Khủng hoảng niềm tin vào Đức
Giê-su và giải pháp trong Tin Mừng Gio-an
Bài viết tiếng Pháp và tiếng Anh:
La crise de la foi en Jésus et
la solution dans l’Évangile de Jean.
Crisis of faith in Jesus and
solution in the Gospel of John.
Tác giả: Giuse LÊ MINH THÔNG, O.P.
Blog: http://leminhthongtinmunggioan.blogspot.com/
Email: josleminhthong@gmail.com
Ngày 26 tháng 05 năm 2014.
Nội dung
I. Dẫn nhập
II. Nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng niềm tin
1. Khủng hoảng vì giáo huấn của Đức Giê-su
2. Khủng hoảng vì thuộc về “bóng tối”
3. Khủng hoảng vì không biết
4. Khủng hoảng vì nghĩ Đức Giê-su vắng mặt
5. Khủng hoảng vì bị thế gian thù ghét và bách hại
III. Làm gì để giữ vững niềm tin?
1. Thực hành giáo huấn của Đức Giê-su
2. Ở lại trong nhau giữa Đức Giê-su và các môn đệ
3. Sự ở lại của Chúa Cha, Đức Giê-su, Đấng Pa-rác-lê
4. Bình an và niềm vui Đức Giê-su ban tặng
5. Hoạt động của Đấng Pa-rác-lê nơi các môn đệ
IV. Kết luận
I. Dẫn nhập
Bài viết: “Khủng hoảng niềm tin và giải pháp để giữ vững niềm tin trong Tin
Mừng Gio-an” đã đăng ngày 09/12/2012 trên Blog:http://leminhthongtinmunggioan.blogspot.com/.
Nhân dịp viết bài này bằng tiếng Pháp, bài viết được trình bày lại, đề ngày mới
và có tựa đề mới tiếng Việt: “Khủng hoảng niềm tin vào Đức
Giê-su và giải pháp trong Tin Mừng Gio-an”, tiếng Pháp: “La crise de la foi en Jésus et
la solution dans l’Évangile de Jean” và tiếng Anh: “Crisis of faith in Jesus and
solution in the Gospel of John.”
“Tin” (pisteuô) là đề tài quan trọng trong Tin Mừng Gio-an, điều này đã
phân tích trong bài viết: “Tin (pisteuô) trong Tin Mừng
Gio-an.” Bài viết này sẽ trình bày những yếu tố gây khủng hoảng niềm
tin và giải pháp để vượt qua khủng hoảng, nhờ đó giữ vững niềm tin vào Đức
Giê-su và sống niềm vui và bình an của Đức Giê-su ban tặng. Các trích dẫn Tin Mừng
lấy trong Bản
văn Gio-an, Tin Mừng và Ba thư Hy Lạp – Việt.
II. Nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng niềm tin
Có nhiều yếu tố trong Tin Mừng Gio-an cho thấy tình trạng khủng hoảng niềm
tin nơi các môn đệ. Có thể kể đến năm nguyên nhân gây ra khủng hoảng niềm tin:
(1) Khủng hoảng vì giáo huấn của Đức Giê-su, (2) Khủng hoảng vì thuộc về “bóng
tối”, (3) Khủng hoảng vì không biết, (4) Khủng hoảng vì nghĩ Đức Giê-su vắng
mặt, (5) Khủng hoảng vì bị thế gian thù ghét và bách hại.
1. Khủng hoảng vì giáo huấn của Đức Giê-su
Khủng hoảng vì giáo huấn của Đức Giê-su được trình bày cách mạnh
mẽ trong ch. 6. Cấu trúc chương này gồm bốn phần:
(1) Trước hết là trình thuật Đức Giê-su thực hiện dấu lạ bánh hoá nhiều cho hơn năm ngàn người ăn no (6,1-15). (2) Sau đó, Người bày tỏ quyền năng bằng cách đi
trên mặt biển hồ Ti-bê-ri-a để đến với các môn đệ trong đêm tối (6,16-21) vào
lúc “Biển đầy gió lớn đang thổi và giật mạnh” (6,18). (3) Tiếp theo là diễn từ
bánh sự sống (6,25-59). (4) Phần cuối Ga 6 là phản ứng của các môn đệ về mặc khải
của Đức Giê-su (6,60-71).
Qua những trao đổi và thắc mắc của đám đông và những người Do Thái, Đức
Giê-su trình bày những mặc khải thần học quan trọng về nguồn gốc và sứ vụ của
Người. Theo mạch văn, các môn đệ hiện diện với Đức Giê-su trong tất cả các biến
cố trên. Họ đã chứng kiến hai dấu lạ (6,1-15; 6,16-21) và đã nghe diễn từ bánh
sự sống (6,25-59). Từ những gì đã thấy và đã nghe, nhiều người trong số các môn
đệ đã thốt lên: “Lời này chướng tai quá! Ai có thể nghe nổi?” (6,60). Người
thuật chuyện cho biết điều đáng tiếc đã xảy ra: “Từ lúc đó, nhiều môn đệ của
Người bỏ đi và không còn đi với Người nữa” (6,66). Quyết định thôi không làm
môn đệ Đức Giê-su nữa là khủng hoảng lớn về niềm tin. Tại sao nhiều môn đệ lại
quyết định bỏ đi không làm môn đệ của Đức Giê-su nữa?
Các môn đệ quyết định rời bỏ Đức Giê-su là những người đã tin vào Người, vì
họ được gọi là “môn đệ” (mathêtês) của Đức Giê-su (6,16.60.61.66). Họ vừa chứng
kiến hai dấu lạ (6,1-15.16-21) và nghe diễn từ về bánh sự sống (6,25-59), trong
đó Đức Giê-su mặc khải về nguồn gốc và căn tính của Người: Người là ai? Từ đâu
tới? Ai có khả năng ban sự sống đời đời cho con người? Con người cần làm gì để
có sự sống đời đời?... Tuy nhiên những mặc khải của Đức Giê-su đầy nghịch lý.
Nguồn gốc của Người là nghịch lý, bởi vì Đức Giê-su vừa là con ông Giu-se
(6,42) vừa là Đấng từ trời xuống (6,38). Sứ vụ của Đức Giê-su cũng nghịch lý,
bởi vì Đức Giê-su sẽ chết trên thập giá để ban sự sống đời đời cho người tin.
Tại sao phải chết để ban sự sống? Người chết có thể ban sự sống được sao?
Nghịch lý này diễn tả qua kiểu nói: “Ăn thịt và uống máu”. Đức Giê-su khẳng
định: “Ai ăn thịt Tôi và uống máu Tôi, thì có sự sống đời đời, và Tôi sẽ làm
cho người ấy sống lại vào ngày sau hết” (6,54). Như thế, chỉ những ai tin vào Đức
Giê-su và hiệp thông với Người trong biến cố Thương Khó – Phục Sinh, mới được
đón nhận sự sống đời đời. (Xem phân tích phần “Ga 6,22-71: ‘Thánh Thể’, lý trí
và đức tin” trong Phân
tích thuật chuyện và cấu trúc áp dụng vào Tin Mừng thứ tư, tr. 110-146).
Nhiều môn đệ đã không chịu nổi những lời Đức Giê-su mặc khải nên họ
đã xầm xì: “Lời này chướng tai quá! Ai có thể nghe nổi?” (6,60). Trong mạch văn
cụm từ “lời này” (ho logos houtos) gợi đến toàn bộ diễn từ bánh hằng sống của
Đức Giê-su (6,25-59). Sau lời xầm xì của nhiều môn đệ, người thuật chuyện cho
biết: “Đức Giê-su tự mình biết là các môn đệ của Người đang xầm xì về điều ấy,Người nói với các ông: ‘Điều đó làm anh em vấp ngã
sao?’” (6,61). Nhiều môn đệ đã vấp ngã vì giáo huấn của Đức Giê-su. Nói
cách khác, chính mặc khải của Đức Giê-su dẫn đến khủng hoảng niềm tin và đã có
nhiều môn đệ không vượt qua được thử thách này, vì thế họ đã quyết định thôi,
không làm môn đệ Đức Giê-su nữa. Họ vấp ngã vì đã hiểu lời của Đức Giê-su theo
nghĩa “xác thịt” mà “xác thịt thì chẳng có ích gì” (6,63). Đức Giê-su nói với
các môn đệ ở 6,63: “Thần khí thì làm cho sống, xác thịt chẳng có ích gì. Những
lời chính Thầy nói với anh em là thần khí và là sự sống.” Các môn đệ vấp ngã vì
họ đã không mở lòng ra để đón nhận giáo huấn của Thiên Chúa như là điều kiện để
đến với Đức Giê-su và tin vào Người. Trong diễn từ, Đức Giê-su nói về điều này
ở 6,44a và 6,45b: “Không ai có thể đến với Tôi, nếu Cha là Đấng đã sai Tôi,
không lôi kéo người ấy” (6,44a); “Mọi người nghe Cha và đón nhận giáo huấn của
Ngườithì đến với Tôi” (6,45b).
Đoạn văn 6,60-71 nói về phản ứng của các môn đệ gồm hai tiểu đoạn: Trong
tiểu đoạn 1 (1,60-66) Đức Giê-su nói với “nhiều môn đệ”, và trong tiểu đoạn 2
(6,67-71) Đức Giê-su nói với Nhóm Mười Hai, như thế bên cạnh Nhóm Mười Hai còn
có nhiều môn đệ khác nữa. Nhiều môn đệ không thuộc Nhóm Mười Hai đã vấp ngã vì
không hiểu giáo huấn của Đức Giê-su. Còn Nhóm Mười Hai thì sao? Họ phản ứng thế
nào? Khi Đức Giê-su hỏi Nhóm Mười Hai: “Phần anh em, anh em không muốn bỏ đi
sao?” (6,67). Si-môn Phê-rô đại diện Nhóm tuyên xưng niềm tin với Đức Giê-su ở
6,68-69: “68 Thưa Thầy, chúng con sẽ bỏ đi với ai? Thầy có những lời đem lại sự
sống đời đời. 69 Phần chúng con, chúng con đã tin và đã nhận biết rằng: Chính
Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa.” Việc nhiều môn đệ từ bỏ niềm tin ở 6,66 và
lời tuyên xưng niềm tin của Si-môn Phê-rô cho thấy hai cách hiểu đối lập nhau
về mặc khải của Đức Giê-su. Ở 6,60, nhiều môn đệ cho rằng giáo huấn của Đức
Giê-su là “lời chướng tai không ai nghe nổi”, ngược lại ở 6,68b, Nhóm Mười Hai
lại nhận ra đó là “lời đem lại sự sống đời đời.” Vậy cách thức và thái độ nghe
lời Đức Giê-su đã dẫn con người đến tin hay không tin vào Người. Nói cách khác,
nếu không biết cách học hỏi và lắng nghe giáo huấn của Đức Giê-su, thì chính
lời của Người có thể trở thành nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng niềm tin. Trong
đoạn văn Ga 6,60-71, đã xảy ra sự phân hoá giữa các môn đệ: nhiều môn đệ đã bỏ
Đức Giê-su (6,66), còn Nhóm Mười Hai đã quyết định ở lại với Người (6,68). Ở 6,70,
Đức Giê-su lại báo trước khủng hoảng khác ngay giữa Nhóm Mười Hai, đó là khủng
hoảng vì để mình thuộc về “bóng tối”, thuộc về thế lực đen tối.
2. Khủng hoảng vì
thuộc về “bóng tối”
Sau khi Si-môn Phê-rô đại diện Nhóm Mười Hai tuyên xưng niềm tin (6,68-69),
Đức Giê-su không khen mà lại báo trước sự khủng hoảng về lòng trung tín của một
môn đệ trong Nhóm Mười Hai. Đức Giê-su nói với họ ở 6,70: “Chẳng phải chính
Thầy đã chọn anh em là Nhóm Mười Hai sao? Thế mà một người trong anh em là
quỷ.” Cuộc trao đổi giữa Đức Giê-su và Nhóm Mười Hai kết thúc đột ngột ở đây.
Lời báo trước: “Một người trong anh em là quỷ” (6,70b) có thể hiểu là yếu tố
gây khủng hoảng giữa Nhóm Mười Hai, bởi vì lời tuyên xưng niềm tin vào Đức
Giê-su vừa nói ra (6,68-69) không thể dung hoà với ý tưởng “một người trong anh
em là quỷ” (6,70b), nghĩa là có một người trong Nhóm Mười Hai thuộc về bóng
tối, thuộc về thế lực đen tối, “thuộc về quỷ”, “làm công việc của quỷ” (x. 8,44a).
Đức Giê-su đã nói với những người Do Thái điều này ở 8,44a: “Các ông thuộc về
quỷ là cha các ông, và các ông muốn làm những ước muốn của cha các ông.” Những
người Do Thái trong đoạn văn 8,31-59 không những không đón nhận giáo huấn của
Đức Giê-su mà còn tìm cách giết Người (8,37.40). Hành động này đã làm cho họ
thuộc về quỷ, có cha là quỷ và đang làm công việc của quỷ (8,44a). Trong viễn
cảnh này, khi nói “một người trong anh em là quỷ” (6,70b), Đức Giê-su báo trước
“một người trong Nhóm Mười Hai” sẽ tiếp tay vào việc giết Đức Giê-su.
Vậy ai là quỷ ở 6,70? Nhóm Mười Hai là nhân vật trong câu chuyện, họ chưa
biết ai là quỷ trong số họ, vì Đức Giê-su không giải thích gì thêm cho Nhóm
Mười Hai về lời Người nói ở 6,70. Điều này gây ra khủng hoảng trong nội bộ Nhóm
Mười Hai, vì họ không ai biết ai là quỷ, nhưng có “quỷ” ngay giữa Nhóm. Đức
Giê-su sẽ chỉ cho các môn đệ biết người đó là ai trong bữa tiệc ly ở 13,26. Các
môn đệ không biết ai là quỷ, nhưng ngay từ 6,71 độc giả đã biết người đó là ai,
bởi vì người thuật chuyện giải thích cho độc giả ở 6,71: “Người [Đức Giê-su]
nói về Giu-đa, con ông Si-môn Ít-ca-ri-ốt; vì ông ấy sẽ nộp Người, một người
trong Nhóm Mười Hai.”
Trong Tin Mừng Gio-an, nhân vật Giu-đa là yếu tố gây khủng hoảng trầm trọng
đối với chính Giu-đa và đối với nhóm các môn đệ. Đoạn văn 13,1-32, cung cấp đôi
nét về nhân vật này. Nhân vật Giu-đa trong Tin Mừng Gio-an được xác định bởi
bốn tương quan: (1) Tương quan với gia đình: Ông được gọi là “Giu-đa, con ông
Si-môn Ít-ca-ri-ốt” (6,71a). (2) Tương quan với Đức Giê-su: Giu-đa được gọi là
“kẻ nộp (paradidômi) Thầy” (6,64; 13,2.11.21). (3) Tương quan
với Nhóm Mười Hai: Giu-đa được gọi là “một người trong Nhóm Mười Hai” (6,71b).
(4) Tương quan với thế lực bóng tối: Giu-đa là “quỷ” (6,70b). Tương quan thứ tư
này được nhấn mạnh trong đoạnvăn 13,1-32. Thật vậy, người thuật chuyện nói về Giu-đa khi bắt đầu kể về
bữa tiệc ly: “Trong bữa ăn, quỷ đã gieo vào lòng Giu-đa, con ông Si-môn
Ít-ca-ri-ốt, ý định nộp Người [Đức Giê-su]” (13,2). Khi Đức Giê-su chấm miếng
bánh và trao cho Giu-đa như là dấu hiệu để các môn đệ khác biết ai là kẻ sẽ nộp
Thầy (13,26), người thuật chuyện cho biết: “Và khi nhận miếng bánh, Xa-tan liền
nhập vào ông ấy [Giu-đa]” (13,27a). Theo cách trình bày của Tin Mừng Gio-an,
câu chuyện về Giu-đa tiến triển qua bốn giai đoạn: (1) Đức Giê-su cho biết
Giu-đa là quỷ ở 6,70. (2) Đến 13,2 thì quỷ đã gieo vào lòng Giu-đa ý định nộp
Đức Giê-su. (3) Sau khi đã nhận miếng bánh Đức Giê-su trao, thì Xa-tan đã nhập
vào Giu-đa ở 13,27. (4) Cuối cùng, Giu-đa ra đi thực hiện công việc của quỷ.
Người thuật chuyện kết thúc câu chuyện về Giu-đa như sau: “Sau khi nhận lấy
miếng bánh, ông ấy đi ra ngay lập tức. Lúc đó, trời đã tối” (13,30). Nhân vật
Giu-đa sẽ xuất hiện trở lại trong trình thuật Đức Giê-su bị bắt (18,1-3) nhưng
ông hoàn toàn đứng về phía những kẻ tìm giết Đức Giê-su. “Xa-tan” (tiếng
Híp-ri) ở 13,27 là “quỷ” (tiếng Hy lạp: diabolos) ở 6,70 và 13,2, bởi vì Bản
Kinh Thánh LXX (la Septante) dịch tiếng Híp-ri “Satan” sang tiếng Hy lạp:
diabolos (quỷ). Xem bài viết: “Xa-tan (Satanas), quỷ
(diabolos, daimonion), Ác thần (ponêros) trong Kinh Thánh.”
Như thế, Giu-đa đã để mình thuộc về thế lực đen tối và ông đi vào đêm tối
để thực hiện công việc của quỷ (x. 8,44). Nhân vật Giu-đa trong trình thuật
13,1-32 không bày tỏ cảm xúc và không nói lời nào cả. Sự im lặng và vô cảm này
làm cho nhân vật Giu-đa trở thành công cụ của Xa-tan. Nhân vật Giu-đa, một môn
đệ thuộc Nhóm Mười Hai, là hình ảnh người môn đệ ở trong tình trạng khủng hoảng
trầm trọng về lòng trung tín với Thầy. Lý do là ông đã để mình thuộc về quỷ, có
lẽ vì ông đã không thực sự biết Đức Giê-su là ai. Đối với Nhóm Mười Hai, sự
hiện diện của Giu-đa cũng như sự vắng mặt của nhân vật này là yếu tố khủng
hoảng cho họ, bởi vì Giu-đa là thành viên của Nhóm. Giu-đa đã để lại dấu ấn
trong Nhóm Mười Hai về vấn đề hiệp nhất giữa các môn đệ và về lòng trung tín
của từng môn đệ với Thầy. Nhân vật Giu-đa là ví dụ điển hình về khủng hoảng
niềm tin, bởi vì ngay cả thành viên của Nhóm Mười Hai, nhóm môn đệ đã quyết
định ở lại với Đức Giê-su và đã tuyên xưng niềm tin đích thực vào Người
(6,68-69), vẫn có thể vấp ngã.
3. Khủng hoảng vì
không biết
Sự không biết của các môn đệ về Đức Giê-su, về vai trò và sứ vụ của Người,
là những yếu tố gây khủng hoảng niềm tin. Sự không hiểu, không biết mặc khải
cũng như không biết ý nghĩa của những biến cố đang xảy ra đã làm cho các môn đệ
rơi vào trình trạng xao xuyến và sợ hãi. Đề tài “khủng hoảng vì không biết” này
được trình bày trong Ga 13–16.
Trong bữa ăn cuối cùng giữa Đức Giê-su và các môn đệ (Ga 13), Si-môn Phê-rô
đã không hiểu ý nghĩa hành động Đức Giê-su rửa chân cho ông. Phê-rô quả quyết
với Đức Giê-su: “Không đời nào Thầy lại rửa chân cho con” (13,8a). Trên bình
diện trần thế, phản ứng của Phê-rô bày tỏ lòng tôn trọng Thầy mình. Đức Giê-su
là Thầy, là Chúa sao lại rửa chân cho môn đệ được. Nhưng khi Đức Giê-su nói với
Phê-rô: “Nếu Thầy không rửa cho anh, anh sẽ chẳng có phần với
Thầy” (13,8b) thì Phê-rô lại muốn điều ngược lại. Từ chỗ không chịu để Thầy rửa
chân đến chỗ đòi rửa chân, tay và đầu. Phê-rô xin Đức Giê-su: “Thưa Thầy, không
chỉ rửa chân con, nhưng cả tay và đầu” (13,9). Hình như Phê-rô muốn bằng mọi
giá “có phần với Thầy” và có càng nhiều càng tốt. Bản văn có nét châm biếm và
hài hước vì Phê-rô tưởng là mình biết, nhưng thực ra ông không hiểu và không
biết điều mình xin. Bằng chứng là Đức Giê-su không đáp ứng cả hai lời yêu cầu
của Phê-rô. Đức Giê-su không làm theo yêu cầu của Phê-rô vì ông đã không hiểu ý
nghĩa của hành động rửa chân và ông phản ứng theo suy nghĩ trần thế. Cả hai lời
xin ở hai thái cực (không rửa gì cả – rửa hết) của Phê-rô đều không được Đức
Giê-su đáp ứng. Trong bối cảnh này, Phê-rô đang ở trong tình trạng khủng hoảng
vì không hiểu việc làm (“rửa chân”, x. 13,8a) và lời nói (“có phần”, x. 13,8b)
của Thầy.
Bản văn Ga 13–16 cho thấy các môn đệ còn không biết nhiều thứ khác. Chẳng
hạn, ở 13,21-22, các môn đệ không biết ai là kẻ sẽ nộp Thầy. Thực vậy, khi Đức
Giê-su nói với họ ở 13,21b: “Một ngườitrong anh em sẽ nộp Thầy”,
người thuật chuyện cho biết ở 13,22: “Các môn đệ nhìn nhau, phân vân không biết
Người nói về ai.” Ở 13,29, Đức Giê-su chấm miếng bánh và trao cho Giu-đa con
ông Si-môn Ít-ca-ri-ốt, nghĩa là các môn đệ đã biết ai là kẻ nộp Thầy, thì điều
lạ lùng là không môn đệ nào phản ứng gì về điều này, mà họ lại rơi vào tình
trạng không biết về một điều khác: Các môn đệ đã không biết ý nghĩa lời Đức
Giê-su nói với Giu-đa ở 13,27b: “Anh làm gì thì làm
mau đi”. Người thuật chuyện nói rõ điều này ở 13,28-29: “28 Không ai
trong những người [các môn đệ] đang dùng bữa biết tại sao Người [Đức Giê-su]
nói với ông ấy [Giu-đa] như thế 29 Vì Giu-đa giữ túi tiền, có vài người nghĩ là
Đức Giê-su nói với ông ấy: ‘Anh hãy mua những món cần dùng trong dịp lễ’, hoặc
bố thí cho người nghèo.” Như thế, Giu-đa, một người trong Nhóm Mười Hai, đi nộp
Thầy mà không ai trong nhóm biết người ấy đi đâu và làm gì! Khủng hoảng về sự
không biết này sẽ bùng nổ khi biến cố xảy ra, Đức Giê-su đã báo trước cho các
môn đệ ở 16,32: “Này đến giờ – và đã đến rồi – anh em sẽ bị phân tán mỗi
người về nhà mình và bỏ lại Thầy một mình. Nhưng Thầy không ở
một mình vì Cha ở với Thầy.”
Đề tài các môn đệ không biết, không hiểu, chưa hiểu về Đức Giê-su và về
giáo huấn của Người còn bộc lộ qua những câu hỏi. Chẳng hạn, Phê-rô hỏi Đức
Giê-su: “Thưa Thầy, Thầy đi đâu vậy?” (13,36a); “Thưa Thầy, sao con lại không
thể đi theo Thầy bây giờ được?” (13,37a). Tô-ma hỏi Đức Giê-su: “Thưa
Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con có thể biết đường?”
(14,5). Ngay trước biến cố Thương Khó của Đức Giê-su mà các môn đệ không biết
Thầy đi đâu và không biết mình đi con đường nào! Các môn đệ đang ở trong tình
trạng khủng hoảng nặng nề liên quan đến lòng tin vào Đức Giê-su.
Đồng thời, việc các môn đệ đặt những câu hỏi trên đây cũng là kỹ thuật hành
văn của người thuật chuyện. Qua lối trình bày: Các môn đệ hỏi – Đức Giê-su trả
lời, người thuật chuyện nói về Đức Giê-su như là Đấng mặc khải, Đấng biết mọi
sự. Người trả lời những thắc mắc của các môn đệ, cũng là thắc mắc của cộng đoàn
Gio-an vào cuối thế kỷ I và của độc giả qua mọi thời đại. Qua lối hành văn “hỏi
– đáp”, Đức Giê-su mặc khải ý định của Chúa Cha và mặc khải căn tính và sứ vụ
của Người. Như thế, hiểu biết giáo huấn của Đức Giê-su sẽ giúp độc giả vượt qua
khủng hoảng và giữ vững niềm tin.
4. Khủng hoảng vì
nghĩ Đức Giê-su vắng mặt
Trong Ga 13–16, các môn đệ đang bị khủng hoảng trầm trọng vì Đức Giê-su sắp
đi về với Cha của Người qua biến cố Thương Khó – Phục Sinh. Các môn đệ đang
buồn rầu, xao xuyến và sợ hãi. Đức Giê-su khích lệ các môn đệ ở đầu ch. 14:
“Lòng anh em đừng xao xuyến, hãy tin vào Thiên Chúa và hãy tin vào Thầy”
(14,1). Đến cuối ch. 14 Đức Giê-su ban bình an của Người cho các môn đệ và nói
ở 14,27c: “Lòng anh em đừng xao xuyến, đừng sợ hãi.” Biến cố Đức Giê-su đi về
với Cha đã làm cho “nỗi ưu phiền tràn ngập lòng” các môn đệ như Đức Giê-su đã
nói: “Nhưng vì Thầy nói ra các điều ấy, nỗi ưu phiền tràn ngập lòng anh em”
(16,6). Tuy nhiên Đức Giê-su hứa sẽ gặp lại họ và họ sẽ vui mừng. Người nói với
các môn đệ ở 16,22: “Bây giờ anh em lo buồn, nhưng Thầy sẽ lại thấy anh em, và
lòng anh em sẽ vui mừng; và niềm vui của anh em, không ai lấy khỏi anh em được.”
Tình cảnh buồn rầu, xao xuyến và sợ hãi của các môn đệ trước biến cố Thương
Khó gợi đến sự khủng hoảng của cộng đoàn Gio-an vào cuối thế kỷ thứ I liên quan
đến sự vắng mặt của Đức Giê-su. Trong lúc cộng đoàn đang gặp khó khăn thử thách
thì Đức Giê-su như thể không hiện diện với cộng đoàn. Không thấy Đức Giê-su lên
tiếng, cộng đoàn cảm giác như bị bỏ rơi và đang sống trong tình trạng mồ côi.
Trong hoàn cảnh này, lời Đức Giê-su nói với các môn đệ cũng là lời Người nhắn
gửi cộng đoàn: “Thầy sẽ không để anh em mồ côi, Thầy đến với anh em” (14,18).
Ngày nay, cảm nhận Đức Giê-su vắng mặt vẫn còn đó, sự im lặng của Đức Giê-su có
thể làm sa sút lòng trông cậy và làm lung lay lòng tin. Nhiều người tin tự hỏi,
nếu có Chúa hiện diện thì sao lại xảy ra những chuyện đau thương, bi đát và bất
công như thế được. Nhận ra sự hiện diện của Đức Giê-su trong mọi hoàn cảnh là
thách đố lớn của niềm tin. Làm thế nào nhận ra Đức Giê-su đang ở với mình? Phần
giải pháp sẽ trình bày câu trả lời theo Tin Mừng Gio-an.
5. Khủng hoảng vì
bị thế gian thù ghét và bách hại
Trong đoạn văn Ga 15,18–16,4a, Đức Giê-su báo cho các môn đệ biết họ sẽ bị
thế gian thù ghét và bách hại. Người nói với các môn đệ ở 15,18-19: “18 Nếu thế
gian ghét anh em, anh em hãy biết rằng nó đã ghét Thầy trước. 19 Nếu anh em
thuộc về thế gian, thế gian đã yêu thích cái gì là của riêng nó. Nhưng vì anh
em không thuộc về thế gian và chính Thầy đã chọn anh em từ giữa thế
gian, vì điều này, thế gian ghét anh em.”
Thế gian (kosmos) ghét các môn đệ được gọi là “thế gian thù
ghét”, thế gian này là ai? Để trả lời câu hỏi này, cần xác định nghĩa của từ
“thế gian” (kosmos) theo thần học Tin Mừng Gio-an. Bài viết: “Thế gian (kosmos) trong Tin
Mừng Gio-an” đã trình bày năm nghĩa của từ Hy Lạp “kosmos” (thế
gian) trong Tin Mừng Gio-an. Đó là (1) “thế gian vũ trụ”, (2) “thế gian trái
đất”, (3) “thế gian nhân loại”, (4) “thế gian chưa tin” và (5) “thế gian thù
ghét”. Các nghĩa này được dùng để xây dựng thần học Tin Mừng Gio-an, qua đó
diễn tả tương quan giữa những thực tại trần thế và sứ vụ của Đức Giê-su. Thần
học Tin Mừng Gio-an định nghĩa “thế gian thù ghét” trong tương quan với Đức
Giê-su và với các môn đệ. Vì ghét Đức Giê-su và ghét các môn đệ nên thế gian
này được gọi là “thế gian thù ghét.” Đó là một nhóm nhỏ những người đã nghe
những lời Đức Giê-su nói, đã thấy những dấu lạ Người làm nhưng họ vẫn không tin
vào Đức Giê-su (15,22-24).
“Thế gian thù ghét” trong Tin Mừng Gio-an gợi đến những kẻ chống đối Đức
Giê-su trong sứ vụ công khai của Người (những người Do Thái, những người
Pha-ri-sêu và các thượng tế). Họ là những người không tin, chống đối, thù ghét
và tìm cách giết Đức Giê-su. “Thế gian thù ghét” cũng gợi đến những kẻ bách hại
cộng đoàn Gio-an vào cuối thế kỷ I và những kẻ bách hại người tin qua mọi thời
đại. Trong Tin Mừng Gio-an “thế gian thù ghét” có sáu đặc điểm: (1) Ghét Đức
Giê-su, các môn đệ và Chúa Cha, (2) Thuộc về thủ lãnh thế gian và quỷ, (3)
Không biết Đức Giê-su và Cha của Người, (4) Không tin vào Đức Giê-su, (5) Có
tội, (6) Được mời gọi tin và nhận biết Đức Giê-su. Xem bài viết: “Sáu đặc điểm của ‘thế gian thù
ghét’ và ‘những kẻ chống đối Đức Giê-su’ trong Tin Mừng Gio-an.”
Lý do thế gian thù ghét các môn đệ là vì các môn đệ không thuộc về thế gian
và vì các môn đệ được Đức Giê-su tuyển chọn. Vì được chọn, nên các môn đệ thuộc
về Đức Giê-su chứ không thuộc về thế gian. Đức Giê-su giả thiết rằng: “Nếu anh
em thuộc về thế gian, thế gian đã yêu thích cái gì là của riêng nó” (15,19a),
nghĩa là nếu các môn đệ thuộc về thế gian, họ sẽ được thế gian yêu mến và đương
nhiên sẽ không bị thù ghét. Nhưng nếu thuộc về thế gian thì các môn đệ lại
không thuộc về Đức Giê-su, tức là cành nho (các môn đệ) không còn trên thân nho
(Đức Giê-su) nữa. Trong trường hợp này, hậu quả sẽ như lời Đức Giê-su nói ở
15,6: “Ai không ở lại trong Thầy, thì bị quăng ra ngoài như
cành nho và bị khô héo. Người ta thu lượm chúng, bỏ vào lửa và chúng bị đốt
cháy.” Như thế, các môn đệ ở trong tình trạng tiến thoái lưỡng nan. Tin vào Đức
Giê-su, thuộc về Đức Giê-su thì có sự sống đời đời, nhưng lại có nguy cơ bị thử
thách và bách hại. Không tin vào Đức Giê-su, nghĩa là thuộc về thế gian thì
được thế gian yêu mến, nhưng lại bị hư mất, bị loại ra ngoài và không có sự
sống của Thiên Chúa nơi mình.
Hoàn cảnh tiến thoái lưỡng nan như trên vẫn kéo dài suốt dòng lịch sử. Cụ
thể là cộng đoàn Gio-an vào cuối thế kỷ I đang gặp khó khăn thử thách, thậm chí
mạng sống các thành viên trong cộng đoàn bị đe dọa. Đức Giê-su báo cho các môn
đệ biết điều đó khi nói ở 16,2: “Họ sẽ làm cho anh em thành những người bị khai
trừ khỏi hội đường. Sẽ đến giờ, kẻ nào giết anh em cũng tưởng mình phụng thờ
Thiên Chúa.” Đức Giê-su báo trước cho các môn đệ biết để họ giữ vững niềm tin:
“Những điều ấy, Thầy đã nói với anh em để anh em không bị vấp ngã” (16,1). Lời
này cho thấy, trong hoàn cảnh bị bách hại, đã xảy ra trường hợp vấp ngã và chối
bỏ niềm tin. Một số môn đệ có thể đã để quỷ gieo vào lòng mình những ý định đen
tối, đã để mình thuộc về quỷ và làm công việc của quỷ như Giu-đa (6,71;
13,2.27.30). Việc Phê-rô chối Thầy được Đức Giê-su báo trước (13,38) và được
thuật lại chi tiết (18,17.25.26-27) trong Tin Mừng Gio-an gợi đến tình trạng
khủng hoảng của cộng đoàn, có thể một số môn đệ đã thầm kín hay công khai chối
Thầy như Phê-rô.
Tin Mừng Gio-an gợi lên những yếu tố khủng hoảng niềm tin, đồng thời chính
bản văn Tin Mừng đã cho độc giả biết phải làm gì để tránh vấp ngã. Trong hoàn
cảnh khó khăn và thử thách đến từ bên trong và bên ngoài cộng đoàn như đã trình
bày, Đức Giê-su đã động viên các môn đệ nhiều điều trong Tin Mừng. Đặc biệt lời
cuối cùng Đức Giê-su nói với các môn đệ trong các diễn từ từ biệt (Ga 13–16),
cũng là lời Đức Giê-su khích lệ cộng đoàn Gio-an cuối thế kỷ thứ I và các môn
đệ qua mọi thời đại đang gặp khó khăn thử thách. Đức Giê-su kết thúc những lời
từ biệt ở 16,33: “Những điều này, Thầy nói với anh em để trong Thầy, anh em có
sự bình an. Trong thế gian, anh em có sự khốn khó, nhưng anh em hãy can đảm,
chính Thầy đã thắng thế gian.” Trong ch. 13–16, ngoài những lời khích lệ, Đức
Giê-su còn mặc khải những giải pháp thiết thực để các môn đệ vượt qua thử
thách. Những giải pháp đó là gì?
III. Làm gì để giữ vững niềm tin?
Có nhiều điều cần làm để giữ vững niềm tin, nhưng có thể quy vào điều này:
Lắng nghe và đón nhận giáo huấn của Đức Giê-su để có thể sống và ở lại trong
lời của Người. Phần sau bàn đến các giải pháp giúp vượt qua khủng hoảng niềm
tin qua năm mục: (1) Thực hành giáo huấn của Đức Giê-su, (2) Xây dựng tương
quan với Đức Giê-su bằng cách “ở lại trong nhau” (Đức Giê-su – môn đệ), (3) Xác
tín sự ở lại của Chúa Cha, Đức Giê-su, Đấng Pa-rác-lê nơi mình, (4) Sống niềm
vui và bình an của Đức Giê-su ban tặng, (5) Mở lòng đón nhận hoạt động của Đấng
Pa-rác-lê.
1. Thực hành giáo
huấn của Đức Giê-su
Trước những khó khăn thử thách xảy đến vì “tin vào Đức Giê-su” như trên,
chính Đức Giê-su đã an ủi và khích lệ các môn đệ giữ vững niềm tin. Vì thế,
cách tốt nhất để xây dựng tương quan mật thiết và bền vững với Đức Giê-su là
học hỏi giáo huấn của Người. Theo thần học Tin Mừng Gio-an, Đức Giê-su đã trao
ban toàn bộ mặc khải cho các môn đệ. Người nói với họ vào cuối sứ vụ công khai
ở 15,15: “Thầy không gọi anh em là tôi tớ, vì tôi tớ không biết điều chủ mình
làm. Nhưng Thầy gọi anh em là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy nghe nơi Cha của
Thầy, Thầy đã làm cho anh em biết.” Tất cả những gì Đức Giê-su đã nghe nơi Cha
của Người, Người đã làm cho các môn đệ biết hết. Nghĩa là toàn bộ mặc khải đã
được trao ban cho các môn đệ rồi, không cần phải đi tìm ở nơi nào khác; nhưng
các môn đệ đã hiểu mặc khải hay chưa lại là chuyện khác. Bối cảnh Ga 13–16 cho
thấy các môn đệ chưa hiểu hết mặc khải ấy, vì họ đang sống trong tâm trạng buồn
sầu, xao xuyến và sợ hãi, nên họ không mang nổi những lời giáo huấn của Đức
Giê-su như Người đã nói với họ ở 16,12: “Thầy vẫn có nhiều điều để nói với anh
em, nhưng bây giờ anh em không thể mang nổi.” Chỉ sau khi Đức Giê-su đi về với
Cha và Đấng Pa-rác-lê – Thần Khí sự thật – được gửi tới, lúc này Đấng Pa-rác-lê
sẽ dẫn các môn đệ đi trong sự thật toàn vẹn (16,13) và dạy các môn đệ mọi điều
Đức Giê-su đã nói (14,26). Xem trình bày về Đấng Pa-rác-lê trong bài viết: “Đấng Pa-rác-lê là ai?”
Như thế, việc lắng nghe, học hỏi và tìm hiểu giáo huấn của Đức Giê-su dưới
sự hướng dẫn của Đấng Pa-rác-lê là việc làm suốt cả đời người môn đệ. Nhờ Đấng
Pa-rác-lê dạy và hướng dẫn mà các môn đệ hiểu được ý nghĩa lời giáo huấn của
Đức Giê-su trong từng hoàn cảnh sống cụ thể. Nghĩa là giáo huấn của Đức Giê-su
là lương thực không hư nát, là bánh sự sống, là nước sự sống, là ánh sáng soi
dẫn cuộc sống của người môn đệ. Nhờ được giáo huấn của Đức Giê-su soi sáng,
người môn đệ sẽ tìm được ý nghĩa cao quý của việc lựa chọn tin vào Đức Giê-su
và thuộc về Người. Có thể nói, toàn bộ nội dung mặc khải trong Tin Mừng Gio-an
là giáo huấn của Đức Giê-su. Phần sau sẽ trình bày một số đề tài quan trọng
giúp người môn đệ sống và giữ vững niềm tin.
2. Ở lại trong
nhau giữa Đức Giê-su và các môn đệ
Lời mời gọi “ở lại trong nhau” giữa Đức Giê-su và các môn đệ được Đức
Giê-su nói đến nhiều lần trong Tin Mừng Gio-an. “Ở lại trong nhau” theo thần học
Tin Mừng này là bước vào tương quan với nhau cách chủ động và từ hai phía. “Đức
Giê-su ở trong các môn đệ” và “các môn đệ ở trong Đức Giê-su.” Đức Giê-su nói
với các môn đệ ở 14,20: “Trong ngày đó, anh em sẽ biết rằng: Thầy trong Cha
Thầy, anh em trong Thầy và Thầy trong anh em.” Ở lại trong nhau là điều kiện để
tồn tại và sinh hoa trái (x. 15,1-8). Đức Giê-su mời gọi các môn đệ ở 15,4:
“Anh em hãy ở lại trong Thầy, như Thầy trong anh em. Như cành nho không thể
sinh hoa trái tự nó nếu không ở lại trong cây nho, anh em cũng không, nếu anh em không ở lại trong Thầy.” Xem mục I.2.c)
“Đức Giê-su ở trong các môn đệ (14,20b)” trong bài viết: “Ga 14,15-24: Đặc ân dành cho
ai yêu mến Đức Giê-su và giữ các điều răn của Người.”
Đề tài “ở lại trong nhau” giữa Đức Giê-su và các môn đệ gợi đến mặc khải
quan trọng về đề tài “ở lại trong nhau” giữa Đức Giê-su và Cha của Người. Trong
đoạn văn 14,8-11, Đức Giê-su nhấn mạnh tương quan này. Khi Phi-líp-phê nói với
Đức Giê-su ở 14,8: “Thưa Thầy, hãy tỏ cho chúng con Cha là đủ
cho chúng con”, Đức Giê-su nói với Phi-líp-phê ở 14,10a: “Anh (chủ từ số ít)
không tin rằng: Thầy trong Cha và Cha ở trong Thầy sao?” Rồi Người mời gọi tất
cả các môn đệ tin vào tương quan mật thiết giữa Người và Chúa Cha. Đức Giê-su
nói tiếp ở 14,11a: “Anh em (chủ từ số nhiều) hãy tin Thầy: Thầy trong Cha và
Cha trong Thầy.” Như thế, ở lại trong Đức Giê-su và được Đức Giê-su ở lại trong
mình là bước vào tương quan hiệp thông sâu xa với Đức Giê-su, đồng thời tham dự
vào tương quan mật thiết giữa Đức Giê-su và Cha của Người (14,10.11).
“Ở lại trong Đức Giê-su” còn là lựa chọn sống còn
của người môn đệ: “Ở lại” là sống, “không ở lại” là chết, là hư mất, là “bị
quăng ra ngoài như cành
nho và bị khô héo” (15,6a). Như đã phân
tích, “ở lại trong Đức Giê-su” đồng nghĩa với thuộc về Người. Điều này bao hàm
nguy cơ bị thù ghét và bách hại. Như thế, lựa chọn “ở lại trong Đức
Giê-su” đem lại sự sống đích thực cho người môn đệ, nhưng cũng hàm ẩn sự can
đảm đón nhận thử thách gian nan. Tóm lại, Đức Giê-su mời gọi các môn đệ ở lại
trong Người và để Người ở lại trong từng môn đệ, đây là lời mời gọi hiệp thông
trong tương quan lòng mến với Đức Giê-su và là một trong những giải pháp giúp
các môn đệ vượt qua khủng hoảng niềm tin.
3. Sự ở lại của
Chúa Cha, Đức Giê-su, Đấng Pa-rác-lê
Trong đoạn văn 14,15-24, Đức Giê-su mặc khải cho các môn đệ biết phải làm
gì để được Chúa Cha, Đức Giê-su và Đấng Pa-rác-lê ở lại và đồng hành với mình.
Lời hứa về sự ở lại của ba Đấng sẽ được thực hiện với điều kiện các môn đệ “yêu
mến Đức Giê-su” và “giữ các điều răn của Người”. Đức Giê-su nói với các môn đệ
ở 14,15-16: “15 Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy;
16 và chính Thầy sẽ can thiệp với Cha và Người sẽ ban cho anh em một Đấng
Pa-rác-lê khác để Người ở với anh em mãi mãi.” Ở 14,21 Đức Giê-su nói với các
môn đệ: “Ai có các điều răn của Thầy và giữ chúng, người ấy là người yêu mến
Thầy. Mà ai yêu mến Thầy sẽ được Cha Thầy yêu mến. Chính Thầy sẽ yêu mến người
ấy và Thầy sẽ tỏ mình ra cho người ấy.” Đến 14,23, Đức Giê-su mặc khải cho các
môn đệ: “Ai yêu mến Thầy sẽ giữ lời của Thầy, và Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy,
và Chúng Tôi sẽ đến với người ấy và sẽ làm chỗ ở (monên) nơi người ấy” (14,23).
Những trích dẫn trên cho thấy các môn đệ sẽ được cả Ba Đấng (Chúa Cha, Đức
Giê-su, Đấng Pa-rác-lê) đến ở với họ với điều kiện là các môn đệ “yêu mến Đức
Giê-su” (14,15.23), “giữ lời Người” (14,23); “có các điều răn” (14,21) và “giữ
các điều răn của Người” (14,15). Các yếu tố này liên kết chặt chẽ đến mức có
thể hoán chuyển cho nhau. Có thể nói, theo thần học Gio-an “yêu mến thì tuân
giữ” (14,15) và ngược lại “tuân giữ thì yêu mến” (14,21), nghĩa là trong “yêu
mến” có “tuân giữ” và trong hành động “tuân giữ” luôn bao hàm “yêu mến”.
“Các điều răn của Đức Giê-su” ở 14,15.21 song song với “lời của Đức Giê-su”
ở 14,23, nên có thể hiểu “các điều răn” (số nhiều) là tất cả giáo huấn của Đức
Giê-su được trình bày trong Tin Mừng Gio-an. Muốn biết thế nào là “yêu mến Đức
Giê-su” và “các điều răn của Người” là gì, chỉ cần đọc toàn bộ sách Tin Mừng thì
sẽ biết. Như thế, học hỏi Tin Mừng sẽ giúp các môn đệ nhận ra và sống điều Đức
Giê-su hứa: Chính trong từng môn đệ có “sự hiện diện” và “sự ở lại” của Đức
Giê-su, Chúa Cha và Đấng Pa-rác-lê. Sự ở lại huyền nhiệm của ba Đấng nơi các
môn đệ là nguồn khích lệ và an ủi lớn lao trong hành trình làm môn đệ Đức
Giê-su, nhất là những lúc gặp khó khăn thử thách. Xem bài viết: “Ga 14,15-24: Đặc ân dành cho
ai yêu mến Đức Giê-su và giữ các điều răn của Người.”
4. Bình an và niềm
vui Đức Giê-su ban tặng
Ngay trong lúc các môn đệ đang ở trong tình trạng xao xuyến và sợ hãi
(14,27), Đức Giê-su hứa ban bình an và niềm vui của Người cho họ. Đề tài “niềm vui”
và “bình an” trong Ga 14–17 mang đậm nét Ki-tô học, vì đó là “bình an của Đức
Giê-su” và “niềm vui của Đức Giê-su” chứ không phải của thế gian, cũng không
phải của Thiên Chúa. Đức Giê-su nói với các môn đệ ở 14,27: “Thầy để lại bình
an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy. Không như thế gian ban mà chính Thầy ban cho
anh em. Lòng anh em đừng xao xuyến, đừng sợ hãi.”
Ở 15,11, Đức Giê-su mong muốn niềm vui của Người trở thành niềm
vui của các môn đệ, Người nói với họ: “Các điều ấy, Thầy đã nói với anh em để
niềm vui của Thầy ở trong anh em và niềm vui của anh em được trọn vẹn” (15,11).
“Các điều ấy” trong câu này là những điều Đức Giê-su vừa nói
với các môn đệ trước đó. Trong mạch văn gần “các điều ấy” là 15,1-10,
trong bối cảnh rộng hơn đó là những gì Đức Giê-su đã mặc khải từ 13,1 đến
15,10. Đối với độc giả “các điều ấy” được hiểu là giáo huấn
của Đức Giê-su. Như thế, cần hiểu mặc khải của Đức Giê-su trong Tin Mừng
mới có thể đón nhận niềm vui Đức Giê-su ban tặng và có khả năng làm cho niềm
vui của Đức Giê-su trở thành niềm vui của chính mình. Đó là niềm vui trọn vẹn(15,11, 17,13) và bền bỉ (16,22), bởi vì không ai có thể lấy niềm vui ấy khỏi các môn đệ
được. Đức Giê-su nói với các môn đệ trước biến cố Thương Khó – Phục Sinh: “Bây
giờ anh em lo buồn, nhưng Thầy sẽ lại thấy anh em, và lòng anh em sẽ vui mừng;
và niềm vui của anh em, không ai lấy khỏi anh em được” (16,22).
Lời cuối cùng Đức
Giê-su nói với các môn đệ trong ch. 13–16 là lời ban bình an và khích lệ:
“Những điều này, Thầy nói với anh em để trong Thầy, anh em có sự bình an. Trong
thế gian, anh em có sự khốn khó, nhưng anh em hãy can đảm, chính Thầy đã thắng
thế gian” (16,33). Động từ “ekhô” (có) trong cụm
từ “có sự bình an” được chia ở thì hiện tại lối
tiếp thuộc “ekhête”. Cách chia động từ này đề cao giá
trị hiện tại. Theo mạch văn, cần hai điều kiện
để có bình an của Đức Giê-su: Lắng nghe, đón nhận
những gì Đức Giê-su mặc khải (16,33a). Tóm lại, có niềm vui và bình an Đức Giê-su ban tặng sẽ giúp các môn đệ giữ vững niềm tin.
Họ sẽ vượt lên trên sự xao xuyến và sợ hãi (14,1.27),
từ đó can đảm làm chứng cho niềm tin trong hoàn cảnh bị thế gian thù ghét và
bách hại (15,18-21).
Đề tài “niềm vui”
và “bình an” trong Ga 14–17 có thể hiểu theo “chiều
ngang” và theo “chiều dọc”. Cách hiểu “chiều ngang” là hiểu theo
giòng thời gian (trước – sau). Cách hiểu này phù hợp với bối
cảnh lịch sử thời Đức Giê-su. Các môn đệ buồn rầu, sợ
hãi, xao xuyến khi Đức Giê-su bước vào cuộc Thương Khó. Nhưng các môn đệ sẽ vui mừng trong tương lai, khi Thầy trò gặp lại
nhau sau biến cố Phục Sinh. Hiểu niềm vui và bình an
theo chiều ngang đề cao biến cố nền tảng của niềm tin: Cuộc Thương Khó và Phục
Sinh của Đức Giê-su. Biến cố quan trọng này có khả năng đem lại bình an và niềm vui đích thực cho các môn đệ.
Tuy nhiên, sau biến cố Phục Sinh cộng đoàn các môn đệ vẫn gặp
thử thách và bị bách hại. Cách hiểu “niềm
vui” và “bình an” theo chiều dọc giúp các môn đệ sống
và giữ vững niềm tin ngay trong lúc đang gặp thử thách và khủng hoảng. Thật
vậy, cách hiểu theo “chiều dọc” (trên – dưới) của đề
tài “niềm vui” và “bình an” được áp dụng cho cộng đoàn Gio-an vào cuối thế kỷ I
và cho người tin qua mọi thời đại. Trong Ga 14–17, Đức Giê-su không chỉ hứa ban
niềm vui và bình an “trong tương lai” (sau biến cố Phục Sinh) mà Người còn ban
cho các môn đệ niềm vui (15,11) và bình an (14,27a) “trong hiện tại”, ngay lúc
các môn đệ đang xao xuyến và sợ hãi (14,27b). Điều này rất có ý nghĩa đối với
cộng đoàn Gio-an vào cuối thế kỷ I, vì lúc ấy cộng
đoàn đang bị khủng hoảng và bị thế gian thù ghét và bách hại.
Thần học Tin Mừng
Gio-an cho phép hiểu “niềm vui” và “bình an” trong
tương quan giữa hai thế giới như Đức Giê-su nói với những người Do Thái ở
8:23-24: “23 Các ông, các ông thuộc về hạ giới; còn Tôi, Tôi thuộc về thượng
giới. Các ông, các ông thuộc về thế gian này; còn Tôi, Tôi
không thuộc về thế gian này. 24 Tôi đã nói với các ông
là các ông sẽ chết trong tội của các ông. Vì nếu các ông không tin rằng:
Tôi Là, các ông sẽ chết trong tội của các ông.” Giữa hai thế giới này: thế giới
của Thiên Chúa (thượng giới) và thế giới của con người (hạ giới) có thể hiểu “bình an” và “niềm
vui” của Đức Giê-su là ơn ban từ trên. Nghĩa là nhờ “bình an” và “niềm vui” từ
trên (thượng giới) ban xuống mà các môn đệ có thể đón nhận hoàn cảnh sống ở
trần gian (hạ giới) và nhờ đó vượt qua thử thách trong cuộc sống. Bình an và
niềm vui của Đức Giê-su là những thực tại được ban từ trên cao, từ nơi Thiên
Chúa. Cách hiểu theo chiều dọc giúp các môn đệ sống trọn vẹn hai thực tại đối
lập nhau: “Niềm vui và nỗi buồn”, “khủng hoảng và bình an”. Nhưng các thực tại
này được đặt trên hai bình diện khác nhau: “Nỗi buồn” và “khủng hoảng” là thực tại
thuộc về hạ giới (thế gian này); “niềm vui” và “bình an” của Đức Giê-su là thực
tại thuộc về thượng giới (thế giới của Thiên Chúa), nhưng được ban cho các môn
đệ đang sống trong thế gian này.
Đọc và hiểu bản văn theo “chiều ngang” và “chiều dọc” như trên là một trong
những nét độc đáo của thần học Tin Mừng Gio-an. Cách đọc này có ý nghĩa thiết
thực vì vừa cho phép đề cao biến cố Thương Khó – Phục Sinh (hiểu chiều ngang),
vừa cho phép hiện tại hóa không ngừng hoàn cảnh sống của các môn đệ (hiểu theo chiều
dọc). Đức Giê-su còn mặc khải một giải pháp quan trọng khác, đó là vai trò và
hoạt động của Đấng Pa-rác-lê nơi các môn đệ.
5. Hoạt động của
Đấng Pa-rác-lê nơi các môn đệ
Sau khi Đức Giê-su về với Cha của Người, Đấng Pa-rác-lê được gửi đến với các
môn đệ (16,7). Như thế, từ sau biến cố Thương Khó – Phục Sinh, các môn đệ qua
mọi thời đại đang sống trong thời kỳ Đấng Pa-rác-lê hiện diện và hoạt động nơi
mình và nơi cộng đoàn. Vai trò của Đấng Pa-rác-lê nơi các môn đệ là đề tài quan
trọng trong Ga 14–16. Các môn đệ chỉ có thể đón nhận Đấng Pa-rác-lê với điều
kiện: “Yêu mến Đức Giê-su” và “giữ các điều răn của Người” (14,15). Hoạt động
phong phú của Đấng Pa-rác-lê nơi các môn đệ có thể quy về ba lãnh vực: (1) Đấng
Pa-rác-lê ở với và hướng dẫn các môn đệ; (2) Đấng Pa-rác-lê giảng dạy và làm
cho các môn đệ biết mặc khải của Đức Giê-su; (3) Đấng Pa-rác-lê làm chứng
“trước” và “trong” các môn đệ.
(1) Trước hết, Đấng Pa-rác-lê sẽ “ở với” các môn đệ, “ở giữa” cộng đoàn và
“ở trong” từng môn đệ mãi mãi (14,16-17). Đấng Pa-rác-lê ở lại và đồng hành với
các môn đệ, đồng thời dẫn các môn đệ “đi trong sự thật toàn vẹn” (16,13a). Bất
cứ ai “yêu mến Đức Giê-su và giữ các điều răn của Người” thì đã được Đấng
Pa-rác-lê, là Thánh Thần, là Thần Khí sự thật, ở lại mãi mãi với mình rồi. Vì
thế, theo thần học Tin Mừng Gio-an, người môn đệ không cần phải xin “Đấng
Pa-rác-lê – Thần Khí sự thật – Thánh Thần” đến với mình nữa. Thiết nghĩ điều
cần xin là ý thức sự hiện diện, sự hướng dẫn và hoạt động của Thánh Thần ở nơi
mình.
(2) Đấng Pa-rác-lê sẽ “dạy các môn đệ” tất cả những gì Đức Giê-su đã nói,
và “làm cho các môn đệ nhớ lại” giáo huấn của Đức Giê-su (14,26). Đấng
Pa-rác-lê sẽ lấy những gì của Đức Giê-su mà loan báo cho các môn đệ (16,13-15).
Đối với thế gian thù ghét, Đấng Pa-rác-lê sẽ cho các môn đệ biết sự thật về thế
gian và số phận của thủ lãnh thế gian. Thế gian có tội vì đã không tin vào Đức
Giê-su (16,9) và thủ lãnh của thế gian đã bị xét xử rồi (16,11). Đấng Pa-rác-lê
sẽ làm cho các môn đệ biết sự thật về Đức Giê-su và biết ý nghĩa của biến cố
Thương Khó. Trên bình diện lịch sử, Đức Giê-su đã bị giết chết trên thập giá,
nhưng trên bình diện mặc khải, đó là biến cố Đức Giê-su đi về với Cha của Người
(16,10), đó là Giờ Người được tôn vinh và là Giờ Người tôn vinh Chúa Cha
(13,31-32; 17,1).
(3) Đấng Pa-rác-lê giữ vai trò làm chứng về Đức Giê-su “trước” và “trong”
các môn đệ. “Làm chứng trước các môn đệ”, vì Đấng Pa-rác-lê
giúp các môn đệ hiểu biết và xác tín về nguồn gốc và sứ vụ của Đức Giê-su cũng
như giáo huấn của Người. Đấng Pa-rác-lê “làm chứng trong các
môn đệ”, khi các môn đệ làm chứng về Đức Giê-su trước thế gian. Trong trường
hợp này, Đấng Pa-rác-lê sẽ hướng dẫn, soi sáng từ bên trong, để các môn đệ can
đảm làm chứng về Đức Giê-su trong mọi hoàn cảnh sống.
Nếu các môn đệ hiểu biết và đón nhận tất cả vai trò và hoạt động phong phú
của Đấng Pa-rác-lê như trên thì niềm tin của họ sẽ ngày càng được củng cố. Nhờ
đó, các môn đệ có thể sống niềm tin cách sống động, mạnh mẽ và vững vàng. Xem
các bài viết về Đấng Pa-rác-lê: (1) “Đấng Pa-rác-lê là ai?”,
(2) “Ga 16,4b-11: Đấng Pa-rác-lê và
thế gian”, và phân tích chi tiết về hoạt động của Đấng Pa-rác-lê
trong tập sách: ĐẤNG
PA-RÁC-LÊ – Thần Khí sự thật – trong Tin Mừng thứ tư, tr. 153-330).
IV. Kết luận
Tin Mừng Gio-an trình bày những yếu tố gây khủng hoảng trong cộng đoàn các
môn đệ, đồng thời gợi lên nơi độc giả những yếu tố khủng hoảng đức tin ngày hôm
nay. Người môn đệ có thể gặp khủng hoảng vì giáo huấn của Đức Giê-su; vì để
mình thuộc về “bóng tối”; vì không biết, không hiểu lời Đức Giê-su; vì tưởng là
Đức Giê-su vắng mặt và vì bị thế gian thù ghét và bách hại. Những yếu tố khủng
hoảng này có thể làm lung lay niềm tin vào Đức Giê-su và có nguy cơ làm cho
người môn đệ vấp ngã. Tuy người tin xác tín là tin vào Đức Giê-su thì có sự
sống đời đời, nhưng hành trình làm môn đệ trong thế gian này vẫn còn nhiều thử
thách cam go. Có trường hợp người tin hy sinh cả mạng sống mình để bảo toàn
“tình yêu”, “lòng trung tín” và “sự sống đích thực” mà Đức Giê-su ban tặng. Vậy
phải làm gì khi bị khủng hoảng niềm tin? Tin Mừng Gio-an đưa ra nhiều giải pháp
cụ thể để các môn đệ có thể giữ vững niềm tin như sau.
(1) Nói chung, cách hiệu quả nhất để vượt qua khủng hoảng niềm tin là không
ngừng hiệp thông với Đức Giê-su, không ngừng học hỏi giáo huấn của Người để áp
dụng vào cuộc sống và xây dựng tương quan ngày càng mật thiết hơn với Đức
Giê-su.
(2) Đức Giê-su mời gọi các môn đệ gắn kết với Người qua việc “ở lại trong
Người” và để “Người ở lại trong mình.” Tương quan hai chiều với Đức Giê-su, như
Người đã nói với các môn đệ: “Anh em trong Thầy (kai humeis en emoi) và Thầy trong anh em (kagô en humin)” (14,20b) là tương quan hiệp thông sâu xa
giữa Đức Giê-su và các môn đệ. Tương quan này được diễn tả theo cùng một cách
thức như sự hiệp thông nên một giữa Đức Giê-su và Cha của Người: “Thầy trong
Cha và Cha trong Thầy” (14,11a). Sự ở lại với Đức Giê-su như cành nho trên thân
nho tạo nên sức mạnh tâm linh giúp các môn đệ đứng vững trong thử thách và sinh
nhiều hoa trái (15,5).
(3) Đức Giê-su hứa sự ở lại của ba Đấng nơi người tin. Chúa Cha, Đức Giê-su
và Đấng Pa-rác-lê sẽ đến, hiện diện và ở lại nơi những ai yêu mến Đức Giê-su và
giữ các điều răn của Người. Theo thần học Tin Mừng Gio-an, vấn đề không phải là
xin Đấng Pa-rác-lê – Thánh Thần đến với mình mà là thực hiện điều kiện để đón
nhận Đấng Pa-rác-lê: “yêu mến Đức Giê-su” và “giữ các
điều răn của Người”, nghĩa là toàn bộ giáo huấn của Đức Giê-su. Sự ở lại
của ba Đấng là điều khích lệ lớn lao khi người môn đệ cảm thấy mình như bị bỏ
rơi, bị mồ côi (14,18a) vì tưởng rằng Đức Giê-su không ở với mình.
(4) Dù còn nhiều gian lao khốn khó trong thế gian, người tin vẫn có niềm
vui và bình an của Đức Giê-su ban tặng. Theo cách đọc chiều ngang, biến cố Phục
Sinh mang lại cho các môn đệ một niềm vui không ai lấy mất được. Biến cố Phục
Sinh đã xảy ra gần 2000 năm rồi, liệu nơi người tin còn có niềm vui bền bỉ và
lớn lao này không? Theo cách đọc chiều dọc, quà tặng niềm vui và bình an không
làm biến đi những khó khăn thử thách trong hiện tại, nhưng quà tặng: niềm vui
và bình an của Đức Giê-su là những thực tại đến từ trên cao, giúp người tin đón
nhận và sống trọn vẹn thực tại trần thế; bởi vì niềm vui và bình an của Đức
Giê-su đã trở thành niềm vui và bình an của chính mình và đó là niềm vui và
bình an đích thực.
(5) Một trong những nét độc đáo của thần học Tin Mừng Gio-an là hoạt động
của Đấng Pa-rác-lê nơi các môn đệ. Trong Tin Mừng Gio-an, Đấng Pa-rác-lê
(14,16.26; 15,26; 16,7) được đồng hoá với Thần Khí sự thật (14,17; 15,26) và
Thánh Thần (14,26). Hoạt động phong phú đa dạng của Đấng Pa-rác-lê quy về ba
lãnh vực: (1) Ở lại (14,16-17) và hướng dẫn các môn đệ (16,13); (2) Giảng dạy
và làm cho các môn đệ biết mặc khải (14,26; 16,8-11); (3) Làm chứng
“trước” và “trong” các môn đệ (15,26-27). Tin Mừng mời gọi người tin ý thức và
xác tín về sự hiện diện và hoạt động của Đấng Pa-rác-lê nơi mình để có khả năng
giữ vững niềm tin và can đảm làm chứng về Đức Giê-su. Đấng Pa-rác-lê là nguồn
sức mạnh tâm linh giúp các môn đệ hiểu giáo huấn của Đức Giê-su và vượt qua thử
thách.
Với đề tài “khủng hoảng niềm tin vào Đức Giê-su và giải pháp để giữ vững
niềm tin” trình bày trong Tin Mừng Gio-an như trên, Tin Mừng này đã góp phần
quan trọng cho độc giả qua mọi thời đại. Những ai đang khủng hoảng niềm tin hay
lạnh nhạt với niềm tin, thậm chí đã mất niềm tin, đều có thể tìm lại được sức
sống và lòng cam đảm để giữ vững niềm tin, nhờ học hỏi và suy gẫm Tin Mừng
Gio-an. Cho dù khó khăn và thử thách xảy ra ở đâu và vào thời đại nào, người
tin vẫn có thể áp dụng giáo huấn của Đức Giê-su trong Tin Mừng Gio-an vào hoàn
cảnh cụ thể để vượt qua, vượt lên trên khủng hoảng niềm tin và sống niềm vui và
bình an của Đức Giê-su ban tặng. Xem tập sách phân tích về đề tài này: KHỦNG
HOẢNG VÀ GIẢI PHÁP cho các môn đệ trong Tin Mừng thứ tư./.
Nguồn: http://leminhthongtinmunggioan.blogspot.com/2012/12/khung-hoang-niem-tin-va-giai-phap-e-giu.html
Ghi chú: Tác giả
chịu trách nhiệm nội dung bài viết, vì thế, xin các trang web đăng lại cho hiển
thị ngày tháng, nguồn bài viết và đừng chỉnh sửa hay cắt bớt nội dung. Cảm ơn.
Xem:
- Tin (pisteuô) trong Tin Mừng
Gio-an.