux)” (13,30).
“Trời tối” theo nghĩa đen, đồng thời cũng gợi đến nghĩa biểu tượng: “trời tối”
bên ngoài ám chỉ “sự đen tối” trong lòng, vì Giu-đa đang thực hiện công việc của
thế lực bóng tối. Đến 18,3: “Giu-đa dẫn một cơ đội và các thuộc hạ của các
thượng tế và nhóm Pha-ri-sêu, ông ấy đến đó với đuốc, đèn và khí giới” để bắt
Đức Giê-su. Chi tiết “đèn, đuốc” cho thấy họ đến ban đêm. Có thể nói, “việc làm
đen tối” được thực hiện trong “đêm tối”. Cuộc
Thương Khó của Đức Giê-su là đêm tối, ánh sáng không còn nữa khi Người trút hơi
thở cuối cùng trên thập giá (19,30). (Xem M. GOURGUES, En
Esprit et en Vérité, Piste d’exploitation de l’évangile de Jean, (Sciences Bibliques 11), Montréal,
Médiaspaul, 2002, p. 29-43).
b) Bóng tối không
lấn át được ánh sáng ban ngày
Sự kiện lịch sử là Đức Giê-su đi vào đêm tối qua cái chết của Người, nhưng
sách Tin Mừng không dừng lại ở đó. Tác giả sách Tin Mừng đề nghị cách hiểu biến
cố theo quan điểm của Đức Giê-su: ánh sáng đã chiến thắng bóng tối. Sự chiến
thắng này không chỉ dựa vào sự kiện lịch sử, nhưng dựa trên mặc khải của Đức
Giê-su. Lời tựa sách Tin Mừng đã báo trước “ánh sáng” sẽ chiến thắng “bóng
tối”, người thuật chuyện cho biết: “Ánh sáng chiếu soi trong bóng tối, và bóng
tối đã không lấn át được ánh
sáng” (Ga 1,5). Trong lời độc thoại của Đức Giê-su ở 3,13-21, tình yêu của
Thiên Chúa dành cho thế gian được nói đến trước (3,16-17); sau đó Đức Giê-su
mới nói đến thái độ tiêu cực của con người trước ánh sáng: “yêu mến bóng tối”
và “ghét ánh sáng” (3,19-20).
Đức Giê-su nhiều lần báo trước sự chiến thắng của
ánh sáng ban ngày và sự thất bại của bóng tối ban đêm. Khi Giờ của Người đã
đến, giờ Thương Khó và cũng là giờ Đức Giê-su ra khỏi thế gian này mà về với Cha (13,1), Người nói với đám đông: “Bây giờ là lúc xét xử thế
gian này. Bây giờ thủ lãnh thế gian này sẽ bị tống ra ngoài” (12,31). Ở
14,30-31a, Đức Giê-su nói với các môn đệ về thế lực đen tối như sau: “30
Thầy sẽ không còn nói nhiều với anh em nữa vì thủ lãnh của thế gian đang đến.
Nó không có gì trên Thầy, 31a nhưng để thế gian biết rằng: Thầy yêu mến Cha và
như Cha đã truyền cho Thầy thế nào, Thầy làm như vậy” (14,30-31a).
Đến 16,11, Đức Giê-su cho các môn đệ biết: “Thủ lãnh
của thế gian này đã bị xét xử.” Cuối ch. 16, Đức Giê-su tuyên bố: “Trong thế gian,
anh em có sự khốn khó, nhưng anh em hãy can đảm, Chính Thầy đã thắng thế gian”
(16,33). Như thế, Đức Giê-su là ánh sáng, đã hoàn toàn chiến thắng trong vụ
kiện giữa “ánh sáng” và “bóng tối”. Nhưng sự chiến thắng của Đức Giê-su được
trình bày cách nghịch lý. Đức Giê-su chiến thắng thế lực đen tối bằng cái chết
của Người chết trên thập giá.
Theo Tin Mừng Gio-an, hai thế lực “ánh sáng ban ngày ” và “bóng tối ban
đêm” không ở trên cùng một bình diện. Bóng tối hiện diện là do con người từ
chối đón nhận ánh sáng. G. Stemberger viết: “Với sự tự do Thiên Chúa đã ban cho
con người, bóng tối nẩy sinh khi con người nói không với ánh sáng của Thiên
Chúa. Vì thế, bóng tối là sự hư vô mà người ta ưa chuộng hơn sự hiện hữu của
Thiên Chúa. Bóng tối không phải là một cái gì có sự bền vững tự nó, nhưng bóng
tối là sự phủ định [ánh sáng]” (G. STEMBERGER, La symbolique du bien et du mal selon saint Jean, (Parole de Dieu), Paris, Le
Seuil, 1970, tr. 46). Về thực chất, không có sự đối lập ngang hàng giữa
ánh sáng ban ngày và bóng tối ban đêm. “Bóng tối” ám chỉ thế lực chống đối và
thù ghét đã từ chối đón nhận “ánh sáng”. Tin Mừng trung thành thuật lại biến cố
thập giá và mời đọc độc giả nhận ra ý nghĩa thần học của biến cố này. Qua thập
giá, Đức Giê-su về với Cha của Người và Người được Cha tôn vinh. Điều này minh
chứng sự chiến thắng của ánh sáng ban ngày.
Sự chiến thắng này mang tính quyết định, một lần cho
tất cả. Khi Đức Giê-su được tôn vinh trên thập giá, ánh sáng đã hoàn toàn chiến
thắng bóng tối. Thế lực đen tối là Quỷ, Xa-tan và những kẻ chống đối Đức Giê-su đã hoàn toàn bị đánh bại. Xem mục “Sự chiến thắng của ánh
sáng trên bóng tối” trong bài viết: “Trong Tin Mừng Gio-an, biểu
tượng ánh sáng dùng để làm gì?”
4. Kết luận
Sách Tin Mừng trình bày mặc khải thần học bằng cách
thuật lại những câu chuyện và cho biết ý nghĩa thần học của những biến cố đó.
Vì thế, cần đọc biến cố trên cả hai bình diện: lịch sử và thần học. Trên bình
diện lịch sử, thế lực bóng tối đã loại trừ được ánh sáng ra khỏi thế gian. Trên
bình diện thần học, giờ chết của Đức Giê-su cũng là giờ Người được tôn vinh,
giờ Người về với Cha, giờ Người thực sự chiến thắng thế gian, chiến thắng thế
lực bóng tối. Chính vì hai bình diện này tồn tại song song, nên vụ kiện giữa
“ánh sang ban ngày” và “bóng tối ban đêm” trình bày trong Tin Mừng thứ tư vẫn
còn tiếp diễn nơi cộng đoàn Gio-an vào cuối thế kỷ I và còn kéo dài mãi trong
lịch sử nhân loại.
Đức Giê-su là ánh sáng đến thế gian, sự xuất hiện
của Người đặt nhân loại trước một vụ kiện lớn giữa “ánh sáng” và “bóng tối”.
Mỗi người trong dòng lịch sử, ở mọi nơi, mọi thời, cần lựa chọn đứng về phía
nào trong vụ kiện này: “Đến với ánh sáng” (3,21) hay “yêu mến bóng tối” (3,19)
và “ghét ánh sáng” (3,20); thuộc về Thiên Chúa (8,47) hay thuộc về quỷ (8,44).
Như thế, đề tài “ánh sáng và bóng tối”, “ngày và đêm” là hai cột trụ xây dựng
thần học Tin Mừng thứ tư. Qua đề tài này, tình yêu và ý định cứu độ của Thiên
Chúa được tỏ lộ. Đồng thời tùy theo cách đáp trả của con người: đón nhận hay khước
từ ánh sáng mà con người được cứu hay bị hư mất.
Với những hình ảnh mang tính khái quát: “ánh sáng ban ngày”, “bóng tối ban
đêm”, lời mời gọi của Tin Mừng Gio-an liên quan đến tất cả mọi người. Mục đích
của sách Tin Mừng là lời mời gọi tin vào Đức Giê-su. Tác giả kết luận sách Tin
Mừng ở 20,30-31: “Đức Giê-su đã làm nhiều dấu lạ khác trước mặt các môn đệ [của Người]; chúng không
được ghi chép trong sách này. 31 Những điều đã được ghi chép là để anh em [độc
giả] tin rằng: Đức Giê-su là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa, và nhờ tin, anh em có
sự sống trong danh của Người.” Vì thế, toàn bộ Tin Mừng là lời mời gọi “đến với
ánh sáng” (3,21), “tin vào ánh sáng” (12,36) và “bước đi trong ánh sáng” (8,12;
11,10) để có ánh sáng của sự sống (8,12).
Sách Tin Mừng mời gọi độc giả tôn trọng biến cố lịch sử: Đấng ban sự sống
đã chết trên thập giá. Qua đó hiểu được ý nghĩa của biến cố và tuyên xưng niềm
tin như Tô-ma đã tuyên xưng trước Đức Giê-su Phục Sinh: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con” (20,28). Theo
thần học Tin Mừng Gio-an, việc nhận ra Đức Giê-su là Đấng đã chết trên thập
giá, đã Phục Sinh, là “Chúa” (kurios) và là “Thiên Chúa” (theos) là bằng chứng
hùng hồn về sự chiến thắng của “ánh sáng ban ngày” trên “bóng tối ban đêm”. Xem phân
tích các đề tài “ngày và đêm”, “ý nghĩa đối lập ánh sáng – bóng tối” trong tập
sách YÊU và GHÉT trong Tin Mừng
Gio-an, phần II, tr.
57-67.
Nguồn:http://leminhthongtinmunggioan.blogspot.com/2014/01/ngayva-em-trong-tin-mung-gio-an.html
Bài viết liên quan:
- Ánh sáng và bóng tối trong Tin
Mừng Gio-an.
- Trong Tin Mừng Gio-an, biểu
tượng ánh sáng dùng để làm gì?
- “Ngày”
và “đêm” trong Tin Mừng Gio-an.
Các mục từ liên quan:
ÁNH SÁNG, dt., phôs, trong
Gio-an
CHIẾU SOI, đt.,
phainô, trong Gio-an, x. TOẢ SÁNG
CHIẾU SOI, đt., phôtizô, trong Gio-an
TOẢ SÁNG, đt., phainô, trong Gio-an
BÓNG TỐI, dt. skotia, trong
Gio-an
BÓNG TỐI, dt., skotos, trong
Gio-an
TỐI TĂM, trong Gio-an, x. BÓNG TỐI