Bài 7 : Công viỆc : thách đỐ đỐi
vỚi gia đình
A. Bài hát và lời chào mở đầu
B. Kinh Chúa Thánh Thần
C. Bài đọc Lời Chúa
St 2,8 Rồi Ðức Chúa là Thiên
Chúa trồng một vườn cây ở Êđen, về phía đông, và đặt vào đó con người do chính
mình nặn ra.
9 Ðức Chúa là Thiên Chúa khiến từ đất mọc lên đủ mọi thứ cây trông thì
đẹp, ăn thì ngon, với cây trường sinh ở giữa vườn, và cây cho biết điều thiện
điều ác. 10 Một con sông từ Êđen chảy ra tưới khu vườn, và từ đó
chia thành bốn nhánh. 15 Ðức Chúa là Thiên Chúa đem con người đặt
vào vườn Êđen, để cày cấy và canh giữ đất đai (St 2,8-10.15)
3,17 Với con người, Chúa
phán : “Vì ngươi đã nghe lời vợ và ăn trái cây mà Ta đã truyền cho ngươi rằng :
“Ngươi đừng ăn nó”,
nên đất đai bị nguyền rủa vì ngươi ;
ngươi sẽ phải cực nhọc mọi ngày trong đời
ngươi,
mới kiếm được miếng ăn từ đất mà ra.
18 Ðất đai sẽ trổ sinh gai góc cho ngươi, ngươi sẽ ăn cỏ ngoài đồng.
19 Ngươi sẽ phải đổ mồ hôi trán mới có bánh ăn,
cho đến khi trở về với đất, vì từ đất,
ngươi đã được lấy ra.
Ngươi là bụi đất, và sẽ trở về với bụi
đất.” (St 3,17-19)
D. Giáo lý Thánh Kinh
1. Thiên Chúa trồng một vườn cây ở Êđen. Vườn ở Êđen là một ơn huệ Chúa ban, là một
nơi rất đẹp, nhiều nước tưới cả thế giới. Nhiệm vụ đầu tiên Chúa giao cho con
người sau khi tạo dựng là làm việc trong vườn của mình, trồng trọt và chăm
nom vườn. Hơi thở sự sống mà Chúa thổi vào con người, làm cho con người
giàu tính sáng tạo và sức mạnh, thông tuệ và sức sống, để họ có thể cộng tác
vào công trình tạo dựng của Ngài.
Thiên Chúa không ghen tỵ về công trình của họ mà để công trình ấy tùy
con người sử dụng, không chút nghi kỵ và rất mực quảng đại. Ngài không chỉ giao
cho con người trông nom mọi thụ tạo khác mà còn ban cho họ thần khí để họ tham
gia một cách tích cực vào công trình tạo dựng, tạo dựng chúng theo ý định của
Người. Thần Khí là nguồn mạch Thiên Chúa đã để trong con người để họ trông nom
toàn thể tạo thành cho Người và với Người.
Con người không được tạo nên, như theo quan niệm của một số tôn giáo
Đông Phương Cổ đại, để thay thế công việc của các vị thần hay để trở thành
những người nô lệ phục vụ thấp hèn nhất của họ. Thiên Chúa muốn tạo dựng con
người để họ trông coi thọ tạo thiên nhiên và cộng tác tích cực vào công
trình sáng tạo.
Trong truyền thống Thánh kinh công việc tay chân được đánh giá cao và trong
các trường đào tạo rabbi chúng được kết hợp với việc học. Ngày nay đứng trước
sự người ta ngày càng coi thường đối với một số nghề nghiệp, đặc biệt là những
nghề thủ công, thật đúng lúc ta cần khám phá lại giá trị của lao động chân
tay. Sự chăm nom và canh tác mảnh vườn trái đất mà Thiên Chúa giao phó cho
con người không chỉ liên quan đến trí óc và con tim, nhưng phải dùng đến cả đôi
tay. Lao động nông nghiệp và việc sản xuất thủ công và công nghiệp vẫn là hai
cột trụ của lao động nhờ đó con người góp phần vào sự phát triển của mỗi người và toàn xã hội. Như Thông điệp Laborem
Exercens, số 9 nói : “Lao động là một
thiện hảo của con người – là một thiện hảo cho nhân tính – vì qua lao động con
người không chỉ biến đổi thiên nhiên để nó đáp ứng nhu cầu của riêng mình, mà
còn thực hiện chính mình như là người hay đúng hơn, theo một nghĩa nào đó, ta
“trở nên người hơn”.
2. Ðức Chúa là Thiên Chúa đem con người đặt vào vườn Êđen. Thiên Chúa không chỉ trồng một cái vườn, mà
còn để cho con người ở đó. Vườn địa đàng được trao phó cho con người để họ sống
hiệp thông với nhau và, bằng lao động, chăm lo cuộc sống lẫn nhau. Lao động
không phải là một hình phạt của Chúa, như người ta tưởng tượng trong các truyền
thuyết cổ xưa, cũng không phải là một tình cảnh nô lệ, như người ta nghĩ trong
văn hóa Hy-La. Đúng hơn, đó là một hoạt động căn bản của mỗi người. Thế giới
đợi chờ con người bắt tay vào việc. Họ có khả năng và trách nhiệm thực hiện
trong thế giới thụ tạo này kế hoạch của Thiên Chúa Tạo Hóa. Dưới ánh sáng
này, lao động là một hình thức con người sống mối tương quan và sự trung thành
của mình với Chúa.
Như thế làm việc không phải là cùng đích của cuộc sống. Nó luôn được coi
cách chính đáng chỉ như là phương tiện. Sự hiệp thông và chia sẻ trách nhiệm
của con người với Đấng Tạo Hóa mới là cùng đích. Nếu lao động mà trở thành cùng
đích, thì nó biến thành một ngẫu thần, và như thế lao động của con người không
còn là cộng tác với Thiên Chúa như Ngài đòi hỏi. Thiên Chúa không chỉ đòi hỏi
con người lao động nhưng yêu cầu họ “lao động bằng cày cấy và canh giữ”
công trình tạo dựng của Chúa. Con người không chỉ tự thân làm việc, mà cộng
tác với công trình của Thiên Chúa. Thế nhưng, việc cộng tác này là tích cực
và có trách nhiệm, bởi lẽ, để tránh lười biếng và thực hành siêng năng, con
người đã “làm việc” : họ “cày cấy và canh giữ” đất đai.
Lao động được dự kiến dành cho con người trong vườn Êđen là công việc
của người nông dân, chủ yếu là chăm nom đất đai để được phì nhiêu, hạt giống
được gieo vãi trong đó trổ sinh muôn hoa trái dồi dào. Phát triển thế giới
thiên nhiên mà không biến nó thành dị dạng, làm giàu từ những quy luật vốn được
ghi trong thiên nhiên, dấn thân phục vụ nhân loại, phục vụ mọi người nam và
người nữ được tạo dựng theo hình ảnh và giống Thiên Chúa, hành động để giải
thoát con người khỏi mọi hình thức nô lệ ngay cả nô lệ lao động : đó là một số
nhiệm vụ được giao cho con người để họ góp phần vào việc biến nhân loại thành
một đại gia đình duy nhất.
3. Để họ cày
cấy và canh giữ đất đai. Trong khi trình thuật tạo dựng thứ nhất (St
1) trình bày con người thống trị muôn thú và làm bá chủ trái đất, trong trình
thuật thứ hai (St 2) người ta muốn nói đến việc gieo giống và việc canh
tác. Và nếu như trong trình thuật thứ nhất người ta không có ý nói đến một sự
thống trị độc đoán, mà đúng hơn nói đến vương quyền của một vị vua quảng đại
chỉ tìm kiếm lợi ich cho dân của mình một cách khôn ngoan và công bình, trong
trình thuật thứ hai người ta nói đến sự kiên nhẫn và hy vọng, trong khi chờ đợi
hoa trái.
Trong thời gian chờ đợi, con người được yêu cầu sống đức trung tín,
giống như nhân đức được đòi hỏi ở những người, tại
Sự khai thác đúng đắn nguồn tài nguyên trái đất bao hàm việc bảo vệ công
trình tạo dựng và liên đới với các
thế hệ tương lai. Một ngạn ngữ Ấn độ dạy rằng chúng ta “không bao giờ được nghĩ
rằng mình được thừa hưởng trái đất này từ cha ông chúng ta mà là đảm lấy nó để
chuyển giao lại cho con cái chúng ta”. Nhiệm vụ bảo vệ trái đất đòi hỏi ta phải
tôn trọng thiên nhiên, nhìn nhận trật tự theo ý muốn của Tạo Hóa. Như thế, lao
động của con người mới thoát khỏi nỗi cám dỗ phung phá tài nguyên và làm biến
dạng vẻ đẹp của hành tinh trái đất, trái lại sẽ làm cho nó trở nên, theo ước
mong của Thiên Chúa, khu vườn chung sống và là nơi hòa hợp gia đình nhân loại,
được Cha trên trời chúc phúc.
4. Ngươi sẽ
phải đổ mồ hôi trán mới có bánh ăn. Nguy cơ lao động trở thành ngẫu
tượng cũng đáng cho gia đình phải lưu tâm. Điều đó xảy ra khi công việc chiếm
vị trí tuyệt đối trổi vượt hơn các mối quan hệ gia đình, khi cả hai vợ chồng bị
choán bởi lợi nhuận kinh tế và đặt hạnh phúc của mình chỉ ở nơi sung túc vật
chất. Mối nguy của người lao động ở mọi thời là quên Thiên Chúa, để mình bị hút
hoàn toàn bởi những bận tâm trần thế, với xác tín là nơi đó người ta có thể
thỏa mãn mọi ước muốn. Để tránh khỏi những lạc hướng này, cần có sự cân bằng
đúng mực trong làm việc, điều đó đòi hỏi gia đình biết phân định những chọn
lựa giữa việc nhà và việc nghề nghiệp. Về mặt này, nguyên tắc vốn chỉ giao
phó việc nội trợ và trông nom nhà cửa cho người phụ nữ có vẻ bất công. Cả gia
đình phải dấn thân vào nhiệm vụ này theo một sự phân chia nhiệm vụ công bằng.
Trái lại, về hoạt động nghề nghiệp, dĩ nhiên làm sao vợ chồng cần thống nhất
với nhau tránh việc vắng nhà quá lâu. Tiếc thay, trong thực tế nhu cầu chu cấp
nuôi sống gia đình rất thường không để cho đôi vợ chồng có thể chọn lựa một
cách khôn ngoan và hài hòa.
Bỏ bê đời sống đạo đức và gia đình là đi ngược lại giới răn yêu thương
đối với Thiên Chúa và tha nhân, là giới răn mà Đức Giêsu đã chỉ ra như giới răn
đầu liên và lớn nhất (x. Mc 12,28-31). Nhận ra tình yêu của Chúa Cha với
mọi ơn Ngài ban, sống trong chân trời như thế là điều Thiên Chúa mong ước đối
với mỗi gia đình. Nhận ra tình yêu của Cha trên trời và sống tình yêu đó
dưới thế là ơn gọi riêng của mỗi gia đình.
Sự mệt nhọc là thành phần làm nên lao động. Trong thời đại hiện nay sống
theo kiểu muốn “mọi sự và ngay lập tức”, việc giáo dục lao động “đổ mồ
hôi” xem ra được Chúa quan phòng. Điều kiện cuộc sống trên trái đất, vốn chỉ
tạm thời và luôn mong manh, cả đối với với gia đình, gắn liền với sự mệt nhọc
và đau khổ, nhất là liên quan đến công việc phải làm để mưu sinh. Sự khó nhọc
trong lao động trở nên có ý nghĩa và được xoa dịu khi nó được đảm nhận không
phải vì lý do để làm giàu ích kỷ cho bản thân, nhưng để chia sẻ nguồn tài
nguyên cuộc sống, bên trong và ngoài gia đình, nhất là với những người nghèo
hơn, phù hợp với hướng chảy phổ quát của phúc lợi.
Đôi khi cha mẹ thái quá muốn tránh cho con cái mọi thứ nhọc nhằn. Họ không
nên quên rằng gia đình là trường dạy lao động đầu tiên, nơi đó người ta
học chịu trách nhiệm về mình và về những người khác trong môi trường sống
chung. Đời sống gia đình, cùng với những việc nhà, dạy cho người ta biết quý
trọng sự mệt nhọc và củng cố ý chí hướng đến phúc lợi cộng đồng và lợi ích
chung.
Người Kitô hữu nhìn nhận giá trị của lao động,
nhưng cũng biết nhìn thấy trong đó cả những sự biến dạng do tội lỗi gây ra. Bởi
thế gia đình Kitô hữu đón nhận lao động như một sự quan phòng đối với cuộc sống
của mình và của những người thân trong gia đình. Nhưng gia đình phải tránh biến
lao động thành một giá trị tuyệt đối và xem khuynh hướng này, một khuynh hướng
khá phổ biến ngày nay, như là một trong những cám dỗ thờ ngẫu tượng của thời
đại. Đó không chỉ là một xác tín khác. Cám dỗ đó áp đặt cuộc sống gia đình bộc
lộ một chọn lựa ưu tiên. Gia đình phải bận tâm, như Thông điệp Laborem Exercens số 9 diễn tả, làm sao để
trong “lao động, nhờ đó mà giá trị vật chất được thăng hoa, phẩm giá của chính
con người không bị giảm thiểu”.
Lao động : một thiện hảo cho con người và cho phẩm giá của con người
Tuy nhiên, với tất cả sự khó nhọc này – và có lẽ, theo một nghĩa nào đó,
nhờ đó – lao động trở thành một điều thiện hảo cho con người. Nếu điều thiện
hảo này bao gồm dấu chỉ của một “thiện hảo khó nhọc” (bonum arduum),
theo kiểu nói của thánh Tôma, điều này không làm mất tính chất thiện hảo của nó
đối với con người. Và nó không chỉ là một điều thiện hảo “hữu ích” hay “sinh
ích”, mà còn một thiện hảo “xứng đáng”, nghĩa là tương xứng với phẩm giá của
con người, một thiện hảo diễn tả phẩm giá và làm gia tăng phẩm giá đó. Muốn xác
định rõ hơn ý nghĩa đạo đức của lao động, trước hết người ta cần phải ý thức
chân lý này. […]
Không xem xét điều này người ta không thể hiểu được ý nghĩa của đức
siêng năng, nhất là người ta không thể hiểu tại sao sự siêng năng lại là một
đức tính. Thật vậy, nhân đức, như một thái độ luân lý, là điều mà nhờ đó con
người trở nên tốt xét như là con người. Sự kiện này hoàn toàn không thay đổi
bận tâm chính đáng của chúng ta, là làm sao để trong lao động, nhờ đó mà giá
trị vật chất được thăng hoa, phẩm giá của chính con người không bị giảm thiểu.
Hơn nữa, ai cũng biết người ta có thể sử dụng lao động chống lại con người theo
nhiều cách khác nhau, người ta có thể hành phạt con người với hệ thống lao động
khổ sai trong trại tập trung, người ta có thể biến lao động thành một phương
tiện áp bức con người, và sau cùng người ta có thể theo nhiều cách bóc lột lao
động, nghĩa là bóc lột người lao động. Tất cả những điều này được đặt ra vì
nghĩa vụ luân lý là làm sao nối kết đức tính siêng năng với trật tự xã hội của
lao động, vốn là điều giúp con người “trở nên người hơn” trong lao động, chứ
không thoái hóa vì lao động, làm tổn hao không chỉ sức khỏe thể lý (điều nay ít
ra theo một mức nào đó, là không thể tránh khỏi), mà nhất là khắc ghi phẩm giá
và chủ thể tính, cái thuộc về riêng con người. [Laborem Exercens, 9].
F. Câu hỏi để thảo luận dành cho các đôi vợ chồng và theo nhóm
Những câu hỏi dành cho các đôi vợ chồng :
1. Chúng ta có biết nâng đỡ nhau trong những
nhọc nhằn nghề nghiệp liên hệ không ?
2. Chúng ta có quan tâm tìm kiếm những cơ hội
để cùng làm những việc lao động chân tay không ?
3. Con cái chúng ta có hiểu sự nhọc nhằn của
lao động và giá trị của tiền bạc kiếm được nhờ công việc và mồ hôi nhọc nhằn
không ?
4. Chúng ta có biết chia sẻ các thu nhập từ
công việc chúng ta cả đối với những người nghèo không ?
Những câu hỏi dành cho nhóm gia đình và cộng đoàn :
1. Khủng hoảng kinh tế tác động đến đời sống
của các gia đình chúng ta như thế nào ?
2. Trong các cộng đoàn Kitô hữu chúng ta có
bận tâm đến bao nhiêu người thất nghiệp, hay chỉ làm một công việc tạm bợ, ít
tiền hay mất vệ sinh không ?
3. Gia đình có thể thực hiện được những chọn
lựa cụ thể nào để giáo dục những trẻ nhỏ biết “bảo vệ công trình thiên nhiên” ?
4. Những hình thức nô lệ trong thế giới lao
động còn tồn tại không ? Làm sao để chiến thắng nó, đương đầu với nó và vượt
qua nó ?
G. Một quyết tâm cho đời sống gia đình và xã
hội
H. Cầu nguyện tự phát. Kinh Lạy Cha.
I. Bài hát kết thúc.