Tại Sao Có Người Đi Tu Mà Không Khấn?
(daminhvn.net) 27/12/2014
Thường thường các tu sĩ được định
nghĩa như là người khấn khiết tịnh, khó nghèo, vâng lời. Nhưng mà tại sao có những
người đi tu tận hiến mà không có lời khấn, thí dụ như các tu hội đời? Có cần phải
khấn mới trở thành tu sĩ không?
Trong tiếng Hán Việt,
chữ khấn tự nó chỉ có nghĩa là cầu xin (khấn
nguyền, khấn cầu). Có người cho rằng nó bắt nguồn bởi tiếng “khẩn” là thành thật.
Khấn thường đi kém với hứa. Hứa thì thêm tư tưởng “hẹn” (hứa hẹn). Khấn hứa vừa bao gồm việc cầu xin, vừa hẹn sẽ tạ
ơn nữa. Thiết tưởng nên ghi nhận là việc khấn hứa được dành riêng cho thế giới
thần linh (cầu Trời khấn Phật) chứ không áp dụng cho xã hội loài người. Chúng
ta có thể lấy một thí dụ từ đời sống hàng ngày, khi một người phải đương đầu với
một khó khăn nào đó (thí dụ: sinh viên sắp đi thi, bệnh nhân sắp bị mổ, thương
gia sắp lên đường kinh doanh), thì họ đến cầu khấn Chúa, (hay đức Mẹ, hay một vị
thánh nào đó) giúp đỡ và hứa rằng nếu vượt qua được thì sẽ tạ ơn. Quan điểm này
khá gần gũi với quan điểm “votum” trong tiếng La-tinh cổ điển. Động từ vovere có nghĩa là bày tỏ ước nguyện lên các
đấng thần linh, kèm theo lời hứa sẽ thực hiện một công việc gì đó. Ta thấy hàm
chứa một tương quan khế ước trong đó: nếu thần linh ban cho tôi được ơn này,
thì tôi sẽ tạ lễ như thế này; dĩ nhiên là nếu thần linh không ban ơn thì tôi
cũng không bị ràng buộc gì hết. Thế nhưng, đến khi thánh Tôma Aquinô suy luận về
bản chất của lời khấn thì ngài đã sửa lại quan điểm khế ước về lời khấn, nghĩa
là chỉ giữ lại khái niệm về lời hứa sẽ thực hiện điều gì đó, chứ không đặt
điều kiện là phải nhận được ơn lành. Quan điểm thần học của thánh Tôma được bộ
giáo luật lặp lại ở điều 1191: “khấn (votum) là hứa với Thiên Chúa sẽ thực hiện
một điều tốt”. Mình hứa với Thiên Chúa sẽ thực hiện một điều tốt bởi vì mình muốn
bày tỏ lòng kính mến Chúa, muốn tiến trên con đường trọn lành, chứ không phải
chỉ vì muốn đút lót để xin Ngài làm ơn cho mình. Dù sao, đó là nói trên nguyên
tắc trừu tượng. Trên thực tế, có nhiều cấp độ mà chúng ta khấn hứa với Thiên
Chúa. Chúng ta có thể hứa sẽ làm một công tác nào cụ thể (thí dụ kiêng hút thuốc,
kiêng xem tivi, ngày thứ sáu; hứa sẽ đi lễ hàng ngày); nhất là chúng ta có thể
hứa sẽ dâng trót mình phụng sự Chúa.
Thế nào là dâng trót mình phụng sự
Chúa?
Thực ra không dễ gì mà
phát biểu được nội dung việc dâng trót mình phụng sự Chúa. Giáo luật phải mất gần
13 thế kỷ mới cô đọng thành công thức ba lời khấn. Trong các thế kỷ đầu tiên,
các trinh nữ và các nhà khổ hạnh biểu lộ sự tận hiến cho Chúa qua việc độc thân
(không lập gia đình), khổ hạnh, cầu nguyện, làm việc bác ái. Sang thế kỷ IV, với
các bản luật đời đan tu, nội dung của sự tận hiến được phát biểu như là: độc
thân, từ bỏ tài sản, cầu nguyện. Luật thánh Augustinô thêm việc sống trong cộng
đoàn. Các đan sĩ Biển đức thì khấn hứa ba điều: vĩnh cư (không lang thang nay
đây mai đó), hoán cải và vâng phục bề trên. Đến thế kỷ XIII, nội dung của việc
cam kết vẫn còn thả nổi, chẳng hạn như dòng Đaminh chỉ hứa vâng lời bề trên
theo hiến pháp; còn dòng Phan sinh thì cam kết khiết tịnh, từ bỏ tư sản và vâng
lời. Phải chờ đến cuối thế kỷ XIII thì Giáo hội mới buộc các tu sĩ tuân giữ ba
lời khấn khó nghèo, khiết tịnh, vâng lời. Thánh Tôma Aquinô giải thích rằng ba
lời khấn đó diễn tả việc dâng hiến những gía trị cao qúy nhất của con người:
qua lời khấn khó nghèo, ta dâng những tài sản vật chất; qua lời khấn khiết tịnh,
ta hiến dâng thân xác; qua lời khấn vâng phục ta hiến dâng ý chí tự do. Thế
nhưng nhiều dòng tu vẫn chưa hài lòng với ba lời khấn đó, vì thế mà họ thêm lời
khấn thứ tư.
Nội dung của lời khấn thứ tư là
gì?
Theo các sử gia, Dòng
đầu tiên thêm lời khấn thứ tư là bản luật thánh Clara năm 1259, thêm lời khấn
tuân giữ nội vi, mở màn cho chế độ các nhà kín. Số dòng thêm lời khấn thứ tư
tăng gia vào thế kỷ XVI, vào thời cải tổ Giáo hội. Một vài dòng thêm lời khấn
ràng buộc sống nhiệm nhặt hơn, thí dụ: không nhận bổng lộc địa vị, kiêng thịt
suốt đời. Một vài dòng khác thì thêm lời khấn thứ tư với mục đích làm nổi bật
hơn mục tiêu tông đồ của dòng mình, chẳng hạn như: phục vụ người nghèo, phục vụ
các bệnh nhân, rời bỏ quê hương đi truyền giáo. Sở dĩ họ thêm lời khấn thứ bốn
là vì họ thấy rằng công thức cổ điển về ba lời khấn có ít là hai điều thiếu
sót. Điều thiếu sót thứ nhất là nó chưa đủ để giúp cho tu sĩ đạt được sự hoàn
thiện. Thử hỏi như một tu sĩ rất khiết tịnh, rất khó nghèo, rất vâng lời, nhưng
mà tính gắt gỏng, hay gây gỗ, chểnh mảng cầu nguyện, thì đã phải là tu sĩ gương
mẫu chưa? Điều thiếu sót thứ hai là ba lời khấn chỉ mới nhắm đến sự hoàn thiện
bản thân chứ chưa đả động đến sứ vụ tông đồ, phục vụ Nước Chúa. Nói tóm lại, ba
lời khấn cổ điển chưa diễn tả hết được ý muốn dâng hiến trọn đời cho Chúa.
Có những dòng thấy ba lời khấn
chưa đủ để diễn tả ước muốn dâng hiến trọn đời cho Thiên Chúa cho nên thêm lời
khấn thứ tư. Có dòng khác thì tăng thêm lời khấn trọng thể, có phải vậy không?
Bộ giáo luật hiện hành
còn nói đến lời khấn trọng thể ở điều 1192, khoản 2, nhưng không giải thích ý
nghĩa của nó. Muốn biết giá trị của lời khấn trọng thì phải trở về với bộ luật
cổ điển, về sự phân biệt giữa lời khấn trọng với lời khấn đơn. Sự phân biệt này
không dựa trên hình thức tổ chức linh đình bên ngoài (khấn trọng không có nghĩa
là tổ chức rùm beng), nhưng là dựa trên hiệu quả pháp lý, cách riêng về hậu quả
của lời khấn khó nghèo và khiết tịnh. Đối với lời khấn khó nghèo, khi khấn trọng
người ta khước từ không những việc sử dụng tài sản mà khước từ luôn cả quyền thủ
đắc tài sản; còn khi khấn đơn thì chỉ khước từ quyền sử dụng mà thôi.
Tại sao lại đặt ra sự phân biệt
như vậy?
Nhiều hoàn cảnh khác
nhau đã đưa tới sự phân biệt này. Nói được là từ đầu cho đến thế kỷ XVIII, các
tu sĩ đều khấn trọng, nghĩa là đối với sự khó nghèo, họ khước từ cả quyền sử dụng
lẫn quyền sở hữu. Nhưng các cuộc cách mạng chính trị bên Âu châu (khởi đầu với
cuộc cách mạng 1789 bên Pháp) không nhìn nhận giá trị của sự khước từ đó, vì
cho rằng tư hữu là quyền tự nhiên bất khả xâm phạm, bất khả chuyển nhượng. Một
cách tương tự như vậy, hôn nhân cũng được coi như là một quyền bất khả chuyển
nhượng, vì thế lời khấn khiết tịnh không có giá trị tiêu hôn. Trong bối cảnh
chính trị như vậy, các dòng tu nam nữ được thành lập từ thế kỷ XIX chỉ còn lời
khấn đơn chứ không có lời khấn trọng nữa.
Tại sao có những dòng không có lời
khấn?
Nguồn gốc của vấn đề
này khá phức tạp, vừa bắt nguồn từ những hoàn cảnh chính trị bên Âu châu, vừa bắt
nguồn từ những yếu tố trong nội bộ Giáo hội. Xét về những hoàn cảnh chính trị
thì như vừa nói, từ thế kỷ XVIII, tại Âu châu và Mỹ châu, nhiều lần chính quyền
cấm thiết lập các dòng tu. Vì thế các tu sĩ không thể tổ chức quy củ với các cơ
chế cổ truyền; họ tụ họp dưới dạng của hiệp hội, thỉnh thoảng gặp nhau để nâng
đỡ tinh thần. Đây là nguồn gốc của vài tu hội đời. Xét về nội bộ Giáo hội, ta
thấy có những người khấn dòng mà không chịu giữ lời khấn hay chỉ giữ hình thức.
Vì thế, vào thời cải cách công đồng Trentô, một vài vị sáng lập quyết định kêu
gọi các thành viên hãy cam kết tiến trên đường trọn lành dựa theo thiện chí chứ
không dựa trên nghĩa vụ giáo luật. Đây là nguồn gốc của vài tu đoàn tông đồ, tựa
như dòng Oratorio của thánh Philip Nêri, dòng Thừa sai của thánh Vinh sơn
Phaolô, dòng Xuân bích. Riêng đối với nữ giới thì có một lý do khác, đó là các
nữ tu có lời khấn thì buộc phải sống trong nội vi. Vì thế, những dòng nào muốn
làm việc bác ái tông đồ thì không tuyên khấn. Trường hợp điển hình là các nữ tử
bác ái của thánh Vinh sơn. Các chị em Dòng Mến thánh giá và Đaminh tại Việt
Thế nào là khấn công? Thế nào là
khấn tư?
Khấn công hay khấn tư
không cốt ở chỗ khấn công khai hoặc khấn chui! Lời khấn được gọi là “công” khi
được giáo luật nhìn nhận giá trị như vậy (chiếu theo bộ giáo luật điều 1192).
Việc chước chuẩn phải theo một thủ tục do giáo luật ấn định. Còn các lời khấn
tư có giá trị đối với lương tâm, và tùy trường hợp có thể được cha xứ miễn chuẩn
(chiếu theo giáo luật số 1196). Tuy nhiên, các nhà giáo luật còn phân biệt các
cấp độ khác nữa, chẳng hạn như “bán công”. Dù sao, càng ngày người ta càng ý thức
rằng cần phân biệt giữa thực chất vấn đề và hình thức pháp lý. Thực chất vấn đề
là việc đi theo Chúa Giêsu, và đây là cốt yếu của đời tận hiến. Còn các hình thức
pháp lý thì có thể thay đổi tùy thời tùy nơi. Có thể một người không khấn hứa
gì hết, nhưng mà thực hành các lời khuyên phúc âm. Chắc chắn là Chúa hài lòng với
họ hơn nhiều.
Lm. Giuse Phan Tấn Thành, OP.