Năm “Đời sống Thánh
hiến”: Độc thân của người tu sĩ Kitô giáo
Những người đi
tu sống độc thân: Tại sao và để làm gì?
Người tu sĩ
ngày nay có hạnh phúc khi sống đời độc thân tận hiến không?
Thời xưa người
ta ít biết hay chưa biết đến bậc sống độc thân xét như là một điều kiện sống
thường xuyên mà một người nam hay một người nữ thề nguyện sống cả đời.
Độc thân của Chúa Giêsu
Nguồn gốc nhân loại của Chúa Giêsu là người mẹ trinh khiết: Đức Maria, mẹ Người, khi thụ
thai không biết đến người nam nào (cf. Mt 1,18-25; Lc 1,26-38). Đức Giêsu sinh
ra không bởi sự kết hợp của một người nam và một người nữ, nhưng bởi quyền năng
Chúa Thánh Thần xuống trên người trinh nữ Maria (cf. Mt 1,18; Lc 1,35). Việc Đức
Giêsu sinh hạ đã là một hiện thực cánh chung, Nước Thiên Chúa đã đột nhập vào
trần thế của con người. Ngay lúc Đức Giêsu được thụ thai trong lòng mẹ, lịch sử đã
biến đổi tận căn, được đổi mới hoàn toàn bởi biến cố cứu thế, biến cố sẽ đạt tới
viên mãn khi Người phục sinh, là ấn dấu cuối cùng.
Về bản thân của Đức Giêsu, Người đã và vẫn là độc
thân. Các sách phúc âm quả thật thường nói đến gia đình gốc của Người (cha, mẹ,
anh em và chị em), mà không bao giờ nói gì về một người vợ hay người con nào của
Người. Đức Giêsu chọn không có riêng một gia
đình huyết nhục, Người giữ một khoảng
cách thật xa với gia đình (cf. Mc 3,20-21), nhưng chọn một gia
đình mới, không còn đặt trên nền tảng quan hệ
huyết nhục, cũng không dựa trên những quan hệ nào khác, bao gồm những ai thực
thi thánh ý Chúa (cf. Mc 3,31-35). Gia đình của Đức Giêsu chống lại Người vì động
thái của Người được cho không chỉ là cá biệt nhưng là lập dị, điên rồ. Là một kẻ
vô gia đình, vô gia cư, lang thang, mất trí.
Việc rao giảng,
mà trọng tâm là loan báo Nước Thiên Chúa và người ta phải cấp bách sám hối, là
hậu cảnh giúp ta dễ hiểu việc Người chọn đời sống độc thân. Nói tắt một lời, những
gì Đức Giêsu rao giảng và sống có vẻ như không thể tái hiện được trong lối sống
gia đình. Người tuyên bố, “trong ngày sống lại, người ta chẳng lấy vợ lấy chồng”
(Mt 22,30). Lối sống đó của chính bản thân Người cũng được yêu cầu dành cho những
ai đi theo bên Người thường xuyên: ai đi theo Người phải “từ bỏ mọi sự” (cf. Lc
18,28), nghĩa là từ bỏ vợ con vì Người và vì Tin Mừng (cf. Lc 18,29).
Gioan Tẩy Giả
xem ra cũng ở độc thân để thi hành sứ vụ của ngài và sống trong hoang địa. Hơn
nữa, các tác giả như Flavius Joseph, Philone thành Alexandria và Plinius Cả,
làm chứng dù chứng từ của họ không đồng nhất, cũng cùng chung xác định nhiều
người trong số các người phái Essenes và phái Therapeutes là các tu sĩ sống độc
thân. Không những thế, cũng lưu ý rằng trong xã hội rabbi do thái, vốn rất tôn
kính giới răn của Thiên Chúa truyền cho con người hãy sinh sôi nảy nở (cf. St
1,26; 9,1.7) và cho rằng không chấp nhận được kiểu sống độc thân, cũng vẫn cho
thấy có những trường hợp ngoại lệ và phát triển những cách tư duy, và quan niệm
về sự tiết dục và tình trạng sống tiết dục thường xuyên như có một giá trị đạo
đức và tiên tri nào đó. Trong xã hội Do Thái giáo thời Đức Giêsu, chọn sống độc
thân là điều hiếm có và ngược dòng, nhưng là một chọn lựa thực tế khả thi. Đối
với Đức Giêsu chọn lựa này phù hợp với thế đứng tách riêng và ý thức tiên tri của
Người, hiến dâng hoàn toàn cho Nước Trời, cho việc rao giảng sự cấp bách của thời
cánh chung. Bởi thế, đời độc thân của Chúa Giêsu trước hết có tính tiên tri và
cánh chung, nhưng cũng thuộc đức nghèo khó của Người.
Chúa Giêsu
nói về sự độc thân
“Ai đến với
tôi mà không dứt bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, chị em, và cả mạng sống mình nữa,
thì không thể làm môn đệ tôi được” (Lc 14,26).
“Thầy bảo thật
anh em: chẳng hề có ai bỏ nhà, bỏ vợ, anh em, cha mẹ hay con cái vì Nước Thiên
Chúa, mà lại không được gấp bội ở đời này và sự sống vĩnh cửu ở đời sau” (Lc 18,29-30).
Cần giải thích
sự “từ bỏ” hay “ghét” ở đây có nghĩa là “yêu ít hơn” so với yêu mến Chúa Giêsu,
Nước Trời, Tin Mừng. Gia đình là một phúc lành, nhưng thực tại mới và cánh
chung mà Chúa Giêsu mang đến đòi hỏi người môn đệ phải đặt mình phục vụ cho Nước
Trời, theo Chúa Giêsu đến mức từ bỏ mọi sự. Gia đình là một phúc lành, những mối
dây liên kết huyết tộc cần được kính trọng; công ăn việc làm là thánh thiện và cần phải chú tâm làm việc với
tinh thần trách nhiệm; đất
đai và nhà cửa là phúc lành của Chúa; nhưng bây giờ tất cả những thứ này không
còn là tối thượng nữa, mọi sự đều phải được quy hướng về Chúa Giêsu, Nước Trời,
Tin Mừng. Không gì có thể cản bước cũng như đặt điều kiện trước tiếng gọi của
Chúa Giêsu. Cũng lưu ý có một sự liên hệ chặt chẽ giữa việc từ bỏ khả năng kết
hôn và từ bỏ nhà cửa, đất đai, gia đình gốc, các mối quan hệ ruột thịt, công việc
nghề nghiệp.
Chỗ khác, Chúa Giêsu nói: “Có những người không kết hôn vì từ khi lọt
lòng mẹ, họ đã không có khả năng; có những người không thể kết hôn vì bị người
ta hoạn; lại có những người tự ý không kết hôn vì Nước Trời. Ai hiểu được thì
hiểu” (Mt 19,12).
Độc thân có thể liên hệ tới Nước
Trời, có giá trị như một dấu chỉ, như một ám
dụ về Nước Trời, được đảm nhận vì tình yêu Đức Kitô (cf. Mc 8,35; Mt 16,25; Lc
9,24) và Tin Mừng của Người (cf. Mc 10,29; Mt
4,23; 9,35; 24,14). Khi ấy độc thân trở nên là một thực tại tiên tri và cánh
chung, chứ không có tính chức năng thực dụng; là một ơn ban cho một môn đệ được
kêu gọi mở lòng ra đón nhận sự thật của riêng mình. Đó không là một nghĩa vụ,
không là một biện pháp cũng không phải là mệnh lệnh dành riêng cho những “con
người hoàn hảo”, nhưng là một đặc sủng cần được đón nhận đối với ai nhận ra
mình được kêu gọi đi theo Chúa và mở lòng đón lấy.
Độc thân là một lối sống đòi hỏi chắc chắn phải có một gắn
bó rất mật thiết với Chúa, bằng cầu nguyện; nhưng cũng đòi hỏi sống các mối
quan hệ trong cộng đoàn và nối kết với sứ vụ mà người môn đệ được mời gọi thi
hành. Kết hợpmầu nhiệm với
Chúa, liên đới hiệp thông với anh em, và cùng thi hành sứ vụ đến với mọi người.
Độc thân là
một hồng ân nên phải cảm tạ Chúa
Để sống đời độc thân thật tốt, điều đầu
tiên là nhận biết và mỗi ngày một ý thức sâu sắc hơn rằng đây là một ơn ban, một
đặc sủng được Chúa ban cho ai có thể đón nhận nó. Đây là một khả năng sống
không phải được ban cho hết mọi người mà chỉ cho một số người nào đó thôi. Đời
độc thân tận hiến phải được sống trong tự do và vì tình yêu. Bởi thế hết sức cần
có một sự phân định ơn gọi trước cuộc hành trình sống ơn gọi. Chỉ khi ta ý thức
rằng mình đã nhận được ơn huệ thì ta mới có thể tìm ngược lên đến ý định của Đấng ban ơn, đọc ra được tiếng gọi, và từ đó mà cảm thấy nảy
sinh trách nhiệm vì được Thiên Chúa chọn gọi để thực thi một sứ vụ.
Đúng là người ta không tự mình chọn đời độc thân tận hiến,
đúng hơn người ta đón nhận nó như một yếu tố chỉ có được ý nghĩa và giá trị
trong khi đi theo Chúa. Người ta chọn đời sống độc thân tận
hiến vì người ta bị hấp dẫn bởi Chúa Kitô và Nước
của Người đến độ muốn tập trung toàn bộ cuộc sống của mình vào Chúa Giêsu, muốn
sống như Người đã sống, một cuộc sống hoàn toàn gắn bó với Người, trong khi
mong đợi Người lại đến trong vinh quang. Họ có thể sống độc thân như thế bằng
cách tập chú lòng khao khát, mong đợi, niềm hi vọng, lòng mến vào con người Đức
Giêsu Kitô. Đúng hơn, ta phải nói rằng chọn lựa độc thân là kết quả của những
điều đó. Như thế, chọn lựa đó không được thúc đẩy bởi một ước muốn thanh khiết
theo nghi thức hay ước muốn được còn trinh nguyên thể lý, như thể các quan hệ
tình dục đều nghịch cùng đời sống thiêng liêng, như thể khoái lạc là điều cấm kị,
và ngược lại là cần phải khinh miệt xác thịt, thân xác hay thế gian.
Cần phải xác nhận
rằng độc thân khiết tịnh không phải là một tình trạng tĩnh mà ta tồn tại trong
đó nhưng là một sự đang thành hình trong thời gian. Điều đó có nghĩa là sự tập
trung lòng khao khát Chúa của một anh em, chị em tuổi đôi mươi khởi đầu đời tu
chẳng hạn, có thể rất nồng nàn và cũng rất lí tưởng, rất chân thực nhưng cũng
thường không đủ sức đương đầu với thực tế vốn rất gian nan của hành trình đó.
Thế nên, một khi đã chọn sống độc thân vì yêu mến Chúa và ước muốn đi theo Người
trọn vẹn, những người độc thân tận hiến cần phải đổi mới và ước muốn lặp lại hằng
ngày chọn lựa của mình, trong từng giai đoạn mới của cuộc sống khi mà cách thức
yêu mến thay đổi, khi những khao khát tình cảm bền vững áp đảo, khi nỗi cô đơn
chất nặng thêm cuộc sống của ta.
Quả thật, dù
trong trường hợp nào, nếu độc thân tận hiến được hiểu như là một ân ban và là sự
đáp lại tình yêu Chúa, thì đó sẽ là lý do để tri ân Chúa. Bằng không, đời độc
thân sẽ chỉ như là một lề luật áp đặt phải tuân giữ, sống thiếu lòng cảm mến
tri ân, rốt cuộc chỉ còn là một gánh nặng không chịu nổi.
Luy Nguyễn Anh Tuấn