Lời Khấn Thứ 4 Trong Các Dòng Tu
(daminhvn.net) 20/12/2014
Thường thường các tu sĩ phải giữ ba lời khấn khiết tịnh, khó
nghèo, vâng lời. Nhưng nghe nói có Dòng có tới bốn, năm lời khấn. Tại sao như vậy?
Trong mục “Tìm hiểu Giáo luật”, tôi đã nói qua sự tiến triển về
các hình thức của sự cam kết mà các tu sĩ phải tuyên giữ. Tôi đã có dịp nói tới
trường hợp của Dòng Đaminh chỉ tuyên một lời khấn, lời khấn vâng lời, thay vì số
ba như các Dòng khác. Lần này thì chúng ta bước sang trường hợp ngược lại, tức
là những dòng thêm lời khấn thứ tư hay nhiều hơn nữa. Lịch sử bắt đầu từ thời
Trung cổ. Chúng ta nên nhớ rằng từ thế kỷ IV hình thức tu trì thịnh hành trong
Giáo hội là đời sống đan tu. Sang tới thế kỷ XII, bắt đầu xuất hiện những Dòng
làm việc tông đồ. Các Dòng này, ngoài các nghĩa vụ cổ truyền của đời tu, còn
thêm một lời cam kết nữa sẽ đi phục vụ công tác chuyên biệt của Dòng. Theo các
sử gia, hai công thức cổ nhất của lời khấn thứ tư là Dòng Đức Bà chuộc kẻ làm
tôi và Dòng thánh Clara, cả hai vào thế kỷ XIII. Dòng Đức Bà chuộc kẻ làm tôi
thêm lời khấn sẽ đi cứu những người công giáo bị người Hồi giáo bắt làm nô lệ; còn
lời khấn của Dòng Clara là giữ nội vi. Từ đó, nhiều Dòng đã thêm lời khấn thứ
tư vào ba lời khấn cổ truyền, ra như muốn biểu lộ đặc sủng riêng của Dòng mình.
Thêm vào đó, có những thời buổi mà đời tu xuống dốc quá, nên các vị sáng lập
hay cải tổ muốn thêm một lời khấn nhằm bài trừ một khuynh hướng mà họ cho là
nguyên nhân của sa đoạ.
Cha có thể kể vài tỉ dụ?
Chúng ta có thể lấy tỉ dụ thuộc cả hai động lực, nghĩa là hoặc
là nhằm biểu lộ mục tiêu hoạt động riêng biệt của Dòng hoặc là nhằm bài trừ một
tệ đoan. Dĩ nhiên là loại thứ nhất có nhiều và đáng kể hơn. Thí dụ: phục vụ người
đau yếu (Dòng thánh Camillo de Lellis), phục vụ bệnh viện (Dòng thánh Gioan
Thiên Chúa), phục vụ người nghèo (Dòng Thừa sai truyền giáo), giáo dục thiếu
niên (Dòng sư huynh Lasan), suy gẫm sự thương khó của Chúa (Dòng Passionisti).
Còn loại thứ hai ta có kể vài trường hợp tựa như khấn sẽ không mơ ước làm Giám
mục (Dòng Chúa Ba ngôi, Dòng Tên, Dòng Camillô), khấn sẽ trình Bề trên nếu bị
Toà thánh bắt nhận chức Giám mục (Dòng Tên), lời khấn sẽ không làm linh mục
(Dòng Escolapiô và một số trợ sĩ trong các Dòng Augustinô, Carmêlô). Đối với
các Dòng nữ, cần phải kể tới lời khấn giữ nội vi. Sau cùng còn phải kể tới lời
khấn vâng phục Đức Thánh Cha. Theo một thống kê vào năm 1987, thì trải qua lịch
sử đã có 140 loại lời khấn thứ tư, trong số đó loại thứ nhất chỉ chiếm một phần
ba.
Có nhiều Dòng thêm lời khấn thứ tư không?
Tôi không rõ cho lắm, nhưng có điều là thái độ của Giáo hội khi
thì khuyến khích, khi thì làm ngơ, lúc thì cấm thêm lời khấn thứ tư. Như đã
nói, lời khấn thứ tư xuất hiện từ thế kỷ XIII với các Dòng chuyên biệt hoạt động
tông đồ. Công đồng Trentô mặc nhiên chấp nhận tục lệ đó trong sắc lệnh bàn về đời
tu. Sang thế kỷ XVII-XVIII, con số các Dòng hoạt động tông đồ tăng lên, và vì vậy
việc khấn lời khuyên thứ tư coi như là chuyện thường tình, xét vì mỗi Dòng thấy
cần phát biểu căn cước riêng của mình.
Thế nhưng, vào cuối thế kỷ XIX sang thế kỷ XX, Toà thánh không
cho phép các Dòng mới được phát biểu lời khấn thứ tư nữa, viện lẽ rằng ba lời
khấn đã đủ để diễn tả các nghĩa vụ căn bản của đời tu rồi; các nghĩa vụ khác
không nói ra thì đã bao hàm trong lời khấn vâng lời. (Một khi đã khấn vâng lời, thì tất nhiên là phải
tuân giữ những gì bề trên truyền dựa theo hiến pháp của Dòng). Lập
trường của Toà thánh được xác nhận trong Quy luật về việc châu phê Dòng ban
hành năm 1901. Tuy nhiên, hai bộ giáo luật ban hành năm 1917 và 1983 thì không
đả động tới điểm này nữa. Sự làm thinh như vậy được coi như là không cấm. Vì vậy
từ sau công đồng, khi duyệt lại Hiến pháp, thì nhiều Dòng hoặc tái khẳng định lời
khấn thứ tư nếu đã có, hay sửa đổi lại công thức cho phù hợp với thời đại hơn.
Nhưng cũng có Dòng trước kia không có lời khấn thứ tư, thì nay cũng du nhập
vào. Và rồi các bản Hiến pháp ấy vẫn được Toà thánh châu phê, chứ không bị làm
khó dễ. Thiết tưởng sự thay đổi thái độ của Toà thánh đối với lời khấn thứ tư
không hệ tại bản chất thần học của lời khấn cho bằng tại quan niệm pháp lý về
các Dòng tu.
Trong các thế kỷ gần đây, và nhất là từ năm 1900, Toà thánh ra
như muốn cho tất cả các Dòng phải giữ một luật như nhau. Thậm chí, nhiều Dòng nữ
được thành lập trong thời gian này đã phải chấp nhận một mẫu Hiến pháp tiền chế
mà Toà thánh đã soạn, và chỉ châm chế về tên gọi và kiểu áo Dòng. Phải chờ tới
công đồng Vaticanô II, thì tính chất đặc sủng đa diện của các Dòng tu mới được
nhìn nhận. Bộ giáo luật hiện hành (đ.578) đã nhấn mạnh rằng mỗi Dòng có quyền
và nghĩa vụ bảo vệ gia sản của mình. Hiểu như vậy, ta có thể kết luận rằng nếu
Dòng nào đã có lời khấn thứ tư như gia sản thì cứ việc giữ. Dù sao nên lưu ý là
phần lớn các dòng có lời khấn thứ tư thuộc vào số mới thành lập trong hai thế kỷ
gần đây.
Nhưng mà qua ba lời khấn khiết tịnh, khó nghèo và vâng lời, tu
sĩ đã hiến dâng trót đời cho Thiên Chúa rồi; thế thì còn gì mà dâng trong lời
khấn thứ tư nữa?
Đó là lập luận của văn kiện Toà thánh hồi đầu thế kỷ như tôi đã
nói trên đây. Và có lẽ đó cũng là lập luận của nhiều tu sĩ Dòng Đaminh, cho rằng
chỉ cần khấn vâng lời là đủ rồi: bởi vì vâng lời có nghĩa là vâng giữ tất cả những
nghĩa vụ đời tu ghi trong Hiến pháp. Thực ra, chúng ta nói “lời khấn thứ tư” là
nói cho gọn vậy thôi, chứ không phải tất cả đều gọi lời khấn thứ tư như ngang
hàng với ba lời khấn chính yếu của đời tu. Một số Dòng gọi rõ là lời khấn riêng
là “lời khấn tùy” (votum accidentale, votum accessorium), ra như muốn phân biệt
hệ cấp của nó, sánh với ba lời khấn chính (vota substantialia, vota
essentialia); có Dòng thì gọi là “lời khấn riêng biệt” (votum peculiare, votum
speciale), theo nghĩa là một đặc sủng riêng của Dòng, nhằm xác định rõ hơn mục
tiêu riêng biệt của Dòng họ.
Ngoài ra cũng nên biết rằng có thể một Dòng có tới hai hay ba lời
khấn phụ như vậy, tuy rằng có thể không phải tất cả các phần tử đều phải khấn,
nhưng chỉ có một vài hạng thôi. Thí dụ lời khấn không làm linh mục chỉ buộc các
trợ sĩ; còn lời khấn không nhận chức Giám mục hay tuân phục Giáo hoàng thì có lẽ
buộc các bề trên nhiều hơn. Bên cạnh các lời khấn theo nghĩa chặt (votum), có
Dòng chỉ đòi hỏi một lời thề (iuramentum) (hình như ở Việt
1) Lời khấn thứ tư muốn củng cố và bảo đảm ý chí của tất cả các
phần tử trung thành với mục tiêu riêng biệt của Dòng. Ý nghĩa này rõ rệt trong
các lời khấn có tính cách cải tổ, vào những lúc Dòng sa sút hay bị nguy cơ lạc
hướng, thì lời khấn thứ tư muốn xác quyết ý chí trung thành với ý hướng nguyên
khởi, đặc biệt là sự khiêm nhường, khó nghèo, nhiệm nhặt. Dĩ nhiên có một só lời
khấn ra đời vào một hoàn cảnh lịch sử riêng biệt nhưng nay đã qua rồi và trở
nên lỗi thời: thí dụ sự vâng phục Đức Thánh Cha, là điều mà giáo luật hiện nay
bắt buộc hết các tu sĩ (đ. 590 $2); hoặc luật nội vi Toà thánh dành cho các
Dòng kín (đ.667 $3).
2) Còn đối với những Dòng mà lời khấn thứ tư nhằm tới một hoạt động
chuyên biệt, thì họ cho rằng ba lời khấn căn bản quá mơ hồ trừu tượng; vì vậy cần
phải xác định rõ ràng hơn ý nghĩa của việc dâng mình cho Chúa. Lời khấn thứ tư
nhằm xác định cụ thể lý do của sự dâng mình: tôi tình nguyện dâng hết cả đời
tôi để phục vụ người nghèo, người bệnh, người bị tù đày chẳng hạn.
3) Một chiều hướng khác nữa thì lập luận rằng: mỗi Dòng tu có một
đặc sủng riêng; mỗi vị sáng lập đã nhận được một ơn gọi riêng để phục vụ Hội
thánh và nhân loại. Lời khấn thứ tư nhằm biểu lộ khía cạnh đặc sủng của Dòng;
và như vậy các lời khấn thứ tư biểu lộ tính cách đa dạng của đời tu, nhằm hoạ lại
những nét phong phú của việc đi theo đức Kitô.
Lm. Giuse Phan Tấn Thành, OP.