Tuần tĩnh tâm Linh mục đoàn TGP Hà Nội: 9 bài giảng với chủ đề "Suy niệm về Đức tin"

(tonggiaophanhanoi.org) THỨ SÁU, 16 THÁNG 11 2012

"Scio enim cui credidi" : Tôi biết tôi tin vào ai (2Tm 1,12). Theo sự chỉ dẫn của Bộ Giáo Lý Đức Tin, lời nói đó của Thánh Phaolô giúp chúng ta hiểu đức tin "trước hết là một sự gắn bó mang tính cá nhân của con người với Thiên Chúa" (adhesio personalis hominis ad Deum); đồng thời cũng là tự nguyện chấp nhận tất cả chân lý Thiên Chúa đã mạc khải (simul vero et inseparabiliter est liber toti veritati a Deo revelatae assensus). Đức tin như sự tin tưởng mang tính cá nhân vào Chúa (fides qua creditur : fiducia) và đức tin chúng ta tuyên xưng trong Kinh Tin kính không thể tách rời nhau (fides quae creditur).

Bài 1

XÂY DỰNG MỘT ĐỨC TIN

TRƯỞNG THÀNH

Ngày 17 tháng 10 năm 2011, Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI đã công bố Tông thư "Porta Fidei" (Cửa Đức Tin), mời gọi tất cả Giáo Hội kỷ niệm 50 năm khai mạc Công đồng Vaticanô II và 20 năm xuất bản Sách Giáo Lý Chung của Hội Thánh Công Giáo (SGLCG). Và ngài đã quyết định mở ra một năm dành riêng để tuyên xưng và cử hành "Đức tin Công giáo", từ ngày 11 tháng 10 năm 2012, ngày xuất bản SGLCG, và bế mạc ngày 24 tháng 11 năm 2013, vào ngày lễ Chúa Kitô Vua vũ trụ. Ngày khai mạc Năm Đức Tin trùng vào những ngày đầu của Thượng Hội đồng Giám mục thế giới (từ ngày 7 đến 28 tháng 10 năm 2012) về chủ đề "Tái rao giảng Tin Mừng để thông truyền đức tin Kitô giáo".

Đây là cơ hội rất thiết thực cho Giáo hội tại Việt Nam, mặc dù được nhiều người trong cũng như ngoài nước công nhận là vẫn còn sinh động, nhưng gần đây đã trải qua nhiều thử thách trầm trọng, và cũng đã bộc lộ những điểm yếu của mình : số lượng không đi đôi với chất lượng. Chúng ta hãy lợi dụng tối đa cơ hội này để xây dựng một đức tin trưởng thành và vững mạnh cho mỗi một người và cho mọi thành phần Dân Chúa. Bộ Giáo Lý Đức Tin đã đưa ra một bản hướng dẫn mục vụ để giúp cho thực hành Tông thư "Porta Fidei" của Đức Thánh Cha.

"Scio enim cui credidi" : Tôi biết tôi tin vào ai (2Tm 1,12). Theo sự chỉ dẫn của Bộ Giáo Lý Đức Tin, lời nói đó của Thánh Phaolô giúp chúng ta hiểu đức tin "trước hết là một sự gắn bó mang tính cá nhân của con người với Thiên Chúa" (adhesio personalis hominis ad Deum); đồng thời cũng là tự nguyện chấp nhận tất cả chân lý Thiên Chúa đã mạc khải (simul vero et inseparabiliter est liber toti veritati a Deo revelatae assensus). Đức tin như sự tin tưởng mang tính cá nhân vào Chúa (fides qua creditur : fiducia) và đức tin chúng ta tuyên xưng trong Kinh Tin kính không thể tách rời nhau (fides quae creditur).

Những hướng dẫn của Bộ Giáo Lý Đức Tin nhằm thúc đẩy việc gặp gỡ Đức Kitô qua các chứng nhân đích thực của đức tin cũng như việc hiểu biết nội dung đức tin mỗi ngày một sâu sắc và đầy đủ hơn. Trong Năm Đức Tin, cần phải nhấn mạnh cả hai phương diện : kinh nghiệm sống đức tin và nội dung đức tin. Hai phương diện này luôn gắn liền và không tách rời nhau. Chính vì thế mà cần đề cao việc cầu nguyện trong năm đức tin, phải gặp gỡ Chúa thì mới có thể gắn bó với Chúa. Năm Đức Tin phải là "năm cầu nguyện" và cầu nguyện một cách đặc biệt hơn, để củng cố sự gắn bó với Chúa. Phải tìm lại sở thích nuôi dưỡng mình bằng Lời Chúa, và bằng Bánh sự sống (Ga 4,14; Ga 6,51). Cũng cần học hỏi kinh nghiệm thiêng liêng về tình yêu của Chúa, về sự gắn bó với Chúa, của các chứng nhân đức tin trong lịch sử cứu độ, và lịch sử Giáo Hội.

A. ĐỨC TIN PHÉP RỬA LÀ ĐỨC TIN BA NGÔI

Đức tin của chúng ta là đức tin Phép rửa, là "hồng ân đức tin" mà chúng ta nhận lãnh từ Giáo Hội, là đức tin Tông truyền, là gia sản mà các thánh Tông đồ để lại. Chúng ta phải gìn giữ và bảo vệ đức tin ấy cho đến cùng. Đó là nhiệm vụ của mọi thành phần Dân Chúa dưới sự lãnh đạo của Đức Thánh Cha, người kế vị Thánh Phêrô. Đức tin của chúng ta là "Đức tin nguyên thủy". Kitô giáo luôn là Kitô giáo nguyên thuỷ, xuất phát từ giáo huấn của Chúa Kitô và sự truyền đạt trung thành của các Thánh Tông Đồ dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần.

Đức tin Phép rửa là "Đức tin Ba Ngôi". Chúng ta tin một Thiên Chúa là Cha Toàn Năng, Đấng Tạo Thành trời đất, mọi vật hữu hình và vô hình. Chúng ta tin Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa. Đối với người Kitô hữu, tin vào Thiên Chúa không thể tách rời khỏi việc tin vào "Đấng Ngài đã sai đến", tức là "Người Con chí ái của Ngài". Chúa Giêsu đã dạy chúng ta "Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy" (Ga 14,1). Chính Thiên Chúa cũng đã dạy chúng ta phải nghe Lời Con của Ngài (x. Mc 9,7). Lý do là vì chỉ có một mình Chúa Giêsu là Con ở trong cung lòng Chúa Cha từ muôn thưở, mới biết Chúa Cha và có thẩm quyền mạc khải Chúa Cha cho chúng ta (Mt 11,27). Chúng ta còn phải tin Chúa Thánh Thần là Chúa và là Đấng ban sự sống. Chúa Thánh Thần mạc khải cho chúng ta biết Chúa Giêsu là ai (1Cr 12,3). Không ai biết được những gì nơi Thiên Chúa, nếu không phải là Thần Khí của Ngài (1Cr 2,10-11). Chúng ta tin vào Chúa Thánh Thần, vì Ngài là Thiên Chúa.

Một câu nói thời danh của Thánh Giáo phụ Irênê giúp chúng ta sống đức tin Ba Ngôi trong cuộc sống hằng ngày: "Chúa Thánh Thần đưa chúng ta đến với Chúa Giêsu là Ngôi Lời Nhập Thể, và Chúa Giêsu dẫn chúng ta đến trình diện Chúa Cha là Thiên Chúa của mọi loài".

Như vậy đức tin của chúng ta là "Đức tin độc thần", nhưng cũng là "Đức tin Ba Ngôi". Hội Thánh không ngừng tuyên xưng đức tin vào Thiên Chúa duy nhất, Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Mỗi lần chúng ta "làm dấu Thánh giá" là chúng ta tuyên xưng mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi được mạc khải cách trọn vẹn nơi "Thập giá cứu độ của Chúa Giêsu".

B. ĐỨC TIN LÀ MỘT ÂN SỦNG, TIN LÀ MỘT HÀNH VI NHÂN LINH

Đức tin là một ân sủng, là hồng ân của Thiên Chúa, là một nhân đức siêu nhiên do Thiên Chúa ban tặng cho chúng ta, như lời Chúa Giêsu khen tặng Phêrô, khi ông tuyên xưng Người là Con Thiên Chúa : "Này anh Simôn, con ông Giôna, anh thật là người có phúc, vì không phải phàm nhân mặc khải cho anh điều ấy, nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời" (Mt 16,17).

Để có được đức tin, cần có ân sủng của Thiên Chúa đến trước giúp đỡ (gratia praeveniens et adjuvans) : sự trợ giúp bên trong của Chúa Thánh Thần. Chúa Thánh Thần đánh động và hướng "con tim" (cor: cái tâm) về cùng Thiên Chúa. Ngài mở "con mắt trí tuệ" (oculos mentis : trí), làm cho chúng ta cảm thấy dịu ngọt khi ưng thuận và tin vào chân lý. Chính vì đức tin là một ân sủng, nên chúng ta vừa phải trân trọng gìn giữ, vừa phải đón nhận và cầu xin mỗi ngày.

Đức tin là một hồng ân "nhưng không" mà Thiên Chúa ban tặng cho con người. Chúng ta có thể đánh mất hồng ân vô giá đó (1Tm 1,18-19). Để có thể sống, triển nở và kiên trì trong đức tin, chúng ta phải nuôi dưỡng đức tin bằng Lời của Thiên Chúa, chúng ta phải cầu xin Thiên Chúa gia tăng đức tin cho chúng ta. Đức tin ấy còn phải hành động nhờ đức ái (Gl 5,6), được đức cậy nâng đỡ, và phải đâm rễ sâu vào trong lòng "Đức tin của Hội Thánh".

Chỉ có thể tin nhờ ân sủng và sự trợ giúp của Chúa Thánh Thần. Tuy nhiên tin vẫn là một "hành vi nhân linh" (actus humanus), một hành vi ý thức và tự do. Tin vào Thiên Chúa và gắn bó với các chân lý do Ngài mạc khải không đi ngược với tự do và lý trí của con người. Trong hành vi đức tin, lý trí và ý chí của con người cộng tác với ân sủng của Thiên Chúa. Thánh Tôma Aquinô định nghĩa đức tin như sau : "Tin là hành vi của lý trí chấp nhận chân lý của Thiên Chúa theo lệnh của ý chí được Thiên Chúa tác động bằng ân sủng" .

Lý do khiến chúng ta tin không chỉ là vì các chân lý được mạc khải xác thực và có thể hiểu được đối với ánh sáng của lý trí tự nhiên. Nhưng chúng ta tin vì uy quyền của Thiên Chúa, là Đấng mạc khải không thể sai lầm và không bao giờ lừa dối ta. Thiên Chúa ban những dấu chỉ khả tín (motifs de crédibilité) cho ta thấy sự ưng thuận của đức tin không là hành vi mù quáng.

Trong thế giới mà "chủ nghĩa hoài nghi" thống trị như hiện nay, coi mọi sự là tương đối, người ta không thể chắc chắn về một điều gì, ngoài điều mà người ta kiểm chứng được bằng thực nghiệm, người ta không tin tưởng ai ngoài chính mình và những khoái cảm của mình, chúng ta cần phải nhấn mạnh nhiều hơn đến yếu tố "chắc chắn" của đức tin. Đức tin là "một sự chắc chắn" (certitudo), chắc chắn hơn mọi hiểu biết của phàm nhân, vì đức tin dựa trên chính Lời của Thiên Chúa, Đấng không thể nói dối. Sự chắc chắn nhờ ánh sáng của Thiên Chúa lớn hơn sự chắc chắn nhờ ánh sáng của lý trí tự nhiên.

Nhưng sự chắc chắn này, dưới khía cạnh chủ thể, dựa trên một thái độ nội tâm rất cần thiết, và đó lại là sự "tin tưởng" hay "tin cậy". Ở đây đức tin rất gần với niềm hy vọng mà thánh Phêrô đề cập tới trong thư 1Pr 3,15 : "Hãy luôn sẵn sàng trả lời cho bất cứ ai chất vấn về niềm hy vọng của anh em". Chúng ta đặt hy vọng vào Chúa, chúng ta tin tưởng nơi Ngài, chúng ta trông cậy vào Ngài. Ngài là đá tảng vững bền, nơi chúng ta tựa vào, Ngài là thành luỹ vững chắc, nơi chúng ta nương náu. Chúng ta tin tưởng vào Thiên Chúa, vì Ngài là "Đấng trung thành mãi ", Ngài là "Đấng Chân Thiện Mỹ".

C. ĐỨC TIN LÀ MỘT NHÂN ĐỨC ĐỐI THẦN

Đức tin còn là một nhân đức đối thần, nhờ đó chúng ta tin vào Thiên Chúa và tất cả những gì Ngài đã nói và mạc khải cho chúng ta, những gì Hội Thánh dạy chúng ta tin, bởi vì Thiên Chúa chính là chân lý. Nhờ đức tin con người tự nguyện phó thác toàn thân cho Thiên Chúa. Vì vậy ai tin, người ấy cố gắng nhận biết và thi hành ý muốn của Thiên Chúa. "Người công chính nhờ đức tin sẽ được sống" (Rm 1,17). Những lề thói bên ngoài không phải là điều cốt yếu, chỉ có đức tin "hành động nhờ đức ái" (Gl 5,6).

Hồng ân đức tin tồn tại trong những ai không phạm tội nghịch với đức tin. Thánh Giacôbê so sánh đức tin không hành động với một thân xác không hơi thở : "Thật thế, một thân xác không hơi thở là một xác chết, cũng vậy, đức tin không có hành động là đức tin chết" (Gc 2,26). Nếu thiếu đức cậy và đức ái, đức tin sẽ không kết hợp đầy đủ người tín hữu với Đức Kitô và không làm cho trở nên chi thể sống động của Thân Thể Người.

Người môn đệ Đức Kitô không những phải gìn giữ đức tin và sống nhờ bởi đức tin mà còn phải tuyên xưng, can đảm làm chứng và truyền bá đức tin. Việc phục vụ và làm chứng cho đức tin là những điều phải có để được cứu độ. "Phàm ai tuyên bố nhận Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ tuyên bố nhận người ấy trước mặt Cha Thầy, đấng ngự trên trời. Còn ai chối thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ chối người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời" (Mt 10,32-33).

Đức tin cho chúng ta "nếm trước niềm vui và ánh sáng hồng phúc" được "hưởng kiến", được chiêm ngắm tôn nhan Thiên Chúa, là mục đích cuối cùng cuộc sống lữ hành của chúng ta. Dù đức tin có sáng tỏ nhờ vào Đấng mà chúng ta tin, đời sống đức tin thường có nhiều bóng tối. Chính vì thế mà tất cả chúng ta đều phải hướng về các "nhân chứng đức tin", phải cậy dựa vào họ, vì ta biết chắc họ cũng là "nhân vô thập toàn" như chúng ta, nhưng đã phấn đấu rất nhiều và hoàn toàn dựa vào ơn Chúa. Tất cả chúng ta đều là những "lữ khách" đang hành trình.

D. ĐỨC TIN VÀ LÝ TRÍ, KHOA HỌC VÀ ĐỨC TIN

Sự vững chắc của đức tin không phải là một sự mù quáng, một thái độ "duy tín", không lưu tâm gì tới việc tìm hiểu bằng lý trí. Trái lại đức tin đích thực luôn đi tìm sự hiểu biết (Fides quaerens intellectum). Người tín hữu luôn muốn biết rõ hơn về Đấng mình đã tin và hiểu rõ hơn những điều mà Đấng ấy mạc khải. Hiểu biết sâu xa hơn sẽ làm cho đức tin vững mạnh hơn và thấm đậm tình yêu mỗi ngày một nhiều hơn. Càng biết Chúa, ta càng yêu Chúa. Càng yêu Chúa, ta càng biết Chúa nhiều hơn.

Ân sủng đức tin khai mở "đôi mắt của trái tim", để chúng ta có một hiểu biết sống động về nội dung của mạc khải, về toàn bộ kế hoạch của Thiên Chúa, về các mầu nhiệm đức tin, về tương quan giữa các mầu nhiệm với nhau và với chính Chúa Kitô, tâm điểm và chóp đỉnh của mọi mầu nhiệm được mạc khải. Và để cho chúng ta hiểu biết mạc khải sâu xa hơn nữa, Thiên Chúa không ngừng ban Chúa Thánh Thần để kiện toàn đức tin cho chúng ta (Ep 1,17-18).

Ngày hôm nay hơn bao giờ hết, khoa học tiến bộ với "tốc độ chóng mặt", làm cho nhiều người đầu hàng, không còn muốn tìm hiểu thêm về những gía trị khác ngoài lãnh vực khoa học, hoặc có thái độ hoài nghi về các loại tri thức khác, nhất là trong các lãnh vực mà họ cho là không kiểm chứng được, đặc biệt là lãnh vực tôn giáo, những thực tại siêu hình vượt khỏi "tầm với" của trí tuệ con người.

Sự đề cao lý trí cách quá đáng cắt đứt mọi quan hệ có thể có được với những gì vượt lên trên lý trí tự nhiên. Và hệ luận là một thái độ hoài nghi phổ biến với những hậu quả vô cùng tai hại, như sự đánh mất niềm tin tôn giáo, và ngay cả lòng tin vào con người, sự tin tưởng lẫn nhau, rất cần thiết cho sự tồn tại và phát triển toàn vẹn của con người. Hiện đang có sự mất cân bằng quá lớn và hết sức nguy hiểm giữa hai lãnh vực "tri thức khoa học" và lương tri hay tri thức đích thực trong lãnh vực đạo đức và luân lý. Ngày nay, rất nhiều người không biết hoặc không muốn phân biệt "tốt xấu", "lành dữ".

Chính vì thế mà Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI nhấn mạnh nhiều đến vấn đề tương quan giữa lý trí và đức tin. Đức tin cần phải mở rộng cho sự "tìm tòi của lý trí" nhiều hơn nữa. Cần phải kích thích lý trí nhiều hơn nữa, đừng để cho lý trí tự khép mình lại và đóng kín đối với các vấn đề Thượng Đế và nhân sinh. Hãy mở rộng "Sân Đền Thờ" cho chư dân. "Sân chư dân" là lãnh vực tiếp giáp, gặp gỡ giữa đức tin và lý trí, ân sủng và tự do, tự nhiên và siêu nhiên, gặp gỡ giữa Thiên Chúa và mọi người. Cần phải nới rộng phần "tư duy và tri thức" trong mọi sinh hoạt của Giáo Hội, đặc biệt là lãnh vực "giáo lý đức tin". Hãy nhấn mạnh việc "yêu mến Thiên Chúa hết sức lực, hết trí khôn". Đó cũng là lãnh vực của những công tác thần học đang chờ đợi chúng ta.

Đã từ lâu, Giáo Hội luôn khẳng định rằng : mặc dù đức tin vượt trên lý trí, không bao giờ có sự mâu thuẩn thực sự giữa lý trí và đức tin, vì cả hai có cùng một tác giả là Thiên Chúa tạo dựng và cứu độ. Đức tin "mở rộng tầm nhìn" cho lý trí và thăng hoa lý trí. Lý trí giúp cho đức tin được trong sáng, sâu xa và vững chắc. Lý trí giúp cho đức tin trả lẽ về "Niềm hy vọng" của mình. Để việc đáp lại của đức tin là một hành vi nhân linh, cần phải có ánh sáng của lý trí. Con người phải đáp lại tình yêu của Thiên Chúa bằng một hành vi hoàn toàn tự nguyện. Ánh sáng của lý trí càng nhiều, thì sự tự nguyện càng chắc chắn và sâu sắc.

Không ai trong chúng ta đáp lại ý muốn của Thiên Chúa một cách mù quáng, vì Thiên Chúa không muốn như vậy. Không được cưỡng ép ai phải chấp nhận tin trái với ý muốn của họ. Tự bản chất, "Tin" là một hành vi tự nguyện. Tự do luôn đi đôi với ý thức. Không có ý thức, thì không có tự do, thiếu ý thức, thì cũng thiếu tự do. Nhưng tự do ở đây không phải là một chiêu bài để che đậy sự gian ác như lời thánh Phêrô : "Anh em hãy hành động như những người tự do, không phải như những người lấy sự tự do làm màn che sự gian ác, nhưng như những tôi tớ của Thiên Chúa" (1Pr 2,16).

Bài 2

THIÊN CHÚA LÀ CHA TOÀN NĂNG

Khi đề cập đến Thiên Chúa Toàn Năng, không thể không nghĩ đến những vấn nạn gay gắt nảy sinh. Nếu Thiên Chúa thực sự toàn năng, tại sao đau khổ và sự dữ vẫn tàn phá và hành hạ con người ? Dường như phải chọn lựa một trong hai giải pháp : Thiên Chúa hiện hữu nhưng không toàn năng; hoặc Thiên Chúa toàn năng nhưng chỉ có trong trí tưởng tượng của con người.

Vấn nạn chống sự toàn năng của Thiên Chúa còn được củng cố bởi những lập luận được gợi hứng từ đức tin Kitô giáo. Đức Kitô bị đóng đinh vào thập giá là Thiên Chúa thật, và đó là một hình ảnh hoàn toàn trái ngược với Thiên Chúa toàn năng. Dĩ nhiên, đó là Chúa Con chứ không phải Chúa Cha. Nhưng điều này không thay đổi gì, vì tín điều dạy phải tin Chúa Con đồng bản thể với Chúa Cha. Như vậy phải chăng nên từ bỏ ý niệm Thiên Chúa toàn năng và cảm tạ Thiên Chúa đã tự biểu lộ chính mình trên thập giá bị thương tích và bất lực trước sự dữ dồn dập tấn công.

Cách lập luận trên không thể chấp nhận được, vì đi ngược với một yếu tố cơ bản khác của đức tin Kitô giáo, đó là giá trị cứu độ của thập giá : Thánh giá Chúa Kitô cứu độ chúng ta, vì đó là một hành vi quyền năng, là cánh tay hùng của Đấng Mạnh Hơn chiến thắng kẻ mạnh là Satan. Thay vì nhìn nơi sự yếu đuối của Đấng bị đóng đinh dấu chỉ sự bất lực của Thiên Chúa, thánh Phaolô đã coi đó như bằng chứng quyền năng của Người : chúng tôi rao giảng một Đấng Kitô bị đóng đinh, điều mà người Do Thái coi là ô nhục không thể chấp nhận, và dân ngoại cho là điên rồ. Nhưng đối với những ai được Thiên Chúa kêu gọi, dù là Do Thái hay Hy Lạp, Đấng ấy chính là Đức Kitô, sức mạnh và sự khôn ngoan của Thiên Chúa. Vì cái điên rồ của Thiên Chúa còn hơn cái khôn ngoan của loài người, và cái yếu đuối của Thiên Chúa còn hơn cái mạnh của loài người (1Cr 1,23-25).

Nếu Thiên Chúa không quyền năng, hy tế thập giá chỉ là một hành vi liên đới với những đau khổ của loài người chứ không là hành vi cứu độ giải thoát chúng ta khỏi sự khốn cùng. Và chúng ta chỉ còn một hình ảnh méo mó về Thiên Chúa : Người đến xin lỗi nhân loại, vì đã không thể dựng nên những thụ tạo có khả năng vượt qua đau khổ và sự chết.

Đức tin Kitô giáo không chỉ khẳng định Thiên Chúa Toàn Năng mà còn gán sự toàn năng cho Chúa Cha trong tư cách làm Cha. Kinh Tin kính không tuyên xưng một Thiên Chúa Tạo Hóa Toàn Năng, nhưng tuyên tín : Tôi tin kính một Thiên Chúa Duy Nhất là Chúa Cha Toàn Năng (Credo in Unum Deum Patrem Omnipotentem).

Thiên Chúa không những toàn năng với tư cách là Tạo Hóa, mà toàn năng với tư cách là Cha. Vậy đặc tính Toàn Năng có nghĩa gì ?

I. CÓ THỂ LÀM MỌI SỰ HAY QUYỀN NĂNG TRÊN TOÀN THỂ THỤ TẠO (TOUT-PUISSANT OU PUISSANT SUR LE TOUT)

Nguồn gốc ý niệm Thiên Chúa Toàn Năng là một thành ngữ tiếng Do Thái còn để lại dấu vết trong phụng vụ latinh : Sanctus, Sanctus, Sanctus Dominus Deus Sabbaoth. Chữ Deus Sabbaoth được dịch là Thiên Chúa các đạo binh. Ở đây phải hiểu là các đạo binh trên trời cai quản trật tự các vũ trụ. Chính vì thế mà bản văn phụng vụ của Pháp dịch là Dieu de l'Univers (Thiên Chúa của vũ hoàn).

Từ thế kỷ thỷ II trước công nguyên, bản Bảy Mươi (bản dịch Kinh thánh bằng tiếng Hy Lạp) đã dịch chữ El Sabbaoth bằng chữ Pantocrator. Cách dịch này đánh dấu một giai đoạn quan trọng. Ở đây, không còn chỉ đạo binh trên trời hay dươi đất nữa, mà chỉ tương quan trực tiếp giữa Thiên Chúa với vũ trụ. Thiên Chúa gìn giữ, bao trùm toàn thể vũ trụ, tất cả mọi sự. Như vậy, Thiên Chúa Toàn Năng (Deus Pantocrator) là Thiên Chúa làm chủ tất cả.

Chữ quan trọng cần lưu ý là chữ tất cả (mọi sự). Trong tương quan giữa Chúa Cha và Chúa Con, ý niệm đó có chỗ đứng rất quan trọng : tất cả được Cha Ta trao phó cho Ta (Mt 11,27); tất cả những gì của Con đều là của Cha (Ga 17,10). Từ ngữ tất cả không những ám chỉ thần tính Chúa Cha ban cho Chúa Con, mà còn bao hàm các môn đệ, nhân loại, thế giới. Chúng ta đều thuộc về những gì mà Chúa Cha ban cho Chúa Con. Như thế, Chúa Con cũng là Đấng phán xét kẻ sống và kẻ chết.

Cái Tất Cả mà Thiên Chúa cai quản là toàn thể không gian và thời gian. Thiên Chúa của vũ hoàn là Thiên Chúa của lịch sử. Chủ quyền ấy, Chúa Cha trao phó cho Chúa Con, khi cho Ngài sống lại từ cõi chết (Mt 28,18).

Cách hiểu chữ Toàn Năng của chúng ta có thể là sai với cách hiểu của Kinh Thánh và giáo phụ, khi chúng ta nghĩ rằng toàn năng có nghĩa là quyền năng toàn diện, không bị điều kiện hóa gì cả, khả năng làm được mọi sự (tất cả). Phân tích kỹ lưỡng, chúng ta sẽ thấy những điểm khác biệt rất lớn giữa hai cách hiểu :

- Cách hiểu của Kinh Thánh : chỉ tương quan, chỉ quyền bính, chỉ tình Cha

- Cách hiểu thứ hai : có tính tuyệt đối, chỉ khả năng, chỉ sự độc đoán.

Khi dịch ra tiếng latinh bằng chữ Omnipotens, người ta có khuynh hướng hiểu theo nghĩa thứ hai : Toàn năng có nghĩa là làm gì cũng được.

II. BẰNG CHỨNG CAO NHẤT VỀ SỰ TOÀN NĂNG CỦA CHÚA CHA

Nếu Thiên Chúa có quyền năng trên vũ trụ, vì sao quyền năng ấy không tỏ ra vượt thắng ? Đặt vấn nạn như thế là quên rằng vũ trụ phải tuân theo những quy luật mà chính Thiên Chúa đã ấn định và chính Người cũng không vi phạm.

Trước hết, thế giới của chúng ta và chính chúng ta ở trong thời gian. Thân phận con người chúng ta đều có sử tính. Thiên Chúa tôn trọng sử tính ấy; Người đặt con người và vũ trụ trong tiến trình lớn lên, không có mọi sự tức khắc và cùng một lúc.

Sau nữa, trong thời gian là lịch sử, chúng ta còn có tự do. Các quyết định, các hành vi của chúng ta ảnh hưởng trên dây chuyền tương quan nhân quả. Thiên Chúa dựng nên chúng ta có khả năng tạo ra một tương quan nhân quả tích cực hay tiêu cực. Tội, chính là hành vi ảnh hưởng tiêu cực; nó ảnh hưởng kéo dài một cách huyền nhiệm trên vận mạng của thế giới. Thiên Chúa không thể nào làm cho điều tiêu cực đã xảy ra không xảy ra; bởi vì điều ấy đã xảy ra ở trong những quy định của chính Thiên Chúa. Trong lúc một người làm một hành vi xấu, Thiên Chúa, Đấng có thể tiêu diệt người ấy, vẫn để cho người ấy sống, và như thế gián tiếp để cho hành vi xấu ấy có thể xảy ra.

Đó chính là điều đã xảy ra trên Thập giá, khi Chúa Cha để cho các lý hình giết chết Con của mình, dù Ngài có thể ngăn cản họ (Mt 26,53-54). Thiên Chúa Cha có thể thi hành sự toàn năng của Người bằng cách giết chết tội nhân, thì Ngài thể hiện, trong cuộc khổ nạn của Đức Kitô và trong tất cả lịch sử cứu độ, bằng cách tha thứ cho tội nhân. Tha thứ là một hành vi quyền năng vượt xa sự trừng phạt bởi vì hậu quả của nó không làm tiêu diệt người có tội, mà biến đổi người ấy và làm cho trở nên người công chính. Một lời kinh phụng vụ dạy rằng : chính lúc Thiên Chúa chịu đựng và thương xót, là lúc Ngài biểu lộ sự Toàn Năng của mình.

Chịu đựng hiểu ngầm chịu nạn (patience-passion). Cuộc khổ nạn của Thiên Chúa là để cho sự dữ kéo dài, không phải vì Thiên Chúa dựng nên một thế giới trong đó có chỗ đứng cho sự dữ, nhưng vì các thụ tạo luôn có thể là nguyên nhân của những hành vi xấu; và Thiên Chúa tôn trọng dây chuyền nguyên nhân ấy. Điều mà con người đã làm hỏng vì tội lỗi của mình, con người phải làm lại. Chính vì thế mà lịch sử loài người hỗn loạn, đầy những thăng trầm, cho tới khi nào nó cất cánh bay cao hướng về cùng đích sau bao nhiêu lần thực hiện không kết quả.

Nơi Đức Kitô chỉ toàn là có, mọi lời hứa của Thiên Chúa đều là có nơi Người (2Cr 1,19-20). Đức Kitô là Ađam mới đã cho loài người khả năng làm lại cuộc đời, định hướng lại cuộc sống của mình quy về Thiên Chúa.

III. HOÀN TẤT SỰ TOÀN NĂNG CỦA CHÚA CHA

Sự toàn năng của Thiên Chúa, tự nó không bị giới hạn, muốn được thể hiện trong quan hệ hỗ tương với con người mà Ngài đã tạo dựng. Quan hệ hỗ tương ấy bắt nguồn từ tương quan Ba Ngôi nội tại, có gốc rễ trong chính Hội Đồng Ba Ngôi, làm cho mọi hành vi của Thiên Chúa hướng về thế giới là hành vi Ba Ngôi : điều gì Cha làm, thì Con cũng làm như vậy. Cha yêu Con và cho Con thấy mọi điều mình làm (Ga 5,19-20). Có quan hệ hỗ tương giữa hành động của Chúa Cha và hành động của Chúa Con. Chúa Cha cho Chúa Con thấy mọi điều mình làm, để cho Chúa Con toàn quyền thừa hành ý muốn của Chúa Cha. Không có hành vi nào của Chúa Cha mà không qua Chúa Con. Chúa Con không làm điều gì mà không thấy Chúa Cha làm, và Chúa Cha không làm điều gì mà không có Chúa Con.

Cũng cùng một cách thức, trong vận mạng của thế giới và trong tiến trình hướng về sự hoàn tất nơi Thiên Chúa, không có hành động nào của Thiên Chúa mà không qua con người. Điều này cho thấy ơn gọi của con người là làm con cái Thiên Chúa. Nhưng vì con người đã không thực hiện được ơn gọi ấy do tội lỗi của mình, Chúa Con đã phải đến trần gian sống tư cách làm con trong thân phận con người, ban cho loài người khả thể hoàn tất thánh ý Chúa Cha và đưa thế giới tới chỗ hoàn thành.

Chúa Cha trên nguyên tắc là toàn năng, đã chưa thực sự làm chủ trên toàn thể vũ trụ. Thánh Phaolô viết: lúc muôn loài quy phục Đức Kitô, thì chính Người, vì là Con, cũng sẽ quy phục Đấng bắt muôn loài quy phục Người; và như vậy Thiên Chúa có toàn quyền trên muôn loài (1Cr 15,28). Lúc ấy là khi nào ? Origène đã suy tư rất sâu sắc và hiện sinh : khi nào, tôi là người rốt hết và là người xấu nhất trong các kẻ có tội, được Người làm cho trở nên hoàn hảo; còn bây giờ, công trình của Người chưa hoàn thành, vì tôi chưa hoàn hảo. Bao lâu tôi chưa quy phục Chúa Cha, Đức Kitô chưa có thể nói rằng Người đã quy phục Chúa Cha, bởi vì tất cả chúng ta là chi thể thân mình Người. Khi Đức Kitô chưa thể hoàn toàn quy phục Chúa Cha, thì sự toàn năng của Chúa Cha chưa thể hiện trọn vẹn. Nhưng chúng ta tin chắc chắn rằng một ngày nào đó, Đức Kitô sẽ hoàn tất công việc Chúa Cha giao phó, đưa dẫn toàn thể tạo thành đến chỗ viên mãn.

IV. CHÚA CHA TOÀN NĂNG LÀM CHO TA TỰ DO

Đối tượng quyền năng của Chúa Cha là các con cái của Người, là những người con tự do. Có người cho rằng sự tự do ấy dẫn tới kết luận là hãy chối bỏ sự toàn năng của Thiên Chúa. Có phải nghĩ rằng, để làm cho chúng ta tự do, Thiên Chúa đã trở nên không quyền năng ? Triết gia Kierkegaard có ý nghĩ hoàn toàn ngược lại : Điều cao cả nhất cho một tín hữu, cao hơn tất cả những gì con người làm được, là làm cho hữu thể ấy là hữu thể tự do. Để làm được điều đó, phải toàn năng. Điều này có vẻ lạ lùng, vì chúng ta vẫn nghĩ rằng sự toàn năng làm cho các thực tại tùy thuộc vào mình. Nhưng khi thực sự muốn hiểu ý nghĩa của sự toàn năng, người ta sẽ thấy nó bao hàm đặc điểm khai phóng. Một con người không bao giờ có thể làm cho người khác hoàn toàn tự do. Kẻ có quyền năng, bị trói buộc bởi quyền năng, luôn luôn có một tương quan sai lệch với người mình muốn làm cho tự do. Chỉ có sự toàn năng mới có thể lấy lại chính mình khi tự hiến, tương quan này tạo ra sự tự do nơi người đón nhận (Journal 1846).

Câu hỏi không còn là làm thế nào Thiên Chúa vẫn toàn năng mà không đụng chạm đến tự do của con người ? Nhưng câu hỏi thực sự phải là phải có điều gì để làm cho con người được tự do ? Phải có một quyền năng toàn diện, mà chỉ một mình Thiên Chúa mới có. Loài người chúng ta luôn sợ mất những điều chúng ta sở hữu, còn Thiên Chúa thì không bao giờ sợ con người lấy mất điều gì của mình cả. Chúng ta bám vào quyền hành, vì quyền hành ấy không bao giờ toàn diện ; nó không thuộc về bản chất của chúng ta, và chúng ta không ngừng cảm thấy nó bị đe dọa. Vì chúng ta không toàn năng, chúng ta còn khát vọng quyền năng. Chúng ta không ngừng chứng tỏ sức mạnh của mình, chúng ta dễ trở nên độc tài, độc đoán. Chúng ta cảm thấy như là quyền năng đi ngược tình yêu.

Sách Khôn ngoan (11,23) khẳng định ngược lại : Chúa xót thương hết mọi người, vì Chúa làm được hết mọi sự. Ở đây, sự toàn năng của Thiên Chúa là nguồn gốc của lòng thương xót. Câu Kinh Thánh đó đặt nền tảng cho mạc khải Tân Ước sau này về mầu nhiệm Chúa Cha giàu lòng thương xót và tình yêu của Người ban sự sống cho kẻ chết, trong chính sự yếu đuối, vô năng của Đấng chịu đóng đinh.

Toàn Năng là một cái tên khác của chính sự Tự Do và Tình Yêu của Thiên Chúa.

Bài 3

THIÊN CHÚA SÁNG TẠO NHỜ LỜI VÀ THẦN KHÍ

Theo Sách Giáo Lý Công Giáo, việc dạy giáo lý về mầu nhiệm Thiên Chúa tạo dựng là điều cần thiết và hết sức quan trọng, vì nó liên quan đến chính nền tảng của cuộc sống làm người, và làm Kitô hữu, nó đem lại câu trả lời của đức tin Kitô giáo cho các câu hỏi căn bản mà con người mọi thời đại thường đặt ra cho mình : Chúng ta từ đâu tới ? Chúng ta đi về đâu ? .

Câu đầu tiên của bộ Kinh Thánh, Sách Sáng thế nói về Thiên Chúa sáng tạo : "Lúc khởi đầu Thiên Chúa đã tạo dựng trời đất" (St 1,1). Những lời đó xác quyết ba điều : a/ Thiên Chúa vĩnh cửu đã ban khởi điểm cho tất cả những gì hiện hữu bên ngoài Ngài; b/ Duy chỉ một mình Thiên Chúa là Đấng tạo hoá; c/ Tất cả những gì hiện hữu đều tuỳ thuộc vào Đấng đã cho chúng hiện hữu .

Tân ước mạc khải rằng Thiên Chúa đã tạo dựng tất cả nhờ Ngôi Lời vĩnh cửu là Con yêu dấu của Ngài : "Lúc khởi đầu đã có Ngôi Lời và Ngôi Lời là Thiên Chúa. Nhờ Ngôi Lời vạn vật được tạo thành và không có Người, thì chẳng có gì được tạo thành" (Ga 1,1-3). Đức tin của Hội Thánh cũng xác quyết cách tương tự về hoạt động tạo dựng của Chúa Thánh Thần : Ngài, Đấng chúng ta tuyên xưng là "Đấng ban sự sống", là "Thần Khí sáng tạo" (Creator Spiritus), là "Nguồn mạch của sự thiện hảo" (Fons bonitatis).

Những gì chúng ta thoáng thấy trong Cựu ước và đã được mạc khải trong Tân ước, được "quy luật đức tin của Hội thánh" (Regula Fidei) xác định rõ ràng : Chỉ có một Thiên Chúa duy nhất : Ngài là Cha, là Thiên Chúa, là Đấng Tạo Hoá, là Tác Giả, là Đấng làm nên mọi sự, Đấng tự mình tác tạo mọi sự, nghĩa là nhờ Lời và sự Khôn Ngoan của Ngài . Chúa Con và Chúa Thánh Thần là như "những bàn tay" của Ngài.

Tạo dựng là công trình chung của Ba Ngôi chí thánh .

I. THIÊN CHÚA SÁNG TẠO BẰNG LỜI

Thiên Chúa là tác giả của toàn thể vũ trụ vạn vật, trong đó có con người. Nhưng Người không là tác giả được đặt trên cùng bình diện với tác phẩm. Đó là ý nghĩa sâu xa của việc tạo dựng nhờ Lời. Nhờ Lời của Người, Lời tác động, Lời hữu hiệu, Lời sáng tạo, Thiên Chúa khiến cái không trở thành có.

Lời của Chúa Cha làm phát sinh liên lỉ thế giới và làm cho nó mỗi ngày thêm viên mãn theo thánh ý của Người. Bao lâu Chúa Cha muốn thì thế giới tồn tại và phát triển tùy thuộc vào Người, nhưng sự tùy thuộc này không nằm trên bình diện hiện tượng (Ví dụ : Xe chạy phải có xăng).

Lời của Chúa Cha là Lời siêu việt, nên tác động của Lời không lẫn lộn với tác động của thụ tạo. Lời phán ra thì vạn vật liền có : "Thiên Chúa phán : hãy có ánh sáng, liền có ánh sáng" (St 1,3).

Lời của Chúa Cha là Lời nội tại, Lời phán ra cũng là Lời ẩn giấu, vì Lời hoạt động trong thâm cung. Lời nội tại trong thẳm sâu, nên chúng ta không thấy được trên bình diện hiện tượng. Lời hoạt động như không hoạt động (hữu vi như vô vi).

Nhìn từ phía thụ tạo, có thể quan sát bước đi lên của thụ tạo : hư vô - vật chất - sự sống - tinh thần. Đó là hành trình đi lên của thụ tạo, đi lên trong thế giới này. Nhìn từ phía thụ tạo, chúng ta an tâm theo thuyết tiến hóa và không sợ những đắc thủ của khoa học. Trái lại, chúng ta càng vui sướng khi hiểu biết thêm về khoa học, vì nhờ đó chúng ta quan sát chu đáo hơn hành trình của thụ tạo.

Nhưng khi đặt câu hỏi "Ai kêu gọi thụ tạo đi lên từ không đến có ?" thì chúng ta không thể trả lời nếu chỉ nhìn từ phía thụ tạo, mà phải nhìn lên Thiên Chúa, phải có cái nhìn đức tin.

Với quan điểm đức tin, chúng ta biết tiếng gọi ấy là của Thiên Chúa, là Lời của Thiên Chúa không ngừng sinh ra từ Thiên Chúa. Lời được sinh ra là Lời Tác Thành vạn vật. Tất cả đã nhờ Ngài mà thành sự, và không có Ngài thì không gì đã thành sự (Ga 1,3). Sự hiện hữu của vũ trụ vạn vật do Lời và tùy thuộc vào Lời. Vũ trụ do Lời là Ánh Sáng và là Sự Sống, nên vũ trụ không là một thực tại phi lý, tối tăm và vô nghĩa, mà là thực tại mang trong mình sự sống và mỗi ngày hướng tới sự sống viên mãn hơn.

Thực tại vũ trụ được tạo thành :

Vũ trụ có vì thông phần sự hiện hữu của Thiên Chúa. Nhưng vũ trụ không thể lẫn lộn với Thiên Chúa. Thiên Chúa khác với vũ trụ, nhưng vũ trụ gắn liền với Người. Nơi thụ tạo, có sự tùy thuộc và gắn liền với Thiên Chúa, nhưng cũng có sự hiện hữu độc lập, "tách biệt", cá thể. Nếu chỉ nhìn quan hệ giữa thụ tạo với Thiên Chúa, chúng ta không thấy được "tính thực tại" của thụ tạo. Nếu chỉ nhìn sự hiện hữu biệt lập, chúng ta không thấy "thụ tạo tính" của thực tại.

Thụ tạo tùy thuộc Thiên Chúa trong chính sự "độc lập", và độc lập trong chính sự tùy thuộc. Thiên Chúa tạo dựng có nghĩa là Thiên Chúa cung cấp cho thụ tạo một sự hiện hữu cá thể, đưa dẫn thụ tạo vào con đường tự do, và từ đó tạo ra quan hệ giữa thụ tạo với chính mình. Vì thụ tạo có quan hệ với Thiên Chúa, có thể có và phải có suy tư thần học về chúng, diễn tả quan hệ gắn bó giữa chúng với Thiên Chúa. Vì thụ tạo độc lập, có thể có và phải có những suy nghĩ không mang tính thần học về chúng.

Ý niệm tạo dựng càng tiến bộ, thần học cần phải công nhận những loại chân lý không có tính thần học về thực tại : triết lý, khoa học, văn hóa nói chung. Công trình tạo dựng được trao phó cho con người dưới hình thái một thế giới, một môi sinh mà con người phải làm chủ, phải tạo thành. Con người trở thành đấng sáng tạo được tạo dựng. Ý niệm đúng đắn về tạo dựng không dừng lại ở suy tư, mà đưa tới hành động biến đổi và sáng tạo môi trường.

Xét dưới khía cạnh là kết quả tương quan với Thiên Chúa, vũ trụ lại hướng về Người, và đó là cơ hội cho một nhận thức tự nhiên khởi đầu về Thiên Chúa mà Công đồng Vaticanô I khẳng định (D. 3001). Công đồng lên án sự phủ nhận ánh sáng tự nhiên của lý trí trong vấn đề nhận biết Thiên Chúa nhờ các công trình tạo dựng của Người (D. 3026). Vì thụ tạo không ngừng tùy thuộc Thiên Chúa, chúng ta không thể giản lược sinh hoạt tạo dựng của Thiên Chúa vào vấn đề "xây dựng trần thế". Vũ trụ, vì là thụ tạo, vẫn tiếp tục tùy thuộc vào Thiên Chúa để hiện hữu trường tồn. Nhưng động lực nội tại trong vũ trụ vẫn không ngừng được bao bọc và nâng đỡ cách siêu việt bởi tác động tác tạo toàn diện của Thiên Chúa. Vũ trụ luôn hướng về Thiên Chúa vì không bao giờ hết là thụ tạo. Không có sự phát triển nào có thể làm cho vũ trụ "độc lập" đối với Thiên Chúa.

Dưới khía cạnh là thực thể riêng, hoạt động cá thể của từng thực tại tùy thuộc "tự nội" vào chính mình nó. Hiện hữu bao hàm hoạt động, đặc biệt là đối với con người, nhưng ngay cả đối với vật chất. Hoạt động là "tự thể hiện", "tự hoàn tất" (self - realisation).

Biện chứng, "độc lập" và tùy thuộc trở nên một vấn đề quan trọng đối với những hành vi tự do của con người. Làm sao mọi hành vi vừa "do Thiên Chúa" vừa do con người và thuộc trách nhiệm con người. Các thần học gia đã nỗ lực không ngừng cho câu hỏi này, nhưng chưa bao giờ hoàn toàn thỏa mãn. Dù giải đáp thế nào đi nữa, niềm tin Kitô giáo phải luôn giữ "hai vế" vì đó là mạc khải Kinh Thánh. Tư tưởng hiện đại nhấn mạnh nhiều hơn đến tự do của con người. Kinh Thánh cũng khẳng định tự do, mà còn đi vào tận gốc rễ của tự do (không theo nghĩa thuần túy triết học) là sự giải thoát khỏi tội và quyền lực sự dữ. Nhưng đi vào gốc rễ thì lại gặp vấn đề quan hệ với Thiên Chúa.

Không những số phận của con người, mà của toàn thể thụ tạo tùy thuộc vào những quyết định tự do của con người (Rm 8, 22-23). Không thể chỉ dùng "luận lý hình thức" của Aristote để suy tư kết hợp hai yếu tố căn bản trên, mà phải dùng cả "luận lý biện chứng".

Khởi sự từ tự do của con người, để dẫn đưa tới sự tùy thuộc ý thức và tự nguyện của con người đối với Thiên Chúa. Ở đây, tác động của Thiên Chúa có thể bị lu mờ. Rồi khởi sự từ tác động tạo dựng của Thiên Chúa, và dần dần minh chứng sinh hoạt tự do của cá nhân. Như vậy, sự tự do của con người có thể lu mờ.

Mỗi thụ tạo đều có giá trị riêng, không thể gạt bỏ, chính vì nó hiện hữu; "giá trị cá nhân" này không ngừng được Thiên Chúa "ban cho". Thụ tạo không thể không cần Thiên Chúa.

Con người có "khả thể" vừa kỳ diệu vừa nguy hiểm. Muốn cho tất cả cuộc sống của mình chỉ tùy thuộc vào những nguồn riêng của mình : khả năng phạm tội. Tội lỗi không những đi ngược ý muốn Thiên Chúa, mà còn đi ngược với bản chất con người. Ý nghĩa đích thực của việc trở nên hoàn hảo bị ngộ nhân và hủy hoại. Trong lịch sử, sự thiện của thụ tạo chỉ là "bước đầu" hàm chứa khả năng hướng tới viên mãn.

Sự viên mãn chỉ có được khi con người hoàn toàn và vô điều kiện tự mình tùy thuộc vào Thiên Chúa. Tác động trao ban của Thiên Chúa và sự đón nhận của thụ tạo và khởi điểm cho mạc khải cứu độ. Nhờ sự kết hợp mật thiết với Đức Kitô, con người cảm nghiệm tác động tạo dựng không ngừng của Thiên Chúa nơi bản thân (Gal 2,20; 1Co 7,29).

Ở đây chúng ta có thể dùng hai thứ ngôn ngữ : một ngôn ngữ "chiều đứng" đó là ngôn ngữ của niềm tin, ngôn ngữ hướng thượng; một ngôn ngữ "chiều ngang" diễn tả những gì xảy ra trong thế giới hiện tượng. Con người là thành phần của vũ trụ, ở giữa lòng vũ trụ, nên không thể từ chối ngôn ngữ này, một thứ ngôn ngữ cần cho mọi sinh hoạt ở đời.

Trước kia, khi đầu óc con người chưa được khai hóa đầy đủ, khi đối với con người vũ trụ còn được bao trùm bởi một "màn bí mật" còn là một thế giới "u minh", con người còn lẫn lộn hai thứ ngôn ngữ. Người tín hữu ngày hôm nay, nhờ các tiến bộ khoa học kỹ thuật, nhờ các hiểu biết về vũ trụ, không còn lẫn lộn hai thứ ngôn ngữ dành cho hai bình diện khác nhau. Con người dùng một trật hai thứ ngôn ngữ, nhưng không lẫn lộn chúng :

"Mùa xuân trăm hoa đua nở"; "Thiên Chúa làm cho trăm hoa đua nở".

"Mẹ tôi sinh ra tôi"; "Thiên Chúa dựng nên tôi".

"Vũ trụ đầy trăng sao"; "Thiên Chúa làm cho trăng sao nhảy múa".

Chúng ta không lẫn lộn hai ngôn ngữ, dù có thể dùng chung hay tách riêng. Khi tách riêng, chúng ta có một đàng là các lãnh vực thuộc khoa học, đàng kia là lãnh vực tôn giáo, công việc nghiên cứu của nhân loại đòi buộc tách riêng hai thứ ngôn ngữ. Nhưng khi trở về với bản thân mình, với ý nghĩa cuộc đời, với hạnh phúc mà tâm hồn chờ đợi, con người lại kết hợp hai thứ ngôn ngữ. Và niềm tin vào Thiên Chúa tạo dựng không những giúp con người kết hợp hai ngôn ngữ, mà còn làm cho tâm hồn con người rung động ngay giữa lòng đời, giữa các sinh hoạt bề bộn của "trần gian". Mọi thực tại "chiều ngang" hay "chiều rộng", đối với người tín hữu, dần dần mặc lấy "chiều cao" hay "chiều sâu", và trở thành dấu chỉ, sứ giả tình yêu của Thiên Chúa.

Vì Thiên Chúa tạo dựng nhờ Lời, chúng ta có thể đọc thấy "Lời" trong vũ trụ. Không những thế, chúng ta còn có thể đáp trả "Lời" bằng tích cực sinh hoạt trong vũ trụ, lôi cuốn vũ trụ theo tiếng gọi của Lời, để cùng với Lời lên tiếng ngợi khen, chúc tụng Thiên Chúa.

Trường hợp thụ tạo theo con đường tất định, Lời vẫn tôn trọng. Lời tác động "tất định" theo "thánh ý" Chúa Cha.

Nhưng Lời cũng là Lời siêu việt, nên tác động của Lời không giống thụ tạo. Trái lại, chính Lời làm cho thụ tạo hoạt động, Lời Hằng Hữu, và thụ tạo tham gia sự hữu. Điều đó không có nghĩa là Lời Thiên Chúa chỉ hành động gián tiếp, qua trung gian (ví dụ : trò bida). Lời vẫn tác động trực tiếp vì Lời vừa nội tại, vừa siêu việt. Lời tác động tận gốc rễ của thực tại, trước khi có thực tại và để cho có thực tại.

Không thể coi tác động của Thiên Chúa là tác động có "khoảng cách" và coi như những nguyên nhân đệ nhị, hoặc như màn chắn hay như trung gian giữa Thiên Chúa và các hậu quả xuất hiện.

Trong mỗi hữu thể, dù mỏng dòn nhất, có sự hiện diện của Hữu Thể Tuyệt Đối đang hành động. Điều đó không có nghĩa tương đối là bộ mặt đặc thù của Tuyệt Đối (Hegel).

II. LỜI SÁNG TẠO BẰNG THẦN KHÍ

Thiên Chúa Cha tạo dựng vũ trụ và con người nhờ Lời và trong Lời. Lời tác tạo bằng Hơi Thở hay Thần Khí đã lãnh nhận từ Chúa Cha. Lời tạo dựng bằng Thần Khí nên tác động của Lời kỳ diệu. Hơi thở mà Lời thông ban cho thụ tạo có thể cùng nhịp với hơi thở của thụ tạo. Và đó là đặc tính của Thần Linh đích thực. Hơi Thở hay Thần Khí nội tại tiềm tàng sâu thẳm trong thụ tạo nên không hề xa lạ với thụ tạo. Tin vào Thiên Chúa tạo dựng nhờ Lời và bằng Thần Khí không là vong thân hay tha hóa, cũng không làm tha hóa thực tại, mà chính là đặt nền móng vững chắc cho thực tại, hơi thở ở trong cõi thẳm sâu của thụ tạo, nhờ đó làm cho thụ tạo trở nên chính mình (identité de l'être).

Cái "nhìn hiện tượng" có thể khám phá các khía cạnh khác nhau thuộc về chiều rộng của thực tại, nhưng không thể đi vào chiều sâu. Muốn đi vào chiều sâu, phải "xuyên qua", "vượt qua" hiện tượng.

Con người có thể nhận ra hơi thở Thần Linh, nếu biết hành trình vào cõi thẳm sâu, tĩnh lặng của lòng mình để nhận ra tác động của Thần Khí hòa nhịp với "tâm khí" của mình. Đó cũng chính là tiếng rên rỉ của Thần Khí trong con người (Rm 8,22-26).

Thần Khí được trao ban trọn vẹn cho vũ trụ và con người khi Lời mặc lấy xác phàm, trở thành một yếu tố trong vũ trụ để siêu thăng vũ trụ. Với tư cách là người, Đức Giêsu Kitô, Ngôi Lời nhập thể, để lãnh nhận trọn vẹn Thần Khí của Chúa Cha trong biến cố phục sinh từ cõi chết. Phục sinh hoàn tất nhập thể. Đức Giêsu Kitô phục sinh cũng chính là "Lời Hằng Sống" Lời ban sự sống đời đời, Lời bất diệt. Ai tin ở Lời thì sẽ không phải chết.

Vũ trụ và con người cần Ngôi Lời nhập thể, cần Đức Giêsu Kitô phục sinh để tiến tới trạng thái viên mãn mà Chúa Cha đã "truyền định" từ muôn thuở. Bước theo Đức Kitô, con người đi vào "Nước Trời", nơi con người cùng với muôn triều thần thánh và toàn thể thụ tạo chúc tụng Thiên Chúa ba lần thánh.

Đức Kitô phục sinh tác động lên vũ trụ và con người bằng Thần Khí của Người. Thần Khí cuốn hút con người và vũ trụ đến trạng thái phục sinh viên mãn. Do đó có thể nói Đức Kitô là "chóp đỉnh" tác động trên toàn thể vũ trụ là điểm "Omega", nơi hội tụ và thâu kết mọi công trình của Thiên Chúa toàn năng. Con người và vũ trụ được Thần Khí lôi cuốn hướng về sự kết hợp mật thiết với Đức Kitô, là hình ảnh hoàn hảo và là Trưởng tử của Thiên Chúa. Nhưng vì có tự do, con người có thể "cưỡng lại" Thần Khí, và sẽ mất dần sự sống của Thần Khí, không có hơi sức để nên một với Đức Kitô, mà sẽ tan rã đời đời. Con người, hoặc sẽ trở thành "người mới" trong "trời mới đất mới" vì mang trong mình sự sống mới của Thiên Chúa, hoặc sẽ tàn tạ vì mỗi ngày thêm cũ kỹ và già nua.

Bài 4

MẦU NHIỆM CHÚA CHA : CHÚA CHA LÀ NGUỒN SUỐI TÌNH YÊU

I. TÌNH YÊU KHỞI NGUỒN

Yêu thương là cho đi chính mình. Khi nói về Thiên Chúa, Thánh sử Gioan có một vài thành ngữ ngắn gọn và súc tích, như : "Thiên Chúa là Thần Khí" (Ga 4,24), "Thiên Chúa là Ánh Sáng" (1Ga 1,5), "Thiên Chúa là Tình Yêu" (1Ga 4,8.16). Những thành ngữ ấy gần như là những định nghĩa mô tả, cho chúng ta biết một phần nào bản chất của Thiên Chúa.

"Thiên Chúa là Thần Khí" (Ga 4,4).

Chữ Thần Khí ở đây chắc chắn có ý nghĩa là "Sự sống thần linh". Chữ Thần Khí tương phản với chữ xác thịt hay xác phàm, là thực tại mỏng dòn yếu đuối, như bông hoa sớm nở chiều tàn.

Thiên Chúa là Thần Khí có nghĩa Thiên Chúa là Đấng ban sự sống, là Đấng Hằng Sống, là Thiên Chúa của mọi hồng ân, là nguồn suối mọi thực tại.

"Thiên Chúa là ánh sáng" (1Ga 1,5).

Ánh sáng vừa là biểu tượng cho chân lý, vừa là biểu tượng của sự thiện.Đối ngược với ánh sáng, tối tăm là biểu tượng cho sự sai lầm, sự dữ hay tội ác.Thế giới tối tăm là thế giới của sự dữ, của thần dữ.

Thiên Chúa là ánh sáng có nghĩa Thiên Chúa là chân lý, là nguồn suối mạc khải, là nguồn ơn cứu độ, "Thiên Chúa là Đấng Thánh, nguồn mọi sự thánh thiện" (Kinh nguyện Thánh Thể II).

"Thiên Chúa là Tình Yêu" (1Ga 4,8.16).

Tác giả thư 1Ga gọi Thiên Chúa là tình yêu. Các bản dịch Kinh thánh TOB và Bible de Jérusalem dịch bằng "Dieu est Amour". Cha Nguyễn Thế Thuấn dịch : "Thiên Chúa là Lòng Mến".

Dù dịch cách nào đi nữa, điều chắc chắn ở đây là tác giả muốn khẳng định : Thiên Chúa là Nguồn mọi tình yêu. Mọi tình yêu phát xuất từ Người. Những ai yêu mến thì sinh ra bởi Thiên Chúa và biết Thiên Chúa. Ai không yêu mến thì không biết Thiên Chúa (1Ga 4,7-8).

Chúng ta hãy dừng lại suy nghĩ về tình yêu nội tại trong Thiên Chúa và sau đó về tình yêu của Người đối với chúng ta.

Chúa Cha là tình yêu tuyệt đối. Bản chất của Người là tình yêu, đến nỗi ai không yêu mến, không thể biết được Người. Nói rằng Thiên Chúa có tình yêu thì chưa đủ. Phải nói : Người là tình yêu. Tình yêu là tất cả nơi Người, Tình yêu là bản thân Người, Tình yêu là chính mình Người. Người là lòng mến phong nhiêu (Caritas Fecunda), là "Tình yêu sinh hạ" (Amor Generans), là "Tình yêu khởi nguồn" (Amor Originans).

Khi nói đến tình yêu và sự sống của Chúa Cha, để phân biệt với tình yêu và sự sống của Chúa Con, Kinh Thánh, các giáo phụ và Huấn quyền dùng những thành ngữ nhấn mạnh tối đa đặc tính "Khởi nguồn" của Chúa Cha :

- Chúa Cha là "Principium sine principio" (Người là Nguồn không có nguồn, Nguyên Thủy vô nguyên).

- Chúa Cha là "Principium Generans" (Người là nguồn sinh).

- Chúa Cha là "Origo Originans" (Nguồn khởi nguồn).

- Chúa Cha là "Fons Fontalis" (Người là nguồn mạch).

- Chúa Cha là "Fons Deitatis" (Cội nguồn của thần tính).

Giáo phụ và Huấn quyền nhấn mạnh như thế, muốn nói lên điều gì ? Nguồn là gì? Bản chất của nguồn là gì?

Bản chất của nguồn là "tuôn đổ", là "mở ra", là không giữ lại. Nguồn không giữ lại chính mình, vì nếu giữ lại chính mình thì không là nguồn, mà là ao tù, nước đọng. Bản chất của nguồn là cho đi chính mình. Nguồn không cho gì khác, mà cho đi chính mình. Và nguồn cho hết, không giữ lại gì cả.

Nếu dùng hình ảnh "Nguồn nước" ứng dụng cho Chúa Cha trong tương quan với Chúa Con, chúng ta có thể nói: "Nguồn nước sinh ra nước nguồn và hiện hữu trong nước nguồn ! Và sự sinh ra này không gì khác hơn là sự từ bỏ chính mình, cho đi chính mình. Theo một nghĩa thần học nhất định, chúng ta có thể nói : Vì sự từ bỏ của Chúa Cha mà có Chúa Con. Chúa Cha từ bỏ chính mình từ đời đời và mãi mãi, nên từ đời đời và mãi mãi có Chúa Con (Generatio aeterna). Từ đời đời và mãi mãi có tình yêu sinh hạ là Chúa Cha và tình yêu được sinh ra (Amor generatus) là Chúa Con.

Chúa con là tình yêu được Chúa Cha sinh ra, là hoa quả của lòng dạ Cha (Fructus ventris sui), là sự sống của Cha, là bản thể của Cha, là bản thân Cha. Chúa Con là lẽ sống, niềm vui, là kho tàng của Cha, là con cưng (Con yêu dấu) của Cha, là Con Một của Cha, là "Ruột thịt" của Cha (Nói theo kiểu nhân cách hóa). Chúa Cha chỉ có thể có một người Con (không thể có hai). Cha đã cho người Con ấy hết sự sống của mình : "Cũng như Cha có sự sống trong mình, thì Người cũng ban cho Con có sự sống trong mình như vậy" (Ga 5,26). "Cha đã yêu mến Con và đã ban cho Con mọi sự trong tay" (Ga 13,3).

II. LỊCH SỬ CỨU ĐỘ

Điều hết sức lạ lùng, điều không thể tưởng tượng được, là: Người con ấy, người con yêu dấu, người con một ấy, Thiên Chúa đã ban cho chúng ta, ban cho nhân loại (Ga 3,16).

Người ban cho chúng ta con yêu dấu, con một, thì không khác gì ban chính mình Người.

Trên bình diện lịch sử cứu độ, chúng ta khẳng định rằng trong Đức Giêsu Kitô, chính Thiên Chúa đã tự hiến mình cho chúng ta.

Đức Giêsu Kitô là "chóp đỉnh" của lịch sử hồng ân. Lịch sử hồng ân bắt đầu từ tạo dựng. Thiên Chúa đã ban sự sống cách nhưng không cho muôn loài trong tạo dựng. Các hồng ân trong tạo dựng đã là dấu chỉ Thiên Chúa là Đấng thích ban ơn. Rõ hơn cả là khi mạc khải cho Môsê, Thiên Chúa đã tự xưng: "Gia vê, Gia vê, Thiên Chúa chạnh thương, huệ ái, bao dung đầy nhân nghĩa tín thành" (Xh 34,5-6).

Gia vê là Đấng huệ ái, là Đấng thích ban ơn : Người chỉ vui khi nào ban ơn. Ban ơn là lẽ sống của Người, là niềm vui của Người. Người ban cho chúng ta hết ơn này đến ơn khác, ban cho tràn ngập các ơn. Chúng ta không bao giờ thiếu ơn sủng.

Nhưng dù Thiên Chúa rộng rãi đến đâu đi nữa, dù Người là Đấng thích ban ơn, dù bản chất của Người là cho đi, không giữ lại gì cả, chúng ta vẫn không thể nào nghĩ được, nếu không có mạc khải : "Người ban cho chúng ta Con Một của Người".

Càng đi sâu vào Tình Yêu của Chúa Cha dành cho Chúa Con bao nhiêu, chúng ta càng không hiểu được vì sao mà Người ban Con Một Người cho chúng ta (Ga 3,16; Rm 8,32).

Chúng ta chỉ có một câu trả lời duy nhất, như Gioan đã viết "vì Thiên Chúa là Lòng Mến". Vì Thiên Chúa là Lòng Mến, nên Người sẵn sàng từ khước chính mình khi yêu thương chúng ta. Ban Con Một Người cho chúng ta đòi hỏi nơi Thiên Chúa một sự "từ bỏ triệt để", từ bỏ chính mình cách trọn vẹn. Không những vậy, Thiên Chúa còn "liều mình", còn sẵn sàng bị từ chối. Và khi bị từ chối, Thiên Chúa còn đau khổ đến dường nào!

Cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu là cuộc khổ nạn của Chúa Cha ("Cha ở trong Con") trong cái chết bi thảm của Chúa Giêsu bị treo trên "thập ác". Chúng ta vẫn quen quan niệm Thiên Chúa là Đấng tuyệt đối, bất biến, không hề lay chuyển, nên Người không thể đau khổ được. Nhưng đó là quan niệm "thuần lý", chứ không phải là quan niệm của Kinh Thánh.

Họa sĩ El Greco trong tác phẩm "Ba Ngôi trong Lịch sử cứu độ", đã vẽ Chúa Cha đang đỡ Chúa Giêsu từ thập giá và đặt vào lòng với tất cả tình âu yếm, với cái nhìn đượm nét buồn. Phía trên đầu Chúa Cha có Chúa Thánh Thần xuất hiện dưới chim câu. Thay vì vẽ Đức Mẹ ôm thân xác Chúa Giêsu vào lòng như tượng pietà của Michel Ange, họa sĩ cố ý vẽ Chúa Cha. Nếu Đức Mẹ yêu Chúa Giêsu và tan nát cõi lòng vì cái chết của Chúa Giêsu, lẽ nào Chúa Cha lạnh lùng trước cái chết của Con Một Người !

Khi nhân loại từ khước Chúa Giêsu, đó là từ khước hồng ân của Chúa Cha, tình yêu của Chúa Cha, từ khước chính bản thân Chúa Cha. Trong Tin Mừng Gioan, Chúa Giêsu thường xuyên nhấn mạnh : "Ai tiếp đón Ta là tiếp đón Cha", "Kẻ tôn kính Con là tôn kính Cha, Đấng đã sai Ngài" (Ga 5,23).

Bài 5

SỰ MẬT THIẾT GIỮA CHÚA GIÊSU

VÀ CHÚA CHA, ĐỨC GIÊSU LÀ ĐẤNG CỨU ĐỘ DUY NHẤT

 

I. SỰ MẬT THIẾT GIỮA CHÚA GIÊSU VÀ CHÚA CHA

Khi chiêm ngắm Chúa Giêsu, trước hết chúng ta hãy chiêm ngưỡng tình yêu của Người đối với Chúa Cha. Theo Tin Mừng Gioan, chỉ có hai lần Chúa Giêsu minh nhiên khẳng định là Người yêu Chúa Cha (Ga 14,31; 15,10). Nhưng trải dài suốt Tin Mừng, không có chỗ nào thiếu tình yêu của Chúa Giêsu dành cho Chúa Cha. Tình yêu ấy là lẽ sống của Chúa Giêsu, là niềm vui của Người, là hậu trường ý thức của Người, là động lực các hành vi cử chỉ của Người.

Chúa Giêsu yêu mến Chúa Cha, muốn làm mọi sự theo ý Chúa Cha, chỉ làm những điều đã trông thấy Chúa Cha làm, nói những điều nghe Chúa Cha nói. Thánh ý Chúa Cha là lương thực nuôi dưỡng tâm hồn Người : "Lương thực của Ta là làm theo ý Đấng đã sai Ta, và chu toàn công việc của Người" (Ga 4,34).

Chúng ta có thể nói mà không sợ quá đáng rằng cuộc đời của Đức Giêsu giống như cuộc sống của một con người bị ám ảnh bởi một điều duy nhất là luôn luôn làm đẹp lòng Chúa Cha (làm cho Chúa Cha vui). Đối với Đức Giêsu, yêu mến Chúa Cha đến nơi đến chốn (usque ad finem) là thực thi đến cùng ý muốn của Chúa Cha.

Ý muốn của Chúa Cha là sai Chúa Giêsu đến trần gian để cứu độ trần gian, để chia sẻ cho nhân loại sự sống của Thiên Chúa. "Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời" (Ga 3,16). Vì yêu Chúa Cha, Chúa Giêsu đã yêu thương chúng ta đến cùng (usque ad finem), sẵn sàng hy sinh mạng sống vì chúng ta.

Tình yêu gắn chặt Chúa Giêsu với Chúa Cha đến nỗi Hai chỉ là Một : "Ta và Cha Ta là một" (Ga 10,30); "Ta ở trong Cha và Cha ở trong Ta" (Ga 10,38).

Người Do Thái khó chịu và không chấp nhận Chúa Giêsu, vì Người tự đồng hóa mình với Thiên Chúa : "Người Do Thái cố tìm cách giết Người, vì chẳng những Người phá ngày hưu lễ, mà còn dám gọi Thiên Chúa là chính Cha của mình, cho mình bằng Thiên Chúa" (Ga 15,18; 10,33).

Tình yêu luôn quy hướng Chúa Giêsu về với Chúa Cha. Mỗi cái nhìn của Chúa Giêsu, dù là cái nhìn của một con người còn tại thế, vẫn là cái nhìn hướng về Chúa Cha, chiêm ngưỡng Chúa Cha, vui mừng vì được thấy Chúa Cha. Chúa Giêsu không ngừng đối thoại với Chúa Cha bằng những lời lẽ thâm sâu và tâm tình nhất.

Chúa Giêsu không ngừng nói về Chúa Cha, về tình yêu của Chúa Cha, về ý muốn, chương trình và công việc của Chúa Cha. Chúa Giêsu yêu Chúa Cha, vì Người là Con Một, Con yêu quý của Chúa Cha. Từ đời đời Người ở bên Chúa Cha, trong cung lòng Chúa Cha, luôn hướng về Cha, vì Chúa Cha yêu thương người và ban cho Người mọi sự trong tay (Ga 13,3). Chúa Cha không giữ lại điều gì, không che giấu sự gì với Người. Người yêu Chúa Cha, vì Người đến từ Chúa Cha. Nguồn gốc của Người là Chúa Cha. Người phát xuất từ Cha và trở về với Cha (Ga 16,28).

Chúa Giêsu là một với Chúa Cha. Cha ở trong Người và Người ở trong Cha (Ga 17,21-23). Cha không bao giờ để Người cô đơn một mình, nhưng luôn ở với Người (Ga 16,32).

Con người Đức Giêsu thật là huyền nhiệm, vì vừa là lữ hành, vừa là phúc nhân. Người vừa hướng về Chúa Cha, vừa kết hợp với Chúa Cha; vừa là một với Chúa Cha, vừa phân biệt với Chúa Cha, và Cha lớn hơn Người (Ga 14,28). Nếu không có cái nhìn đức tin, chúng ta không thể hiểu được Người. Có những người Do Thái cho rằng mình biết rõ về Đức Giêsu, nhưng thực ra họ không biết gì hết (Ga 7,27-28). Họ chỉ biết Người là con bác thợ mộc Giuse ở Nazarét, thuộc xứ Galilê. Còn nguồn gốc thật sự của Người, họ không thể biết được. Người thật sự bởi đâu và đi về đâu, họ không thể nào lãnh hội được, vì họ cứng lòng tin.

Cương vị làm Con của Đức Giêsu là chìa khóa chủ yếu giải thích cách cư xử, lời nói và hành động của Đức Giêsu (Ga 8,14; 11,42); tương quan sự sống (Ga 6,57), sự kết hợp mật thiết giữa Cha và Con, sự hiện diện trọn vẹn cho nhau và với nhau (Ga 5,20; 8,16; 11,42); sự tương tại hay hiện diện trong nhau (Ga 10,38; 14,10); tương tri (Ga 10,15); tương hướng hay nhìn thấy nhau trọn vẹn tỏ tường (Ga 5,19-20); sự hiệp thông với nhau trong tư tưởng và ý muốn, tùy thuộc hoàn toàn vào nhau (Ga 4,34; 8,28-29; 12,49). Sự tùy thuộc trọn vẹn, sự đón nhận không ngừng mọi sự và chính bản thân mình từ nơi Cha vừa diễn tả cương vị làm con của Đức Giêsu, và sự duy nhất của Người với Chúa Cha.

II. ĐỨC GIÊSU LÀ ĐẤNG CỨU ĐỘ DUY NHẤT

Vào khoảng tháng 08 năm 2000, văn kiện tín lý DOMINUS JESUS (Chúa Giêsu) ra đời, gây một tiếng vang rất lớn trong lòng Giáo Hội, tạo ra nhiều dư luận khác nhau, và ngay cả những tranh luận gay gắt. Người khen, kẻ chê; người thì cho rằng đây là dấu hiệu "bảo thủ" của Đức Hồng Y Ratzinger, bấy giờ là Bộ Trưởng Bộ Giáo Lý Đức Tin. Người khác cho rằng đã đến lúc phải nói rõ, không còn úp mở về những sai lạc và nguy cơ sai lạc về đức tin tông truyền, có liên hệ tới điều khoản thứ hai của "đức tin Phép rửa" là mầu nhiệm Chúa Giêsu Kitô là Chúa và là Đấng Cứu Độ duy nhất. Những sai lạc này có ảnh hưởng rất lớn đến những nỗ lực loan báo Tin Mừng của Giáo Hội sau Công đồng Vatican II.

Cho dù thích hay không thích cách trình bày của Bộ Giáo Lý Đức tin trong tuyên ngôn (Declaratio) CHÚA GIÊSU, mọi người công giáo chúng ta đều bị ràng buộc bởi giáo huấn chính thức này của Giáo hội, đã được Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II lấy quyền tối thượng mà phê chuẩn ngày 16 tháng 06 và trao cho Đức Hồng Y Ratzinger công bố ngày 06 tháng 08 năm 2000, ngày lễ Hiển Dung tại Bộ Giáo Lý Đức Tin.

Mục đích của tuyên ngôn không nhằm trình bày một cách hệ thống "ơn cứu độ duy nhất và phổ quát" trong mầu nhiệm Đức Giêsu Kitô và Giáo Hội, nhưng nhằm bác bỏ những sai lạc làm chùng bước những nhà truyền giáo trước một thế giới đa tôn giáo, trong đó có những tôn giáo lớn chứa đựng những gia sản tinh thần cao siêu và phong phú. Người ta nói nhiều về sự đối thoại giữa các tôn giáo, rất cần thiết không những cho sự sống chung hoà bình của nhân loại, mà còn rất ích lợi cho việc cùng nhau đi tìm chân lý. Điều đó có phần đúng, nhưng cũng có nguy cơ rõ rệt cho việc thực thi mệnh lệnh rao giảng Tin Mừng của Chúa Giêsu cho mọi thụ tạo, là sự nảy sinh các thuyết tương đối nhằm biện minh cho hiện tượng đa tôn giáo, không những trên thực tế (de facto) mà cả trên nguyên tắc (de jure), (Dominus Jesus, số 4).

Văn kiện nhắc lại một số chân lý cơ bản về Kitô học và cứu chuộc học, giúp cho các mục tử có những nhận định vững chắc để hướng dẫn đoàn chiên, và giúp cho các nhà thần học suy tư phù hợp với đức tin tông truyền và đáp lại những thách thức của xã hội và các nền văn hoá đương đại.

Điều đầu tiên mà tuyên ngôn nhắc lại là "tính cách trọn vẹn và tối hậu" của mạc khải của Chúa Giêsu. Chúng ta phải tin chắc rằng trong mầu nhiệm của Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa nhập thể, Đấng là Đường, là Sự thật và là Sụ Sống" (Ga 14,6) toàn bộ mặc khải đã được ban cho : "Không ai biết Chúa Cha, trừ Chúa Con và những ai Chúa con muốn mặc khải cho" (Mt 11,27). "Không ai thấy Thiên Chúa bao giờ; nhưng Người Con Một, Đấng hằng ở nơi Cung Lòng Chúa Cha, chính Người đã tỏ cho biết" (Ga 1,18). "Trong Người, tất cả sự viên mãn của thần tính hiện diện cách cụ thể, và trong Người anh em được sung mãn" (Cl 2,9-10).

Trung thành với Lời Chúa, Công đồng Vatican II dạy: "Vậy nhờ sự Mặc khải này, chân lý sâu xa nhất về Thiên Chúa và sự cứu độ con người, được toả sáng nơi Đức Kitô, Đấng vừa là Trung Gian, vừa là sự viên mãn của tất cả Mặc Khải" (MK, số 2). Công đồng còn nói rõ thêm: "Đức Giêsu Kitô là Ngôi Lời đã làm người, một con người được sai đến với nhân loại, nói những lời của Thiên Chúa (Ga 3,34) và hoàn thành công trình cứu độ mà Chúa Cha đã trao phó" (Ga 5,36; 17,4). Và "Ai thấy Người là thấy Chúa Cha" (Ga 14,9). Chính vì thế mà chỉ một mình Chúa Giêsu có đủ tư cách là Đấng Trung Gian Duy Nhất, và là Đấng Cứu Độ Duy Nhất. Cần phải bác bỏ luận đề cho rằng Mặc Khải của Đức Giêsu chưa đủ và chưa trọn vẹn, cần phải bổ sung bằng các mặc khải có trong các tôn giáo khác.

Sách Công vụ các tông đồ ghi lại câu chuyện Phêrô và Gioan làm phép lạ chữa người què và giảng cho toàn dân về Chúa Giêsu Kitô đã bị đóng đinh, đã chết và được Thiên Chúa cho sống lại, bị điệu ra trước công nghị Do Thái và đã tuyên bố một cách rõ ràng không úp mở về Chúa Giêsu là Đấng Cứu Độ duy nhất : "Chính nhờ Danh Đức Giêsu Kitô, người Nadarét, Đấng mà quý vị đã đóng đinh vào thập giá, và Thiên chúa đã làm cho trỗi dậy từ cõi chết, chính nhờ Đấng ấy mà người này được lành mạnh, ra đứng trước mặt quý vị. Ngoài Người ra, không ai đem lại ơn cứu độ; vì dưới gầm trời này không có một Danh nào khác đã được ban cho nhân loại, để chúng ta phải nhờ vào Danh đó mà được cứu độ" (Cv 5,10-12).

Ở đây Giáo Hội đòi hỏi sự vâng phục đức tin (obéissance de la foi) là sự đón nhận chân lý mặc khải của Chúa Kitô, được bảo đảm bởi chính Thiên Chúa là chân lý. Phải phân biệt một cách vững vàng giữa đức tin là một nhân đức đối thần (foi théologale) với "tín ngưỡng tôn giáo" (croyance religieuse). Đức tin là sự đón nhận trong ân sủng "chân lý được mặc khải", giúp chúng ta đi sâu vào mầu nhiệm, và hiểu một cách mạch lạc. Còn tín ngưỡng tôn giáo là tổng thể các kinh nghiệm và suy tư, kho tàng sự khôn ngoan và lòng đạo đức của con người trong hành trình đi tìm chân lý, trong tương quan với thần linh và Đấng Tối Cao.

Trong một thế giới đa tôn giáo, có thể dễ rơi vào quan niệm "Đức Giêsu lịch sử" chỉ là một trong các đấng cứu tinh, xuất hiện vào các thời kỳ khác nhau trong lịch sử, tại những địa phương có những nền văn hoá khác nhau. Các "Sách Thánh" của các tôn giáo cũng có giá trị mặc khải, vì cũng được linh ứng. Tuy nhiên, truyền thống của Hội Thánh dành riêng từ ngữ "linh ứng" cho những sách trong quy điển của Cựu ước và Tân ước, vì những sách này được linh ứng bởi Chúa Thánh Thần. Hiến Chế mặc khải của Công đồng Vatican II viết : "Đối với Mẹ Hội Thánh, dựa vào dức tin của thời các Thánh Tông đồ, chấp nhận như là thánh và quy điển những sách Cựu ước và Tân ước, toàn bộ và trọn vẹn, với tất cả mọi phần, dựa trên lý do là chúng đã được viết dưới sự linh ứng của Chúa Thánh Thần, những sách này có Thiên Chúa là tác giả, và được truyền lại cho Hội Thánh" (MK số 11).

Có người chủ trương phạm vi hoạt động mặc khải và cứu độ của Ngôi Lời siêu việt rộng rãi hơn Ngôi Lời nhập thể, những người Kitô hữu tin vào Chúa Giêsu Kitô, Ngôi Lời nhập thể, điều đó rất tốt, nhưng chỉ hạn hẹp nơi Kitô giáo. Phải chấp nhận Ngôi Lời siêu việt có những cách hoạt động khác nhau, nơi các tôn giáo khác nhau. Ở đâu và bất cứ thời đại nào cũng có những hạt giống của Ngôi Lời. Nhờ đối thoại giữa các tôn giáo và các nền văn hoá mà người ta khám phá thêm những hạt giống của Ngôi Lời. Thực ra, đức tin tông truyền luôn nối kết một cách chặt chẽ, bất khả phân ly Ngôi Lời với Đức Giêsu Nadarét. Chúng ta phải luôn luôn lập lại chân lý đức tin này: Ngôi Lời nhập thể là Chúa Giêsu thành Nadarét, và Đức Giêsu Nadarét là Ngôi Lời nhập thể. Không có một "khoảng cách hữu thể" nào, dù là nhỏ bé nhất, giữa Giêsu Nadarét và Ngôi Lời Nhập Thể. Đức Giêsu người Nadarét là Chúa, đồng bản thể với Chúa Cha. Người cũng được gọi là "Đấng Kitô" (Đấng được Chúa Cha xức dầu Thánh Thần và sai đi rao giảng Tin mừng), Đấng Mêsia Cứu Thế.

Có người cho rằng phạm vi hoạt động của Thần Khí ban sự sống giống như "gió muốn thổi đâu thì thổi", rộng hơn hoạt động của Đức Giêsu Kitô, Ngôi Lời nhập thể. Nhưng đức tin tông truyền luôn nối kết Thần Khí với Đức Giêsu. Trong lịch sử cứu độ, Thần Khí luôn là Thần Khí của Đức Kitô Giêsu, không có Thần Khí nào khác có thể mang lại ơn tha tội cho nhân loại chúng ta và cho chúng ta thông phần vào chính sự sống của Đức Kitô Phục Sinh, nếu không phải là Thần Khí của Chúa Phục Sinh.

Theo tuyên ngôn Dominus Jesus, thuyết chối từ "tính duy nhất và phổ quát cứu độ" của mầu nhiệm Chúa Giêsu Kitô có được đặt ra, nhưng không có nền tảng trong Kinh thánh. Chính vì thế mà phải tin một cách vững vàng, như là một yếu tố trường tồn của đức tin của Hội Thánh, chân lý về Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa, là Chúa và là Đấng Cứu độ duy nhất, nhờ việc nhập thể, sự chết và sự sống lại, Ngài đã hoàn thành lịch sử cứu độ, mà Ngài là "sự viên mãn" và là "trọng tâm" (Dominus Jesus, số 13).

Bài 6

Ý NGHĨA THẦN HỌC CỦA MẦU NHIỆM VƯỢT QUA

Mầu nhiệm Khổ Nạn Phục Sinh là trọng tâm của đức tin kitô giáo : Lạy Chúa, chúng con loan truyền Chúa chịu chết và tuyên xưng Chúa sống lại cho tới khi Chúa lại đến. Cái chết và sự sống lại của Chúa Giêsu là trọng tâm và chóp đỉnh lịch sử cứu độ, cô đọng tất cả Tình Yêu của Thiên Chúa đối với nhân loại.

1. Hai mặt của một Mầu nhiệm:

Trọng tâm của lời rao giảng của các tông đồ cũng chính là Biến Cố Khổ Nạn Phục Sinh. Khi đã lãnh nhận Thánh Thần của Đấng Chúa Phục Sinh, các tông đồ đã mạnh dạn loan báo : Ông Giêsu thành Nazarét mà các ngươi đã đóng đinh, đã giết chết, Thiên Chúa đã cho sống lại từ trong kẻ chết. Thiên Chúa đã tuyên dương người tử tội, phục sinh con người đã bị tử hình. Khi loan báo Đấng Phục Sinh, sứ điệp của các tông đồ bao gồm cuộc khổ nạn và cái chết bi thảm của Chúa Giêsu, vì Đấng Chúa Phục Sinh mà các ông loan báo, chính là Đấng đã bị đóng đinh.

Khổ Nạn và Phục Sinh là hai điều không thể tách rời nhau, trước hết nơi Đấng mà các tông đồ loan báo. Chúa Phục Sinh không phải là Đấng Chúa nào khác hiện ra với các ông, mà chính là vị Thầy các ông đã theo, đã sống với, đã thụ giáo và đã gắn bó. Khổ Nạn và Phục Sinh vừa là hai giai đoạn, vừa là hai khía cạnh bất khả phân ly của một mầu nhiệm duy nhất mà Hội Thánh gọi là Mầu Nhiệm Vượt Qua. Chúa Giêsu đã nhiều lần báo trước con đường khổ nạn mà Người phải trải qua, nhưng bấy giờ các tông đồ hoặc chưa hiểu, hoặc chưa thể chấp nhận.

Chúng ta biết các đoạn Tin Mừng Mc 8, 27-33 ; Mt 16, 13-23 ; Lc 9, 13-21 tường thuật lời tuyên tín của Phêrô và việc loan báo lần thứ nhất cuộc khổ nạn mà Chúa Giêsu phải chịu. Chính lúc Phêrô và các tông đồ tuyên xưng Ngài là Đấng Kitô, cũng là lúc Người nói trống ra về sự đau khổ mà Người phải chịu.

Khi tuyên xưng Thầy Giêsu là Đức Kitô, Phêrô và các tông đồ nghĩ tới một Đấng Mêsia mà dân Do Thái hằng trông đợi, Đấng được Thiên Chúa xức dầu tuyên vương, trao cho trách nhiệm giải phóng Israel, để hoàn tất lời Ngài đã hứa với cha ông, giải phóng dân Do Thái khỏi ô nhục làm nô lệ. Phêrô nghĩ đến một Mêsia thần linh, một con người thần linh đầy quyền năng có thể đáp ứng những chờ đợi của Israel. Đối ngược lại Chúa Giêsu tự giới thiệu như một con người phải chịu nhiều đau khổ, bị loại trừ và giết chết. Thay cho hình ảnh của một Người Chúa Uy Hùng, một con người thần linh, Chúa Giêsu là hiện thân của một Thiên Chúa đầy nhân tính (le Dieu-hunmain),Đấng đã tự biểu lộ trong những thực tại mà loài người phủ nhận, từ khước.

Việc loan báo cuộc khổ nạn kết thúc bằng niềm tin Phục Sinh của toàn thể Giáo Hội. Không có Phục Sinh, Thập Giá hoàn toàn vô nghĩa. Không có Phục Sinh, Thập Giá chỉ là thú nhận cách bi thảm sự thất bại và bất lực của loài người. Dưới ánh sáng Phục Sinh, Thập Giá là Thánh Giá của Con Thiên Chúa, Đấng đã chịu chết thay cho chúng ta, chết vì chúng ta, kết hợp mật thiết với mọi đau khổ của loài người.

Phục Sinh mà không có Thập Giá, là một chiến thắng không đối thủ. Gắn liền với Thập Giá, Phục Sinh là sự sống lại của Đấng đã bị đóng đinh và giết chết, là sứ điệp về sự chiến thắng của Thiên Chúa trên mãnh đất đầy đau thương, mãnh đất của sự chết và của lý hình.

Không có Phục Sinh, Thập Giá chỉ là mù tối, không có tương lai, không niềm hy vọng.

Không có Thập Giá, Phục Sinh trống rỗng, không có nội dung, không cội rễ, không có quá khứ, không có lịch sử.

Niềm tin kitô giáo của chúng ta, phải luôn giữ chặt Thập Giá và Phục Sinh với nhau, nếu muốn nhận ra gương mặt đích thực của Chúa Giêsu.

Con người kitô hữu là con người của Thứ Sáu Tuần Thánh và Chúa Nhật Phục sinh. Con đường của chúng ta, của Hội Thánh không phải là một giấc mơ về Đấng Mêsia trần thế. Vị Thiên Chúa đầy nhân tính, Chúa Giêsu của các sách Tin Mừng loại trừ hình ảnh của Đấng Mêsia mà loài người mơ ước, Đấng đáp ứng mơ ước quyền năng của con người. Thập Giá đảo lộn các mơ ước của con người, những mơ ước bắt đầu bằng tội của Eva.

Chúng ta không thể loan báo Tin Mừng Chúa Kitô, khi muốn kitô hóa mọi giá trị trần gian ngay tức khắc, khi muốn tán thưởng mọi thành tựu của con người. Thập Giá là Lời Phản Kháng chống lại tội ác của thế gian và Thiên Chúa đã niêm ấn lời phản kháng ấy, khi đã cho Đấng Chịu Đóng Đinh trôi dậy từ cõi chết. Theo nhà thần học Moltmann, muốn biết Thiên Chúa là ai, phải quỳ dưới chân Thập Giá và cùng lúc hướng về cánh cửa mở ra của Phục Sinh . Tìm Thiên Chúa nơi nào khác là tư duy theo kiểu loài người, chứ không theo đường lối của Thiên Chúa.

2. Tình yêu và Khổ đau của Thiên Chúa nơi Thập giá:

Thập Giá là nơi Thiên Chúa nói bằng thinh lặng : Mầu nhiêm Thập Giá là mầu nhiệm sự khổ đau của Thiên Chúa và Tình Yêu của Người. Nơi Thập Giá, khổ đau và tình yêu là một : Thiên Chúa đau khổ vì Người yêu thương. Đức Giêsu chịu đóng đinh là Đấng Thiên Chúa vì chúng ta và để cứu rỗi chúng ta. Nơi Đức Giêsu, Thiên Chúa hoàn toàn ra khỏi chính mình trong sự tha hóa của cái chết, để đón chúng ta vào trong sự sống.

Qua các chết Thập Giá, Đức Giêsu đã chia sẻ đến cùng thân phận làm người của chúng ta : sự nghèo nàn, sự cô đơn và phiền muộn của con người. Không chỉ một mình Chúa Giêsu mà chính Chúa Cha cũng học đau khổ. Chúa Cha cũng đi vào lịch sử loài người nơi cái chết của Đức Giêsu trên thập giá. Ngài đau khổ vì Người Con hoàn toàn vô tội đã bị kết án cách bất công. Nhưng Ngài đã chấp nhận hy sinh để Tình Yêu được biểu lộ trong đau khổ của Thập Giá. Chúa Thánh Thần là Hơi Thở Sự Sống mà Chúa Giêsu hấp hối trên thập giá đã trao lại cho Chúa Cha. Chúa Thánh Thần là Tình Yêu hiệp thông, ấy vậy mà đã trở thành sự chia lìa đau thương tách rời Chúa Cha khỏi Người Con là Đức Giêsu. Đức Giêsu đã chết, Ngài trao Hơi Thở lại cho Chúa Cha. Chúa Thánh Thần, Hơi Thở Sự Sống chấp nhận lìa bỏ để Chúa Giêsu có thể chia sẻ thân phận con người trong cái chết.

Sự đồng nhất giữa Đấng chịu đóng đinh và Đấng sống lại, làm nổi bật Tình Yêu được mạc khải nơi Thập Giá : kết thúc là một điểm khởi đầu mới. Chén đắng đã trở nên nguồn nước trường sinh. Đức Kitô, Ađam Mới đã sinh ra trong cái chết, và loài người, cùng với Ngài và trong Ngài, chiến thắng tội lỗi và sự chết. Chúa Cha đã tôn vinh Đấng chịu đóng đinh, đón nhận Con của Người vào trong Vinh Quang, cũng sẽ đón nhận mỗi người chúng ta cùng với Con của Người. Chúa Thánh Thần, Đấng An Ủi của vị Chúa bị đóng đinh giờ đây được ban cho mọi xác phàm, để trở nên Đấng an ủi cho mọi con người bị đóng đinh. Ngôn ngữ của Thập Giá nói với chúng ta rằng, chúng ta tìm gặp Thiên Chúa trong yếu đuối, trong đau khổ và trong sự nghèo nàn của thế giới con người. Sự hoàn thiện của Thiên Chúa biểu lộ trong những bất toàn mà Ngài đảm nhận vì chúng ta : những giới hạn của khổ đau, sự chia lìa của cái chết, sự yếu đuối của nghèo khó, sự nặng nề tối tăm của cuộc đời.

Từ nay mọi người có thể nhận ra trong cuộc đời của mình Thập Giá của Thiên Chúa Ba Ngôi. Trong khổ đau, con người có thể cỡi mở với Thiên Chúa, Đấng đã tự hiến cho loài người chúng ta, để biến đổi thương đau thành tình yêu, khổ nạn thành lễ phẩm. Thần Khí của Đấng chịu đóng đinh mạc khải cho chúng ta sự biến đổi ấy. Cùng với chúng ta và trong chúng ta, Người chia sẻ những đau khổ của cuộc đời, cho chúng ta thông phần cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu , sự đau khổ của Chúa Cha và mở ra cho chúng ta con đường sự sống.

Giáo Hội dưới chân Thánh Giá là những tín hữu noi gương Chúa Kitô Giêsu, nỗ lực ra khỏi chính mình và đi vào chặng đường thương khó của tình yêu , là cộng đồng của những người nghèo phục vụ người nghèo. Giáo Hội dưới chân Thánh giá là Giáo Hội được sống động, phong phú nhờ những khổ đau của các chi thể. Bước theo Đức Giêsu là đi theo con đường khổ nạn của Thầy. Yêu mến Chúa Giêsu và bước theo Ngài là góp phần làm dịu các nổi khổ đau của loài người, là đấu tranh bằng lời nói và cuộc sống chống mọi nguồn gốc của sự dữ, của khổ đau. Thánh Giá cứu độ của Chúa Giêsu đòi hỏi giải phóng khỏi mọi thứ thập ác của tội lỗi và sự chết. Bước theo Chúa Giêsu là biến các thập giá hằng ngày thành con đường cho sự phục sinh, cho tình yêu và công lý.

3. Tình yêu và hạnh phúc nơi Chúa Phục Sinh:

Nếu chiều kích Ba Ngôi làm cho mầu nhiệm Thập Giá trở nên sâu sắc và gần gủi, thì điều đó càng nỗi bật hơn trong mầu nhiệm Phục Sinh. Biến cố Phục Sinh là kỳ công lớn nhất của Thiên Chúa trong lịch sử cứu độ. Là lúc Thiên Chúa biểu lộ trọn vẹn tình yêu của Người đối với Đức Giêsu và tất cả nhân loại chúng ta. Là lúc Thiên Chúa thể hiện tất cả quyền năng của Người. Giáo Hội luôn luôn coi Thiên Chúa là tác giả đầu tiên của biến cố Phục Sinh. Chính Thiên Chúa đã phục sinh Đức Giêsu (Cv 2,24). Thiên Chúa đã đặt Người làm Chúa và làm Kitô (Cv 2,36). Thiên Chúa đã tự nhận là Cha của Đấng chịu đóng đinh.

Thiên Chúa đã phê phán và lên án sự gian ác của con người trong vụ án Chúa Giêsu. Phục Sinh Đức Giêsu là đảo lộn cách sắp xếp của loài người, đảo lộn trật tự của trần gian khởi đầu bằng sự xúi giục của thần dữ. Đối với Thiên Chúa, không có trật tự nào vượt lên trên tình yêu và công lý. Sự Phục Sinh chính là lời chúc phúc, là sự tôn vinh Thiên Chúa dành cho Con Yêu Dấu của Người, Đấng đã vâng phục Người cho đến chết.

Nhờ biến cố Phục Sinh, chúng ta hiểu được quá khứ của ngài Giêsu Nazarét là lịch sử của Con Thiên Chúa ở giữa loài người, chúng ta biết được Đức Giêsu là Đấng Hằng Sống đã chiến thắng sự chết, là Đấng Chúa sẽ trở lại trong vinh quang.

Biến cố Phục Sinh đã đưa Đức Giêsu, ngay cả trong tư cách là con người, đến tột đỉnh của vinh quang và hạnh phúc. Sự Phục Sinh của Đức Giêsu là Phục Sinh cánh chung. Người đã đạt tới cùng đích mà Thiên Chúa muốn dành cho con người. Người đã mở ra cho nhân loại một tương lai rực rỡ. Người mở cửa Thiên đàng cho nhân loại. Chính Người là Cửa Vào Cung Lòng Chúa Cha.

Sự Phục Sinh của Đức Giêsu biểu lộ sự đúng đắn của con đường mà Người đã chọn, con đường nhỏ bé, thấp hèn, con đường đi với những người nghèo, những người tội lỗi, những người bị thế gian loại trừ, là con đường lòng thương xót của Chúa Cha, là con đường của lòng nhân đạo tuyệt vời nhất. Thập Giá của Người đã chiến thắng tội lỗi, chiến thắng lề luật và sự chết, chiến thắng bất công và hận thù, chiến thắng thế gian. Phục sinh là chiến thắng của tự do, của ân sủng và của tình yêu. Phục Sinh là dấu chỉ Tiếng Nói cuối cùng thuộc về Tình Yêu của Thiên Chúa dành cho loài người, là Tiếng Nói của hạnh phúc, của tương lai. Tin vào Chúa Phục Sinh là tin vào hạnh phúc của nhân loại và kêu gọi mọi người hãy vui lên.

Chúa Thánh Thần là Thần Khí, là Hơi Thở sự Sống mà Chúa Cha, vì yêu thương mà trao lại cho Chúa Giêsu, làm cho Chúa Giêsu trỗi dậy từ cõi chết. Hơi thở ấy, không những Người trao lại cho Chúa Giêsu, mà qua Chúa Giêsu, Người muốn trao ban cho tất cả nhân loại. Đức Giêsu Phục Sinh đầy Thần Khí vẫn được Chúa Cha sai đến với nhân loại chúng ta để ở cùng chúng ta mọi ngày cho đến tận thế. Từ nay mọi sự gặp gỡ với Đức Giêsu đều là gặp gỡ trong Thần Khí, để lãnh nhận Thần Khí, chia sẻ Thần Khí, chia sẻ Sự Sống mà Chúa Cha ban cho Chúa Giêsu.

Chúa Thánh Thần là Quyền Năng, là Sức Mạnh của Thiên Chúa. Thiên Chúa đã thể hiện trọn vẹn Quyền Năng của Người trong biến cố Phục Sinh. Phục Sinh là lúc mà Chúa Thánh Thần hoạt động mạnh mẽ nhất và đã làm cho Chúa Giêsu trỗi dậy. Chúa Thánh Thần là Quyền Năng Phục Sinh, Quyền Năng này đã hoạt động nơi Chúa Giêsu thế nào, thì cũng hoạt động nơi chúng ta như vậy. Chính vì thế mà càng gặp gỡ Đức Kitô Phục Sinh, chúng ta càng có được sức mạnh và quyền năng của Ngài.

Chúa Thánh Thần là Tình Yêu Hiệp Thông mà Chúa Cha trao lại cho Chúa Giêsu trong biến cố Phục sinh, để nối kết Chúa Giêsu lại với Chúa Cha, làm cho Chúa Giêsu nên một với Chúa Cha, cũng được ban cho nhân loại chúng ta, để chúng ta được nối kết lại với Thiên Chúa và nối kết lại với nhau. Chúa Thánh Thần nối kết chúng ta lại với Thiên Chúa bằng cách tháp nhập chúng ta vào Chúa Kitô Phục Sinh, làm cho chúng ta nên một với Chúa Kitô, cho chúng ta sự sống mới của Chúa. Chính Chúa Thánh Thần là Sự Sống mới ấy.

Ngày hôm nay, nhờ Giáo Hội, chúng ta vẫn được gặp Chúa Kitô Phục Sinh mỗi lần bẻ bánh. Hiệp thông khi bẻ bánh không chỉ là tưởng nhớ sự chết và sự sống lại của Chúa Giêsu, mà là thông phần thực sự vào Sự Sống của Ađam Mới, là chia sẻ Thần Khí của Chúa Kitô, là đón nhận Sự Sống mà Chúa Cha ban trong Chúa Kitô, như chính Người mong muốn : Tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào (Ga 10,10).

Mầu Nhiệm Khổ Nạn và Phục Sinh được gọi là Mầu Nhiệm Vượt Qua, vì Chúa Kitô là Chiên Vượt qua của chúng ta, là Chiên Con đã chịu sát tế vì chúng ta, cho chúng ta được cứu thoát. Được gọi là mầu nhiệm vượt qua, nhắc lại biến cố vượt qua biển đỏ của dân Chúa trong Cựu Ước. Đó là biến cố giải phóng ra khỏi đất nô lệ để đi vào đất hứa. Biến cố Vượt Qua là biến cố cứu độ. Trước hết, đó là biến cố của chính Chúa Giêsu, vượt qua thế gian để về cùng Chúa Cha, vượt qua tội lỗi và sự chết để đi vào sự sống. Nhưng đối với Chúa Kitô Phục Sinh, về cùng Chúa Cha cũng là đến với nhân loại cách trọn vẹn, để làm Đấng Emmanuel mọi ngày cho đến tận thế.

Đối với chúng ta, sống mầu nhiệm Vượt Qua, trước hết là để cho Chúa Thánh Thần tháp nhập chúng ta vào Chúa Kitô Khổ Nạn và Phục Sinh, để chúng ta cùng chết với Chúa và sống lại với Người. Được tháp nhập vào với Chúa, chúng ta cùng vượt qua với Chúa. Chúng ta đến với Chúa Cha nhờ Chúa Kitô và trong Chúa Thánh Thần. Cuộc đời kitô hữu chúng ta là một hành trình đi về Nhà Cha. Nhưng đến với Cha cũng là đến với anh chị em, tiếp nối sứ mạng yêu thương và phục vụ của Chúa Giêsu tại trần gian, nơi chúng ta sống và được sai đến.

Bài 7

THÁNH THẦN CỦA CHA VÀ CON

I. THÁNH THẦN, TÌNH YÊU THẦN LINH

Tân ước thường xuyên nối kết hai từ ngữ Thánh Thần và Tình Yêu, mặc dù đây không phải là gia tài của Cựu ước. Tương quan này, tuy không hiển nhiên trong nhiều đoạn Kinh thánh, nhưng chắc chắn có, vì phát xuất từ kinh nghiệm của đời sống Kitô giáo.

Đoạn minh nhiên hơn cả là Rm 5,5 : "Thiên Chúa đã đổ Tình Yêu của Người vào lòng chúng ta nhờ Thánh Thần mà Người ban cho ta". Tuôn đổ là một từ ngữ của Kinh thánh thường được dùng để chỉ ân sủng hay Thánh Thần được ban cho một cách tràn trề. Thánh Thần Thiên Chúa cũng là tình yêu của Thiên Chúa được ban cho chúng ta làm chúng ta không bao giờ phải thất vọng. Sự hiện diện của Thánh Thần bảo đảm ơn cứu độ, mà hiện sủng chỉ là khai ân.

Nhiều đoạn khác, tuy không minh nhiên bằng, nhưng cũng cho thấy rằng Tình Yêu là một sắc thái đặc biệt của Ngôi Vị Thánh Thần. Tín hữu Colossê được Phaolô khen ngợi vì lòng mến của họ trong Thánh Thần (Cl 1,8). Gần như có một sự tương đương ý nghĩa giữa hai thành ngữ "trong Thánh Thần" và "trong Lòng Mến". Các tín hữu sống trong Thánh Thần và trong Lòng Mến, hành động và nên thánh trong Thánh Thần và trong Lòng Mến (Rm 8,4. 14 và Ep 5,2; Rm 5,16 và Ep 1,4). Giáo Hội được xây dựng trong Thánh Thần và trong Lòng Mến (Ep 2,22; 4,16; Cl 2, 2). Giáo Hội nên một với Chúa Kitô nhờ Thánh Thần (Rm 8, 9), là một Thân Mình duy nhất với Ngài (1Cr 12,13-27). Thánh Thần còn là sức mạnh tạo ra sự hiệp thông giữa các Kitô hữu (2Cr 13,13).

Tất cả những gì thuộc lãnh vực bác ái là do Thánh Thần. Thánh Thần không chỉ đối lập với xác thịt như sức mạnh đối ngược với sự yếu đuối, mà còn là Tình Yêu, là sự cởi mở vô hạn đối lập với sự ích kỷ và hận thù (Gl 5,17-23). Qua cái chết vì xác thịt yếu đuối (Rm 8,3), Đức Kitô đã trở nên Thần Khí tác sinh (1Cr 15,45), một hữu thể tự hiến và là nguồn sự sống; Thánh Thần đã làm cho Ngài trở nên như thế. Theo H. Schier, trong Thiên Chúa, Thánh Thần là Sức Mạnh khai mở và tự hiến, là sự Toàn Năng của một tình yêu tràn trề. Thần học gọi Ngài là Ngôi Vị Yêu Thương, là Quyền Năng Chủ Vị.

Nếu nơi Thiên Chúa, Thánh Thần vừa là Hành Động, vừa là Tình Yêu, thì Chúa Cha, khi yêu thương, vì yêu thương, bằng yêu thương, trong yêu thương, sinh ra Chúa Con. Trong Thiên Chúa yêu thương là sinh hạ. Trong Thiên Chúa, có Đấng sinh hạ, Đấng được sinh ra và có hành vi sinh hạ; nói theo kiểu thánh Augustinô, đó là Đấng yêu thương, Đấng được yêu thương và Tình yêu (De Trinitate 8, 14).

Thần học kinh viện cho rằng Chúa Cha sinh ra Chúa Con không bằng con đường tình yêu mà bằng con đường trí tuệ. Điều đó rất xa với Kinh thánh. Nếu muốn nói theo Tân ước, phải nói rằng Đức Kitô là "Con của tình yêu của Thiên Chúa" (Filius Dilectionis, Cl 1,13), là Con được sinh ra trong tình yêu. Chúa Cha là Cha trong Tình Yêu là Chúa Thánh Thần; Chúa Con là Con trong Tình Yêu là Chúa Thánh Thần, là Con trong Cung Lòng Cha (Ga 1,18). Ngài sinh ra và sống trong sự âu yếm của Chúa Cha. Ở đây chúng ta có thể nhắc lại, Thánh Thần không là đầu cũng không là cuối, mà có ở đầu cũng như ở cuối. Ngài là môi sinh tình yêu trong đó mọi sự được hoàn thành.

II. THÁNH THẦN CỦA CHÚA CHA

Nếu Thánh Thần là hành vi sinh hạ, là tình yêu của Thiên Chúa với tư cách là Cha, đương nhiên Thánh Thần tiên vàn phát xuất từ Cha (Ga 15,26). Thành ngữ thông dụng nhất trong Kinh thánh là "Thần Khí của Thiên Chúa". Chữ Thiên Chúa trong Tân ước chỉ Chúa Cha (1Cr 8,6).

Có thể nghĩ rằng Thánh Thần là biểu đạt (caractéristique) của bản tính Thiên Chúa Cha. Chính trong hành vi sinh hạ, nghĩa là trong Thánh Thần mà Chúa Cha là Ngôi thứ nhất, nghĩa là Ngôi Cha. Bản chất của Thiên Chúa Cha là sinh hạ. Nhà thần nhiệm Eckhart cho rằng "khát vọng lớn nhất của Thiên Chúa là sinh hạ". Hữu thể thần linh của Thiên Chúa chỉ được diễn tả trọn vẹn trong khả năng yêu thương vô hạn. Tình yêu vô hạn ấy làm cho Người ra khỏi mình trong Chúa Con. Ngài là Cha tự bản chất, là Cha và là Thiên Chúa, là Thiên Chúa và là Cha. Thánh Thần không tách rời khỏi hữu thể làm Cha của Chúa Cha.

Thánh Thần là hành vi sinh hạ phát xuất từ Chúa Cha không giống như Đấng được sinh ra là Chúa Con. Chúng ta hiểu được một phần nào sự phát xuất của Chúa Thánh Thần. Ngài là hành động, là tình yêu. Hành động thì không bao giờ tách rời khỏi chủ thể hành động. Tình yêu vẫn nằm trong trái tim của người yêu, dù làm cho người ấy ra khỏi chính mình. Trong khi Chúa Con ra khỏi Chúa Cha, đối diện với Ngài như một ngôi vị hoàn toàn khác biệt, và đi đến mức nhập thể trở thành thụ tạo, Thánh Thần phát xuất từ Chúa Cha mà không rời bỏ Ngài, Thánh Thần không bao giờ giống một người con được sinh ra, không bao giờ đối diện với Chúa Cha. Ngài nội tại trong Chúa Cha, là Thần Khí của Thiên Chúa làm cho Chúa Cha là Cha. Ngài cũng không phân biệt với Chúa Cha như linh hồn của một con người phân biệt với con người ấy. Ngài là riêng biệt của Cha, bản chất của Cha, làm cho Chúa Cha là Chúa Cha.

Chúa Cha chỉ có một Con Duy nhất, hoa quả duy nhất của hành vi sinh hạ. Không có ngôi vị nào khác có thể sinh từ Chúa Cha, mà tất cả mầu nhiệm nằm trong sự sinh hạ duy nhất. Nhưng Thánh Thần cũng bởi Chúa Cha. Mặc dù Thánh Thần không phải là Con, toàn diện Chúa Cha có liên hệ tới sự phát xuất của Chúa Thánh Thần, cũng như sự sinh ra của Chúa Con. Chính vì thế mà Thánh Thần ngang bằng với Chúa Cha và Chúa Con, cùng được phụng thờ và tôn vinh với Chúa Cha và Chúa Con. Dù không là Chúa Con, Chúa Thánh Thần phát xuất từ Chúa Cha trong tư cách là Cha, vì ngôi vị của Ngài chính là hành vi sinh hạ. Thiên Chúa Ba Ngôi - Duy Nhất gồm có Chúa Cha và Chúa Con, cùng với vận hành vĩnh cửu giữa Chúa Cha và Chúa Con là Chúa Thánh Thần. Chính vì thế mà Giáo hội Đông phương thích nói "Vinh danh Chúa Cha và Chúa Con trong Chúa Thánh Thần".

Thần học Hy lạp đề cao tư cách khởi nguyên của Chúa Cha, nơi Người mọi sự khởi đầu và hoàn tất. Thánh Thần phát xuất từ Cha, nhưng không thấp hơn Cha, vì chính trong Thánh Thần mà Chúa Cha sinh ra Chúa Con, chính trong Thánh Thần mà Ngài có ngôi vị là Cha. Mọi sự đều bắt nguồn từ Chúa Cha, và không có ngôi vị nào phát xuất từ Chúa Thánh Thần, dù Thánh Thần không thấp hơn Chúa Cha, cũng không cằn cỗi. Trong Đấng Thiên Chúa là nguồn, Chúa Thánh Thần chính là "sự trào vọt ra", là sự phong phú và phì nhiêu của Thiên Chúa. Ngài không phải là đầu, cũng không phải là cuối, nhưng vừa ở đầu, vừa ở cuối. Ngài là vận hành từ Cha qua Con, và do đó, Ngài cũng là Thánh Thần của Chúa Con.

III. THÁNH THẦN CỦA CHA VÀ CON

Thánh Thần Thiên Chúa còn được gọi là Thánh Thần của Chúa Con (Gl 4,6), Thánh Thần của Đức Kitô (Rm 8,9), Thánh Thần của Chúa (2Cr 3,17).

Nếu Thánh Thần là hành vi sinh hạ, là tình yêu trong đó Chúa Con được sinh ra, không thể nói đến sự phát xuất của Chúa Thánh Thần bởi Chúa Cha mà không có liên hệ gì đến Chúa Con. Bất cứ ý kiến nào tách rời sự nhiệm xuất của Chúa Thánh Thần với sự sinh ra của Chúa Con đều là sai lạc.

Thánh Thần thuộc về Chúa Con cũng như thuộc về Chúa Cha. Nếu Chúa Con không sở hữu Thánh Thần như Chúa Cha, thì sự viên mãn thần tính sẽ không đậu lại nơi Ngài, vì Thánh Thần là sự thánh thiện được ngôi vị hóa, là sự toàn năng được ngôi vị hóa, là thần tính được ngôi vị hóa. Nếu không sở hữu viên mãn Thánh Thần, Chúa Con không thể nói "Tất cả những gì của Cha là của Con" (Ga 17,10). Các tín hữu là những người đồng thừa tự với Đức Kitô (Rm 8,17) vì được thông phần Thần Khí của Người (Gl 4,6).

Chúa Con sở hữu Thánh Thần khác với Chúa Cha. Chúa Cha là Nguồn, Chúa Con lãnh nhận, vì Chúa Con được sinh ra trong Thánh Thần. Ngôi Hai là Con, Chúa Con là Thiên Chúa nhờ đón nhận.

Nhưng Chúa Con cũng không lãnh nhận Thánh Thần cách thụ động. Thánh Thần không để cho mình được sở hữu cách thụ động, vì Ngài là hành vi yêu thương thần linh, làm cho Thiên Chúa xuất ra khỏi chính mình. Ngài làm cho Chúa Cha cũng như Chúa Con luôn luôn tự hiến, đó là bản chất thần linh của các Ngài. Chúa Cha là Thiên Chúa nhờ tự hiến cho Con, Chúa Con là Thiên Chúa nhờ hướng về Cha, Cha và Con là Thiên Chúa trong tình yêu hỗ tương là Thánh Thần. Thánh Thần được ví như dòng nước trào ra. Ngài phát xuất từ Cha mà không rời bỏ Cha, từ Con mà không rời bỏ Con, vì Ngài là tình yêu tự hiến giữa hai bên. Nhưng Ngài là như thế tiên vàn nơi Chúa Cha, vì Ngài là tình yêu của Cha, rồi mới nơi Chúa Con như là tình yêu, là Thánh Thần của Con.

Đón nhận quà tặng là để cho Người tặng có thể tặng. Sự đón nhận không thuần túy tự động; đó cũng là một thứ nguyên nhân. Khi hai người yêu nhau, mỗi người làm cho người kia yêu. Khi đón nhận, Chúa Con thông phần vào chính sự sinh ra của mình, sự trào vọt của Thánh Thần. Chúa Cha tự bản chất sinh ra Chúa Con, nhưng cũng là một đáp trả yêu thương cho sự đón nhận của Con. Chúa Con sinh ra và đón nhận sự sinh ra của mình với tư cách là Con và trong tự do. Trong tình yêu vô hạn, không có sự đối chọi giữa tất yếu và tự do.

Đức Giêsu tại thế mạc khải tương quan làm con đối với Chúa Cha. Chúa Cha sinh ra Ngài, nhưng Ngài như đồng tình với sự sinh ra ấy. Con người, các hành vi và lời nói của Người là bởi Cha. Tất cả những gì Cha ban cho Con, thì ban cho Ngài nhờ sinh hạ (Augustinô). Trong sách Tân ước, sự thuận tình của Đức Giêsu đối với Chúa Cha được gọi là vâng phục. Thánh Gioan trình bày sự vâng phục như một nhân đức riêng của Con, biểu đạt tư cách làm Con. Sự vâng phục của Đức Giêsu là thuận tình với tư cách làm Cha của Thiên Chúa, với việc Chúa Cha sinh ra mình, cho tới ngày thuận tình cách vô hạn trong sự vâng phục cho đến chết (Pl 2,8). Đáp lại là việc Chúa Cha sinh ra Ngài cách trọn vẹn trong chính sự Phục Sinh (Cv 13,33). Chúa Cha phục sinh Đức Giêsu trong Thánh Thần, sinh ra Đức Giêsu trong sự viên mãn của vinh quang. Qua cái chết, Đức Giêsu khơi dậy hành vi của quyền năng sinh hạ của Cha là chính Thánh Thần.

Mọi sự đều bởi Cha; Cha phục sinh Đức Kitô, sinh ra Ngài cách viên mãn. Nhưng Chúa Con cũng có vai trò tích cực trong sự Phục sinh : "Sở dĩ Cha yêu mến tôi, là vì tôi hy sinh mạng sống mình để rồi lấy lại" (Ga 10,17). Phần của Chúa Con trong hành vi phục sinh là gì ? Đó là sự đón nhận của người con : trong cái chết, Ngài đồng tình với Cha sinh ra Ngài. Vâng phục cho đến chết Ngài khơi dậy hành vi tôn vinh của Cha (Pl 2,8). Chính Cha ban Thánh Thần trong đó Đức Giêsu Phục sinh; nhưng Đức Giêsu khơi dậy sự ban tặng ấy. Điều này mạc khải một chân lý thẳm sâu là Chúa Con thông phần vào sự nhiệm xuất vĩnh hằng của Thánh Thần với tư cách là Con (Dt 9,14).

Cũng có thể kết luận như trên khi chúng ta dùng phạm trù yêu thương thay cho từ ngữ vâng phục. Tình yêu khơi dậy tình yêu. Theo Ga 14,31 Đức Giêsu yêu mến Chúa Cha, và vì yêu thương, sẵn sàng chịu chết. Chúa Cha là Đấng yêu thương trước (Ga 17,24.26), nhưng tình yêu của Ngài cũng được khơi dậy bởi sự quảng đại của Chúa Giêsu trong cái chết. Thánh Thần Thiên Chúa là tình yêu được Ngôi vị hóa. Trong Ba Ngôi, tình yêu của Chúa Con đối với Chúa Cha là một sự khơi dậy vĩnh hằng. Thánh Thần là tình yêu phát xuất từ Cha, đáp lại sự khơi dậy của Con. Như vậy là Con có phần trong sự nhiệm xuất của Thánh Thần. Khi đón nhận tất cả, Chúa Con để cho Chúa Cha là tất cả, làm Cha sinh ra con trong Thánh Thần.

Thánh Thần của tình yêu sinh hạ là Thánh Thần của Cha và của Con, hiệp nhất với nhau trong sự bất khả phân của một Ngôi vị. Đồng thời Thánh Thần cũng làm nên sự khác biệt không thể giản lược giữa Chúa Cha và Chúa Con. Chỉ có một Thánh Thần duy nhất, nhưng trong Chúa Cha, thì đó là Tình Cha, trong Chúa Con, đó là Tình Con. Cùng một tình yêu duy nhất vừa là cho đi (Chúa Cha), vừa là đón nhận (Chúa Con). Tiên vàn trong Chúa Cha, yêu thương là cho đi chính mình, trong Chúa Con, yêu thương là đón nhận. Nhưng rồi Con lại dâng hiến, và đến lượt Cha đón nhận.

Câu Ga 15,26 hết sức quan trọng để cho chúng ta hiểu mầu nhiệm Ba Ngôi, nhưng thường chưa được khai triển đúng mức : "Khi Đấng Bảo Trợ đến, Đấng mà Thầy sẽ sai đến với anh em từ nơi Chúa Cha, Người là Thần Khí Sự Thật phát xuất từ Chúa Cha ...". Thần học La tinh coi câu này là bằng chứng cho quan điểm "và Con" (Filioque) của họ. Nhưng thần học Hy lạp thì lại cho rằng chỗ nói Chúa Con sai Thánh Thần từ nơi Cha thuộc về bình diện lịch sử cứu độ. Thực ra không thể nào tách rời lịch sử cứu độ (économie) với thần học (théologie) trong Tin Mừng Gioan. Trong Gioan, Đức Giêsu là bộ mặt hữu hình của mầu nhiệm Ngôi Lời, Ngài là Chúa Con nhập thể, Đấng đạt tới chóp đỉnh sự hiến thánh trong mầu nhiệm Vượt Qua, đạt tới sự viên mãn của vinh quang làm Con (Ga 17,5). Trong sự viên mãn ấy, Đức Giêsu vừa là Chúa Con phải được tôn thờ, vừa là Nguồn Suối ban Thánh Thần cho nhân loại (Ga 20,28). Hơi thở của Chúa Cha cũng là hơi thở của Đức Kitô Phục sinh (Ga 20,22).

Trong mầu nhiệm Vượt Qua của Đức Giêsu, Thần học trở nên nhiệm cục, mầu nhiệm vĩnh hằng được hoàn thành cho chúng ta. Trong khi thần học đề cập đến Ba Ngôi tự tại, mầu nhiệm này trở nên "vì chúng ta và để cứu rỗi chúng ta". Trong mầu nhiệm cứu độ, Chúa Cha sinh ra Chúa Con cho chúng ta, Đức Kitô là Con Thiên Chúa cho chúng ta, Chúa Thánh Thần đối với chúng ta là sự sinh hạ thần linh, nhờ đó chúng ta trở nên con cái Thiên Chúa trong Con Duy Nhất của Người.

(Viết theo “L'esprit du Père et du Fils”, Durrwell, Paris 1989)

Bài 8

HOẠT ĐỘNG CỦA CHÚA THÁNH THẦN BAO TRÙM TOÀN THỂ ĐỜI SỐNG GIÁO HỘI

(GLHTCG, số 688)

Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo cho chúng ta biết, Giáo Hội chính là môi trường trong đó chúng ta kinh nghiệm về Chúa Thánh Thần.

1. Nơi các sách mà Chúa Thánh Thần linh hứng

Trong thinh lặng, lắng nghe và đón nhận Lời Chúa, Giáo Hội để cho Chúa Thánh Thần đào tạo, giáo dục, kích thích, vì Ngài ngỏ lời với chúng ta qua các sách Kinh thánh. Trong khi Giáo Hội đón nhận và nuôi dưỡng chúng ta bằng Lời Chúa, Giáo Hội trở nên đồng hình đồng dạng với Đức Kitô là Chúa của mình, và triển nở trong hiệp thông và sự duy nhất của Thánh Thần duy nhất. Chúa Thánh Thần đưa dẫn Giáo Hội là các môn đệ của Chúa Kitô vào trong chân lý viên mãn.

Sách Kinh thánh được Chúa Thánh Thần linh hứng, và phải được lắng nghe trong Chúa Thánh Thần, đòi hỏi chúng ta, với tư cách cá nhân, với tư cách cộng đoàn, Giáo hội địa phương và Giáo hội toàn cầu, phải đọc, phải nghiên cứu, phải suy gẫm, phải chiêm ngắm, phải cầu nguyện với sách Kinh thánh, làm chứng cho Lời Kinh thánh bằng cuộc sống và hoạt động tông đồ.

Hình thái loan báo và lắng nghe Lời Chúa một cách đặc biệt trong Giáo Hội, là phụng vụ Lời Chúa, được coi như thì mạnh của hoạt động Chúa Thánh Thần. Lời ấy được loan báo và giải thích bởi Vị Thầy và Nhà Chú giải thần linh trong Giáo Hội, theo lời hứa của Chúa Giêsu (Ga 16,13). Nhờ Chúa Thánh Thần mà tiếng nói sống động của Tin Mừng vang lên trong Giáo Hội (MK 8) và việc thấu hiểu lời Kinh thánh được tiến bộ dưới sự trợ giúp của Ngài qua việc rao giảng của các mục tử, qua việc học hỏi, việc suy niệm và hiểu biết sâu sắc các thực tại thiêng liêng. Mẫu mực của Giáo Hội lắng nghe Lời Chúa luôn là Đức Maria (Marialis Cultus số 17).

Một văn kiện cô đọng cái nhìn đại kết về vấn đề này như sau : Chúa Thánh Thần hiện diện và được trao ban trong việc loan báo, lắng nghe và chia sẻ Lời Chúa. Loan báo gồm việc đọc công khai lời Kinh thánh và bài giảng dựa vào đó. Chính vì thế mà trước khi đọc Lời Chúa và giảng, nên có một lời khẩn nguyện Chúa Thánh Thần .

Phụng vụ Lời Chúa là không gian mạc khải Thánh Thần, Đấng là tiền hô và loan báo Tin Mừng mầu nhiệm Chúa Kitô.

2. Trong truyền thống, mà các thánh Giáo phụ là những chứng nhân luôn hiện đại

Giáo Hội của các Tông đồ, các thánh tử đạo và các giáo phụ cho tới hôm nay, vẫn là Giáo Hội duy nhất không ngừng đổi mới, đáp ứng với các dấu chỉ thời đại. Trải dài trong lịch sử, Giáo Hội tự diễn tả mình nhiều cách khác nhau, làm thế nào để khuôn mặt Chúa Kitô chiếu sáng nơi chính mình, và Giáo Hội trở nên khả tín đối với nhân loại mọi thời và mọi nền văn hóa. Giáo Hội trở nên Công giáo nhờ trung tín với Chúa Thánh Thần, hay đúng hơn, chính Chúa Thánh Thần làm cho Giáo Hội trở nên Công giáo.

Chính nhờ sự hiệp thông Giáo Hội trải dài trong lịch sử, mà hôm nay chúng ta được kết hiệp với mọi người đã đi trước chúng ta trong đức tin. Sự thánh thiện trong mọi thời và mọi nền văn hóa thuộc về mỗi một người, cũng như sự thánh thiện của mỗi một người thuộc về mọi người. Tất cả chúng ta hoàn toàn hiệp nhất trong Thánh Thần Duy Nhất, trong mầu nhiệm Hiệp thông Ba Ngôi. Đó cũng là sự hiệp thông các thánh.

3. Trong Huấn Quyền của Giáo Hội mà Ngài trợ giúp

Đức Kitô đã yêu cầu chúng ta lắng nghe và đón nhận các Tông đồ và những người kế vị như là đối với chính Ngài. Ngài cũng hứa ban Chúa Thánh Thần cho các vị, để Chúa Thánh Thần khai mở tâm trí các vị ra với toàn thể chân lý. Do đó, Huấn Quyền của Giáo Hội trở thành điểm quy chiếu quyết định để nhận biết ý muốn của Thiên Chúa. Huấn Quyền là sự biện biệt cộng đồng về cách sống, cách làm chứng và truyền đạt Tin Mừng cho mọi thời và mọi nơi.

Giáo Hội soi sáng, giải thích, đưa ra lý lẽ cho đời sống Phúc âm và hoạt động mục vụ của toàn thể Dân Chúa, và nhờ sự trợ giúp của Chúa Thánh Thần, trở thành tiêu chuẩn đức tin, lời chỉ dẫn và mời gọi sống.

4. Trong phụng vụ Bí tích, qua lời và biểu tượng, Chúa Thánh Thần cho chúng ta được hiệp thông với Chúa Kitô

Chúa Thánh Thần bao trùm tất cả phụng vụ của Giáo Hội là công việc thánh hóa và thờ phượng trong Thánh Thần (GH 50,51). Thực vậy, nhờ Đức Kitô, Chúa Cha đổ Thánh Thần xuống trên chúng ta. Chúa Thánh Thần là sự hiệp thông trong chân lý và sự sống, trào vọt từ nguồn suối Ba Ngôi. Ngài là sự đáp lại của đức tin, lời cầu nguyện và việc dâng hy lễ hướng về với Chúa Cha, nhờ Đức Kitô, (trong Chúa Thánh Thần).

Không có sự thánh hóa, nếu không có sự can thiệp của Đấng Chí Thánh và cũng là Đấng Thánh Hóa. Chúng ta phải khám phá ra hoạt động của Ngài trong phụng vụ Thánh Thể và Bí tích, môi trường thánh hóa và hiệp thông trong chân lý và sự sống của Thiên Chúa.

Mọi diễn tả trong phượng tự, việc tuyên xưng đức tin, việc đón nhận Lời, việc ca ngợi, khẩn cầu, thống hối và dâng của lễ, hy tế thiêng liêng tự nguyện gắn bó với thánh ý Thiên Chúa và thi hành thánh ý, chỉ có thể sống và thực hiện trong Chúa Thánh Thần.

Mỗi Bí tích, với tư cách thể hiện các kỳ công của Thiên Chúa, là sự thông ban ân sủng, là hành vi đức tin và phượng tự thể hiện sự viên mãn của Chúa Thánh Thần một cách đặc thù và chuyên biệt.

Phụng vụ diễn tả tương quan phải có giữa Chúa Thánh Thần và các Bí tích bằng lời khẩn nguyện chứa đựng trong các Tiền Tụng hiến thánh hay các công thức Bí tích. Có thể thiết lập một tương quan đặc biệt giữa các yếu tố Bí tích và Thần Khí thánh hóa.

Thánh Thần là ân ban tha tội và là ân sủng; là sức mạnh và là an ủi đối với bệnh nhân trong Bí tích xức dầu. Thần Khí thánh thiện được ban bởi ân sủng và thừa tác vụ phó tế, linh mục và giám mục. Trong Bí tích hôn phối, Ngài là ân ban tình yêu cho đôi bạn.

Bánh Thánh Thể và Rượu Giao Ước mới được liên kết cách đặc biệt với hoạt động của Chúa Thánh Thần, vì chính là Mình và Máu vinh hiển, thiên thánh của Đức Kitô Phục Sinh đầy tràn Thần Khí. Thánh Ephrem có những cách nói rất mạnh dạn về Chúa Thánh Thần và Bí tích Thánh Thể : Trong bánh của Ngài có ẩn giấu Thánh Thần không thể ăn được, trong rượu của Ngài có lửa không thể uống được. Thánh Thần trong bánh, lửa trong rượu, một kỳ diệu cao vời mà môi miệng chúng ta lãnh nhận... Trong bánh và chén có lửa và Thánh Thần.

Việc thông phần hồng ân duy nhất là Chúa Thánh Thần làm cho Giáo Hội trở nên một Thân Mình và một Thần Khí.

5. Trong lời cầu nguyện, Thánh Thần khẩn cầu cho chúng ta

Mọi lời cầu nguyện của Giáo Hội đều thể hiện trong Chúa Thánh Thần và là lời cầu nguyện của Thánh Thần. Sự duy nhất của Giáo Hội trong cầu nguyện là công trình của Chúa Thánh Thần, cùng một Thánh Thần trong Đức Kitô, trong toàn thể Giáo Hội và trong mỗi người chịu Phép rửa. Cùng một Thánh Thần ấy đến trợ giúp sự yếu đuối của chúng ta và cầu bầu cho chúng ta bằng những tiếng kêu khôn tả (Rm 8,26). Nhờ Ngài mà chúng ta có thể kêu lên Abba, Cha ơi (Rm 8,15). Không thể có lời nguyện Kitô mà không có hoạt động của Chúa Thánh Thần, Đấng hiệp nhất Giáo Hội toàn cầu, đưa dẫn Giáo Hội nhờ Chúa Con đến với Chúa Cha (instruction générale sur la liturgie des heures, n.8).

Cầu nguyện là một chiều kích cốt yếu của phụng vụ; thái độ tôn thờ, lắng nghe và đáp trả, cơ cấu chính yếu của đời sống cầu nguyện của Giáo Hội thấm nhuần tất cả phụng vụ Thánh Thể và đạt đến cao điểm trong Kinh Nguyện Thánh Thể, trong đó Thánh Thần rút ra từ trong tâm hồn cầu nguyện của Giáo Hội những cách diễn tả đặc biệt nhất các tâm tình đối thoại con thảo : cảm tạ, hiến dâng, cầu khẩn, kêu cầu. Tất cả đều hoàn thành trong Thần Khí : bài hát thánh ca và sự thinh lặng, lời cầu nguyện của thừa tác viên, lời thưa Amen của Dân Chúa, lời tuyên tín và lời nguyện giáo dân.

Thánh Thần hiện diện trong cả năm phụng vụ, để biểu lộ và truyền thông mầu nhiệm Chúa Kitô. Chúa Thánh Thần là vị Tiền Hô, là chứng nhân huyền nhiệm trong Mùa Vọng, là niềm vui và ánh sáng trong Mùa Giáng Sinh và Hiển Linh, là vị Thầy nội tâm của Mùa Chay, Đấng đưa Đức Kitô và Giáo Hội đến mầu nhiệm Vượt Qua. Chúa Thánh Thần còn là hồng ân vượt qua của Chúa Kitô ; Ngài hiện diện ẩn giấu trong Mùa Thường Niên, Đấng bày tỏ mầu nhiệm của Chúa và Lời của Ngài, chuẩn bị Giáo Hội cho ngày Quang Lâm vinh hiển.

Trong ngày lễ các vị thánh và các thánh tử vì đạo, chúng ta mừng những con người thiêng liêng của Giáo Hội và Thánh Thần là Đấng làm cho họ trở nên thánh thiện, giống hình ảnh của Con Một yêu dấu là Trưởng Tử của Thiên Chúa. Mỗi lễ của Đức Mẹ, chúng ta cũng mừng Đấng Chí Thánh đã làm cho Mẹ trở nên một thụ tạo hoàn toàn mới.

6. Trong các đoàn sủng và các thừa tác vụ xây dựng Giáo Hội

Qua Phép rửa, Thánh Thần làm cho chúng ta trở nên con cái của Thiên Chúa, cộng đoàn huynh đệ, Giáo hội, thông phần cùng một tình yêu duy nhất của Thiên Chúa. Mỗi người đều được mời gọi tái khám phá và sống ơn gọi Phép rửa của chính mình và với những người thân cận trong cương vị làm con Thiên Chúa. Mỗi người được mời gọi sống và cử hành các tương quan yêu thương đối với nhau mà chính Chúa Kitô đã có đối với chúng ta; được mời gọi trở nên, đối với nhau, những người mang đến tình yêu của Thiên Chúa bằng cách chia sẻ cho nhau những của cải thiêng liêng,vật chất và văn hóa.

Chính Ngài là Đấng ban phát các hồng ân khác nhau, các đoàn sủng và các thừa tác vụ, để xây dựng Giáo Hội. Chính Ngài hướng dẫn Giáo Hội hoàn thành sứ mạng.

Chúng ta được mời gọi nhận biết và cử hành các hồng ân khác biệt, các đoàn sủng và các thừa tác vụ diễn tả ân sủng muôn hình vạn trạng của Thánh Thần phục vụ cho sự duy nhất của Chúa Kitô (Ep 4,1-16). Đời sống trong Thánh Thần là chân thật, khi mỗi người và mọi người yêu thương nhau và khuyến khích vừa sự đa dạng, vừa sự duy nhất. Giáo Hội phải là một cộng đồng hiệp thông, chia sẻ cùng một sự sống, trong tình yêu và chân lý (GH 7).

7. Các dấu chỉ và đời sống tông đồ truyền giáo

Giáo Hội được sai đến với thế giới bởi Chúa Kitô và trong Chúa Thánh Thần. Giáo Hội không là mục đích cho chính mình, mà phải phục vụ Nước Thiên Chúa và sự lan rộng của vương quốc ấy trong thế giới. Giáo Hội được mời gọi làm sống lại sự dấn thân tông đồ truyền giáo bắt đầu từ biến cố Ngũ Tuần.

8. Trong chứng từ của các thánh và các vị tử vì đạo, nơi Thánh Thần biểu lộ sự thánh thiện và tiếp tục công việc cứu độ của Ngài.

Trải dài trong lịch sử, các thánh nói với chúng ta rằng sự thánh thiện không phải là một sự kiện riêng tư, nhưng là một sự kiện Giáo Hội : trong thời đại của các ngài, các ngài là những dấu chỉ và dụng cụ cho sự thánh thiện của Thiên Chúa trong Giáo Hội. Sự thánh thiện được sống như một lời mời gọi, như chân trời hoàn thiện và như hành trình hiệp thông Giáo Hội.

Đời sống trong Thánh Thần (cá nhân và cộng đoàn), là linh đạo riêng của Giáo Hội hiệp thông, là cách sống và hoạt động mục vụ. Đó là linh đạo đòi sự khổ chế cộng đồng, sự dấn thân cộng tác vào công việc cứu độ phổ quát và duy nhất của Thiên Chúa nhờ Đức Kitô trong Chúa Thánh Thần.

Bài 9

CHÚA THÁNH THẦN

VÀ NGÔI LỜI TRONG SỨ VỤ TRUYỀN GIÁO CỦA GIÁO HỘI

LỜI MỞ

Tôi xin mở đầu bài thuyết trình bằng những tâm tình này: tôi đến từ Việt Nam, một xứ sở xa xôi với anh chị em ở đây về mặt địa lý, nhưng một chuyến bay khá dài đã đưa tôi đến gần với anh chị em; tôi rất hân hạnh được hiện diện ở đây với anh chị em tại Hội nghị này; và giờ đây tôi cảm nhận thực sự gần gũi với anh chị em về mặt tâm linh. Cám ơn Chúa vì hoàn cảnh xa mà gần này. Cám ơn vì sự hiện diện của anh chị em ở đây, và cám ơn vì anh chị em đã tạo cơ hội cho tôi được hiện diện với anh chị em.

Như chuyến bay dài đã đưa tôi đến gần với anh chị em, tôi muốn gần gũi với anh chị em hơn nữa trong đời sống đức tin bằng một nhịp cầu là chính nội dung bài thuyết trình của tôi, "CHÚA THÁNH THẦN VÀ NGÔI LỜI TRONG SỨ VỤ TRUYỀN GIÁO", để nối kết những suy tư, những thao thức, những kiếm tìm, những xây đắp, những sẻ chia, những chứng tá về niềm tin công giáo của chúng ta giữa lòng xã hội hôm nay.

Với nhịp cầu này, chúng ta cùng đi bằng những bước sau đây: trước hết chúng ta cùng nhau xác tín lại sứ vụ truyền giáo của chúng ta là gì theo các sách Phúc Âm (A); kế đến, chúng ta tìm hiểu vai trò của Chúa Kitô và Chúa Thánh Thần trong sứ vụ truyền giáo của Hội Thánh (B); và sau cùng chúng ta cùng nhau khám phá những nẻo đường của Lời Chúa, qua đó chúng ta thực thi sứ vụ truyền giáo (C).

A. SỨ VỤ TRUYỀN GIÁO LÀ GÌ ?

Để có thể trả lời câu hỏi này cho đúng và đầy đủ, chúng ta phải dựa vào các tác giả Tân Ước, đặc biệt là các Tin Mừng. Mỗi tác giả Tin Mừng đều có quan điểm riêng, nhưng các quan điểm ấy bổ túc cho nhau, cho ta một cái nhìn đa dạng và phong phú về việc truyền giáo.

Trước hết đối với thánh Marcô, sứ vụ truyền giáo là sứ vụ rao giảng Tin Mừng (Mc 16,15), loan báo Chúa Kitô, làm cho mọi người nhận biết Đức Giêsu là Đấng Kitô (Mc 8,29), nhận biết Đức Giêsu chịu đóng đinh là Con Thiên Chúa (Mc 15,39).

Đối với thánh Matthêu, truyền giáo là thiết lập và xây dựng Hội Thánh Chúa Kitô, làm cho nhiều người trở nên môn đệ Chúa Kitô (Mt 28,19-20; 16,18): việc rao giảng Tin Mừng được bổ túc bằng huấn giáo và cử hành Bí tích.

Trong các tác phẩm của thánh Luca, sứ vụ truyền giáo được coi như một chứng tá (Lc 24,48; Cv 1,8), đặc biệt là về sự Phục Sinh của Đức Kitô (Cv 1,22). Tác giả nhấn mạnh "sức biến đổi của Tin Mừng Phục Sinh", ngài kêu gọi hoán cải để được cứu thoát khỏi tội lỗi và sự dữ.

Tin Mừng theo thánh Gioan thì nhấn mạnh việc tiếp nối sứ vụ của Đức Kitô: "Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em" (Ga 20,21). Sứ vụ của các Tông Đồ xây dựng trên sứ vụ của Đức Kitô, và lấy sứ vụ của Đức Kitô làm mẫu mực: "Như Cha đã sai Con đến thế gian, thì Con cũng sai họ đến thế gian" (Ga 17,18).

Mục tiêu của sứ vụ truyền giáo là làm cho nhân loại có được sự sống đời đời: "Sự sống đời đời đó là họ nhận biết Cha, Thiên Chúa duy nhất và chân thật, và nhận biết Đấng Cha đã sai đến, là Giêsu Kitô" (Ga 17,3). Nhân loại được mời gọi hiệp thông với tình yêu giữa Chúa Cha và Chúa Con. Chính vì thế, công việc đầu tiên của truyền giáo là sống yêu thương và hiệp nhất: "Để tất cả nên một, như, lạy Cha, Cha ở trong Con và Con ở trong Cha để họ cũng ở trong Chúng Ta. Như vậy thế gian sẽ tin rằng Cha đã sai Con" (Ga 17,21).

Như vậy người tông đồ truyền giáo trước hết bằng tình yêu và cuộc sống, rồi mới bằng lời nói và việc làm.

B. CHÚA KITÔ VÀ CHÚA THÁNH THẦN TRONG SỨ VỤ TRUYỀN GIÁO CỦA HỘI THÁNH

1. Loan báo Chúa Kitô

Hội Thánh không ngừng loan báo Chúa Kitô. Sứ mạng của Hội Thánh là làm cho nhân loại nhận biết Đức Kitô là Đấng Cứu Thế, là Con Thiên Chúa Hằng Sống. Việc loan báo Chúa Kitô không là công việc thuộc lãnh vực tự nhiên, mà là một công việc siêu nhiên, là công việc của Chúa Thánh Thần. Chính Chúa Thánh Thần chủ động loan báo cùng với Hội Thánh và qua Hội Thánh. Hội Thánh không ngừng công bố Tin Mừng Phục Sinh, không phải với sự hùng biện của khoa ngôn ngữ hay sự khôn ngoan theo kiểu thế gian, nhưng với sức mạnh và khả năng thuyết phục của Thánh Thần: Thánh Thần tác động trên những người loan báo, đồng thời tác động trên những người nghe (Cv 2,37).

2. Xây dựng Hội Thánh

Truyền giáo là ra đi, thâu nạp môn đồ về cho Chúa Kitô, làm cho nhiều người gia nhập Hội Thánh Chúa Kitô nhờ phép Thánh Tẩy, xây dựng Cộng Đồng, Nhiệm Thể Chúa Kitô, xây dựng Hội Thánh trên đá tảng Phêrô, trên nền móng các "Tông Đồ".

Chúa Kitô thiết lập Hội Thánh, nhưng Hội Thánh được xây dựng nhờ Chúa Thánh Thần. Hội Thánh sống bằng sự sống của Chúa Kitô, cũng chính là Thần Khí của Chúa Phục Sinh. Thần Khí ấy được ban qua các Bí tích, đặc biệt là Bí tích Rửa Tội và Thánh Thể.

Việc xây dựng Hội Thánh còn được thực hiện bằng việc huấn giáo, dạy dỗ để đức tin và đời sống đạo của Kitô hữu ngày một sâu sắc hơn. Truyền giáo là dạy sống Tin Mừng (Mt 28,20). Tất cả những điều này, chỉ thực hiện được cùng với Thánh Thần và trong Thánh Thần. Thánh Thần là ánh sáng chiếu soi tâm hồn Kitô hữu, để Kitô hữu mỗi ngày thêm hiểu Chúa Kitô, sống theo giáo huấn Chúa Kitô.

3. Làm chứng cho Chúa Kitô chịu Khổ nạn và Phục Sinh

Truyền giáo là "thông truyền", là chia sẻ cho người khác kinh nghiệm của mình về Đức Giêsu Kitô: kinh nghiệm tiếp xúc với Chúa, kinh nghiệm về tương quan giữa mình với Chúa, kinh nghiệm về hạnh phúc, về sự sống đã nhận lãnh từ Đức Giêsu Kitô Phục Sinh. Sự sống và tình yêu mà ta nhận lãnh từ Đức Kitô Phục Sinh chính là Thánh Thần của Đức Kitô Phục Sinh. Chính vì thế, truyền giáo là chia sẻ kinh nghiệm về Thánh Thần, chia sẻ kinh nghiệm thiêng liêng.

Kinh nghiệm này có thể là kinh nghiệm cá nhân, hay là kinh nghiệm tập thể. Kinh nghiệm cá nhân thường rất giới hạn, nên mỗi người chúng ta nên đưa các dự tòng, tân tòng đến với các Kitô hữu khác, đưa họ vào cộng đồng Hội Thánh, để họ được chia sẻ kho tàng mà Chúa ban cho Hội Thánh (Cv 2, 46-47).

Chứng tá đời sống thường đi đôi với tác động biến đổi của Chúa Thánh Thần.

4. Tiếp nối sứ mạng của Chúa Kitô

Chúng ta loan báo Chúa Kitô, đi thâu nạp môn đồ cho Chúa, chia sẻ sự sống của Chúa cho người khác, không phải do tùy hứng; nhưng đó là một sứ vụ có gốc rễ sâu xa trong lòng mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi.

Như Chúa Cha đã sai Chúa Kitô, Chúa Kitô sai chúng ta, vừa để tiếp nối sứ mạng của Chúa (mạc khải tình yêu của Chúa Cha) vừa để cho nhân loại nhận ra sứ mạng của Chúa, nhận biết Người là Đấng được Chúa Cha sai đến.

Chúng ta chỉ có thể tiếp nối sứ mạng của Chúa Kitô, khi chúng ta hiểu Chúa và yêu Chúa. Chúng ta chỉ có thể hiểu và yêu Chúa nhờ Thánh Thần của Chúa.

Điều sâu thẳm nhất, quan trọng nhất nơi Chúa Cha, cũng như nơi Chúa Kitô là tình yêu hiệp thông giữa các Ngài, là sự Duy Nhất giữa các Ngài. Đức Giêsu muốn cho nhân loại nhận ra sự duy nhất giữa Người và Chúa Cha, nhận ra Người bởi Cha, nhờ đó, được thông phần tình yêu hiệp thông, cũng chính là sự sống của Ba Ngôi Thiên Chúa.

Chính sự hiệp thông giữa các môn đệ của Chúa là dấu chỉ để cho nhân loại nhận ra sự Hiệp Thông giữa Người với Chúa Cha. Kitô hữu không những truyền giáo bằng lời nói và việc làm, mà còn truyền giáo bằng cuộc sống, bằng tình yêu hiệp nhất.

Chúa Thánh Thần chính là tình yêu hiệp thông trong lòng Thiên Chúa Ba Ngôi. Có Chúa Thánh Thần chúng ta có tình yêu hiệp thông ấy. Chúa Thánh Thần nối kết chúng ta, làm cho chúng ta nên một với Chúa Kitô và nên một với nhau.

C. SỨ VỤ TRUYỀN GIÁO CỦA HỘI THÁNH VÀ NHỮNG NẺO ĐƯỜNG CỦA LỜI CHÚA

Chúa Giêsu, khi còn tại thế, đã rời bỏ gia đình, bước đi trên nhiều nẻo đường, rao giảng Tin Mừng Nước Thiên Chúa, gieo hạt giống Lời Chúa khắp nơi. Trước khi về cùng Chúa Cha, Ngài đã trao sứ vụ cho các Thánh Tông Đồ: "Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ." (Mt 28,19).

Ngày hôm nay, ngoài thành ngữ "cánh đồng truyền giáo mênh mông", chúng ta còn có một cách nói khác rất cụ thể và dễ hiểu để nói về sứ vụ loan báo Tin mừng, đó là thành ngữ "những nẻo đường của Thiên Chúa". Nếu đường đời muôn vạn nẻo, thì Lời Chúa phải được gieo vãi trên vạn nẻo đường, vì chính Chúa đã "vào đời".

Các thứ "đường đi" trong thời đại chúng ta

Thời đại của chúng ta có nhiều "đường đi" hơn trước, và có cả một mạng lưới truyền thông bao trùm hoàn vũ (internet). Chúng ta có thể gieo vãi Lời bất cứ ở đâu, bất cứ dưới hình thức nào. Mảnh đất loài người rồi cũng có cơ may đón nhận. Đừng ái ngại, chần chờ, nhưng hãy mạnh dạn làm bất cứ điều có thể làm được để gieo hạt giống Lời Chúa. Mọi nẻo đường của nhân loại đều cần ánh sáng của Lời Chúa. Những con đường càng tăm tối càng cần nhiều ánh sáng hơn.

Có những con đường không ai muốn đi, đó là những con đường đau khổ, bất hạnh, bị bỏ rơi, bị cô đơn, con đường của sự chết, con đường có vẻ như "vắng bóng" Thiên Chúa, nơi Thiên Chúa như hoàn toàn im lặng, không lên tiếng. Chúng ta không được quên những con đường ấy, nhưng cứ hãy dọn những con đường ấy cho Chúa Giêsu, vì Chúa đến trần gian để cứu chuộc những gì đã hư mất.

Ngày hôm nay, lời mời gọi loan báo Tin mừng Chúa Giêsu tỏ ra cấp bách hơn bao giờ hết. Hơn bao giờ hết nhân loại ngày hôm nay đang cần ánh sáng của Chúa, vì họ không thấy hướng đi. Nhiều cá nhân, tập thể, nhiều dân tộc, nhiều nền văn minh đang mất hướng. Ngày hôm nay hơn bao giờ hết Hội Thánh có cơ may thực hiện điều Chúa Giêsu đã yêu cầu: "Điều Thầy nói với anh em lúc đêm hôm, thì hãy nói ra giữa ban ngày; và điều anh em nghe rỉ tai, thì hãy lên mái nhà rao giảng" (Mt 10,27).

Người gieo giống phải không ngừng khám phá những con đường mới, kể cả những con đường sỏi đá, gai góc. Lời Chúa đi qua những con đường ấy để đốt cháy những bụi gai, vạch trần các tội ác. Nhưng quan trọng hơn, Lời Chúa mở ra những con đường hy vọng, để loan báo Tin mừng hy vọng cho đến tận cùng trái đất (Lc 4,18-19).

Hãy mang chứng tá Kitô giáo đi khắp nơi: chứng tá về vương quốc tình yêu và chân lý, chứng tá về ân sủng và sự thánh thiện, về sự sống viên mãn, về công lý và hoà bình.

Con đường của Cái Đẹp

Ngày hôm nay, con đường của "Cái Đẹp" (via pulchritudinis) là một con đường rất quan trọng. Thế giới của chúng ta hôm nay là một thế giới yêu chuộng nghệ thuật. Các nghệ sĩ là những con người có sức tác động trên tâm hồn người khác nhiều hơn cả. Trong một thế giới còn nhiều điều man rợ và xấu xa do tội ác của con người và xã hội, nhiều người khao khát cái đẹp, không chỉ về thể lý, mà cả về tâm linh.

Người Kitô hữu hãy hãnh diện về cái đẹp của Mạc khải, của Tin Mừng mà Hội Thánh chuyển tải. Đừng vì bất cứ thứ mặc cảm nào mà làm hỏng "gia sản Lời Chúa" đã được chuyển giao cho chúng ta trải qua bao nhiêu thế hệ.

Hãy làm cho các nghệ sĩ biết Lời Chúa, yêu mến Lời Chúa, gợi hứng từ Lời Chúa. Đức Thánh cha Gioan Phaolô II, trong thư gởi cho các nghệ sĩ năm 1999, đã nhắc lại thành ngữ của thi hào người Pháp Paul Claudel "Kinh Thánh là một ngữ vựng mênh mông" (vocabulaire immense), và của hoạ sĩ Chagall "Kinh Thánh là một bản đồ các ảnh tượng" (atlas iconographique) (THĐGMTG 12, số 15).

Con đường của Công nghệ thông tin

Ngày 23 tháng 1 năm 2009, Đức Thánh cha Bênêđictô XVI đã mời gọi giới trẻ công giáo đem đức tin vào thế giới "tin học", vì họ hầu như "rất mau lẹ và dễ dàng" sử dụng các phương tiện truyền thông mới. Chủ đề của sứ điệp Đức Thánh cha gởi cho ngày truyền thông thế giới là: "Kỹ thuật mới, tương quan mới. Cổ võ cho một nền văn hoá tôn kính, đối thoại và bằng hữu".

Đức Thánh Cha mời gọi: "Tôi xin anh chị em hãy đem vào nền văn hoá của môi trường truyền thông và kỹ thuật thông tin các giá trị mà trên đó anh chị em xây dựng đời sống"... "giới trẻ cần phải lãnh trách nhiệm phúc âm hoá trong "lục địa kỹ thuật số này"... Xin hãy hăng say loan báo Tin Mừng cho những người đồng thời".

Đức Thánh cha nói đến "một thế giới nối kết" nhờ mạng lưới truyền thông hôm nay. Rất nhiều người được hưởng lợi ích do nền văn hoá truyền thông hôm nay. Các gia đình có thể liên lạc với nhau qua những khoảng cách thật xa. Các sinh viên và các nhà khảo cứu có thể tìm tài liệu, các nguồn dữ liệu và các khám phá khoa học cách nhanh chóng và dễ dàng. Do đó họ có thể cộng tác với nhau từ các địa điểm khác nhau.

Quả đây là một dấu chỉ của thời đại: dấu chỉ Chúa kêu gọi chúng ta nỗ lực tối đa để gieo hạt giống Tin Mừng Tình yêu nối kết mọi người nên một như "Chúa Cha và Chúa Con là Một". Chúng ta được kêu gọi "tạo nên tình thân hữu khắp nơi, không những trên mạng và qua mạng internet, mà ngay cả trong cuộc sống thực tế hằng ngày. Sự ích kỷ đã lỗi thời trong thế giới hôm nay.

Nếu trong hai phần ba thế kỷ trước, Hội Thánh không thể nào có đủ phương tiện truyền thông để loan báo Tin Mừng cho cả thế giới, vì các phương tiện truyền thông nằm trong tay Nhà Nước hay các tập đoàn tư bản giàu có, thì ngày hôm nay, mọi người đều có cơ hội ngang nhau để loan báo điều mình muốn. Hội Thánh đã có cơ may để "rao giảng trên mái nhà" những gì Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ.

Con đường của Gia đình

Còn một con đường rất gần gũi với chúng ta, con đường trên đó ta đang đi, con đường hiện nay vẫn còn bao quanh ta, con đường mà Chúa Giêsu thích sử dụng, vì nó rất thân thương với Người, con đường Người đã trải qua lúc còn tại thế, đã đi hơn 30 năm, đó là con đường gia đình. Vì con đường đó là môi trường quá gần gũi, quá gắn liền với ta, nên nhiều khi ta không còn ý thức rằng đó cũng là nẻo đường quan trọng nhất cần nhận lãnh các hạt giống Tin Mừng.

Thượng hội đồng Giám mục thế giới lần thứ 12 nhắc chúng ta lưu tâm cách dặc biệt tới gia đình: "Gia đình phải đề ra những hình thức và kiểu mẫu giáo dục cầu nguyện, huấn giáo, học hỏi sử dụng Kinh Thánh, để các thanh niên, thiếu nữ, người già và trẻ em (Tv 148,12) lắng nghe, hiểu, chúc tụng và sống Lời Chúa." (Sứ điệp THĐGMTG 12, số 11).

Nền văn minh thiên về duy vật và hưởng thụ của thế giới hôm nay đang làm lung lay tận gốc rễ các giá trị truyền thống của gia đình Việt nam. Thư mục vụ của HĐGMVN năm 2008 về Giáo dục gia đình đã có nhận định như sau: "Xã hội Việt nam nói riêng và thế giới nói chung đang chuyển mình cách mạnh mẽ với những thay đổi tích cực nhưng cũng với những mất mát to lớn, trong đó đáng kể nhất là những giá trị cơ bản liên quan đến sự bền vững của hôn nhân gia đình và tình liên đới giữa các thành viên" (x. Thư mục vụ số 9).

Các gia đình Việt Nam ở nước ngoài cũng không tránh khỏi những khó khăn chung của thế giới hôm nay, nhất là các gia đình trẻ. Sự vững bền của hôn nhân bị thử thách trầm trọng bởi cám dỗ ly dị khi tình yêu vợ chồng bị sứt mẻ và gia đình bị lủng củng. Sự hiếu thảo truyền thống của người Việt Nam bị xói mòn bởi nếp sống tự do của Phương Tây. Ngày hôm nay có lẽ chúng ta cần phải tái phúc âm hoá gia đình, nỗ lực gieo hạt giống Tin Mừng trên mảnh đất gia đình. Tin mừng tình "hiếu thảo" của Chúa Giêsu đối với Chúa Cha. Tin mừng về lòng thương xót của Chúa Cha. Tin mừng về tình huynh đệ giữa các anh chị em trong gia đình. Tin mừng về tình yêu hiệp thông giữa Ba Ngôi Thiên Chúa.

Con đường của Đối thoại Tôn giáo

Trong một thế giới mà sự giao lưu giữa các nền văn hoá và các tôn giáo trở thành sự kiện phổ quát và bình thường, chúng ta không thể nào bỏ qua con đường đối thoại với các tôn giáo. Sứ điệp THĐGMTG 12 nhắc nhở chúng ta: "Cả các Kitô hữu chúng ta, dọc theo những con đường của thế giới, cũng được mời gọi đi vào cuộc đối thoại, trong sự kính trọng, với các thiện nam tín nữ các tôn giáo khác mà không rơi vào lập trường pha trộn các tôn giáo và làm suy giảm căn tính thiêng liêng của mình" (ib. số 14).

Thế giới hôm nay vẫn còn rất nhiều ngộ nhận giữa các tôn giáo. Nhiều nơi sự ngộ nhận đã đưa tới những xung đột đẫm máu, nhất là khi có những thế lực chính trị lợi dụng, nhằm phục vụ cho những ý đồ chính trị phe phái của mình. Vì Tin Mừng Tình yêu của Chúa Giêsu, chúng ta đừng ngại mở ra những con đường đối thoại. Đối thoại sẽ đưa đến sự gặp gỡ nhau trong tình yêu và chân lý. Đối thoại là điều vô cùng cần thiết, và không thể thiếu, là con đường của hy vọng, vì đối thoại là "khai thông", là "mở ra", không bao giờ khép lại. Đó là con đường tốt nhất để gieo hạt giống Lời Chúa.

Sứ điệp của THĐGMTG 12 có những dòng rất tích cực về các tôn giáo: "Kitô hữu cũng tìm thấy một hoà điệu chung với nhiều truyền thống tôn giáo vĩ đại của Phương Đông. Các trước tác thánh của họ dạy ta biết kính trọng sự sống, biết chiêm niệm, biết giữ thinh lặng, biết sống đơn giản, biết từ bỏ mình, như Phật giáo chẳng hạn" (số 15).

Vấn đề đối thoại với các tôn giáo, tuy là một vấn đề rất quan trọng, đã bị nhiều người hiểu sai, và do đó làm chùn bước các sứ giả Tin Mừng. Điều này bó buộc Hội Thánh phải lên tiếng khẳng định lại cách mạnh mẽ và xác quyết sứ mạng loan báo Tin mừng Chúa Kitô của Hội Thánh và của mỗi người Kitô hữu. Đối thoại và loan báo Tin Mừng không đi ngược chiều. Đối thoại là con đường của tình yêu và chân lý, mà loan báo Tin Mừng là gieo hạt giống của Lời tình yêu và chân lý.

Con đường chính trị và kinh tế

Hội Thánh còn được mời gọi gieo hạt giống Tin Mừng vào trong các lãnh vực chính trị và kinh tế. Khủng hoảng kinh tế toàn cầu hiện nay là hậu quả của những hoạt động kinh tế không lành mạnh, vì không nhằm mục đích phục vụ và xây dựng lợi ích chung của xã hội loài người, nhưng chỉ vì lợi ích trước mắt của một số cá nhân muốn làm giàu bằng mọi giá.

Ngày hôm nay hơn bao giờ hết, cần phải có một nền đạo đức học trong kinh tế. Nền đạo đức học này không phải là một mớ lý thuyết trên mây trên gió, xa rời thực tại, nhưng góp phần định hướng nền chính trị và kinh tế nhằm đúng mục tiêu là phục vụ hạnh phúc của con người. Theo thiển ý của tôi, đạo đức của con người góp phần rất lớn làm cho nền kinh tế phát triển vững chắc, vì được xây dựng trên nền tảng là tình yêu và chân lý.

Những ảo ảnh trong kinh tế trước sau gì rồi cũng sụp đổ, và bấy giờ sẽ gây thiệt hại cho rất nhiều người. Việc tạo ra những giá ảo trong thị trường, vì mục đích lợi nhuận cá nhân, là một loại tội ác tương đương với ăn cướp và giết người. Quan niệm khá phổ biến trước đây trên khắp thế giới "thương trường là chiến trường", là một quan niệm phi đạo đức, và ngày hôm nay đã tỏ ra lỗi thời.

Trái lại, thời đại ngày nay là thời đại của "liên đới trong kinh doanh", liên đới trong phát triển. Độc quyền kinh tế cách tuyệt đối sẽ dẫn tới suy sụp, khi không còn ai có khả năng mua các sản phẩm của mình nữa. Ngày nay, thường là khi một quốc gia giàu lên, thì các quốc gia khác được nhờ. Một quốc gia suy sụp, có thể kéo theo sự suy sụp của nhiều quốc gia khác. Hiện nay, học thuyết xã hội công giáo tỏ ra rất ích lợi, góp phần cho việc định hướng chính trị và kinh tế.

Con đường của môi trường sinh thái

Môi trường sinh thái trong thế giới hôm nay cũng rất cần hạt giống Tin Mừng, để được tôn trọng và bảo vệ. Vạn vật đều được Thiên Chúa sáng tạo nhờ Lời và trong Lời, vì thế đều có tiếng nói. Tiếng nói đó yêu cầu chúng ta, không được vì lợi nhuận trước mắt mà huỷ hoại môi sinh, làm cho nhân loại không còn môi trường sống lành mạnh nữa. Cái đẹp của thiên nhiên vẫn là một nguồn hứng bất tận cho các sinh hoạt của con người, kể cả sinh hoạt tâm linh, làm cho con người có thể cất tiếng ca ngợi tình yêu vô bờ bến của Thiên Chúa.

Đấu tranh cho một môi trường sạch đẹp, không những về phương diện vật chất, mà cả về phương diện tâm linh là một ơn gọi rất hợp thời cho mọi Kitô hữu, đặc biệt là những người trẻ. Đấu tranh chống văn hoá đồi trụy, chống phim ảnh khiêu dâm là một trong những nhiệm vụ hàng đầu của chúng ta. Nhiều người theo Hồi giáo sợ Kitô giáo lôi kéo họ vào một nền văn hoá xấu xa bẩn thỉu phơi bầy những gì lẽ ra phải gìn giữ kín đáo. Họ cho rằng thế giới Phương Tây mà họ đồng hoá với Kitô giáo không còn sự "bẽn lẽn" cần thiết cho một môi trường xã hội lành mạnh.

Chân Thiện Mỹ vẫn là các giá trị nòng cốt cần thiết cho một môi trường sạch đẹp cả về vật chất lẫn tinh thần. Hạt giống Tin Mừng mà Hội Thánh gieo vãi sẽ trổ sinh hoa trái Chân Thiện Mỹ trong lòng con người và trong môi trường xã hội. Chính các hạt giống ấy sẽ làm sạch đẹp cho môi trường, sẽ tô điểm cho môi trường trở thành một ngôi nhà tuyệt mỹ cho loài người được kêu gọi trở nên gia đình Thiên Chúa tại trần gian.

Con đường của di dân

Hiện tượng Di Dân cũng là một sự kiện lớn trong thế giới hôm nay. Khắp nơi đều có người di dân, đặc biệt là tại đất nước Hoa Kỳ hiếu khách và tự do này, một đất nước được khai sinh từ nhiều dân tộc trên thế giới, một nơi mà con cháu của những người di dân, dù phát xuất từ đâu, vẫn có thể đạt tới vị trí quyền lực cao nhất.

Vì hoàn cảnh lịch sử, người Việt Nam chúng ta, đã trở thành một dân tộc có số di dân đông đảo, và rải rác khắp năm châu. Hãy coi đó như mệnh trời, như ý muốn của Thiên Chúa. Ngài muốn cho anh chị em trở thành sứ giả Tin mừng bất cứ nơi nào anh chị em đến. Nơi nào anh chị em cũng có thể gieo hạt giống Tin Mừng.

Bất cứ ở đâu, anh chị em cũng được hưởng nhờ những thành quả chung của xã hội tại đó, và vì thế anh chị em có nghĩa vụ góp phần xây dựng xã hội và Hội Thánh nơi mình sống và sinh hoạt. Sự góp phần lớn nhất của một Kitô hữu với quốc gia nơi mình được đón nhận là trở nên sứ giả Tin mừng Tình yêu và Chân lý tại đó.

Sứ điệp của Đức Thánh Cha Biển Đức XVI, nhân ngày thế giới Di Dân năm 2009, đã xem Thánh Phaolô vừa như một "Di Dân", vừa là "một Tông đồ của chư dân". Thánh Phaolô đã thực hiện một cách xuất sắc sứ mạng rao giảng Tin Mừng và vai trò trung gian giữa các nền văn hóa với Tin Mừng. Ngài quả thật là một mẫu mực tuyệt vời cho anh chị em là những người di dân.

Các cá nhân cũng như cộng đoàn Kitô hữu Việt Nam hãy mặc lấy cùng một lòng nhiệt thành tông đồ như thánh Phaolô, trong khi loan truyền cho mọi người về tình yêu của Thiên Chúa (Rm 8,15-16; Gl 4,6), chinh phục nhiều người hơn nữa cho Đức Kitô (1Cr 9,22). Hãy trở nên mọi sự cho mọi người, hầu có thể bằng mọi cách cứu vớt được một số (x. ibid.). Hãy là "men trong bột", hãy là "muối đất" cho môi trường anh chị em đang sống, cho những nơi anh chị em đi đến.

LỜI KẾT

Sứ vụ rao giảng Tin Mừng, nói cách ngắn gọn, là "truyền thông" Tin Mừng Tình yêu và Chân lý của Đức Kitô cho con người, là làm sao "nối kết" con người với Thiên Chúa, và chúng ta thực hiện công việc đó trong sức mạnh của Chúa Thánh Thần. Lời của thánh Phaolô, vị sứ giả xuất sắc của việc loan báo Tin Mừng, vẫn hết sức thiết thực cho thời đại chúng ta: "Thế nhưng làm sao họ kêu cầu Đấng họ không tin? Làm sao họ tin Đấng họ không được nghe? Làm sao mà nghe, nếu không có ai rao giảng? Làm sao mà rao giảng, nếu không được sai đi?... Ấy vậy, có đức tin là nhờ nghe giảng, mà nghe giảng là nghe công bố Lời Đức Kitô" (Rm 10,14-17).

Với Bí tích Rửa tội đã lãnh nhận, tất cả chúng ta, giám mục, linh mục, tu sĩ và giáo dân, đều thông phần vào sứ vụ loan báo Tin Mừng Tình yêu và Chân lý của Đức Kitô, trên những nẻo đường khác nhau của cuộc đời mỗi người chúng ta. Điều cần thiết và quan trọng là làm sao cho Tin Mừng được vang lên khắp nơi, đến tận cõi bí ẩn của tâm hồn mỗi kiếp người.

Như thế, công cuộc loan báo Tin Mừng Tình yêu và Chân lý của Đức Kitô khởi sự trước hết nơi mỗi người chúng ta, nghĩa là sứ giả loan báo Tin Mừng phải biết để cho con người và cuộc đời mình được Tin Mừng biến đổi trong quyền năng của Chúa Thánh Thần. Sức mạnh của lời loan báo của chúng ta chỉ có thể có được khi chúng ta biết để cho mình được loan báo bởi Lời. Chỉ những ai được ban tặng một đức tin công giáo tinh tuyền, trưởng thành và thuyết phục mới có nhiều cơ may dấn thân cho công cuộc loan báo Tin Mừng đích thực. Chỉ những Kitô hữu biết chìm sâu trong mầu nhiệm cứu độ của Đức Kitô và hạnh phúc trong hành trình đức tin của cuộc đời mình giữa lòng Hội Thánh mới có nhiều cơ may dấn thân hiệu quả và không cực đoan trong công cuộc loan báo Tin Mừng. Và như thế, chỉ những sứ giả biết say mê tình Chúa và thấm đẫm tình người mới có khả năng "nối kết" con người với Thiên Chúa.

+ Phaolô Bùi Văn Đọc

Giám mục Giáo phận Mỹ Tho

Chủ tịch Uỷ ban Giáo lý Đức tin của HĐGMVN

 


Mục Lục Năm Đức Tin