Bài 5 : Công viỆc và ngày lỄ trong
gia đình
A. Bài hát và lời chào mở đầu
B. Kinh Chúa Thánh Thần
C. Bài đọc Lời Chúa
26 Thiên Chúa phán : “Chúng ta hãy làm ra con người theo hình ảnh chúng
ta, giống như chúng ta, để con người làm bá chủ cá biển, chim trời, gia súc, dã
thú, tất cả mặt đất và mọi giống vật bò dưới đất”.
27 Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh mình,
Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình
ảnh Thiên Chúa,
Thiên Chúa sáng tạo con người có nam có
nữ.
28 Thiên Chúa ban phúc lành cho họ, và Thiên Chúa phán với họ : “Hãy sinh
sôi nảy nở thật nhiều, cho đầy mặt đất, và thống trị mặt đất. Hãy làm bá chủ cá
biển, chim trời, và mọi giống vật bò trên mặt đất”.
29 Thiên Chúa phán : “Đây Ta ban cho các ngươi mọi thứ cỏ mang hạt giống
trên khắp mặt đất, và mọi thứ cây có trái mang hạt giống, để làm lương thực cho
các ngươi. 30 Còn đối với mọi dã thú, chim trời và mọi vật bò dưới
đất mà có sinh khí, thì Ta ban cho chúng mọi thứ cỏ xanh tươi để làm lương
thực. Liền có như vậy”. 31 Thiên Chúa thấy mọi sự Người đã làm ra
quả là rất tốt đẹp ! Qua một buổi chiều và một buổi sáng : đó là ngày thứ sáu.
2,1 Thế là trời đất cùng với mọi thành phần đã hoàn tất.
2 Ngày thứ bảy, Thiên Chúa đã hoàn thành công việc Người làm. Khi làm
xong mọi công việc của Người, ngày thứ bảy, Thiên Chúa nghỉ ngơi. 3 Thiên
Chúa ban phúc lành cho ngày thứ bảy và thánh hoá ngày đó, vì ngày đó Người đã
nghỉ, ngưng làm mọi công việc sáng tạo của Người.
4 Đó là gốc tích trời đất khi được sáng tạo (St 1,26 – 2, 4).
D. Giáo lý Kinh Thánh
1. Thiên Chúa phán :
Chúng ta hãy làm ra con người. Trình thuật Kinh Thánh về nguồn gốc trình bày việc tạo
dựng con người, nam và nữ, như là công trình của Thiên Chúa, kết quả của công
việc Ngài làm. Thiên Chúa tạo dựng con người khi Ngài làm việc như người thợ
gốm nặn ra chiếc bình sành (St 2,7). Và cả khi Ngài ban sự sống cho Dân
Ngài là Israel, khi giải phóng họ khỏi ách nô lệ của người Ai Cập và dẫn đưa họ
về Đất Hứa, công việc của Thiên Chúa cũng giống như của người mục tử, ra công
làm việc bằng cách dẫn đoàn chiên ra đồng cỏ (x. Tv 77, 21).
Công trình tạo dựng của
Thiên Chúa được kèm theo lời của Ngài, đúng hơn, nó được thực hiện nhờ lời của
Ngài : “Thiên Chúa phán : “Chúng ta hãy làm ra con người theo hình ảnh
chúng ta, giống như chúng ta” ... Và Thiên Chúa đã tạo dựng con người theo hình
ảnh mình...”. Những gì Thiên Chúa làm ra, trước tiên không “được dùng” nhưng
là để được chiêm ngưỡng. Thiên Chúa nhìn ngắm những gì Ngàiđã làm ra đến
mức chúng tỏa ánh huy hoàng, Ngài thưởng lãm vẻ đẹp của điều thiện hảo mà Ngài
đã tạo dựng nên. Dưới con mắt của Ngài, công việc làm ấy như một kiệt tác.
Người nào còn biết ngạc
nhiên vì những kỳ công của thế giới, một cách nào đó họ làm sống lại niềm vui
của Thiên Chúa. Cũng thế, ngày nay với đức tin và lòng đơn sơ người nào biết
nhìn vẻ đẹp của vũ trụ, họ cũng đồng thời mời gọi người khác nhận biết bàn tay
của Thiên Chúa và hiểu rằng vũ trụ này không phải là một sản phẩm ngẫu nhiên,
nhưng đó là công trình đáng yêu của Đấng Tạo Thành dành cho con người, loài thọ
tạo không chỉ “tốt lành” như các thọ tạo khác, nhưng còn là “rất tốt lành”.
Lời đi kèm công trình tạo
dựng của Thiên Chúa cũng không thể thiếu nơi con người làm việc. Không bao giờ
được để cho công việc siết chặt làm nghẹt thở con người đến nỗi phải rơi vào
thinh lặng ! Mất đi quyền được lên tiếng, người lao động rơi nhào vào phận
người nô lệ, vốn là kẻ không được vui hưởng về kết quả công việc mình làm, bởi
vì bị ông chủ tước đoạt mất.
Con người phải làm việc, để
có thể sống, nhưng những điều kiện làm việc phải cứu vãn và nhất là phải cổ
võ phẩm giá của con người họ. Thị trường việc làm ngày nay buộc không ít
người, nhất là những người trẻ và phụ nữ, rơi vào những tình trạng luôn bấp
bênh, việc làm không cố định và thiếu bảo đảm về mặt kinh tế và xã hội,
chỉnhững bảo đảm ấy mới giúp các thế hệ trẻ tạo lập gia đình và cho các gia
đình sinh sản và dưỡng dục con cái.
Tình trạng gọi là “toàn
cầu hóa” đòi hỏi thị trường việc làm phải “uyển chuyển” sao cho thích hợp, thế
nhưng hoàn cảnh ấy không biện minh cho tình cảnh thường xuyên “bấp bênh” của
những anh chị em chỉ dựa vào “sức lao động” của mình như nguồn lực duy nhất bảo
đảm cho nhu cầu cuộc sống của chính mình và gia đình mình. Phải có những trù
liệu xã hội và tổ chức an sinh bảo đảm thích hợp, giúp nền kinh tế lao động
phát triển trọn vẹn hơn, hầu giúp cho các gia đình nhất là khi phải sống những
giai đoạn thật tế nhị, như khi sinh con, hay khó khăn hơn nữa, như khi lâm bệnh
và thất nghiệp, họ có thể trông cậy vào bảo đảm an sinh hợp lý.
2. Thiên Chúa phán với
họ... hãy sinh sôi cho đầy mặt đất và thống trị mặt đất. Tạo thành “rất tốt đẹp”
không thể chỉ để chiêm ngắm, nhưng cũng còn là một lời mời gọi con người hợp
tác. Thực thế, đối với mọi người làm việc là một ơn gọi tham dự vào công trình
của Thiên Chúa và, vì thế, đó chính là nơi để được thánh hóa. Khi làm biến đổi
thực tại, con người nhận ra rằng thế giới này đến từ Thiên Chúa, là Đấng muốn
họ hoàn tất công trình tốt đẹp mà Ngài đã khởi sự. Điều đó có nghĩa là, tình
trạng thất nghiệp nghiêm trọng như là hậu quả của khủng hoảng kinh tế thế giới
hiện nay chẳng hạn, không chỉ làm các gia đình mất đi những phương tiện mưu
sinh, nhưng còn cản trở con người phát triển chính mình cách trọn vẹn vì kinh
nghiệm lao động bị tước mất hay bị lược giản.
Công việc không được đè
bẹp con người, nhưng là chính con người được mời gọi qua laođộng “thống trị”
mặt đất (St 1,28). Toàn thể trái đất được xếp đặt cho con người hưởng
dùng để con người, nhờ trí tuệ và nỗ lực của mình, khám phá ra các nguồn tài
nguyên thiết yếu để sống và sử dụng chúng thật thích đáng. Để đạt mục đích này,
ngày nay hơn bao giờ hết, chúng ta không được quên rằng trái đất được Thiên
Chúa trao phó cho chúng ta như một mảnh vườn để biết quí trọng và vun trồng (St
2,7).
Việc sử dụng có trách
nhiệm các tài nguyên thiên nhiên của trái đất, nhằm mục đích phát triển một
cách có thể chấp nhận được, ngày nay trở nên một vấn đề ở hàng đầu, “vấn đề
môi sinh”. Môi trường thoái hóa tại nhiều vùng trên địa cầu này, việc tăng
thêm những mức độ ô nhiễm và các yếu tố tiêu cực khác như việc trái đất này bị
hâm nóng quá độ như là những tiếng chuông báo động vang lên gây ý thức về một
kiểu phát triển khoa học kỹ thuật nhưng lại coi thường những hệquả đi kèm nơi
các xí nghiệp. Nghiên cứu những chính sách công nghiệp, nông nghiệp và đô thị
đặt trọng tâm ở con người và việc bảo tồn tạo thành thiên nhiên là điều kiện
không thể bỏ qua để bảo đảm cho các gia đình, ngay từ hôm nay và đặc biệt trong
tương lai, có một thế giới có thể ở được và có khả năng tiếp đón.
Sau khi đã làm việc sáu
ngày tạo dựng thế giới và con người, ngày thứ bảy Thiên Chúa nghỉ. Việc Thiên
Chúa nghỉ ngơi nhắc nhở con người cần thiết phải tạm ngưng làm việc, để đời
sống tôn giáo cá nhân, gia đình, cộng đoàn không bị hy sinh cho các ngẫu tượng
thu góp của cải, thăng tiến địa vị, gia tăng quyền lực. Người ta không chỉ sống
bằng những mối quan hệ nghề nghiệp, hoạt động kinh tế. Người ta cần có thời giờ
để vun trồng những mối quan hệ vô cầu thuộc tình cảm gia đình và những mối liên
hệ bạn bè và bà con.
Tại Tây Phương nền văn
hóa có xu hướng chủ yếu thực dụng coi cá nhân chỉ trong tương quan với xã hội
sản xuất và tiêu thụ : con người thường được nhìn trên phương diện hiệu quả sản
xuất nhiều hơn vì, một khi sẵn sàng di động và uyển chuyển về giờ giấc hơn, xét
theo tỉ lệ phần trăm, họ tiêu thụ nhiều hơn những người sống trong gia đình.
3. Chúng ta hãy làm ra
con người theo hình ảnh chúng ta, giống như chúng ta. Được tạo dựng theo hình
ảnh và giống Thiên Chúa (St 1,26), con người, cũng như Thiên Chúa, làm
việc và nghỉ ngơi. Thời gian nghỉ ngơi thanh bình và thời gian vui tươi của
ngày nghỉ lễ cũng là không gian để tạ ơn Thiên Chúa, Đấng Tạo Thành và Cứu Độ. Dừng
công việc lại, con người nhớ tới và cảm nghiệm rằng ở ngay nguồn gốc của hoạt
động lao công của họ là hành động sáng tạo của Thiên Chúa. Sự sáng tạo của
con người bắt nguồn từ trong gốc rễ Thiên Chúa tạo dựng : chỉ có mình Ngài
tạo dựng từ hư không.
Nghỉ ngơi trong Chúa, con
người còn tìm lại được tầm mức đúng đắn của việc làm của mình đối với tương
quan với người bên cạnh. Lao động là để phục vụ cho các mối liên hệ sâu xa hơn
mà Thiên Chúa muốn cho con người thụ tạo. Tấm bánh kiếm được do làm việc không
chỉ cho chính mình, nhưng còn để nâng đỡ người khác đang cùng sống với ta. Qua
làm việc, vợ chồng nuôi dưỡng mối quan hệ của họ và cuộc sống của con cái. Ngoài
ra, làm việc cũng là hành vi công bằng nhờ đó con người tham dự vào thiện
ích của xã hội và đóng góp vào thiện ích chung.
Thời gian rảnh rỗi dành
cho các mối quan hệ liên vị và xã hội, nghỉ ngơi sau khi làm việc là một cơ hội
thích hợp để nuôi dưỡng các tình cảm gia đình, và hơn nữa còn thắt chặt các mối
liên hệ bằng hữu với các gia đình khác. Thực thế, nhịp điệu làm việc ngày nay
được xác lập bởi một nền kinh tế tiêu thụ đã hạn chế tới mức độ hầu như phá hủy
đi, nhất là trong một số nghề nghiệp, không gian của đời sống chung, nhất là
trong gia đình. Hoàn cảnh sống hiện thời xem ra như chối bỏnhững gì mà cho tới
gần đây người ta vẫn tưởng nghĩ. Chúng ta vẫn hằng mong đợi tiến bộ kỹ thuật sẽ
làm tăng thêm thời gian rảnh rỗi. Các nhịp độ cuồng nhiệt của công việc, các
cuộc đi lại để đến sở làm và trở về nhà, làm giảm thiểu ghê gớm khoảng thời
gian để vợ chồng gặp mặt và chia sẻ với nhau cũng như thời gian sống với con
cái. Giữa các thách đố gay go nhất của các nước phát triển về kinh tế, có thách
đố này : làm sao để quân bình được thời giờ trong gia đình với thời gian làm
việc. Trái lại, nhiệm vụ khó khăn của các nước đang trên đà phát triển là
làm sao gia tăng sản xuất mà không đánh mất sự phong phú của các mối quan hệ
nhân bản, gia đình và cộng đoàn, giải quyết và hòa hợp được mối tương quan giữa
gia đình – công việc trong bối cảnh các cuộc di dân ra bên ngoài cũng
như bên trong của cùng một xứ sở.
4. Thiên Chúa chúc lành
cho họ... Từ trình thuật về tạo thành xuất hiện một nối kết mật thiết giữa tình yêu
vợ chồng và hoạt động lao công : quả thật, lời chúc lành của Thiên Chúa hướng
đến sự phong nhiêu của đôi vợ chồng và việc làm bá chủ trái đất. Hai lời chúc
lành mời gọi chúng ta nhận biết sự tốt lành của đời sống gia đình và đời
sống lao động. Bởi thế, Ngài khuyến khích tìm một cách sống sao cho có một
sự quân bình và hài hòa giữa gia đình và việc làm. Ngày nay vẫn có những cố
gắng đi theo hướng này, thí dụ, ở đâu có thể được và thích hợp, thì người ta có
thể sắp xếp lịch làm việc bán thời gian hoặc xin ngày nghỉ phép sao cho phù hợp
với bổn phận công việc, và cũng tương ứng với nhu cầu của gia đình. Ta cũng có
thể xếp lịch uyển chuyển để tạo được sự quân bình đúng đắn giữa những đòi hỏi
của gia đình (nhất là trách nhiệm chăm sóc con cái) và các yêu sách của công
việc.
Các đôi vợ chồng được
chúc lành để họ nên phong nhiêu và kết trái từ sự phong nhiêu của trái đất. Gia
đình, một khi được Thiên Chúa chúc phúc, được mời gọi nhận ra các ơn huệ họ
nhận được từ Thiên Chúa. Một cách cụ thể để nhớ đến các ơn lành của Thiên Chúa,
Đấng là nguồn mạch của mọi ơn huệ, đó là khi gia đình cầu nguyện xin Chúa chúc
lành vào các bữa ăn. Việc tụ họp lại để ca tụng Thiên Chúa và cám ơn Ngài đã
ban cho bữa ăn là một cử chỉ thật đơn sơ nhưng cũng thật sâu sắc. Đó chính là
bày tỏ lòng biết ơn đối với Cha trên trời là Đấng hằng chăm lo cho con cái mình
trên mặt đất này, khi tuôn đổ trên họ ơn sủng biết yêu thương nhau và ban cho
họ bánh để nuôi sống.
E. Lắng nghe Giáo huấn
[của Giáo hội]
Không chỉ làm việc, mà
còn chính sự nghỉ lễ là một quyền căn bản và đồng thời là một điều phúc lợi cần
thiết cho các cá nhân và cho giađình của họ. Đó là điều được xác quyết trong
Tông huấn hậu Thượng Hội Đồng Giám Mục Sacramentum Caritatis.
Con người, dù là đàn ông hay đàn bà, có giá trị hơn việc làm : họ được dựng nên
để hiệp thông và để gặp gỡ. Do đó, ngày Chúa Nhật được lập nên trước hết không
như một thời gian tạm nghỉ để xóa đi sự mệt mỏi, cần phải được lấp đầy bằng
những hoạt động điên cuồng hay bằng những kinh nghiệm lập dị. Đúng hơn, đó phải
như là một ngày của sự nghỉ ngơi và mở ra gặp gỡ, giúp ta tái khám phá tha
nhân, cho phép dành thời gian cho liên hệ trong gia đình và bạn bè và cho việc
cầu nguyện.
Ý nghĩa của sự nghỉ ngơi
và làm việc
Thời đại ngày nay người
ta phải hết sức khẩn thiết nhớ rằng Ngày của Chúa cũng là ngày nghỉ ngơi không
làm việc. Chúng tôi rất mong ước ngày này được công nhận như thế cả trong xã
hội dân sự, như thế để người ta có thể được nghỉ ngơi không dính bén đến các
công việc mà không sợ bị trừng phạt. Thật thế, các Kitô hữu không phải là không
có liên hệ gì với ý nghĩa của ngày sabat trong truyền thống Do Thái, họ nhìn
ngày của Chúa cũng là một ngày nghỉ ngơi, thong dong đối với mọi công việc lao
nhọc hằng ngày. Điều này có một ý nghĩa rõ rệt bởi vì nó là một cách tương đối
hóa công việc, bởi nó nhắm tới con người như là mục đích : công việc là cho
con người chứ không phải con người vì công việc. Dễ thấy ngay từ đó chính
con người được bảo vệ và hệ quả là con người được giải phóng khỏi một hình thức
nô lệ. Như tôi đã xác quyết rằng “việc làm có tầm quan trọng đầu tiên là để thể
hiện con người và để phát triển xã hội, bởi thế nó cần phải luôn được tổ chức
và triển khai trong sự kính trọng đầy đủ phẩm giá con người và phục vụ công
ích. Đồng thời con người cần phải không để mình nô lệ cho công việc, và không
biến công việc thành một thứ ngẫu thần, và cho rằng mình có thể tìm trong công
việc ý nghĩa cuối cùng và quyết định cho cuộc sống”. Ngày Chúa Nhật là một ngày
dành cho Thiên Chúa, chính trong ngày đó con người hiểu ý nghĩa của cuộc sống
mình và của cả việc làm của mình” (Sacramentum Caritatis, 74).
F. Những câu hỏi để thảo
luận
Những câu hỏi dành cho
các đôi vợ chồng :
1. Chúng ta có cảm thấy
mình được thể hiện trong hoạt động lao công của chúng ta không ?
2. Chúng ta có trao đổi
với nhau về kinh nghiệm làm việc của mình không ?
3. Thi hành nghề nghiệp
có đối kháng với các mối liên hệ vợ chồng và gia đình không ?
4. Chúng ta có thói quen
cầu nguyện vào bữa ăn không ? Việc làm phép của ăn có ý nghĩa gì đối với chúng
ta ?
Những câu hỏi dành cho
nhóm gia đình và cộng đồng :
1. Cộng đoàn Kitô giáo
chúng ta có quan tâm tới các vấn đề việc làm và kinh tế không ?
2. Trong thông điệp Caritas
in Veritate, Đức giáo hoàng Bênêđictô XVI nói về các điều kiện để có một
“việc làm xứng đáng” (số 63) : chúng ta phải làm thế nào để bảo đảm cho tất cả
mọi người một công việc xứng đáng ?
3. Uyển chuyển trong vấn
đề việc làm là một cơ hội hay một tai họa ?
4. Đâu là những hình thức
ngẫu tượng trong công việc có ở trong xã hội chúng ta đang sống ?
G. Một quyết tâm cho đời
sống gia đình và xã hội
H. Cầu nguyện tự phát. Kinh
Lạy Cha.
I. Bài hát kết thúc.