Quản Trị theo kiểu mẫu CƠ CẤU (Structural)
Nhiều
người trong chúng ta hẳn còn nhớ đến tập phim cổ điển đen trắng mang tựa đề
“Thời Đại Tân Kỳ” (Modern Times). Tập phim được thủ diễn bởi vua hài Sạc-lô (Charlie
Chaplin) trong vai một công nhân sản xuất. Công việc của anh chỉ là siết chặt
các bù-loong trên dòng vật dụng đi ngang qua anh trên dây chuyền lắp ráp. Từ
một văn phòng ở góc xa, ông chủ lớn xác định tiến độ công việc và truyền lệnh
cho người quản lý, tức người kiểm soát tốc độ của đường dây. Một quản đốc khác
đi lang thang quan sát Sạc-lô và các đồng nghiệp của anh ta, vỗ về để giữ họ
làm nhiệm vụ. Một camera trong phòng nghỉ áp lực công nhân không được lãng phí
thời gian. Quản lý công việc từ cấp độ ông chủ lớn, xuống người quản lý, tới
quản đốc trên người công nhân là mô hình đơn giản của Quản Trị theo kiểu mẫu Cơ
Cấu hoặc còn gọi là Quản trị theo kiểu mẫu Cấu Trúc. Nói một cách khác, các
nhiệm vụ chuyên ngành, công việc tuần tự, giám sát chặt chẽ và chỉ thị theo
hàng dọc từ trên xuống là một hình thức được chấp nhận rộng rãi trong tổ chức
Quản Trị theo kiểu mẫu Cơ Cấu.
Về cơ
bản, kiểu mẫu cơ cấu là một kế hoạch chi tiết cho người trong cuộc là các giám
đốc điều hành, quản lý, nhân viên và các khách hàng. Giống như bộ xương của
động vật và giàn khung của một tòa nhà, hình thức cơ cấu vừa tăng cường vừa hạn
chế những gì một tổ chức có thể thực hiện. Các khả năng thiết kế thay thế hầu
như không hiện hữu. Cơ cấu nếu ổn định, môi trường sẽ được phân cấp theo quy
tắc và định hướng.
Những
năm gần đây xuất hiện sự sáng tạo đáng chú ý trong việc thiết kế các cơ cấu
nhấn mạnh tính linh hoạt, tham gia, và chất lượng. Một ví dụ điển hình là BMW,
hãng sản xuất xe hơi sang trọng có mô hình cơ cấu thành công dựa trên sự kết
hợp giữa chất lượng cao cấp và sự đổi mới nhanh chóng. Những thay đổi mạnh mẽ
trong công nghệ và môi trường kinh doanh đã khiến cơ cấu cũ trở nên lỗi thời,
tạo ra mối quan tâm mới trong việc thiết kế tổ chức (Nadler, Gerstein, và Shaw,
1992; Bryan và Joyce, 2007). Áp lực của toàn cầu hóa, cạnh tranh, công nghệ, kỳ
vọng của khách hàng, và động lực của lực lượng lao động, vv… đã khiến các tổ
chức trên toàn thế giới suy nghĩ lại và thiết kế lại nguyên mẫu cơ cấu. Một
loạt các mặt hàng cạnh tranh gây sự chú ý cho giới quản trị viên cao cấp -
tiền, thị trường, con người, và năng lực công nghệ: “Các quản trị viên đầu tàu
(CEO: Chief of Executive Officer) thường lựa chọn thay đổi cơ cấu truyền thống
xưa cũ, hoặc tập trung vào cạnh tranh để phù hợp với thời đại kỹ thuật số. Mặc
dù vốn liếng là nguồn tài nguyên khan hiếm, chi phí tương tác cao, nhưng các cơ
cấu tích hợp theo chiều dọc vẫn là chìa khóa của các hoạt động hữu hiệu.”
[Bryan và Joyce, 2007, tr. 1].
I.
CƠ CẤU CĂN BẢN
Hai vấn
đề trọng tâm của kiểu mẫu cơ cấu là làm thế nào để phân bổ công việc và
để phối hợp các nỗ lực đa dạng một khi trách nhiệm đã được phân chia.
Ngay cả trong một nhóm nhỏ và thân mật như một gia đình, việc phân bổ công việc
cũng vẫn rất quan trọng - ai “làm gì”, và khi “làm gì” được hoàn thành, thì làm
thế nào để nỗ lực của mọi cá nhân được hài hòa. Mỗi nhóm nhỏ sẽ tìm cách sắp
xếp về vai trò và đồng bộ hóa hoạt động – nếu không dù là một nhóm nhỏ, sớm
muộn nó sẽ bị tan rã do dẫm chân nhau hoặc do dựa dẫm vào nhau. Vì vậy, Phân
công lao động - hoặc phân bổ nhiệm vụ - là yếu tố then chốt của cơ cấu. Mọi
người sống theo hệ thống và tạo ra các vai trò chuyên biệt để hoàn thành công
việc quan trọng. Hãy xem xét loài kiến: Người lao động nhỏ. . . dành phần lớn
thời gian của chúng trong tổ cho ấu trùng ấp trứng; công nhân cỡ trung bình
chiếm phần lớn dân số, đi ra ngoài đột kích tìm mồi cũng như làm các công việc
khác. Những công nhân lớn nhất… có một cái đầu lớn và xương hàm mạnh mẽ. Những
cá nhân này là các chiến sĩ; họ liên tục chạy dọc theo sườn của các cột đột
kích và di cư để hỗ trợ. Giống như loài kiến, con người từ lâu đã phát hiện ra
những việc cần chuyên môn hóa. Một công việc (hoặc vị trí) được quy định là
những gì và ai sẽ làm để hoàn thành nhiệm vụ đó. Một mặt, những hình thức ràng
buộc có thể là gánh nặng, dẫn đến thờ ơ, vắng mặt và kháng cự (Argyris, 1957,
1964). Mặt khác, chúng giúp bảo đảm tính dự đoán, tính đồng nhất, và độ tin
cậy. Khi một tổ chức giải thích các vị trí hoặc vai trò, các quản trị viên phải
đối mặt với các quyết định: làm thế nào để đưa nhóm người vào các đơn vị làm
việc? Để dễ dàng quyết định, họ sẽ dùng phương pháp phân loại cơ bản như sau
(Mintzberg, 1979):
·
Phân nhóm dựa trên kiến thức hoặc kỹ năng, như trong trường hợp của một trường đại học
khoa học hoặc các đơn vị công nghiệp cổ điển của nghiên cứu, kỹ thuật, sản xuất,
tiếp thị và tài chính.
·
Các đơn vị được tạo trên cơ sở thời gian, như theo ca (sáng, chiều,
hoặc đêm).
·
Các nhóm được tổ chức theo sản phẩm, ví dụ, chất tẩy so với xà
phòng, máy bay thân rộng so với máy bay thân hẹp, vv…
·
Các nhóm được thành lập xung quanh khách hàng, như ở bệnh viện
được dựa trên việc phân loại bệnh nhân (nhi khoa, sản phụ, cấp cứu, vv…), bán
máy vi tính được tổ chức dựa trên việc phân loại khách hàng (doanh nghiệp,
chính phủ, giáo dục, cá nhân), hoặc các trường nhắm mục tiêu học sinh trong các
nhóm tuổi cụ thể.
·
Các nhóm xung quanh địa điểm hoặc địa lý, chẳng hạn như các khu
vực trong tập đoàn và các cơ quan chính phủ hoặc các trường lân cận ở các bộ phận
khác nhau của một thành phố.
·
Phân nhóm theo quy trình: hoàn thành công việc, như với việc đặt
hàng, hoàn thành quá trình đơn hàng. Quá trình này bắt đầu từ một đơn đặt hàng
của khách hàng, thông qua các chức năng, để giao hàng cho khách hàng.
Tạo vai
trò và đơn vị mang lại lợi ích của chuyên môn hóa, đồng thời tạo ra vấn đề phối
hợp và kiểm soát – cả hai đều vì mục đích là làm thế nào để bảo đảm rằng những
nỗ lực tuy đa dạng nhưng luôn hài hòa. Các đơn vị cần tập trung vào các ưu tiên
riêng biệt của họ và tự mình khởi động: Thu nhỏ và nhấn mạnh vào việc đạt được
các mục tiêu đơn vị hơn là tập trung vào tổng thể sứ mệnh.
II.
PHỐI HỢP HÀNG DỌC
(VERTICAL COORDINATION)
Với sự
phối hợp hàng dọc, cấp lãnh đạo cao hơn phối hợp và kiểm soát công việc của cấp
dưới thông qua thẩm quyền, quy tắc và chính sách, và hệ thống lập kế hoạch và
kiểm soát.
1.
Thẩm quyền
Cách cơ
bản và phổ biến nhất để hài hòa các nỗ lực của cá nhân, đơn vị, hoặc các bộ
phận là có một ông chủ hoặc một quản trị viên đầu tàu (CEO) có thẩm quyền chính
thức. Cơ quan chức năng - giám đốc điều hành, người quản lý và người giám sát -
Họ là những người có thẩm quyền tùy theo danh ngạch để đưa ra quyết định, giải
quyết tranh chấp hoặc vấn đề, đánh giá hiệu năng, việc sản xuất, phân phối,
phần thưởng và chế tài. Một chuỗi các mệnh lệnh là một hệ thống phân cấp của
quản lý và các tầng lớp giám sát, mỗi tầng có quyền lực hợp pháp để định hình
và định hướng hành vi của những người ở cấp thấp hơn. Nó hoạt động tốt nhất khi
quyền hạn được cả cấp dưới tán thành và được ủy quyền bởi cấp trên (Dornbusch
và Scott, 1975).
2.
Nội quy và chính sách
Các quy
tắc, chính sách, tiêu chuẩn và quy trình vận hành giới hạn sự tùy tiện của cá
nhân và giúp bảo đảm rằng hành vi có thể dự đoán và nhất quán. Quy tắc và chính
sách chi phối các điều kiện làm việc và chỉ định các cách hoàn thành nhiệm vụ,
xử lý các vấn đề nhân sự liên quan đến khách hàng và những người liên hệ quan
trọng khác, trong môi trường bên ngoài theo tiêu chuẩn định sẵn của tổ chức.
Điều này giúp bảo đảm rằng các tình huống tương tự được xử lý theo cách so sánh
và công bằng. Khi một tình huống được xác định là phải áp dụng quy tắc, quá
trình hành động rõ ràng, đơn giản và trong một thế giới lý tưởng, gần như tự
động, thì tiêu chuẩn là chính là điều cần thiết để bảo đảm rằng hàng hóa và
dịch vụ luôn được duy trì ở mức độ chất lượng cao. Trong những năm 1970 và
1980, sản xuất của Mỹ có vấn đề về tiêu chuẩn, trong khi các nhà sản xuất Nhật
Bản rất cẩn thận trong việc bảo đảm các tiêu chuẩn cao đã được công nhận và
được chấp nhận rộng rãi. Có một trường hợp xảy ra đã được ghi nhận, một Công ty
Mỹ đã đặt hàng vòng bi (bạc đạn) từ một nhà máy Nhật Bản. Công ty Mỹ phản ánh
rằng tiêu chuẩn sản phẩm rất cao - chỉ có hai mươi khiếm khuyết trên phần
nghìn. Khi đơn hàng đến, họ thấy có một thùng dư ra gồm hai mươi vòng bi cho
mỗi phần 1000 vòng bi chuyển đến do công ty Nhật Bản gửi kèm theo, để bù khuyết
nếu sản phẩm bị lỗi.
3.
Hệ thống lập kế hoạch và
kiểm soát
Sự phụ
thuộc vào hệ thống lập kế hoạch và kiểm soát - dự báo và đo lường – đã mọc lên
như nấm từ buổi bình minh của kỷ nguyên máy tính. Các nhà bán lẻ, ví dụ, cần
phải biết những gì bán được và những gì không bán được. Thiết bị đầu và cuối
điểm bán mang lại thông tin đó ngay lập tức. Dữ liệu được ghi nhận lên xuống
trong hệ thống phân cấp giúp tăng cường đáng kể khả năng giám sát và giám sát
hiệu suất trong thời gian đã định. Mintzberg (1979) phân biệt hai cách tiếp cận
chính để kiểm soát và lập kế hoạch là hiệu suất và hành động. Kiểm soát hiệu
suất áp đặt mục tiêu kết quả cụ thể (ví dụ, tăng doanh số 10% năm nay). Kiểm
soát hiệu suất cần các biện pháp thúc đẩy các nỗ lực cá nhân, đặc biệt khi các
mục tiêu là hợp lý rõ ràng và có thể tính toán. Locke và Latham (2002) làm cho
trường hợp rõ ràng hơn là đưa ra các mục tiêu đầy thách thức để tạo ra một động
lực mạnh mẽ cho hiệu suất cao. Kiểm soát hiệu suất ít thành công hơn khi các
mục tiêu không rõ ràng và khó đo lường. Lập kế hoạch hành động cụ thể là phương
pháp và thời gian để quyết định và hành động, như gia tăng doanh số bán hàng
trong tháng này hay trong tam cá nguyệt này bằng cách ước tính dựa trên một
doanh số bán hàng trên toàn công ty trong một khoảng thời gian nhất định. Ví
dụ, Quí I năm 2019, doanh thu 2.3 triệu đồng thì năm nay, 2020 Quí I, kế hoạch
cần tăng thu 20% tức là 2.76 triệu đồng (Mintzberg, 1979, trang 153 - 154). Lập
kế hoạch hành động tốt nhất là làm thế nào một công việc dễ được thực hiện hơn
là để đo lường sản phẩm của nó.
III.
PHỐI HỢP HÀNG NGANG
(Lateral Coordination)
Phối
hợp hàng ngang còn được gọi là kỹ thuật bên là các hoạt động song hành được
thiết lập mang tính trợ giúp (staff) dòng chính tức dòng điều hành (line). Các
sinh hoạt của họ là các cuộc họp chính thức hoặc không chính thức, lực lượng
đặc nhiệm, phối hợp vai trò, cấu trúc ma trận và mạng, vv…. Hình thức song hành
này thường đơn giản và nhanh gọn hơn.
1.
Các cuộc họp
Các
cuộc họp chính thức hoặc không chính thức là nền tảng của sự phối hợp hàng
ngang. Tất cả các tổ chức luôn có các cuộc họp thường xuyên và định kỳ. Hội
đồng quản trị đưa ra chính sách. Ban chấp hành tập họp để đưa ra quyết định
chiến lược. Ban điều hành duyệt xét tiến trình thực hiện. Các khâu sản xuất báo
cáo kết quả. Tất cả các cuộc họp của các cấp, các ban ngành trên đều cần sự
phối hợp hài hòa và ăn ý để đạt hiệu quả mong muốn.
2.
Lực lượng đặc nhiệm
Khi các
tổ chức trở nên đa dạng và phức tạp, nhu cầu liên lạc trở nên cấp thiết hơn.
Chẳng hạn, công ty hoặc tổ chức cần thêm các thiết bị phối hợp trực diện. Khâu
lắp ráp khi có vấn đề hoặc cơ hội mới đòi hỏi sự hợp tác đa dạng về đặc sản
hoặc chức năng. Công nghệ cao phụ thuộc nhiều vào các nhóm dự án hoặc nhóm
chuyên môn để đồng bộ hóa việc phát triển các sản phẩm hoặc dịch vụ mới, vv….
Khi đó, các công ty hoặc tổ chức thường lập nên một nhóm chuyên môn phụ trách
các vấn đề cần trực diện để nhanh chóng giải quyết theo nhu cầu. Nhóm chuyên
môn này gọi là lực lượng đặc nhiệm.
3.
Vai trò phối hợp
Các vai
trò hoặc đơn vị phối hợp cần khả năng cao về thuyết phục và đàm phán để giúp đỡ
người khác vận dụng những nỗ lực của họ. Chẳng hạn, người quản lý sản phẩm
trong một công ty hàng tiêu dùng, chịu trách nhiệm về hiệu suất của bột giặt
hoặc đồ ăn nhẹ ít béo, thì vai trò chủ yếu của người ấy là điều hợp vai trò của
các khâu hoặc nhân viên dưới quyền, dành nhiều thời gian trong ngày để tập hợp các
chức năng thiết yếu thành công của sản phẩm: nghiên cứu, sản xuất, tiếp thị và
bán hàng.
4.
Cấu trúc Ma trận (Matrix
Structures)
Bắt đầu
từ những năm 1960, nhiều tổ chức trong các môi trường khó sử dụng đã phát triển
cấu trúc Ma trận. Vào giữa những năm 1990, Asea Brown Boveri (ABB), ngành kỹ
thuật điện khổng lồ, đã phát triển mạnh mẽ và tập hợp 1,300 công ty và hơn hai
trăm ngàn nhân viên trên toàn thế giới. Để tập hợp các công ty này lại với
nhau, ABB đã phát triển một cấu trúc ma trận lan tỏa khắp một trăm quốc gia với
khoảng sáu mươi lĩnh vực kinh doanh (Rappaport, 1992). Mỗi công ty con báo cáo
cho một quản trị viên cấp quốc gia (Thụy Điển, Đức, vv.) và một quản trị viên
ban ngành (máy biến áp, vận chuyển, và tương tự). Thiết kế mang theo rủi ro
không thể tránh khỏi của sự nhầm lẫn, căng thẳng và xung đột giữa các quản trị
viên ban ngành và các cấp quốc gia. ABB đã cố gắng tạo ra sự kết hợp hài hòa
trong cơ cấu giữa ban lãnh đạo với nhóm ủy ban điều phối gồm mười ba quản trị
viên cao cấp từ tám quốc gia, những cán bộ ưu tú giữa hàng trăm quản trị viên
toàn cầu và chính sách giao tiếp bằng tiếng Anh, mặc dù đó là ngôn ngữ thứ hai
đối với hầu hết nhân viên. Cấu trúc hoạt động từ những năm 1990 và ABB trở
thành một trong những công ty ở Châu Âu được ngưỡng mộ nhất. Nhưng những căng
thẳng cố hữu cuối cùng đã phải trả giá. Từ cuộc suy thoái kinh tế năm 2000, ABB
bắt đầu tạo ra nhiều nứt rạn nội bộ và suy sụp (Reed và Sains, 2002). Tuy
nhiên, các biến thể trên cơ cấu của ABB - một Ma trận với các dòng sản phẩm
hoặc doanh nghiệp trên một trục và các quốc gia hoặc khu vực khác – lại trở nên
phổ biến trong các tập đoàn toàn cầu.
5.
Mạng (network)
Mạng,
có nơi nhiều cũng có nơi ít hơn nhưng luôn tồn tại. Cochran (2000) mô tả cách thức
kinh doanh của giới đầu tư phương Tây và Nhật Bản ở Trung Quốc trong thế kỷ
mười chín và hai mươi đã phải điều chỉnh thứ bậc cơ cấu của họ để phù hợp với
các mạng xã hội mạnh mẽ của thương nhân và công nhân gắn bó sâu sắc trong văn
hóa Trung Quốc. Sự phát triển của công nghệ thông tin bắt đầu từ những năm 1980
đến sự phát triển bùng nổ của mạng vi tính - mọi thứ từ địa phương nhỏ cho đến
Internet toàn cầu. Những thiết bị liên lạc mới mạnh mẽ này là chiến lược theo
chiều dọc thường được thay thế và thúc đẩy sự phát triển của mạng cấu trúc
trong và giữa các tổ chức (Steward, 1994). Powell, Koput, và Smith - Doerr
(1996) mô tả sự mọc lên như nấm của các mạng lưới tổ chức khiến những người
trong cuộc chuyển động nhanh như công nghệ sinh học, nơi kiến thức rất phức tạp và phân tán rộng rãi
rằng không có tổ chức nào có thể đi một mình. Họ đưa ra một ví dụ nghiên cứu về
bệnh Alzheimer, được thực hiện bởi ba mươi bốn nhà khoa học từ ba tập đoàn, một
trường đại học, một phòng thí nghiệm của chính phủ và một viện nghiên cứu tư
nhân. Các nhà khoa học không cần tập trung lại một chỗ nhưng vẫn có thể nghiên
cứu, thông tri và gần gũi nhau như hàng xóm nhờ mạng lưới internet. Nhiều tập
đoàn lớn trên toàn cầu đã phát triển thành mạng lưới tổ chức (Ghoshal và
Bartlett, 1990). Bổ sung liên kết ngang và đôi khi phối hợp dọc thay thế. Một
tổ chức như vậy là đa trung tâm: các sáng kiến và chiến lược xuất hiện từ nhiều nơi, hình thành thông qua nhiều
quan hệ đối tác và liên doanh.
IV.
THIẾT KẾ MỘT CƠ CẤU HỮU
DỤNG
Khi
thiết kế một cơ cấu tổ chức, các nhà quản trị thường phân chia dựa trên công
việc và phối hợp nhiều nỗ lực khác nhau. Cơ cấu cần phải được thiết kế nhắm đến
kết quả mong muốn, bản chất của môi trường, tài năng của lực lượng lao động và
các nguồn lực sẵn có (như thời gian, ngân sách và các tình huống dự phòng
khác). Các lối phân chia được tóm tắt trong Phụ lục 1 dưới đây.
1.
Dọc hay ngang?
Như đã
lưu ý, phối hợp dọc dựa trên lệnh truyền và điều khiển từ trên xuống. Tổ chức
này rất có hiệu lực nhưng không phải lúc nào cũng có hiệu quả, bởi nó phụ thuộc
vào ý muốn của nhân viên. Phân quyền với các hình thức song hành tức phối hợp
hàng ngang (lateral) để phối hợp hỗ tương thường rất cần thiết để giữ quyền
kiểm soát từ trên xuống mà vẫn giữ được khả năng phát huy sáng kiến và sáng tạo. Phối hợp song hành (gồm Line and staff
cùng lúc) thường hiệu quả hơn nhưng tốn kém hơn so với các cơ cấu dọc (line)
của nó. Một cuộc họp, ví dụ, cung cấp một cơ hội đối thoại trực tiếp và ra
quyết định, nhưng có nguy cơ lãng phí thời gian và năng lượng. Các chương trình
nghị sự cá nhân và chính trị thường làm suy yếu mục đích của cuộc họp. Một nhóm
đặc nhiệm thúc đẩy sự sáng tạo và hội nhập xung quanh các vấn đề cấp bách nhưng
có thể chuyển hướng sự chú ý từ các vấn đề điều hành đang diễn ra. Hiệu quả của
điều phối viên vượt qua ranh giới phụ thuộc vào uy tín và kỹ năng của họ trong
việc xử lý người khác. Các điều phối viên cũng có xu hướng sắp xếp các cuộc họp
mà vẫn mất nhiều thời gian hơn từ công việc thực tế (Hannaway và Sproull,
1979). Cấu trúc ma trận cung cấp liên kết song hành và tích hợp nhưng cũng rất
đáng ngại vì thường tạo ra sự tranh chấp và nhầm lẫn. Mạng (network) vốn rất
khó để quản lý.
Phụ lục
1
Các tổ
chức có thể sử dụng cả hai mô hình dọc và ngang để phối hợp. Sự pha trộn tối ưu
của cả hai đem lại những thách đố riêng biệt nhưng lại rất độc đáo nếu thành
công. Phối hợp dọc thường vượt trội nếu môi trường ổn định, các nhiệm vụ được
hiểu rõ và có thể dự đoán được, và tính đồng nhất là điều cần thiết. Phối hợp
hàng ngang hoạt động tốt nhất khi một nhiệm vụ phức tạp được thực hiện trong
cảnh hỗn loạn và môi trường thay đổi nhanh chóng. Mọi tổ chức phải tìm ra một
thiết kế đúng đắn và thích hợp cho hoàn cảnh của nó. Để có cái nhìn chính xác
hơn về quản trị theo kiến trúc Cơ cấu, chúng ta cùng nhau tìm hiểu hai đại cơ
cấu rất thành công trên thế giới nhưng cả hai lại thiết kế cơ cấu điều hành
hoàn toàn tương phản. Đó là Đại Công Ty McDonald’s và Đại học đường danh tiếng
Harvard.
a.
Mô hình Cơ cấu
McDONALD’s
McDonald,
công ty đã biến bánh Big Mac thành một từ quen thuộc với mọi người từ Mỹ tới
Âu, Á, Úc và Phi Châu và đã thành công rực rỡ. Trong 68 năm sau khi thành lập
(1950), McDonald’s đã thống trị ngành kinh doanh thực phẩm nhanh trên toàn thế
giới gồm 120 quốc gia và gần 38,000 nhà hàng. McDonald’s có một lượng nhân viên
tương đối nhỏ tại trụ sở toàn cầu gần Chicago, nhưng đại đa số nhân viên (trên
200,000) của công ty lại được chào đón trên toàn thế giới tại các cửa hàng địa
phương. Mặc dù rất quy mô và với phạm vi địa lý cực rộng, McDonald’s vẫn tổ
chức theo lối trung ương tập quyền của mô hình Cơ cấu hàng dọc với tổ chức kiểm
soát chặt chẽ. Hầu hết các quyết định chính yếu được thực hiện tại giới quản
trị viên cao cấp ở trên cùng tại văn phòng toàn cầu Chicago. Các quản trị viên,
các nhà quản lý và nhân viên của McDonald’s tại các quốc gia, vùng, miền và nhà
hàng địa phương hoàn toàn bị hạn chế trong công việc của họ. Công việc của họ
được kiểm soát bởi kỹ thuật cao trong công nghệ. Ví dụ, khoai tây được chiên bằng
máy tính thời gian và nước ngọt được bán theo máy đo và pha thủy lượng. Công ty
mẹ xử dụng các hệ thống kiểm soát chặt chẽ mọi hoạt động như MỘT nhà hàng toàn
cầu để đảm bảo rằng khách hàng có được những gì họ mong đợi. Một cái bánh Big
Mac có vị hoàn toàn giống nhau cho dù được mua ở New York, Bắc Kinh, hoặc
Moscow. Bảo đảm chất lượng tiêu chuẩn chắc chắn của sản phẩm đã giới hạn sáng
kiến và sự sáng tạo của những người sở hữu và làm việc trong các cửa hàng cá
nhân. Đầu bếp dự kiến sẽ không phát triển các phiên bản sáng tạo mới của bánh Big Mac hoặc bánh
Quarter Pounder. Sự sáng tạo của các cá nhân không được khuyến khích và cũng
không được dung thứ trên căn bản hàng ngày. Công ty đã cố gắng thích nghi với
sự tăng trưởng và toàn cầu hóa bằng cách tăng tiếp thu những ý tưởng mới từ mọi
tầng lớp nhân công – chẳng hạn, bánh mì sáng Egg McMuffin đã được tạo ra bởi
một chủ thương hiệu nhượng quyền (franchisee) tại địa phương, và sản phẩm của
McDonald’s được giao hàng tận nhà ở những thành phố nghẹt xe như Cairo và Đài
Bắc (Arndt, 2007). McDonald’s đã hơi nới lỏng theo ý kiến đóng góp của công
nhân tại nhiều nơi, nhưng do bởi một trong những tai nạn sảy thai của McDonald
hồi thập niên 1990 là kết quả của việc cố gắng nới lỏng. Hơn nữa, việc nới lỏng
lại bị áp lực từ một số chủ thương hiệu nhượng quyền (franchisee) nản lòng, vì
hình ảnh của công ty bị chùng xuống sau tai nạn. Vì vậy, mười năm sau, một Tổng
Giám đốc Điều hành mới (CEO) đã đưa các thanh tra trở lại để sửa lỗi tiêu chuẩn
(David, 2003) và xiết chặt quyền kiểm soát lại như ban đầu.
b.
Mô hình Cơ cấu ĐẠI HỌC
ĐƯỜNG HAVARD
Đại học
đường Harvard cũng rất thành công. Giống như McDonald’s, đại học có một nhóm
quản trị hành chính rất nhỏ ở trên cùng, nhưng trong hầu hết ở các khía cạnh
khác hai tổ chức lại hoàn toàn khác biệt. Mặc dù Harvard về mặt địa lý được thu
gọn hơn McDonald’s, nhưng lại đáng kể hơn về mặt phân quyền. Gần như tất cả các
hoạt động Harvard xảy ra trong vòng vài dặm vuông của Boston và Cambridge,
Massachusetts. Hầu hết nhân viên được ở trong trường đại học. Nhiều phân khoa
khác nhau: Nghệ thuật và Khoa học, Kỹ Sư, Y Khoa, Luật Khoa, Giáo dục, Kinh
doanh, Thần học, và Thiết kế, vv…. Mỗi trường có khoa trưởng riêng và sở hữu
học trình riêng của mình, theo triết lý của Harvard “mỗi bồn tắm sở hữu phần
đáy thoát nước riêng biệt”. Nói cách khác là tự kiểm soát số phận chuyên biệt
của trường mình quản trị. Các trường học có quyền tự chủ quy mô và cá nhân các
giáo sư có quyền quyết định rất lớn. Họ có quyền kiểm soát về những khóa học họ
dạy, những gì họ làm, và những hoạt động đại học cho phép họ theo đuổi. Các
cuộc họp của khoa thường được tham dự thưa thớt. Nếu khoa trưởng muốn có một
giảng viên để chủ trì một ủy ban hoặc cung cấp một khóa học mới, họ chỉ cần lên
tiếng là được chấp thuận. Sự tương phản giữa McDonald’s đặc biệt mạnh ở cấp độ
cung cấp dịch vụ. Không ai mong đợi tính cách cá nhân làm tăng chất lượng của
hamburger McDonald’s. Nhưng mọi người đều mong đợi mỗi khóa học tại Harvard là
sự sáng tạo độc đáo của một giáo sư. Hai phân khoa có thể cung cấp các khóa học
có cùng tiêu đề nhưng khác nhau về nội dung và phong cách giảng dạy cũng khác
nhau cách rộng rãi. Nỗ lực phát triển của người sáng lập chương trình giảng dạy
là cốt lõi về quyền tự chủ của cá nhân giáo sư.
2.
Cơ Cấu mệnh lệnh
Tại sao
McDonald’s và Harvard ứng dụng cùng một cơ cấu nhưng kết quả lại hoàn toàn khác
nhau như vậy? Chẳng lẽ cùng là kiểu mẫu Cơ Cấu nhưng cách ứng dụng này lại hiệu
quả hơn ứng dụng kia? Hay mỗi ứng dụng đã tiến hóa để đạt hoàn cảnh độc đáo của
nó? Trong thực tế, không có thứ gọi là một cơ cấu lý tưởng. Mọi tổ chức cần
phải đáp ứng với một tập hợp phổ biến các tham số bên trong và bên ngoài (được
phác thảo trong Phụ lục 2 dưới đây). Các tham số này bao gồm quy mô và tuổi
tác, quy trình cốt lõi của tổ chức, môi trường, chiến lược và mục tiêu, công
nghệ thông tin và lực lượng lao động đặc trưng. Tất cả những đặc điểm này cần
được kết hợp để đem lại sự tối ưu trong cấu trúc.
a.
Kích thước và tuổi tác: Kích thước và tuổi tác
ảnh hưởng đến hình dạng và đặc điểm Cơ cấu. Nếu tăng trưởng (hoặc thu hẹp)
không phù hợp với vai trò thì các mối quan hệ sẽ tạo ra vấn đề, vì tăng trưởng
không phù hợp sẽ sinh ra hình thức và sự phức tạp (Greiner, Năm 1972; Quinn và
Cameron, 1983). Nếu đi quá xa, điều này dẫn đến sự cứng ngắc quan liêu thường
thấy trong các tổ chức lớn hoặc đại công ty.
Phụ lục
2
b.
Quá trình cốt lõi: được xây dựng xung quanh một phương thức cơ bản của qui trình biến đổi
nguyên liệu thô thành các sản phẩm hoàn thiện. Mọi tổ chức đều có một công nghệ
cốt lõi bao gồm ít nhất ba yếu tố: nguyên liệu, qui trình biến đổi và
kết quả (Dornbusch và Scott, 1975). Các công nghệ cốt lõi khác nhau về sự rõ
ràng, dự đoán và hiệu quả. Làm bánh Big Mac tương đối thường xuyên và được theo lập trình. Nhiệm vụ rõ ràng, tiềm năng vấn đề được biết trước, và xác suất
thành công là cao. Nó là công nghệ cốt lõi tương đối đơn giản cho phép McDonald’s dựa
chủ yếu vào ngành dọc phối hợp. Ngược lại, hai quá trình cốt lõi của Harvard là
nghiên cứu và giảng dạy - là phức tạp hơn và ít dự đoán hơn. Mục tiêu giảng dạy
là nút thắt và vô định hình. Không giống như làm bánh hamburger, sinh
viên là tác nhân tích cực. Giảng dạy để mang lại kết quả mong muốn tốt nhất là
một vấn đề của đức tin hơn là thực tế. “Công nghệ” không chắc chắn này,
phụ thuộc rất nhiều về các kỹ năng và kiến thức của các chuyên gia (giáo sư) có trình độ học vấn cao, là một nguồn chính
cấu trúc phối hợp linh động của Harvard. Các công nghệ cốt lõi thường phát triển
và sự đổi mới kỹ thuật đáng kể thường khó có thể tương ứng với thay đổi cơ cấu (Barley, 1990). Trong những thập kỷ gần đây,
đấu tranh để tích hợp các công nghệ mới đã trở thành một thực tế định mệnh đối
với nhiều công ty (Henderson và Clark, 1990). Thay đổi từ phim cuộn sang chụp ảnh
kỹ thuật số, quy tắc tính nhẩm sang máy vi tính, hoặc thư điện tử (fax) ốc sên đến thư
điện tử mạng (email) mang lại lợi thế cho nền công nghiệp hiện đại.
c.
Chiến lược và Mục tiêu: Các quyết định chiến lược được định hướng
trong tương lai, liên quan đến định hướng dài hạn (Chandler, 1962; Mintzberg,
1994). Trong các lĩnh vực, cấp lãnh đạo đưa ra quyết định của các mục tiêu
tầm xa của một doanh nghiệp, và việc áp dụng các quyết định
cũng như phân bổ các nguồn lực cần thiết để thực hiện các mục tiêu này
(Chandler, 1962, p. 13). Trong kinh doanh, các mục tiêu có tính linh hoạt và
tăng trưởng tương đối cụ thể và dễ đo lường. Mục tiêu của các tổ chức dịch vụ
giáo dục hoặc con người thường mang tính nhiều khuếch tán hơn, do vậy, Harvard chấp nhận kiểu mẫu phân quyền, linh động
hơn trong hệ thống tích hợp vai trò và mối quan hệ.
d.
Công nghệ thông tin: Công nghệ mới (tin học)
tiếp tục cách mạng hóa lượng thông tin có sẵn và tốc độ di chuyển của nó. Thông
tin dễ dàng có được và được chia sẻ rộng rãi vào bất kỳ thời khắc nào. E-mail
đã làm cho giao tiếp được thực hiện ngay lập tức và vươn xa. Chỉ cần nhấn phím,
bất kỳ ai cũng có thể tiếp cận người khác - hoặc toàn bộ mạng. Tất cả điều này
đã đưa các quyết định đến gần hơn với hành động. Ví dụ, trong cuộc xâm lược
Iraq năm 2003, các lực lượng của Hoa Kỳ và Anh đã rõ ràng có lợi thế hơn về phần
quân sự. Họ cũng có một lợi thế cấu trúc mạnh mẽ bởi vì công nghệ thông tin ưu
việt của họ cho phép họ phát triển nhiều lệnh khả thi hơn. Chỉ huy trưởng có thể
thay đổi kế hoạch của họ ngay lập tức để đáp ứng với sự phát triển mới. Người
Iraq trong khi đó, các lực lượng có cấu trúc thẳng đứng theo hàng dọc, chậm hơn
nhiều dựa vào quyết định từ đầu. Một lý do chính khiến kháng chiến của Iraq yếu
hơn dự kiến là trong những tuần đầu các chỉ huy không biết phải làm gì khi họ
đã bị cắt khỏi chuỗi chỉ huy của họ (Broder và Schmitt, 2003). Tuy nhiên, sau
đó, quân đội Iraq có nhiều khác biệt hơn khi phong trào kháng chiến gia tăng, họ
phát triển một cấu trúc kết nối linh động giữa các đơn vị quân đội và doanh
nhân địa phương và đã thích ứng nhanh chóng với chiến thuật của Hoa Kỳ. Các
công nghệ mới như Internet và điện thoại di động đã kích hoạt khả năng chống cự
hữu hiệu hơn nhờ cơ cấu (Waldrop, 1992, tr. 145): Tập hợp các đơn vị được kết nối
linh động, mỗi đơn vị theo đuổi chương trình nghị sự riêng của mình để đáp ứng
với điều kiện địa phương. Công nghệ thông tin đã tạo ra các cơ cấu có thể thay
đổi và cần ít cấp quản lý hơn so với mô hình chỉ huy và kiểm soát truyền thống
(Drucker, 1989, tr. 20). Khi công nghệ lan rộng vào cuối thế kỷ XX, các tổ chức
xung quanh thế giới đã cắt giảm sâu cả về cấp quản lý lẫn nhân viên hỗ trợ. Đây
là một quá trình và điều đó vẫn đang tiếp tục.
e.
Bản chất của lực lượng
lao động: Yêu
cầu nguồn nhân lực đã thay đổi đáng kể trong những thập kỷ gần đây. Nhiều công
việc cấp thấp hơn hiện nay đòi hỏi mức độ cao hơn của kỹ năng. Một lực lượng
lao động được giáo dục tốt hơn mong đợi và thường đòi hỏi nhiều sự thận trọng
hơn trong thói quen làm việc hàng ngày. Tăng chuyên môn hóa đã chuyên nghiệp
hóa nhiều chức năng. Chuyên gia thường biết nhiều hơn giám sát viên của họ về kỹ
thuật và các khía cạnh trong công việc của họ. Họ mong muốn tự chủ và thích
chia sẻ với đồng nghiệp chuyên môn hơn là báo cáo cho các giám sát viên. Cố gắng
nói với một giáo sư Harvard những gì cần dạy là một việc làm vô ích. Đưa ra quá
nhiều quyết định cho một nhân viên McDonald’s trẻ trung, có tay nghề thấp có thể
trở thành một thảm họa cho cả nhân viên lẫn khách hàng. Các dạng cấu trúc khác
nhau đang nổi lên là kết quả của những thay đổi trong lực lượng lao động. Tóm lại,
nhiều lực ảnh hưởng đến thiết kế cơ cấu tạo ra một loạt các thách thức và căng
thẳng. Nó không chỉ đơn giản là vấn đề quyết định liệu chúng ta có nên tập quyền
theo hàng dọc như McDonald’s hoặc phân quyền theo hàng ngang như Harvard. Nhiều
tổ chức phải làm cả hai và bằng cách nào đó phù hợp với cơ cấu thời đại cạnh
tranh. Hai gã khổng lồ điện tử, Matsushita ở Nhật Bản và Philips ở Hà Lan, đã cạnh
tranh nhau trên toàn cầu trong nửa thế kỷ. Tăng ca và tập quyền, Matsushita đã
phát triển một trụ sở vững mạnh, trong khi Phillips được phân quyền nhiều hơn,
với các đơn vị mạnh ở các quốc gia khác nhau. Áp lực của cạnh tranh toàn cầu
thúc đẩy cả hai trở nên giống nhau hơn (Bartlett, 2006). Philips đấu tranh để đạt
được hiệu quả từ việc bán các sản phẩm tương tự trên khắp thế giới. Trong khi
đó, khi Matsushita dần phát hiện ra, công ty họ có thể hoạt động hiệu quả trên
phạm vi toàn cầu bằng cách tập trung tất cả các quyết định quan trọng và sau đó
để các ban ngành thực hiện. Nhưng điều đó đã không đem lại hiệu quả, bởi dù họ
có tài giỏi đến đâu, khả năng phân tích hay công trình nghiên cứu có được hỗ trợ
tốt thế nào thì những người ra quyết định tại trung tâm cũng vẫn cách xa thị
trường cá nhân và nhu cầu của khách hàng địa phương. (Ohmae, 1990, tr. 87).
TÓM LƯỢC
Quản
trị theo kiểu mẫu cơ cấu cần có tầm nhìn xa hơn để kiểm tra và ứng dụng phù hợp
với kiến trúc xã hội của công việc. Mặc dù
đôi khi cần được áp dụng không cần suy nghĩ cách cứng ngắc quan liêu nhưng vẫn
tiếp cận rộng hơn và tinh tế hơn, nhưng cũng có lúc cần được áp dụng cách tự
do, với sự trợ giúp của lực lượng đặc nhiệm và với tính linh động. Trọng tâm
của thiết kế tổ chức theo kiểu mẫu cơ cấu là phân biệt sự khác biệt của
môi trường hay xã hội mà hội nhập. Các tổ chức thành công thường phân
chia công việc bằng cách tạo ra một loạt các vai trò chuyên ngành, chức năng,
và đơn vị. Sau đó, họ phải sử dụng cả mô hình dọc và ngang để kết hợp nhiều yếu
tố với nhau: Mục tiêu, chiến lược, công nghệ, con người và môi trường. Không
có cách tốt nhất để tổ chức, chỉ có người biết cách tổ chức. Hiểu sự
phức tạp và khả năng thiết kế có thể giúp tạo ra các nguyên mẫu chính thức hoạt
động cho con người và mục đích tập thể, thay vì chống lại.