Gợi ý mục vụ năm 2017:

CHUẨN BỊ CHO NGƯỜI TRẺ BƯỚC VÀO ĐỜI SỐNG HÔN NHÂN

Đức Giáo hoàng và các Nghị phụ Thượng Hội Đồng Giám mục khuyến nghị các cộng đoàn Kitô hữu, đặc biệt tại các giáo xứ và giáo phận: “Thực tại xã hội phức tạp và những thách đố mà ngày nay các gia đình đang phải đối diện đòi hỏi toàn thể cộng đoàn Kitô hữu dấn thân hơn nữa trong công việc chuẩn bị cho các đôi bạn sắp kết hôn”[1]. “Tôi mời gọi các cộng đoàn Kitô hữu hãy nhận biết rằng việc đồng hành với những người đính hôn trong hành trình tình yêu của họ là một việc thiện ích cho chính họ”[2]. Các đức Giám mục Việt Nam, cũng theo hướng mục vụ chung quan tâm đến gia đình, nhấn mạnh sự quan trọng của công tác chuẩn bị hôn nhân cho những người trẻ, đặc biệt trong năm 2017: “Kết hôn là một quyết định rất quan trọng, vì thế cần được chuẩn bị chu đáo hết sức có thể. Trong thực tế ngày nay, một số người trẻ chỉ quan tâm đến việc tổ chức lễ cưới thật lớn, mà không hiểu biết đầy đủ về trách nhiệm trong đời sống hôn nhân. Một số khác, vì vất vả với cuộc mưu sinh, ít có thời giờ để chuẩn bị kỹ lưỡng cho đời sống hôn nhân họ sắp bước vào. Vì thế, cần khuyến khích người trẻ tham dự những lớp chuẩn bị hôn nhân, đồng thời các giáo xứ phải tổ chức chương trình cho chu đáo”[3].

Để giúp các cộng đoàn chuẩn bị cho các bạn trẻ bước vào hôn nhân, đặc biệt cho các gia đình, vì “thực ra, mỗi người đều chuẩn bị cho cuộc hôn nhân ngay từ lúc sinh ra. […] những người được chuẩn bị kết hôn tốt nhất là những người đã học được từ chính cha mẹ mình thế nào là một hôn nhân Kitô giáo”[4], chúng tôi gợi lại một số chủ đề huấn giáo cơ bản cho Hôn nhân, trải ra mỗi tháng trong năm mục vụ 2017.

CÙNG NHAU BƯỚC TỚI

Mục đích:  để nhận biết thời kì đính hôn, thời gian chuẩn bị hôn phối, là thời gian của ân sủng và tăng trưởng để sống có trách nhiệm.

1. Đính hôn: thời gian của tăng trưởng

Xưa nay chúng ta vẫn biết đây là thời kì đôi bạn sống trong niềm hân hoan và với cả những khó khăn, để hiểu biết nhau sâu đậm hơn và với cả những hiểu lầm, khó hiểu về nhau. Nếu thời kì này được sống cách nghiêm túc và trưởng thành, đó sẽ là thời gian thuận lợi cho đôi bạn đối diện và đối thoại với nhau, cùng tiến tới trên hành trình tăng trưởng nhằm xây dựng quan hệ lứa đôi.

2. Đính hôn: thời gian của trách nhiệm

Thời đính hôn được xem như là thời gian của trách nhiệm. Thật vậy, trong viễn cảnh của ơn gọi, đây là thời gian thuận tiện để làm sáng tỏ hơn lần đầu tiên ơn gọi cá nhân đi đến kết hôn với người bạn của mình. Đây là một quyết định tạo khoảng không gian để kiểm nghiệm sau đó hướng tới lời ưng thuận dứt khoát mà hai người sẽ tuyên bố trong ngày cử hành hôn phối. Trách nhiệm của đôi bạn đính hôn được biểu lộ qua việc xây dựng mối quan hệ của họ ngày càng bền chặt, nhưng cũng đòi hỏi phải nuôi dưỡng và củng cố mối quan hệ thời kì này bằng một tình yêu thanh khiết.

Hôn nhân là một ơn gọi (x. 1Cr 7,7.17), là tiếng Chúa kêu gọi mỗi người theo mỗi cách. Nó được ghi khắc trong ơn gọi bẩm sinh và nền tảng của mỗi người hướng đến tình yêu. Đó là ơn gọi bởi vì ở nguồn cội của nó là một hành động vĩnh cửu tiền định cho ta nên giống hình ảnh của Chúa Giêsu: Thiên Chúa đã yêu dấu và quí mến tưởng nghĩ đến chúng ta như là hình ảnh Con của Ngài theo ơn huệ và đặc sủng tiêu biểu của đời đôi bạn. Chúa Thánh Thần hoạt động trong mầu nhiệm ơn gọi hôn nhân này làm sao để hai người được nên đồng hình đồng dạng với Đức Kitô theo đặc sủng tình yêu phu thê. Tất cả những điều này được dần dần tỏ lộ ra trong thời gian, cách riêng trong thời kì đính hôn, chúng còn được hiểu và sống như là thời gian để chứng nghiệm ơn gọi này. Toàn bộ cuộc hành trình rồi sẽ đi tới lúc hai người tuyên bố long trọng và đóng dấu ấn dứt khoát trong cử hành bí tích hôn phối và đòi hỏi phải được sống trong cuộc sống hôn nhân và gia đình mỗi ngày.

3. Đính hôn: thời gian của ân sủng

Thời đính hôn chính là thời gian để khám phá để rồi sống những điều ấy. Như thế, đây là thời gian của ân sủng: một ơn huệ Thiên Chúa ban cho các người trẻ, nam cũng như nữ. Với ơn ấy, các bạn trẻ có khả năng làm triển nở tình yêu của họ đến mức trưởng thành, họ học tập nhìn và sống tình yêu ấy như một sự thông dự vào tình yêu của Đức Kitô bằng cách học hướng đến chính lí tưởng yêu thương ấy.

Thời đính hôn, theo viễn tượng ấy là thời gian của tăng trưởng trong đức tin, cầu nguyện, tham dự vào đời sống phụng vụ của Hội thánh…

4. Một hành trình chuẩn bị quan trọng

Cộng đoàn Kitô hữu cảm thấy vui mừng và có trách nhiệm giúp đỡ các đôi bạn sống thời kì đính hôn này và tạo cơ hội ưu tiên cho việc suy nghĩ kĩ lưỡng tất cả những điều này. Chính vì yêu mến và quí trọng những ai muốn kết hôn và kết hôn trong Hội thánh, cộng đoàn Kitô hữu không thể chấp nhận những người sắp chọn đời sống hôn nhân mà lại không được chuẩn bị cho thích đáng.

5. Đề nghị một hành trình

Được soi sáng bởi tông huấn Familiaris Consortio (1981) và tông huấn về Gia đình mới nhất Amoris Laetitia (Niềm Vui của Tình Yêu) (2016), chúng tôi gợi lên những đề tài để thảo luận, học và sống cho hành trình chuẩn bị này. Hành trình chuẩn bị hôn nhân cho đôi bạn diễn ra tại các buổi gặp gỡ huấn giáo như những nhịp mạnh, thảo luận về một số chủ đề căn bản được dự liệu như sau:

1.   Ý nghĩa và giá trị của tình yêu và tính dục: Chúng ta yêu nhau

2.   Tình yêu phu thê là đặc thù của hôn nhân: … chúng mình kết hôn nhé

3.   Hôn nhân Kitô giáo là một bí tích:  bằng một bí tích hôn phối cử hành

4.   Được cử hành và sống trong Chúa Kitô và trong Hội thánh: bởi những Kitô hữu.

5.   Hôn nhân từ góc nhìn tâm linh: Được kêu gọi nên thánh

6.   Và từ góc nhìn luân lí, nhấn mạnh minh nhiên đến sự thủy chung, bất khả phân li, toàn thể đời sống: chúng ta sẽ nên một xương một thịt

7.   Phong nhiêu, cụ thể với đề tài sinh sản có trách nhiệm: và chúng mình sẽ sinh con

8.   Gia đình, một thực tại sinh ra từ hôn nhân, quan tâm đặc biệt đến việc tham dự vào đời sống và sứ mạng của Hội thánh: Cùng nhau tạo lập một gia đình, “Hội thánh tại gia”;

9.   Và quan tâm đến việc tham gia phát triển xã hội: trong xã hội.

Nội dung toàn thể các chủ đề cần được đào sâu có thể cô đọng lại trong một công thức tổng hợp như sau:

Chúng ta yêu nhau / nhiều để rồi đi đến kết hôn / bằng một bí tích hôn phối cử hành bởi những Kitô hữu.

Được kêu gọi nên thánh / chúng ta sẽ nên một xương một thịt / mở ngõ đón nhận sự sống.

Chúng ta cùng nhau tạo lập một gia đình / “Hội thánh tại gia” / trong xã hội.



 

Chuẩn bị hôn nhân theo Tông huấn AMORIS LAETITIA

Đức Giáo hoàng Phanxicô nhắn nhủ:

«Thực tại xã hội phức tạp và những thách đố mà ngày nay các gia đình đang phải đối diện đòi hỏi toàn thể cộng đoàn Kitô hữu dấn thân hơn nữa trong việc chuẩn bị cho các đôi bạn sắp kết hôn» (206).

«Tôi mời gọi các cộng đoàn Kitô hữu hãy nhận biết rằng việc đồng hành với những người đính hôn trong hành trình tình yêu của họ là một việc thiện ích cho chính họ. Như các Giám mục Ý đã nói rất đúng rằng những người kết hôn, đối với cộng đoàn Kitô hữu, là “một nguồn tài nguyên quí giá vì, trong khi chân thành dấn thân lớn lên trong tình yêu và tự hiến cho nhau, họ có thể góp phần đổi mới chính tấm áo dệt nên toàn bộ thân thể Hội thánh» (207).

I. MỤC TIÊU

Của các chương trình Chuẩn bị Hôn nhân là để giúp các đôi bạn đính hôn:

1.   khám phá giá trị và sự phong phú của hôn nhân (205);

2.   nhận ra được sự hấp dẫn của một kết hợp trọn vẹn, một kết hợp nâng cao và kiện toàn chiều kích xã hội của cuộc sống, mang lại cho tính dục ý nghĩa cao trọng nhất của nó, và đồng thời cổ võ thiện ích của con cái và tạo cho chúng hoàn cảnh tốt nhất để được trưởng thành và giáo dục (205).

3.   Mỗi người học cách yêu thương con người cụ thể kia, con người mà người đó muốn chia sẻ cả cuộc đời (208).

4.   Có khả năng cắt đứt quan hệ yêu đương nếu thấy trước nguy cơ hôn nhân thất bại. Giúp họ nhận biêt những vấn đề và rủi ro có thể có. Họ cần trao đổi với nhau và giúp họ “bày tỏ những gì mỗi người mong đợi nơi cuộc hôn nhân sắp tới, hiểu thế nào về tình yêu và sự cam kết, mong muốn gì ở nhau, muốn cùng nhau xây dựng một lối sống chung như thế nào. Những cuộc thảo luận như thế có thể giúp họ thấy trong thực tế họ có rất ít các điểm chung, và thấy rằng sự hấp dẫn nhau thôi sẽ không đủ để kết hợp với nhau. Không có gì bấp bênh, mong manh và bất ngờ cho bằng sự ham muốn, và chúng ta không bao giờ nên khuyến khích một quyết định kết hôn nếu họ không tìm thấy những lí do sâu xa khác khả dĩ bảo đảm giao ước ấy là thật sự và bền vững (209).

5.   «Trong bất kì trường hợp nào, nếu người này nhận ra rõ ràng các điểm yếu của người kia, thì người ấy cần tin tưởng cách thực tế vào khả năng có thể giúp người kia phát triển điểm tốt nhất của bản thân họ để cân bằng với đối trọng là những khuyết điểm của họ, với mục đích kiên quyết là thăng tiến con người. Điều đó hàm ý chấp nhận với cả quyết tâm khả năng phải đương đầu trước một vài hi sinh từ bỏ, những lúc gian nan và tình huống xung đột, và quyết tâm vững vàng sẵn sàng cho việc này. Phải nhận ra được các dấu hiệu cảnh báo nguy cơ có thể có về mối quan hệ, để trước khi kết hôn họ tìm thấy phương thế giúp đối mặt với chúng cách thành công. Thật đáng tiếc, nhiều người đến ngày thành hôn mà vẫn chưa biết nhau. Họ chỉ vui chơi với nhau, đã có những kinh nghiệm với nhau, nhưng chưa đối đầu trước thách đố thể hiện chính mình và học biết người kia thực sự là ai» (210).

6.   Hiểu l cưới không phải là đoạn kết, hôn nhân là hành trình kéo dài suốt đời với khả năng đương đầu với mọi thử thách gian nan (211).

II. NHỮNG ĐIỂM NHẤN THIẾT YẾU CỦA NỘI DUNG CHƯƠNG TRÌNH

1.   Chương trình Chuẩn bị Hôn nhân cần lưu ý đến “tầm quan trọng của các nhân đức”, đặc biệt là nhân đức khiết tịnh của vợ chồng, là điều “rất quan trọng đối với sự phát triển đích thật của tình yêu giữa hai người”.

2.   “Nhấn mạnh đến chứng tá của chính các gia đình”.

3.   “Gắn việc chuẩn bị hôn nhân vào tiến trình khai tâm Kitô giáo, cho thấy mối liên kết giữa hôn nhân, Thánh tẩy và các bí tích khác”.

4.   “Giúp đôi bạn có một kinh nghiệm thật sự tham gia vào đời sống của Hội thánh”

5.   Giới thiệu đầy đủ các khía cạnh khác nhau của đời sống gia đình”.

III. PHƯƠNG PHÁP

1.   Có nhiều cách thức hợp pháp để tổ chức việc chuẩn bị gần cho hôn nhân, và mỗi Hội thánh địa phương sẽ phân định thế nào cách tốt nhất, nhờ bảo đảm một sự huấn luyện phù hợp đồng thời không làm cho các bạn trẻ xa rời bí tích (207).

2.   Không cần phải truyền đạt cho họ toàn bộ Giáo lí, cũng không đưa ra cho họ quá nhiều chủ đề. Thật vậy, cả trong trường hợp này, quả đúng là “không phải biết nhiều mà làm no thỏa linh hồn, nhưng là cảm và nếm thực tại trong tâm hồn”[5] (207).

3.   Cần quan tâm đến chất lượng hơn là số lượng, và phải dành ưu tiên – cùng với việc loan báo Tin mừng kerygma cách mới mẻ – cho nội dung, nếu được truyền đạt cách hấp dẫn và sâu sắc, sẽ giúp họ dấn thân vào hành trình trọn cuộc đời “với cả trái tim và lòng quảng đại”[6]. Điều quan trọng là “con đường khai tâm” vào Bí tích Hôn nhân khả dĩ cung cấp cho họ những yếu tố cần thiết để có thể lãnh nhận bí tích ấy với những điều kiện tốt nhất và khởi đầu cuộc sống gia đình một cách vững chắc (207).

4.   có những chương trình thực tế, những lời khuyên được đem ra áp dụng, các chiến lược rút ra từ kinh nghiệm, hướng dẫn tâm lí. Tất cả những điều này làm nên một đường lối sư phạm của tình yêu không thể bỏ qua sự nhạy cảm hiện nay của người trẻ, để có thể động viên họ từ bên trong. Đồng thời, trong khi chuẩn bị cho những người đính hôn, chúng ta cần chỉ cho họ những nơi chốn và con người, những nhà tham vấn hoặc những gia đình sẵn sàng giúp đỡ, để họ có thể chạy đến tìm kiếm sự trợ giúp khi gặp khó khăn. Nhưng cũng không bao giờ được quên đề nghị họ đến với bí tích Hòa Giải, giúp họ đem những tội lỗi và những sai lầm trong quá khứ và trong chính mối quan hệ của họ, đặt dưới tác động của lòng thương xót tha thứ của Thiên Chúa và của quyền năng chữa lành của bí tích (211).

VỀ VIỆC CHUẨN BỊ HÔN LỄ

Giáo huấn của Amoris Laetitia:

212. Về việc chuẩn bị gần cho hôn nhân người ta có xu hướng tập trung vào những thiệp mời, trang phục, lễ lạc và vô số những chi tiết vốn hao tốn biết bao về ngân sách cũng như sức lực và niềm vui. Các đôi bạn hầu như đều bị rã rời và kiệt sức trong ngày hôn lễ, thay vì dành nguồn sinh lực tốt nhất để chuẩn bị cho mình như là cặp uyên ương cùng sánh bước vào một cuộc hành trình lớn. Não trạng này cũng được gặp nơi một số đôi bạn sống chung mà không bao giờ đi đến hôn nhân, vì nghĩ rằng tổ chức một lễ cưới tốn kém quá nhiều, thay vì họ dành ưu tiên tình yêu cho nhau và hợp thức hóa tình yêu ấy trước những người khác. Các bạn đính hôn thân mến, các con hãy can đảm (làm) khác với người ta, đừng để mình bị xã hội tiêu thụ vốn thích sự hào nhoáng bên ngoài nuốt chửng các con. Điều quan trọng là tình yêu gắn kết các con nên một, được củng cố và thánh hóa nhờ ân sủng. Các con có thể chọn việc tổ chức hôn lễ một cách đơn sơ và giản dị, đặt tình yêu lên trên tất cả. Các tác viên mục vụ và cả cộng đoàn có thể trợ giúp để sự ưu tiên này trở thành qui chuẩn chứ không phải là biệt lệ.

213. Trong việc chuẩn bị ngay trước lễ cưới, điều quan trọng là khai sáng giúp cho đôi bạn hiểu rõ ý nghĩa của từng cử chỉ để họ có thể sống việc cử hành phụng vụ cách sâu xa nhất. Chúng ta nên nhớ rằng, trong trường hợp của hai người đã được rửa tội, sự cam kết trọng đại như việc bày tỏ lời ưng thuận kết hôn, và sự kết hợp thân xác của hai người làm hôn nhân nên hoàn hợp chỉ có thể được giải thích như là những dấu chỉ tình yêu của Con Thiên Chúa làm người kết hợp với Hội thánh trong giao ước tình yêu. Nơi những người đã được rửa tội, lời nói và cử chỉ được chuyển thành một ngôn ngữ diễn tả đức tin. Thân xác, với những ý nghĩa mà Thiên Chúa muốn đưa vào đó trong khi tạo dựng, “được biến đổi thành ngôn ngữ của các thừa tác viên bí tích, họ ý thức rằng trong giao ước hôn nhân mầu nhiệm được biểu lộ và thực hiện”[7].

214. Đôi khi những người đính hôn không nhận thức được tầm quan trọng về mặt thần học và linh đạo của những lời ưng thuận, những lời vốn làm sáng tỏ ý nghĩa của mọi hành động tiếp theo sau. Cần phải nói rõ rằng những lời ấy không thể chỉ giản lược trong hiện tại; chúng hàm chứa toàn thể gồm cả tương lai: “cho đến khi cái chết chia lìa các con”. Ý nghĩa của sự ưng thuận cho thấy rằng “tự do và trung thành chẳng những không đối nghịch, mà còn hỗ trợ lẫn nhau, ngay cả trong tương quan liên vị cũng như trong những tương quan xã hội. Thật vậy, trong nền văn minh của truyền thông toàn cầu, chúng ta hãy nghĩ đến những thiệt hại gây ra bởi sự lạm phát của lời hứa hưa hoàn thành [...]. Tôn trọng lời nói, trung thành với lời hứa, là điều người ta không thể mua hay bán. Chúng không thể bị áp đặt bằng vũ lực, nhưng cũng không thể giữ được lời mà không có hi sinh”[8].

215. Các Giám mục Kenya đã nhận xét rằng “nhiều đôi vợ chồng tương lai vì quá tập trung vào ngày cưới mà quên đi họ đang phải chuẩn bị cho một sự dấn thân kéo dài suốt cả cuộc đời”[9]. Cần giúp cho họ hiểu rằng bí tích không chỉ là một khoảnh khắc để rồi sau đó lùi vào quá khứ và thành những kỉ niệm, bởi vì bí tích còn ảnh hưởng thường xuyên trên toàn bộ cuộc sống hôn nhân[10]. Ý nghĩa truyền sinh của tính dục, ngôn ngữ của thân xác và những cử chỉ của tình yêu bày tỏ trong lịch sử của một đôi vợ chồng, trở thành một “tiếp nối không gián đoạn của ngôn ngữ phụng vụ” và “theo một nghĩa nào đó, đời sống vợ chồng trở thành phụng vụ”[11].

216. Đôi bạn cũng có thể suy niệm các bài đọc Thánh Kinh, và làm phong phú thêm hiểu biết về ý nghĩa của những chiếc nhẫn cưới mà hai người trao cho nhau, cũng như những dấu chỉ khác trong nghi thức. Nhưng thật không tốt nếu đôi bạn đến với lễ cưới mà chưa cùng cầu nguyện với nhau, và cho nhau, cầu xin Chúa giúp để mình được sống trung thành và quảng đại, cùng nhau xin Chúa cho biết Ngài chờ đợi gì nơi mình, và dâng hiến tình yêu của mình cho Đức Trinh Nữ Maria. Những ai đồng hành với đôi bạn trong khi chuẩn bị hôn nhân nên hướng dẫn để họ biết sống những giờ phút cầu nguyện này vì là điều rất tốt cho họ. Phụng vụ lễ cưới là một sự kiện độc đáo, là nghi lễ được sống vừa trong bối cảnh gia đình vừa xã hội. Một trong những dấu lạ đầu tiên mà Chúa Giêsu đã làm tại tiệc cưới Cana: rượu ngon của phép lạ của Chúa, làm cho một gia đình mới khai sinh thêm niềm vui, là rượu mới của Giao ước của Đức Kitô với con người, nam và nữ, của mọi thời đại. [...] Trong dịp này vị chủ tế thường có cơ hội ngỏ lời với một cộng đoàn gồm cả những người vốn ít tham dự vào đời sống Hội thánh, hoặc những người thuộc một giáo hội Kitô hoặc một cộng đoàn tôn giáo khác. Đây là một cơ hội quí giá để loan báo Tin mừng của Đức Kitô.

 


 

 

Gặp gỡ I:

CHÚNG TA YÊU NHAU

Mục đích:

Trước tình hình người ta có những quan niệm rất khác nhau về hai chữ “tình yêu”, những buổi gặp gỡ hội thảo về chủ đề này nhằm giúp các bạn trẻ nhận ra những ý nghĩa khác nhau mà người ta thường gán cho hai chữ đó. Từ đó, họ phân biệt được ý nghĩa thật của tình yêu đôi lứa theo cái nhìn Kitô giáo so với các quan niệm thông thường khác: tình yêu ấy bắt nguồn từ Tình yêu Thiên Chúa và đặt nền tảng trên tình yêu đó; trong cuộc sống hằng ngày tình yêu ấy bị đe dọa bởi những lầm lỗi và tội lỗi của con người; tình yêu ấy cần được không ngừng vun trồng và làm thăng tiến.

Một khi, nhận ra và cảm nếm được ý nghĩa đích thật của tình yêu  vốn tự nó hướng tới một dự phóng chung trong đời hôn nhân, đôi bạn sẽ thấp thoáng thấy được “Niềm vui của Tình yêu” (Amoris Laetitia) trong đời sống gia đình mình đang hướng tới.

Cầu nguyện và lắng nghe Lời Chúa:

Lời dẫn:

Thiên Chúa là tình yêu. Người đã tạo dựng người nam và người nữ theo hình ảnh và giống Ngài, cho họ tham dự vào khả năng yêu thương của Ngài. Chính Ngài đã ban anh chị cho nhau, đã cho anh chị được gặp nhau và đồng hành với anh chị để tình yêu của anh chị mỗi ngày trở nên đích thật hơn: một tình yêu dấn thân trọn vẹn con người mình, như một tặng phẩm dâng hiến cho người kia.

Lời Chúa: trích trong sách Sáng thế

ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa phán: "Con người ở một mình thì không tốt. Ta sẽ làm cho nó một trợ tá tương xứng với nó. ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa lấy đất nặn ra mọi dã thú, mọi chim trời, và dẫn đến với con người, xem con người gọi chúng là gì: hễ con người gọi mỗi sinh vật là gì, thì tên nó sẽ là thế. Con người đặt tên cho mọi súc vật, mọi chim trời và mọi dã thú, nhưng con người không tìm được cho mình một trợ tá tương xứng. ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa cho một giấc ngủ mê ập xuống trên con người, và con người thiếp đi. Rồi Chúa rút một cái xương sườn của con người ra, và lắp thịt thế vào. ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa lấy cái xương sườn đã rút từ con người ra, làm thành một người đàn bà và dẫn đến với con người. Con người nói: “Phen này, đây là xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi! Nàng sẽ được gọi là đàn bà, vì đã được rút từ đàn ông ra”. Bởi thế, người đàn ông lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai thành một xương một thịt. Con người và vợ mình, cả hai đều trần truồng mà không xấu hổ trước mặt nhau. (St 2,18-25).

Lời nguyện của đôi bạn:

Chúc tụng Chúa, là Chúa cả trời đất,

Vì Ngài đã ban cho chúng con sự sống và cho chúng con được gặp nhau.

Chúa là suối nguồn của tình yêu nảy nở giữa chúng con và giao phó trách nhiệm cho chúng con:

Xin hãy biến đổi tình yêu ấy mỗi ngày nên đẹp hơn, thật hơn, không vương vấn kiêu căng và ích kỉ, nhưng quảng đại tìm kiếm thiện ích cho tha nhân.

Xin cho chúng con biết dùng lời nói và việc làm tinh tuyền và trong sáng, để biểu lộ sự chân thành trao hiến cho nhau,

Hầu gia tăng hiệp thông sự sống, cho tình yêu trở nên mỗi ngày một sâu sắc hơn.

Chỉ như thế chúng con mới có thể cảm nghiệm và làm chứng được tình yêu Chúa vô biên.

Câu hỏi giúp suy tư:

-          Ngày nay người ta nghĩ gì về tình yêu?

-          Tình yêu có nghĩa gì đối với anh chị?

-          Những thứ ảo tưởng nào đe dọa tình yêu?

Suy tư:

Về chữ tình yêu

“Tình yêu” là một trong những từ ngữ được dùng nhiều nhất trong ngôn ngữ tôn giáo và xã hội dân sự nơi mọi dân tộc. Nó diễn tả những kinh nghiệm tôn giáo cao quí nhất, những dâng hiến quảng đại nhất, những kinh nghiệm kì diệu nhất… Mọi người đều tưởng mình biết ý nghĩa của tình yêu và hướng đến cùng một thực tại, đang khi thực ra họ hiểu theo những nghĩa khác nhau.

Không chỉ có một loại tình yêu duy nhất: có tình bạn, tình thân tâm giao, tình liên đới vốn khác biệt sâu xa với tình yêu hướng đến cô gái hay chàng trai mà mình phải lòng.

Tình yêu và tình dục

Tình yêu ban đầu khi mới nảy sinh, như bao điều tốt đẹp mới khởi đầu, bao giờ cũng tươi vui và hấp dẫn. Những người đang yêu luôn nhìn nhau trong lí tưởng. Tình yêu nảy nở nhiệm mầu trong con tim của chàng và nàng đòi hỏi đó phải là ái tình duy nhất và không san sẻ và, như thế là vì ta cảm thấy người kia lấp đầy khoảng trống trải ta thiếu thốn. Một mình ta không đủ để có hạnh phúc tròn đầy, ta được dựng nên vì người khác, để hạnh ngộ, để đi vào đối thoại. Ta hiện hữu trong một thân xác, vốn là thân xác của một người nam hay một người nữ, và tính dục là phần quan trọng của cuộc hạnh ngộ này, nhưng tính dục không phải là tất cả tình yêu. Văn hóa ngày nay, ngược lại, thường có xu hướng sống hai thái cực: một đàng, đề cao tính dục vì chính tính dục và ban cho nó những “công trạng” quá mức, đàng khác lại tương đối hóa tính dục đến độ dung tục.

«Tính dục không phải là một phương tiện để thỏa mãn hay để giải trí, vì nó là một ngôn ngữ liên vị trong đó tha nhân được nghiêm túc trân trọng, trong phẩm giá thánh thiêng và bất khả xâm phạm của người ấy. […] Trong bối cảnh này, ái tình xuất hiện như một sự thể hiện tính dục chuyên biệt của con người. Trong đó, người ta có thể tìm thấy lại “ý nghĩa hợp hôn của thân xác và phẩm giá đích thực của tặng phẩm trao hiến”.[12] Trong các bài giáo lí thần học về thân xác, Thánh Gioan Phaolô II đã dạy rằng thân xác với tính dục dị biệt không những là “nguồn của sự phong nhiêu và sinh sản”, mà nó còn sở hữu “khả năng diễn tả tình yêu: tình yêu mà chính ở đó con người – nhân vị trở thành một quà tặng”.[13] Một khao khát tình dục lành mạnh, cho dù gắn với một mưu cầu lạc thú, đều giả thiết có một ý thức cảm thán, và chính bởi đó mà nó có thể làm cho các xung năng có tính nhân văn.» (Amoris Laetitia, 151)

Ý nghĩa của tình yêu

Một khi đã khát khao con người của nhau, đôi bạn dần lớn lên trong tình yêu. Người này cảm thấy một nhu cầu tự nhiên nảy sinh muốn đem lại hạnh phúc cho người kia. Thế nhưng, thói ích kỉ vẫn luôn chực rình chờ, nó thường khiến mỗi người mệt mỏi không còn cố gắng “quên mình” để yêu tha nhân kia. Tình yêu đích thật thì khác với thứ tình yêu hời hợt hay giả hiệu ở chỗ nó có đặc tính của sự hiến trao bản thân: anh yêu em khi anh cảm thấy hạnh phúc vì làm em hạnh phúc, khi anh có thể nghĩ được là đã trao cho em đời sống của anh, hơn là nghĩ nhận lấy được gì từ cuộc sống của em.

«Trong bài ca đức mến của Thánh Phaolô, chúng ta gặp thấy một số nét của tình yêu đích thật:

“Đức mến thì nhẫn nhục, hiền hậu,

Không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc,

Không làm điều bất chính, không tìm tư lợi,

Không nóng giận, không nuôi hận thù,

Không mừng khi thấy sự gian ác, nhưng vui khi thấy điều chân thật.

Đức mến tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, hy vọng tất cả, chịu đựng tất cả”

(1 Cr 13,4-7)» (Amoris Laetitia, 90).

Một bước sau cùng nữa của tình yêu tăng trưởng, đó là tình yêu thật thì hướng tới một dự phóng chung. Mỗi người, trong suy nghĩ của mình, hết sức chăm chút, ân cần, ra sức, hoàn toàn dấn mình cho việc chọn lựa người bạn đời, trợ tá của nhau, trên hành trình thực hiện viên mãn cuộc sống của mỗi người.

Hơn nữa, tình yêu tuôn tràn trong con tim của hai người nam và nữ thì cởi mở ra với Đấng siêu việt. Cuộc sống của mỗi thụ tạo thì hướng đến Thiên Chúa và mỗi kinh nghiệm, kể cả tình yêu, cũng phải được sống như nó đến từ Thiên Chúa và phải được nghĩ như là một sự chuẩn bị cho cuộc gặp gỡ với Chúa. Con người vượt qua được nỗi đơn độc nhờ Thiên Chúa, vì Ngài đã thổi vào trái tim con người Thần Khí của Ngài, chính khả năng yêu thương của Ngài. Bởi thế, cả người nam lẫn người nữ đều không thể nói với người bạn đời của mình một cách tuyệt đối rằng: «em là tất cả cuộc sống của anh», hay «anh là tất cả cuộc sống của em», và ngược lại. Bởi lẽ họ được tạo dựng cho nhau, và đồng thời cả hai thuộc về Thiên Chúa. Thật vậy, mỗi người đều mang một khát vọng trong mình về vô biên, mà không một con người thụ tạo nào có thể làm thỏa mãn được. Kinh nghiệm hôn nhân phải dành chỗ cho Thiên Chúa Đấng Vô Biên ấy, Ngài muốn đi vào trong cuộc sống của đôi vợ chồng, để “cung cách yêu thương của Thiên Chúa trở thành thước đo của tình yêu nhân loại”[14] nơi họ, để dẫn họ đến bến bờ cuộc sống viên mãn.

Hành trình xây dựng đôi lứa

Tình yêu được sống trong một trạng thái thăng bằng nhưng thường xuyên bấp bênh, được xây đắp ngày này qua ngày khác, và cần được theo đuổi, vun trồng, bảo vệ, dự phòng. Không bao giờ được nghĩ là mình đã đạt tới đích. Tình yêu phải được học hỏi như những điều tốt đẹp trong cuộc sống khiến ta phải học: học yêu. Đức Giêsu minh họa điều này rất hay trong ví dụ hạt lúa phải chết đi nó mới làm trổ sinh nhiều bông hạt, và chính Người đã thực hiện như thế làm cho người ta thấy được trên thập giá, Người đã chọn lựa sống vì yêu, và thế nào là tình yêu đích thật. Việc khó nhất chính là cam kết dấn thân cả đời mình sống vì người khác, trong tư thế như từ bỏ chính mình, bỏ cách nghĩ của mình, bỏ những thói quen của mình, từ bỏ những sở thích, thú riêng tư…

Trợ giúp đôi bạn

Thường đôi bạn hay nhìn xung quanh mình và cảm thấy cô đơn. Nếu có các cặp bạn hữu nào đó để cùng vui sống những giờ phút thư giãn chứ không để bàn những chuyện nghiêm túc, như ngày cuối tuần chẳng hạn, thì rất có ích. Có khi, cũng không hiếm trường hợp, một đôi bạn cảm thấy mình cần gặp gỡ trao đổi với những người khác về những vấn đề hay những khó khăn làm cuộc sống mình bất ổn hay cay đắng. Ngày nay, có nhiều Nhóm các gia đình thân hữu (các cặp đính hôn, vợ chồng trẻ, các gia đình) đang phổ biến, vì tình thân hữu và bằng hữu giúp nhau vượt qua những khó khăn của cuộc sống, và của đôi bạn. Đức Giáo hoàng mời gọi:

«Các cộng đoàn Kitô hữu hãy nhận biết rằng việc đồng hành với những người đính hôn trong hành trình tình yêu của họ là một việc thiện ích cho chính họ. […] Đối với cộng đoàn Kitô hữu, những người kết hôn là một nguồn tài nguyên quí giá vì, trong khi chân thành dấn thân lớn lên trong tình yêu và tự hiến cho nhau, họ có thể góp phần đổi mới chính tấm áo dệt nên toàn bộ thân thể Hội thánh. […] Điều quan trọng làcon đường khai tâm” vào Bí tích Hôn nhân khả dĩ cung cấp cho họ những yếu tố cần thiết để có thể lãnh nhận bí tích ấy với những điều kiện tốt nhất và khởi đầu cuộc sống gia đình một cách vững chắc» (Amoris Laetitia, 207).

«Cũng nên tìm những phương thế để chuẩn bị từ xa khả dĩ giúp cho tình yêu của họ trưởng thành bằng một sự đồng hành gần gũi và chứng từ phong phú. Thường thì rất hữu ích nếu qui tụ được các nhóm bạn đang thời kì đính hôn và đề ra những buổi nói chuyện chuyên đề dựa trên một vài chủ đề khác nhau mà người trẻ quan tâm […]» (Amoris Laetitia, 208).

 

Thảo luận theo nhóm:

. Chúng ta phản ứng tức thời như thế nào khi nghe trình bày điều đó?

. Người ta có thể thực hiện những chọn lựa nào để gìn giữ phẩm giá của tình yêu trong thời gian đính hôn và trong cuộc sống đôi lứa?

. Anh chị có những dự phóng nào để mỗi ngày lớn lên trong tình yêu ? Cần có những chọn lựa ưu tiên nào cho mục đích đó?

. Có mối liên hệ nào giữa tình yêu và tình dục? Đâu là những cản trở chính theo anh chị sẽ có thể gặp phải khi sống tình dục trong viễn ảnh này?


 

 

Gặp gỡ II:

CHÚNG MÌNH KẾT HÔN NHÉ

Mục đích:

Giúp các bạn trẻ ý thức về bản chất của sự lựa chọn hôn nhân xuất phát từ việc họ yêu nhau và đảm nhận một Giao ước nghiêm túc.

Cầu nguyện và lắng nghe Lời Chúa:

Lời dẫn:

Trong Cựu ước Chúa đã kí kết một Giao ước với dân Ngài. Đó là một Hôn ước, nghĩa là Giao ước tình yêu phu thê.

Chính Ngài đồng hành với anh chị trong thời gian đính hôn này để tình yêu của anh chị lớn lên đến mức chín muồi và đi đến quyết định kết hôn với nhau, để anh chị ý thức và dạn dĩ nói lên lời “ưng thuận” kết hôn và cử hành hôn phối. Và để rồi qua hôn ước của anh chị Thiên Chúa tiếp tục thực thi Giao ước của Ngài trong lịch sử.

Lời Chúa: trích trong sách tiên tri Hôsê

ĐỨC CHÚA phán:

«Này Ta sẽ quyến rũ nó, đưa nó vào sa mạc, để cùng nó thổ lộ tâm tình. Ở đó, nó sẽ đáp lại như buổi thanh xuân, như ngày nó đi lên từ Ai-cập.

Vào ngày đó – sấm ngôn của ĐỨC CHÚA – ngươi sẽ gọi Ta: "Mình ơi", chứ không còn gọi "Ông chủ ơi" nữa. Ta sẽ lập với ngươi một hôn ước vĩnh cửu, Ta sẽ lập hôn ước với ngươi trong công minh và chính trực, trong ân tình và xót thương; Ta sẽ lập hôn ước với ngươi trong tín thành,
và ngươi sẽ được biết ĐỨC CHÚA. Vào ngày đó, Ta sẽ đáp lại, – sấm ngôn của ĐỨC CHÚA –
Ta sẽ đáp lại trời, và trời sẽ đáp lại đất» (Hs 2,16.17b-18.21-23).

Lời nguyện của đôi bạn:

«Xin đặt em như chiếc ấn trên trái tim anh, như chiếc ấn trên cánh tay anh.

Phải, tình yêu mãnh liệt như tử thần, cơn đam mê dữ dội như âm phủ.

Lửa tình là ngọn lửa bừng cháy, một ngọn lửa thần thiêng!» (Dc 8,6).

Linh mục:

Lạy Chúa, chúng con cảm tạ Chúa, vì với quyền năng vô song Chúa đã dựng nên người nam và người nữ theo hình ảnh và giống như Ngài, và trao ban họ cho nhau như người bạn đường bất khả phân li, để họ không còn là hai mà chỉ là một. Như thế, Chúa đã dạy rằng phân li điều Thiên Chúa đã kết hợp nên một không hề là điều chính đáng. Xin cho những người con cái này của Chúa biết khám phá và thực hiện cách trung tín kế hoạch yêu thương và cứu độ của Ngài. Amen.

Câu hỏi giúp suy tư:

- Tại sao một người con trai và một người con gái quyết định kết hôn ?

- Hai người kết hôn với nhau qua kí kết một khế ước, điều đó có ý nghĩa gì ?

- Thiên Chúa có liên quan gì trong chọn lựa kết hôn của anh/chị ?

Suy tư:

Một tình yêu dành cho nhau

Khi nói “chúng ta yêu nhau” là ta ý thức mình không chỉ tự yêu mình hay yêu một cái gì đó đáng yêu và làm ta thỏa lòng, nhưng là yêu một con người có thể đáp trả lại tình yêu của ta với một tình yêu cũng mãnh liệt như thế. Đó là một tình yêu tương hỗ, cho và nhận. Tình yêu của chúng ta là một kiểu tình bạn với ý nghĩa đặc biệt. Là một tình bạn giữa hai người “tự hiến” cho nhau, và có những đặc tính: trọn vẹn, duy nhất và độc hữu (không chấp nhận những bạn tình khác); ổn định và bền vững (một chọn lựa mãi mãi); phong nhiêu (mở ra với sự sống và gắn liền với tính dục hướng tới sinh sản không trước và không ngoài hôn nhân).

Một tình yêu vô cầu

Tình yêu là chân thực khi được hiến dâng không nhằm đến những mục đích thứ yếu. Sự vô cầu thuộc bản chất của tình yêu còn thể hiện qua chịu đựng tự nguyện những nỗi đau đớn, buồn khổ, bệnh tật, và cả trong cô đơn nữa. Ở đâu sự sống được hiến dâng không mong đền đáp, ở đó tình yêu hiển lộ tất cả sự thật và sự vĩ đại của nó. Yêu thương ai là nhắm tới hạnh phúc, những điều tốt đẹp, ích lợi của người đó! Đối nghịch với tình yêu vô cầu là thái độ ích kỉ, chỉ nhìn tha nhân như người trao hiến cho mình điều gì, hoặc tệ hơn, đối xử với tha nhân chỉ như là cơ hội đem lại cho mình cảm giác thỏa mãn.

«Trong thông điệp Niềm vui của tình yêu, Đức giáo hoàng Phanxicô dành phần lớn của chương bốn để suy tư về tình yêu trong hôn nhân, dựa vào Bài ca Đức Ái (1Cr 13). Theo đó, gia đình là nơi mỗi chúng ta cảm nghiệm, học tập và vun đắp tình yêu chân thật.

Đó là tình yêu kiên nhẫn, biết đón nhận người khác như họ là;

tình yêu phục vụ, không chỉ bằng cảm tính hay lời nói nhưng bằng hành động cụ thể;

tình yêu không ghen tị, nhưng trân trọng thành quả của người khác;

tình yêu không khoe khoang tự phụ, không coi mình hơn người khác;

tình yêu dịu dàng, không cứng cỏi;

tình yêu quảng đại, cho đi mà không tính toán;

tình yêu tha thứ, biết tìm hiểu người khác để thông cảm và tha thứ hơn là soi mói;

tình yêu vui với niềm vui của người khác, chứ không vui vì sự thất bại của họ;

tình yêu dung thứ, giữ gìn miệng lưỡi, tránh xét đoán và nói xấu;

tình yêu tin tưởng tất cả nên không tìm cách thống trị nhưng tôn trọng  người khác;

tình yêu hi vọng tất cả vì Thiên Chúa có thể vẽ đường thẳng bằng những nét cong;

tình yêu chịu đựng tất cả với thái độ tích cực» (HĐGMVN, Thư gửi các Gia đình Công giáo, 8).

Một tình yêu cho đến cùng

Chúa Giêsu dạy và chỉ cho thấy không ai có tình yêu lớn hơn kẻ đã hiến mạng sống mình vì bạn hữu: đây là phần khó chấp nhận nhất của tình yêu. Quả thật, ta quá gắn bó với mình, với cách nghĩ, những thói quen, cảm quan, sở thích của mình, … đến nỗi khó có thể từ bỏ mình được. Thế nhưng, hai người sẽ không trở thành một cặp đôi hoàn hảo cho tới khi nào cả hai biết chấp nhận chết đi cho cái gì đó nơi bản thân mình. Để làm được điều đó cần tạo một khoảng “chân không” nào đó trong con người của ta, bởi lẽ chừng nào “cái tôi” còn đầy ắp thì không có chỗ cho tha nhân trong ta! Hẳn là ta không bị buộc phải từ chối các giá trị hay những gì tốt đẹp giúp cho đời sống đôi lứa được thêm phong phú. Nếu người ta thấy rằng đòi hỏi ấy rốt cuộc tước đi nơi cá nhân hay đôi bạn một cái gì đó có thể giúp họ được phong phú thêm, thì khi ấy người ta phải trao đổi với nhau để cùng nhận biết cái gì là tốt hơn và cái gì là ích lợi hơn cho cả hai cùng thăng tiến. Chết đi cho chính mình và sống với và cho người khác là một chọn lựa quan trọng, đó là “biết nhân nhượng” cho dù có e sợ mình bị tha nhân lợi dụng.

Tình yêu phu thê và hôn nhân

«Trinh khiết và hôn nhân, là và phải là những cách thế khác nhau để yêu thương, vì con người không thể sống mà không có tình yêu» (Amoris Laetitia 161).

Cội rễ và sức mạnh để quyết định kết hôn nằm ở nơi tình yêu phu thê, tức là một tình yêu dành cho nhau và vô cầu, cho đến tận cùng. Kết hôn là mạnh dạn bước qua bậc thềm của một tình yêu phu thê như thế. Tình yêu ấy có thể được sống theo hai cách thức cơ bản: bậc độc thân khiết tịnh và bậc hôn nhân. Cả hai bậc sống này là những thể hiện cụ thể khác nhau của một sự thật sâu xa hơn của con người: con người là hữu thể được tạo dựng “theo hình ảnh của Thiên Chúa”. Cả hai chọn lựa này (những ơn ban khác nhau và bổ túc cho nhau) hội tụ lại cùng diễn tả một mầu nhiệm hôn phối duy nhất, vừa phong nhiêu vừa mang ơn cứu độ, của Đức Kitô và Hội thánh. Là những cách thức biểu lộ và sống mầu nhiệm duy nhất của Giao ước của Thiên Chúa với Dân Người. Theo nghĩa đó, hôn nhân và trinh khiết không đối nghịch nhau.

Để sống chọn lựa tình yêu phu thê ấy như là một tình yêu hôn nhân, hai người bạn đính hôn cần phải quyết định trong sự tự do hướng tới một chọn lựa dứt khoát. Chọn lựa ấy cũng là một chọn lựa công khai bởi vì hai người là hai giới tính khác biệt và vì thế, bởi bản tính tự nhiên, hướng tới tương quan, tức bình diện xã hội. Từ đó, ta có thể và phải nói rằng đôi bạn kinh nghiệm sức mạnh kết hợp của chính tình yêu khi, với tự do, họ quyết định kết hôn với nhau trong khế ước hôn nhân: một khế ước bao hàm một sự chuẩn bị dài lâu và đặt cơ sở trên sự tự do và tôn trọng lẫn nhau. Một điều quan trọng là hai người đính hôn phải tránh những hành vi gọi là “quan hệ trước hôn nhân”, mà một cách nào đó, chúng đã khiến hai người dấn sâu vào một mức độ thân mật đến nỗi không còn có thể thoái lui được nữa, điều vốn là một đặc tính của thời đính hôn!

Hôn nhân là một khế ước và là giao ước

Giáo luật mới không còn định nghĩa hôn nhân như là một “giao kèo” (hay “hợp đồng”) nữa, mà gọi đó là một “khế ước” hôn phối. Cách nói này giúp chúng ta vượt qua được quan niệm hôn nhân như một “hợp đồng” vốn nặng tính luật pháp hành chánh, và diễn tả theo ngôn ngữ Kitô giáo, liên hệ đến hình ảnh của Giao ước giữa Thiên Chúa và dân Người. Như thế chúng ta khám phá được căn tính đích thật của hôn nhân, đó là tình yêu phu thê, một tình yêu rất nhân bản, và lôi kéo mỗi người vào trong “toàn thể thống nhất” hồn và xác. Ở cội nguồn của mọi cuộc hôn nhân đều có sự hiện diện của Thiên Chúa. Chính Ngài là tác giả đã ghi khắc vào con tim mỗi người  khả năng và trách nhiệm của tình yêu và hiệp thông. Khế ước hôn nhân trở thành một bản sao và một sự tham dự vào Giao ước thần linh: nội dung của khế ước này là tình yêu phu thê. Người nam và người nữ, khi ấy, không còn trao đổi với nhau các quyền lợi trên những thiện ích kinh tế, cũng không còn trao đổi nhau các “quyền trên thân xác” nữa; nhưng trao đổi với nhau “quyền” trên toàn thể con người của nhau như một ngôi vị, tức trên toàn thể các chiều kích cả về thể lí, lẫn tình cảm và tinh thần. Bởi thế, tình yêu này phải có các thuộc tính độc hữu (một nam một nữ), bất khả phân li và mở ra với sự sống phong nhiêu. Tình yêu này có tính độc hữu vì con người tự hiến ấy là một thụ tạo giới hạn và được mời gọi trao hiến toàn thể con người mình: người ấy có thể yêu cách trọn vẹn chỉ một người và thực hiện mình cách viên mãn chính khi mở ra tự hiến hoàn toàn cho người bạn đời. Tình yêu phu thê có tính bất khả phân li vì con người sống trong thời gian và không thể tự hiến hoàn toàn nếu không biết hiến trao chính mình cho người bạn đời trong suốt cuộc đời mình. Tình yêu phu thê phải mở ra với sự sống phong nhiêu vì con người còn đặc trưng bởi giới tính (là nam hay là nữ) và bởi sinh dục, và nhờ đó qua một gặp gỡ tính dục họ thực hiện chính mình và sẵn sàng đón nhận những sự sống mới.

Hôn nhân là một chọn lựa dứt khoát

Lời tuyên bố «ưng thuận» kết hôn hai người gửi trao cho nhau trong cử hành lễ cưới là nền tảng của khế ước hôn nhân. Đó là một hành vi thể hiện (hay hiện thể hóa) tình yêu phu thê. Ước nguyện đẹp nhất dành cho đôi vợ chồng là được thấy mỗi ngày tình yêu của họ tăng trưởng. Nhưng nếu như tình yêu ấy không còn tăng trưởng nữa, thì hôn nhân cũng ngưng lại: “sức khỏe”, sự “thịnh vượng” của hôn nhân sụt giảm. Quả thật, sức khỏe của tình yêu phu thê trước hết không phải là tình trạng kết quả thể lí, sức hấp dẫn tình dục, hay những tình cảm chan chứa…, nhưng là một hành vi của ý chí tự do, là một hành động thiêng liêng, mà hoàn cảnh bên ngoài không thể cung ứng được. Chọn lựa tự do không thể từ chối tình yêu một khi đã hứa còn vì lí do cấu trúc hôn nhân không chỉ phụ thuộc vào những người liên hệ, mà nối kết với thiện ích của chính các đôi bạn, vì nó gắn liền với ý muốn của Thiên Chúa, muốn hôn nhân là duy nhất và bất khả phân li. Kinh nghiệm những khó khăn trong tình yêu đòi hỏi ta phải tự mình nỗ lực với sự trợ giúp của ân sủng của Chúa làm sống động lại tình yêu một khi nó suy yếu hay xem ra như chết đi.

Tình yêu và sự tha thứ

Trong cuộc sống hằng ngày khi một người khám phá mình yêu quí một ai đó, thì người ấy dấn thân cho tương lai. Nhưng trong con người mang dấu ấn tội lỗi như chúng ta, luôn luôn chực sẵn cám dỗ muốn khép kín mình lại và ta cũng kinh nghiệm tình yêu đòi hỏi một sự dấn thân: nó có thể đem lại niềm vui thỏa mà cũng có thể cho kinh nghiệm thương đau. Điều quan trọng là làm thế nào vượt qua được sự tính toán so đo trên những gì mình hiến dâng và những gì nhận lãnh, dựa theo mẫu gương của Chúa yêu thương vô điều kiện và chứng tỏ chúng ta có khả năng làm được như thế. “Kết hôn trong Chúa” có nghĩa là chúng ta có thể yêu cả khi bị mất mát mà không đánh mất chính mình. Làm cho tình yêu Thiên Chúa sống động trở lại có nghĩa là chúng ta phải luôn tha thứ. Không thể tha thứ và không thể làm cái “mãi mãi” được tái sinh liên tục, tình yêu sẽ không thể tồn tại.

«Điều này giả thiết chính chúng ta đã có kinh nghiệm được Thiên Chúa tha thứ, được công chính hóa cách vô điều kiện bởi ân sủng của Ngài chứ không bởi công trạng của chúng ta. Chúng ta đã đạt đến kinh nghiệm của một tình yêu đi bước trước mọi việc làm của mình, một tình yêu luôn luôn mang đến cho ta những cơ hội mới, một tình yêu thúc đẩy và khích lệ» (Amoris Laetitia 108).

Thảo luận theo nhóm:

. Chúng ta phản ứng tức thời như thế nào khi nghe trình bày những điều đó?

. Anh chị nghĩ gì về một tình yêu của hai người dành cho nhau, vô điều kiện và đi đến mức hiến dâng tất cả cho nhau ?

. Đâu là những khác biệt về cuộc sống của một đôi vợ chồng so với các kiểu sống kết hợp khác, như sống chung hoặc kết hợp trong thực tế?

. Các quan hệ trước hôn nhân, dưới ánh sáng của những gì chúng ta vừa nói, có ý nghĩa gì không?

. Theo anh chị những khó khăn nào có thể gặp hằng ngày trong cuộc sống hôn nhân duy nhất, trung tín, bất khả phân li và mở ra với sự sống phong nhiêu?


 

 

Gặp gỡ III:

KẾT HÔN NHƯ NHỮNG KITÔ HỮU

 

“Người ta sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ thành một xương một thịt” (Mt 19,5; X. St 2,24).

Mục đích:

Giúp các bạn trẻ ý thức rằng người Kitô hữu chọn kết hôn trong Hội thánh giả định họ phải có đức tin, tin Đức Kitô và tin Hội thánh. Làm sao để đôi bạn đính hôn có thể đón nghe tại cội rễ tình yêu của họ tiếng gọi tìm kiếm dung nhan Thiên Chúa nơi bản thân Đức Giêsu Kitô, Đấng đã mạc khải trọn vẹn và dứt khoát tình yêu của Người. Học tự đặt mình trong dự phóng của Nước Chúa và họ sẽ nhận ra hành trình hôn nhân tương lai của mình trong viễn ảnh này.

Cầu nguyện và lắng nghe Lời Chúa:

Lời dẫn:

Lời rao giảng của Chúa Giêsu như một “lời chất vấn tự do” chính tự do của người nghe. Người đòi hỏi ta phải “tự quyết định” chọn hay không chọn Người là ý nghĩa của sự tự do của chúng ta. Vậy nên, quyết định luân lí cơ bản không gì khác hơn là một chọn lựa “đức tin”: tin Đức Giêsu, tin vào lời của Người, vốn là “trao tặng” mà cũng “đòi hỏi”, là “ơn ban” mà cũng đồng thời là “nhiệm vụ”, lời ấy mỗi người chúng ta đều âm thầm khát mong. Trước lời loan báo Nước Chúa, con người chỉ còn một việc là tin, và tìm thấy ở đó “lẽ sống” của mình.

Lời Chúa: trích Tin Mừng theo thánh Máthêu

«Nước Trời giống như chuyện kho báu chôn giấu trong ruộng. Có người kia gặp được thì liền chôn giấu lại, rồi vui mừng đi bán tất cả những gì mình có mà mua thửa ruộng ấy.

Nước Trời lại cũng giống như chuyện một thương gia đi tìm ngọc đẹp. Tìm được một viên ngọc quý, ông ta ra đi, bán tất cả những gì mình có mà mua viên ngọc ấy» (Mt 13, 44-46).

Linh mục:

Lạy Chúa,

Chúa đã chuẩn bị mọi sự tốt lành cho những ai yêu mến Chúa. Xin thương tuôn tràn tình yêu ngọt dịu của Chúa vào lòng chúng con, để khi yêu mến Chúa trong mọi sự và trên hết mọi sự, chúng con gặt hái được những điều Chúa đã hứa ban, vượt quá mọi mong đợi. Nhờ Đức Kitô Chúa chúng con. Amen.

 

Câu hỏi giúp suy tư:

- Tại sao anh chị kết hôn trong Hội thánh?

- Anh chị tin có liên hệ gì giữa tình yêu của những người đính hôn và tình yêu của Thiên Chúa được thông truyền cho chúng ta trong Đức Giêsu Kitô?

- Đức tin là gì? Khi nào chúng ta có thể nói một người nào đó là kẻ đã tin (tín hữu)? Đức tin là một chuyện riêng tư ư? Nếu thế, tại sao người ta phải đi nhà thờ, đi lễ ngày Chúa nhật?

- Phải chăng tin vào sự sống lại là trung tâm điểm của Kitô giáo? Có mối quan hệ nào giữa đức tin Kitô giáo với các trào lưu khác và các “giáo phái” khác không? Có thể dung hòa việc một người vừa theo các tổ chức đó vừa theo Kitô giáo hay không?

Suy tư:

«Người ta không thể hiểu trọn vẹn mầu nhiệm gia đình Kitô giáo nếu không nhìn trong ánh sáng tình yêu vô hạn của Chúa Cha, được biểu lộ nơi Đức Kitô, Đấng đã tự hiến mình cho đến cùng và vẫn sống giữa chúng ta» (Amoris Laetitia, 59).

Tại sao chúng ta kết hôn với nhau trong Hội thánh?

Trong thỉnh cầu của đôi bạn đính hôn xin được kết hôn trong Giáo hội, thường theo cách nào đó, có biểu lộ ước muốn được tiếp tục sống truyền thống của gia đình và hòa hợp với tập tục của cộng đồng xã hội nơi mình đang sống, để tránh không làm cha mẹ, ông bà hay bà con dòng họ thất vọng. Và rồi, nhiều người đính hôn có ý tổ chức hôn lễ thật trang trọng qua một cử hành nghi lễ tôn giáo, đánh dấu bước chuyển tiếp quyết định của cuộc đời mình. Kết hôn trong Giáo hội có thể còn diễn tả sự đồng thuận với một ước vọng của người bạn đời tương lai. Trước câu hỏi tại sao bạn muốn kết hôn trong Hội thánh, nhiều người đính hôn trả lời bằng cách nại tới đức tin: “tôi kết hôn trong Hội thánh vì tôi tin”. Không ai nghi ngờ câu trả lời chân thành đó. Nhưng nhìn sâu vào những lời khẳng định ấy, ta thường có cảm tưởng điều những người trẻ này muốn nói về “đức tin” còn khá mơ hồ và chung chung: “Tôi tin kính một Đấng cao cả hơn chúng ta và tôi muốn nhân dịp lễ này Người sẽ chúc lành cho hôn ước của chúng tôi”. “Tôi tin, nhưng theo kiểu của tôi. Tôi không thường đi Nhà thờ; nhưng bây giờ làm đám cưới, tôi nghĩ phải tiến hành một nghi lễ trước mặt Chúa là điều chính đáng thôi”.

Vậy, điều quan trọng là ta thử đi sâu vào một số khía cạnh của chọn lựa đức tin này.

Người tín hữu kết hôn

Tình yêu mà hai người khám phá trong tâm tư mình thật nhiệm mầu, lớn lên từng ngày trong khung cảnh của một cộng đoàn Kitô hữu (giáo xứ, giáo họ, cộng đoàn nhỏ, …) nơi họ thuộc về nhờ bí tích Rửa tội. Bởi thế, đôi bạn đính hôn xin cộng đoàn giúp đỡ để tìm hiểu và biết cách diễn tả ý nghĩa Kitô giáo tình yêu của họ, cũng như ý nghĩa của việc họ chọn lựa kết hôn trong Hội thánh. Nhưng sẽ là không nhất quán và thiếu chỉn chu nếu như cộng đoàn nhiệt liệt đón nhận thỉnh cầu của đôi bạn xin kết hôn trong Hội thánh mà lại không tạo cơ hội cho họ được gặp gỡ Chúa Giêsu Kitô, Đấng đã kêu gọi họ mặc lấy một lối sống mới và dứt khoát.

Cội rễ tôn giáo của tình yêu

Tình yêu con người vẫn luôn là một mầu nhiệm. Người ta muốn tìm một sự độc lập của riêng mình nhưng đồng thời lại không thể ở đơn độc một mình. Ta kết hợp với tha nhân đồng thời tìm kiếm cái gì đó không có ở nơi ta. Mọi tình yêu phàm nhân đều luôn đòi hỏi một cái gì đó hơn nữa, hướng đến một cái gì đó vô biên, da diết đến nỗi, quả thực là, nếu thiếu mối quan hệ này thì ta luôn cảm thấy và cho như là bị phụ bạc và bất công. Những biểu lộ của tình yêu phàm nhân về những khát vọng này khi ấy sẽ không bao giờ đầy đủ và để lại trong tâm hồn ta một dư âm của sự không thỏa mãn, một nỗi bất an khôn nguôi. Cuộc sống hôn nhân, trong viễn ảnh này, trở thành cuộc truy tìm không ngừng một quan hệ tròn đầy hơn, một diễn tả trọn vẹn hơn chính căn tính của mình sống và hiến dâng cho người bạn đời. Có thể nghĩ rằng chính yếu tố này, vốn có mặt trong lịch sử của mỗi người, là dấu chỉ của sự hiện diện một Đấng Khác và cho thấy một nguồn mạch khác của khát vọng yêu đương của con người mà ta cần tìm kiếm ở ngoài biên giới thời gian và không gian của lịch sử loài người chúng ta. Tình yêu trao hiến và nhận lãnh có thể dẫn ta đến chỗ khám phá hoàn cảnh thụ tạo của mình, nhận biết mình còn được nối kết với các nguồn suối khác ngoài sự sống sinh vật này. Như thế, tình yêu phàm nhân có thể là một tiếng gọi mầu nhiệm hướng đến đấng siêu việt, đi vào tương quan với Thiên Chúa. Bởi thế, mọi tình yêu phàm nhân luôn có một khía cạnh tôn giáo và mở ra quan hệ với Thiên Chúa: vì tình yêu đó dẫn con người đến trên những dấu tích thần linh hiện ra từ khung cảnh cuộc sống quen thuộc hằng ngày. Đàng khác, mạc khải Kitô giáo đáp ứng yêu sách về siêu việt trong tình yêu bằng cách dẫn lối cho ta đến trước mầu nhiệm một vị Thiên Chúa tìm kiếm và yêu thương thụ tạo của mình vô hạn, một Thiên Chúa luôn tỏ lòng thương xót và chia sẻ với con người. Nếu mỗi đôi bạn đọc lại lịch sử của chính cuộc hạnh ngộ của mình, của mối tình hòa hợp được thắp lên vào lúc không ngờ và lớn lên chín dần đến mức hai người quyết định kết hôn với nhau để tạo lập một gia đình, họ sẽ khám phá ra một chuỗi dài những ngày tháng thường cũng đơn sơ và có vẻ bình thường. Thế nhưng, chính những bước đi “nhỏ bé” ấy tỏ lộ một dự phóng, một kế hoạch, một ý định đã có trước hai con người yêu nhau ấy và sắp xếp để họ đi tới bước quyết định kết hôn. Mạc khải Kitô giáo nói rằng kế hoạch và ý định ấy, dành cho hai người và mời gọi họ thực hiện, được Chúa Cha nghĩ và sáng tạo trong Đức Kitô, họ như những người con yêu dấu của Ngài. Thiên Chúa đợi chờ chúng ta đáp trả trong tình yêu và tìm kiếm Ngài không ngừng. Trong tình yêu phu thê của hai người, như thế, có ghi khắc một vết tích không thể xóa nhòa, là nỗi nhớ sâu xa về Thiên Chúa.

Tìm kiếm dung nhan Thiên Chúa

Việc khám phá ra tình yêu tràn ngập con tim của hai người cuốn hút nhau đến nỗi cùng nhau đi trọn cuộc đời khởi động một cuộc kiếm tìm dung nhan Thiên Chúa mầu nhiệm. Mọi khám phá lớn luôn là hoa quả của một cuộc tìm kiếm say mê và bền bĩ. Điều đó đặc biệt đúng đối với những ai tìm kiếm dung nhan Thiên Chúa họ gặp trên nẻo đường tình yêu dành cho nhau: con người không thể không khát vọng Thiên Chúa. Không thụ tạo nào là không cần Đấng Tạo Hóa, nhưng trong thế giới chỉ có con người có cảm nhận khát vọng này và biết cảm nhận nó. Cả khi người ta chối bỏ Thiên Chúa, người ta cũng không thể chối bỏ nỗi khát khao về Vô biên luôn có ở trong ta. Những người yêu nhau đó khát khao chọn lựa kết hôn của họ là mới khúc dạo đầu của một cuộc sống viên mãn, vượt trên mọi giới hạn. Tự sâu thẳm họ tìm kiếm ơn cứu độ như bao người khác trước họ: «Xin Ngài đừng ẩn mặt !» (Tv 27,9). Đôi bạn đính hôn, đôi vợ chồng tương lai bấy giờ hướng thẳng về chính nguồn mạch sự sống: Thiên Chúa. Thật ra, họ không đi tìm một chân lí bất kì nào, nhưng là tìm kiếm một Ai đó ban cho họ khả năng nhận ra được ý nghĩa sâu xa của một tình yêu dâng hiến cho nhau suốt cuộc đời.

Lớn lên trong niềm tin vào Đức Giêsu Kitô

Đối với những người đính hôn, cuộc kiếm tìm sự thật của tình yêu của họ, trong kiên nhẫn và thiết tha, diễn ra trong sự Quan phòng trong bối cảnh của một cộng đoàn loan báo, làm chứng và bảo vệ sự hiện diện của Đức Giêsu Kitô. Ngài là Đấng đã mạc khải cho con người đang tìm kiếm dung nhan đích thật của Thiên Chúa. Cộng đoàn Hội thánh quảng đại loan báo và thông truyền hồng ân phục sinh tràn đầy của Đức Giêsu Kitô mình đã lãnh nhận, cho cả những người được kêu gọi sống và biểu lộ tình yêu viên mãn của họ. Gặp gỡ chính Đức Giêsu Kitô, lắng nghe Phúc-âm của Người tất cả hợp làm một với cuộc tìm kiếm sự thật họ đang theo đuổi. Đôi bạn trẻ đã nhận thấy nơi thâm sâu tình yêu của họ có một sức mạnh thôi thúc họ hướng tới cái gì đó còn lớn lao hơn và cuối cùng. Bởi thế họ quay hướng về Chúa Giêsu. Đang khi quay bước về với Chúa Giêsu họ nhận ra Người đã có đó tự bao giờ trên những dấu vết của họ và đã đồng hành với họ ngay từ khi tình yêu của họ khởi sinh. Đọc lại chuyện tình yêu của họ trong ánh sáng này, đôi bạn đính hôn nhận ra một ơn gọi mầu nhiệm sống tình yêu của họ cách viên mãn như Đức Giêsu Kitô đã yêu. Đức Giêsu hấp dẫn họ chính vì Người biểu lộ sự chân thành tới mức trả giá cao nhất cho sự thật mà Người loan báo. Những người đính hôn tìm kiếm một ai đó, trong khi nói về cuộc sống của mình người ấy trao ban ý nghĩa cho cuộc sống lứa đôi của họ, và trong khi diễn giải những chọn lựa của mình người định hướng cho những chọn lựa của họ. Gặp được Đức Kitô các dự án và hoa quả của việc tìm kiếm của con người không bị phế bỏ, nhưng được phân định và  đảm nhận vào trong một khung cảnh rộng lớn hơn, hướng chúng đến sự viên mãn mà con người khao khát. Thông ban cho chúng ta Thánh Thần là chính Tình Yêu Thiên Chúa, Đức Giêsu còn đi xa hơn giáo huấn thuần đạo lí Người ban cho ta khả năng yêu thương như chính Thiên Chúa yêu thương. Đây chính là ơn cứu độ cho mỗi người chúng ta, cho đôi bạn và cho gia đình, vì chỉ các quan hệ yêu thương mới có thể làm cho thế giới này trở thành một môi trường sống.

Làm chứng về Đức Kitô Đấng Phu Quân trong Hội thánh Hiền thê

«Tin mừng gia đình là một niềm vui “đầy ắp tâm hồn và cả cuộc sống của họ”, vì trong Đức Kitô, chúng ta được “giải thoát khỏi tội lỗi, buồn phiền, trống rỗng nội tâm và cô độc» (Amoris Laetitia 200; cf. Evagelii Gaudium, 1).

Chúng ta cảm thấy cuộc sống mình như chưa được giải thoát, cuộc kiếm tìm của mình chưa được thỏa mãn, nếu ta chưa thay đổi các mối quan hệ với tha nhân. Chỉ một cá nhân mình ổn thôi thì chưa đủ, phải ổn cả trong các tương quan với người khác. Kinh nghiệm đức tin luôn lớn lên và chín muồi ở trong một cộng đoàn, nó dẫn ta vào trong cuộc sống của cộng đoàn đã được đổi mới các tương quan. Trong khi tìm kiếm tình huynh đệ ta sẽ có được kinh nghiệm tình huynh đệ trong gặp gỡ với Chúa Giêsu. Chính Chúa Giêsu từ từ dẫn lối cho ta đến hiệp thông với anh em mình là các môn đệ khác của Chúa Giêsu, dù khác nhau về xuất xứ và tính tình, và hơn nữa còn đến hiệp thông với Thiên Chúa, là Cha, Con và Thánh Thần. Ta khám phá ra rằng mối hiệp thông với Chúa chính là nền tảng cho việc sống tình huynh đệ. Tình huynh đệ này được triển nở trong Hội thánh. Trong Hội thánh mỗi người kết hợp với Chúa Kitô, gặp gỡ Người và sống lại kinh nghiệm  hiệp thông với Thiên Chúa và với anh em. Đây là giải đáp cho câu hỏi cuộc sống viên mãn của những người chuẩn bị bước vào hôn nhân, vốn là một hiệp thông sâu xa của sự sống và tình yêu.

Kitô hữu kết hôn

Ta thấy xuất hiện ở đây ý nghĩa và giá trị thực sự Kitô giáo của hôn nhân. Đó là một biến cố được đưa vào trong sáng kiến của Thiên Chúa, Đấng đã nhập thể làm người để hiện diện trong lịch sử của mỗi người. Khế ước giữa người nam và người nữ, hiểu ở trong tất cả sự thật được khám phá dưới ánh sáng đức tin Kitô giáo, biểu lộ giá trị thánh thiêng, sự phong phú thần linh của nó. Hôn nhân trở thành một hành động của Thiên Chúa, nhập thể trong tình yêu của đôi bạn đã quyết định nên vợ nên chồng trọn vẹn và dứt khoát, và mang lấy chiều kích vượt trên những giới hạn loài người. Từ đó mà nó trở thành một bí tích.

Thảo luận theo nhóm:

. Phản ứng tức thời của chúng ta như thế nào trước điều được nghe?

. Tin nghĩa là gì (đối với một cá nhân, như một đôi vợ chồng, như một một gia đình)? và tại sao?

. Đâu là những khó khăn chính cho dự phóng chúng ta đã phác họa về cuộc sống đôi lứa?

. Một đôi bạn có thể sống chiều kích cộng đoàn trong Hội thánh như thế nào?

. Anh chị thử tìm xem đâu là những ý nghĩa khác nhau của các hạn từ sau đây: tham dự, dấn thân, sẵn sàng phục vụ, chứng tá?


 

 

Gặp gỡ IV:

VỚI BÍ TÍCH HÔN PHỐI

Mục đích:

Đi sâu vào ý nghĩa của việc cử hành hôn phối qua việc học biết quí trọng các yếu tố khác nhau đặc trưng của hôn ước. Hôn nhân được nhìn nhận như là một trong những cơ thời của ơn cứu độ và ân sủng Chúa ban cho những người cầu xin Người đến hiện diện với họ.

Cầu nguyện và lắng nghe Lời Chúa:

Lời dẫn:

Đức Giêsu hoàn thành lịch sử của Giao ước giữa Thiên Chúa và con người. Người hiến thân trọn vẹn vì yêu thương và cứu độ nhân loại, qua việc kết hợp với nhân loại như hiền thê của Người. Người là Đấng Phu Quân của Hội thánh. Trong Đức Giêsu anh chị có thể khám phá và sống sự thật sâu xa nhất của hôn nhân: hôn nhân của các tín hữu (của các người đã rửa tội) là hình ảnh thực và sống động của Giao ước mới và vĩnh cửu kí kết trong máu Đức Kitô. Tình yêu phu thê của các đôi bạn Kitô hữu, bởi hành động của Chúa Thánh Thần, trở thành nơi Chúa Phục sinh hiện diện, là dấu chỉ hữu hiệu và hằng ngày của tình yêu Người đối với chúng ta.

Lời Chúa: trích Thư của thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Êphêsô

« Vậy, anh em hãy bắt chước Thiên Chúa, vì anh em là con cái được Người yêu thương, và hãy sống trong tình bác ái, như Đức Kitô đã yêu thương chúng ta, và vì chúng ta, đã tự nộp mình làm hiến lễ, làm hy lễ dâng lên Thiên Chúa tựa hương thơm ngào ngạt. Vì lòng kính sợ Đức Kitô, anh em hãy tùng phục lẫn nhau. Người làm vợ hãy tùng phục chồng như tùng phục Chúa, vì chồng là đầu của vợ cũng như Đức Kitô là đầu của Hội Thánh, chính Người là Đấng cứu chuộc Hội Thánh, thân thể của Người. Và như Hội Thánh tùng phục Đức Kitô thế nào, thì vợ cũng phải tùng phục chồng trong mọi sự như vậy. Người làm chồng, hãy yêu thương vợ, như chính Đức Kitô yêu thương Hội Thánh và hiến mình vì Hội Thánh; như vậy, Người thánh hoá và thanh tẩy Hội Thánh bằng nước và lời hằng sống, để trước mặt Người, có một Hội Thánh xinh đẹp lộng lẫy, không tỳ ố, không vết nhăn hoặc bất cứ một khuyết điểm nào, nhưng thánh thiện và tinh tuyền. Cũng thế, chồng phải yêu vợ như yêu chính thân thể mình. Yêu vợ là yêu chính mình. Quả vậy, có ai ghét thân xác mình bao giờ; trái lại, người ta nuôi nấng và chăm sóc thân xác mình, cũng như Đức Kitô nuôi nấng và chăm sóc Hội Thánh, vì chúng ta là bộ phận trong thân thể của Người. Sách Thánh có lời chép rằng: Chính vì thế, người đàn ông sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ thành một xương một thịt. Mầu nhiệm này thật là cao cả. Tôi muốn nói về Đức Kitô và Hội Thánh. Vậy mỗi người trong anh em hãy yêu vợ như chính mình, còn vợ thì hãy kính sợ chồng» (Ep 5,1-2.21-33).

Linh mục: Khi học biết và chiêm ngắm sự cao cả kì diệu của bí tích hôn phối, chúng ta hãy dâng lên Chúa lời ca tụng và tạ ơn. Xin mọi người cùng lặp lại:

-          Lạy Chúa, tạ ơn Chúa thật là chính đáng và phải đạo.

Cđ.: Lạy Chúa, tạ ơn Chúa thật là chính đáng và phải đạo.

Người nam: Chúa đã thiết lập với dân Chúa một Giao ước mới để trong Đức Kitô, Người đã Chết để cứu rỗi chúng ta và Phục sinh trong vinh quang, nhân loại trở nên được dự phần vào đời sống bất tử của Ngài và đồng thừa hưởng vinh quang trên trời.

Cđ.: Lạy Chúa, tạ ơn Chúa thật là chính đáng và phải đạo.

Người nữ: Trong Giao ước giữa người nam và người nữ Chúa đã ban cho chúng con hình ảnh sống động của tình yêu Đức Kitô dành cho Hội thánh, và trong bí tích hôn phối xin hãy tỏ cho chúng con thấy tình yêu nhiệm mầu khôn dò của Ngài.

Cđ.: Lạy Chúa, tạ ơn Chúa thật là chính đáng và phải đạo.

Câu hỏi giúp suy tư:

- Thế nào là các bí tích?

- Chúng ta biết nghi lễ hôn phối Kitô giáo có những ý nghĩa gì?

- Hai người tín hữu quyết định kết hôn với nhau trước mặt Chúa, việc đó có khác biệt gì so với những người khác kết hôn theo các ‘nghi lễ’ khác?

Suy tư:

Con đường đã đi qua cho thấy trong quyết định kết hôn người Kitô hữu không vô tâm vô tình nhưng đánh dấu trước hết chặng đường đính hôn và quyết định sau cùng của họ. Bởi thế hai người Kitô hữu đính hôn không chỉ đơn thuần “kết hôn” với nhau, nhưng còn có ý hướng và xin được “kết hôn trong Hội thánh”, nghĩa là chia sẻ đức tin của Hội thánh.

Bí tích hôn phối: dấu chỉ hữu hiệu của tình yêu Đức Kitô

«Hôn nhân Kitô giáo, phản ánh sự kết hợp giữa Đức Kitô và Hội thánh của Người, được thực hiện một cách trọn vẹn trong sự kết hợp giữa một người nam và một người nữ, họ hiến thân cho nhau trong một tình yêu độc hữu và sự trung thành trong tự do, họ thuộc về nhau cho đến chết và mở ra cho việc truyền sinh, họ được thánh hiến bởi bí tích trao ban ân sủng để xây dựng một Hội thánh tại gia và men của sự sống mới cho xã hội» (Amoris Laetitia 292; HĐGMVN, Thư gửi các Gia đình công giáo, 1).

Khi dùng chữ “Bí tích” người ta muốn nói ngay đến một nghi lễ cử hành bởi Hội thánh và trong Hội thánh. Sâu xa hơn, với từ ngữ ấy chúng ta muốn nói rằng, qua hành động cử hành nghi thức đặc thù này (dù là Rửa tội hay Thêm sức, Hòa giải hay Thánh Thể, Xức dầu bệnh nhân hay Hôn phối hoặc Truyền Chức thánh) chính Chúa Giêsu hành động, Người ban ơn cứu độ cho con người bằng cách hiện tại hóa mầu nhiệm Vượt Qua cho chúng ta tại đây và hôm nay. Bằng cách đó, Người cho ta có thể dự phần vào Thập giá và Phục sinh của Người. Trong những thế kỉ đầu của đời sống Hội thánh, hôn phối đã được cử hành không có nghi lễ đặc thù riêng, mà chủ yếu theo tập tục của xã hội trong đó đôi bạn Kitô hữu đang sống. Nhưng kể từ đó, trước mỗi dịp kết hôn, các Kitô hữu đã ý thức mình sống trong một thực tại “thánh thiêng”: người ta biết đó là hai người tín hữu kết hôn “trong Chúa”. Lời ưng thuận kết hôn mà hai người Kitô hữu tuyên bố “được biến hình” từ bên trong nhờ phép Rửa tội họ đã lãnh nhận. Đôi tân hôn Kitô hữu biết rằng họ kết hợp nên một trong Đức Kitô. Từ ý thức này Hội thánh đi đến chỗ nhìn nhận giá trị của hôn nhân như là một bí tích. Thánh Phaolô trong Thư gửi tín hữu Êphêsô (5,22-30) đã xét đến kinh nghiệm vợ chồng cụ thể này và nhấn mạnh rằng: quan hệ giữa vợ và chồng là một quan hệ  “trong Chúa”; vợ phải “tùng phục” chồng như Hội thánh tùng phục Đức Kitô; chồng phải yêu thương vợ mình như Đức Kitô yêu thương Hội thánh. Khi ấy, mầu nhiệm phải được hiểu như là hành động cứu độ của Thiên Chúa, Đấng đã sai Con của Người đến mạc khải cho ta dung mạo Thiên Chúa là Cha của Người, cũng như là hành động của Đức Giêsu Kitô. Như thế hôn nhân là bí tích và trong bí tích đó Chúa Thánh Thần Đấng được tuôn tràn ban cho đôi bạn một quả tim mới và làm cho người nam và người nữ có khả năng yêu mến như Chúa Kitô đã yêu mến chúng ta. Tình yêu vợ chồng, vì thế, phải hướng đến mức viên mãn của nó như đã được tiền định tự bên trong: tình bác ái phu thê. Đoạn thư của thánh Phaolô gửi tín hữu Êphêsô còn nhấn mạnh một điểm cốt yếu khác nữa về nội dung của bí tích hôn phối. Nó xuất phát từ chính tình yêu vợ chồng cụ thể diễn tả trong đời sống đôi bạn và gia đình. Chính thực tại đặc thù của đôi bạn tín hữu đã rửa tội (toàn thể con người, nam cũng như nữ, với xác thân của người nam và người nữ họ trao đổi yêu thương và hiến dâng cho nhau cách trọn vẹn, duy nhất, bất khả phân li và phong nhiêu) được biến đổi thành “bí tích”. Trung tâm điểm của cử hành hôn phối là lời tuyên bố ưng thuận đôi tân hôn trao cho nhau . Thực tế có một nguy cơ là lời tuyên hứa ưng thuận giữa một người nam và một người nữ diễn ra khá thường ấy có thể hơi bị xem nhẹ. Trong khi, thực ra chúng ta đang đối diện với một phép lạ, đó là một người tự nguyện hiến chính mình cho một người khác, dám trao phó con tim mình, cuộc sống mình, số phận mình cho người ấy, phó thác cho mầu nhiệm của một nhân vị khác.

Hôn phối một “bí tích thường xuyên”

«Bí tích Hôn Phối không chỉ là thời điểm cử hành hôn lễ nhưng là thực tại tác động toàn bộ đời sống hôn nhân» (HĐGMVN, Thư Chung 2016).

Nói hôn nhân là một bí tích có nghĩa là nhìn nhận rằng qua hành động của đôi hôn phối nói lên sự ưng thuận chính Đức Kitô hoạt động: Người mạc khải và thực hiện cái gì đó thuộc tình yêu của Người cho Hội thánh và cho con người. Hẳn là Đức Kitô sẽ hiện diện cả trong những hoàn cảnh khác thường nhật hơn của đời sống; nhưng công bố sự ưng thuận vẫn là một hành động biệt loại, không ở trên cùng một bình diện với tất cả các hành động khác của tình yêu đôi bạn trao cho nhau về sau. Hôn phối có thể được xếp vào loại “bí tích thường xuyên”: suốt cuộc sống hôn nhân của họ, trong những hoàn cảnh nhất định, đôi bạn có thể tái hiện lại bí tích hôn phối qua việc tạo ra những hiệu quả của ân sủng và ý nghĩa sâu xa ấy vốn đã được thực hiện trong thời điểm cử hành lễ cưới. Điều đó xảy ra trong mọi hành động đặc thù của tình yêu giữa đôi vợ chồng – kể cả hành động kết hợp tính dục vợ chồng – để trải nghiệm trong sự tự do và ý thức, một cách chân thật, như những hành động đích thật của tình yêu.

Hôn nhân, Thánh Thể và bước theo Chúa Kitô

Thế nên, nói hôn nhân là “bí tích” điều đó có nghĩa là khẳng định rằng chính hôn nhân là một âm vang vọng của lời “xin vâng” của tình yêu được loan báo và sống trên Thập giá của Đức Kitô. Chính vì thế, hôn nhân được mời gọi họa lại theo khuôn mẫu tình yêu của Giêsu và tái hiện lại những gì diễn ra nơi tình yêu thập giá ấy trong ngày hôm nay. Qui chiếu bí tích hôn phối đến tình yêu của Chúa Kitô trên Thập giá còn gợi sự liên hệ chặt chẽ giữa Hôn nhân và Thánh Thể: Mình Thánh trao ban, Máu Giao ước đổ ra của Chúa Kitô trở thành cơ sở, nguyên mẫu và sức mạnh cho đời sống bác ái của mỗi Kitô hữu, của các đôi bạn và gia đình Kitô hữu. Chính trong hi tế này đôi bạn Kitô hữu tìm thấy nguồn mạch không ngừng tuôn trào và định dạng cho Giao ước phu thê của mình.

«Đức Giêsu gõ cửa các gia đình chia sẻ với họ bữa tiệc Thánh Thể (cf. Kh 3,20). Ở đó, vợ chồng luôn luôn có thể kí kết lại giao ước Vượt Qua vốn là giao ước đã kết hợp họ và phản ảnh Giao ước mà Thiên Chúa đã kí kết với nhân loại trên thập giá (FC 57). Thánh Thể là bí tích của Giao Ước Mới, trong đó công trình cứu chuộc của Đức Kitô được thực hiện (cf. Lc 22,20). Như thế mối liên kết sâu xa giữa đời sống hôn nhân và Thánh Thể càng trở nên càng rõ nét hơn[15]. Lương thực Thánh Thể là sức mạnh và động lực cần thiết cho đôi vợ chồng để sống hôn ước mỗi ngày như một “Hội thánh tại gia”» (Amoris Laetitia 318).

Khi ấy, người ta có thể kết luận rằng đối với hai bạn đính hôn Kitô hữu, kết hôn trong Hội thánh nhằm mục đích cuối cùng là gia tăng tình yêu Chúa Giêsu Kitô hơn, bằng cách sống như Người, hay bước theo ơn gọi nên thánh của mình.

Bí tích hôn phối xây dựng Hội thánh

Sự hiện diện của linh mục chứng hôn cho đôi bạn kết hôn trong Hội thánh diễn tả sự kiện hôn phối liên hệ đến toàn thể Hội thánh. Thể thức công khai và hình thức Hội thánh của lễ Hôn phối không chỉ là một thủ tục bên ngoài. Nó hàm chứa một sự nhìn nhận và bảo vệ cho quyết định này và nói lên rằng cộng đoàn Kitô hữu cảm thấy mình đồng trách nhiệm hoàn thành cuộc hôn nhân này. Hơn nữa, tình yêu của đôi vợ chồng góp phần hiệu quả để xây dựng Hội thánh. Đôi vợ chồng góp phần trước hết qua việc đón nhận và giáo dục con cái mà Chúa sẽ ban cho họ và còn qua gương mẫu sống đức tin, sống tinh thần hiếu khách và cởi mở đón nhận tha nhân khi trở nên những tế bào sống động của Giáo hội.

Hôn nhân và “những thực tại cánh chung”

Hôn nhân Kitô giáo loan báo, tiên trưng và báo trước niềm vui và sự viên mãn của thời cánh chung. Nhưng hôn nhân không phải là một giá trị tối hậu, và như thế, người ta không thể phóng chiếu trên hôn nhân những mong đợi và những kì vọng quá đáng. Không người nào có thể ban cho người bạn đời kia “thiên đàng tại thế”. Hạnh phúc hai người có được trong tình yêu của họ chỉ là một hình ảnh bất toàn và còn khiếm khuyết của niềm hạnh phúc sau cùng mà chỉ một mình Chúa mới có thể ban cho.

«Quả thật, trên thực tế không gia đình nào là hoàn hảo và được kiện toàn một lần dứt khoát; nhưng đòi hỏi một sự phát triển tiệm tiến khả năng yêu thương của mình. Có một tiếng gọi không dứt, phát xuất từ sự hiệp thông viên mãn của Thiên Chúa Ba Ngôi, từ sự kết hợp kì diệu giữa Đức Kitô và Hội thánh của Người, từ cộng đoàn kiều diễm là Gia đình Nadarét, và từ tình huynh đệ vô tì tích giữa các thánh trên thiên quốc. Tuy nhiên, việc chiêm ngắm sự viên mãn mà chúng ta chưa đạt tới cũng giúp chúng ta biết tương đối hóa trong khi nhìn lại cuộc hành trình lịch sử mà chúng ta đang thực hiện trong tư cách là gia đình, để rồi chúng ta không còn đòi hỏi các mối tương quan liên vị của chúng ta phải hoàn hảo, phải tinh tuyền trong ý hướng, và phải nhất quán – điều mà chúng ta chỉ có thể gặp thấy trong Nước Trời mai sau» (Amoris Laetitia 325)

Thảo luận theo nhóm:

. Phản ứng tức thời của chúng ta như thế nào trước điều được nghe?

. Suy nghĩ về chi tiết một vài lời nói, cử chỉ trong nghi thức hôn phối (những câu hỏi của người chứng hôn trước lời ưng thuận, chính lời công bố sự ưng thuận, sự kiện trao nhẫn cho nhau) anh chị có thể cùng rút ra được một vài ý nghĩa trọng yếu nào?

. Đâu là những hệ quả từ những điểm nhấn quan trọng trên đây có thể đem lại cho cuộc sống hằng ngày?


 

 

Gặp gỡ V:

ĐƯỢC KÊU GỌI NÊN THÁNH

Mục đích:

Mỗi người tín hữu, theo bậc sống của mình, được mời gọi nên thánh qua việc dành chỗ cho Chúa Thánh Thần hoạt động. Mục đích của buổi gặp gỡ này để giúp các cặp đính hôn biết dự phóng một cuộc sống hôn nhân và gia đình tương lai, dấn thân cho sự tăng trưởng đời sống thiêng liêng và cố gắng làm cho cuộc sống hằng ngày tăng trưởng không ngừng theo thánh ý Chúa.

Cầu nguyện và lắng nghe Lời Chúa:

Lời dẫn:

Hôn nhân là một ơn gọi đặc biệt của Kitô giáo, nghĩa là một tiếng gọi kêu mời đi theo Chúa Giêsu mọi ngày trong cuộc sống chúng ta. Điều đó có nghĩa là toàn bộ cuộc sống hôn nhân và gia đình, trong mỗi khi hạnh phúc cũng như lúc gặp khó khăn, được thiết lập như một lối đường để đạt đến sự thánh thiện, tức là để nên thánh. Trong bí tích hôn phối, Chúa sẽ ban cho anh chị Thần Khí của Người và trợ giúp anh chị bằng những ơn huệ Người ban để anh chị tôn vinh “hình ảnh của Thiên Chúa” trong con người anh chị, để tác tạo anh chị thành những người nam và người nữ sống hiệp thông đích thực. Con đường nên thánh sẽ đòi hỏi anh chị phải chiến đấu quyết liệt để chống lại tội lỗi, để tránh xa mọi thứ ích kỉ và chia rẽ, và đáp lại Thiên Chúa tình yêu và hợp nhất. Chỉ như thế, trong sự hòa hợp trọn vẹn với chính mình, với người bạn đời và với những người khác, anh chị mới có thể “dâng hiến thân mình làm của lễ sống động, thánh thiện và đẹp lòng Thiên Chúa” như thánh Phaolô nói trong Thư gửi tín hữu Rôma (12,1). Toàn thể cuộc sống đôi lứa của anh chị sẽ được Thánh Thần Chúa phủ bóng và mọi phần của con người, mọi lúc của cuộc sống anh chị sẽ là lời ca tụng vinh quang Cha trên trời.

Lời Chúa: trích trong Thư của thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Êphêsô

«Chúc tụng Thiên Chúa là Thân Phụ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Trong Đức Kitô, từ cõi trời, Người đã thi ân giáng phúc cho ta hưởng muôn vàn ơn phúc của Thánh Thần. Trong Đức Kitô, Người đã chọn ta trước cả khi tạo thành vũ trụ, để trước thánh nhan Người, ta trở nên tinh tuyền thánh thiện, nhờ tình thương của Người. Theo ý muốn và lòng nhân ái của Người, Người đã tiền định cho ta làm nghĩa tử nhờ Đức Giêsu Kitô, để ta hằng ngợi khen ân sủng rạng ngời, ân sủng Người ban tặng cho ta trong Thánh Tử yêu dấu. Trong Thánh Tử, nhờ máu Thánh Tử đổ ra chúng ta được cứu chuộc, được thứ tha tội lỗi theo lượng ân sủng rất phong phú của Người. Ân sủng này, Thiên Chúa đã rộng ban cho ta cùng với tất cả sự khôn ngoan thông hiểu. Người cho ta được biết thiên ý nhiệm mầu: thiên ý này là kế hoạch yêu thương Người đã định từ trước trong Đức Kitô. Đó là đưa thời gian tới hồi viên mãn là qui tụ muôn loài trong trời đất dưới quyền một thủ lãnh là Đức Kitô. Cũng trong Đức Kitô, Thiên Chúa là Đấng làm nên mọi sự theo quyết định và ý muốn của Người, đã tiền định cho chúng tôi đây làm cơ nghiệp riêng theo kế hoạch của Người, để chúng tôi là những người đầu tiên đặt hi vọng vào Đức Kitô, chúng tôi ngợi khen vinh quang Người» (Ep 1,3-12).

Linh mục:

Lạy Cha chí thánh, xin nhậm lời cầu nguyện của những con cái Cha đây, là những người con đang chuẩn bị cuộc sống hôn nhân của họ như một lối đường để nên thánh theo Thần Khí Chúa. Chúng con cầu nguyện cùng Cha bằng những lời lẽ của lời chúc lành mà linh mục sẽ khẩn cầu ban xuống trên đôi bạn ngày tân hôn.

Những người nữ:

Lạy Cha, chúng con cầu xin cho những người bạn là hôn phu tương lai của chúng con đây, để một khi nên mạnh mẽ nhờ chúc lành của Cha, các anh sẽ hoàn tất cách trung tín và can đảm sứ vụ làm chồng và làm cha của các anh.

Những người nam:

Lạy Cha, chúng con cầu xin cho những người bạn là hôn thê tương lai của chúng con đây, để một khi được ân sủng Cha nâng đỡ, các chị em sẽ noi theo những phụ nữ thánh thiện mà Sách Thánh ca tụng như những người vợ và người mẹ gương mẫu.

Tất cả các anh chị đính hôn:

Lạy Cha, xin cho chúng con biết yêu thương nhau bằng chính tình yêu mà Chúa Kitô đã yêu thương Hội thánh của Người.

Linh mục:

Lạy Cha, các con cái của Cha đây xin dâng lời hân hoan ngợi khen Cha, nguyện tìm Cha trong đau thương; vui hưởng tình bằng hữu của Cha trong khổ nhọc và lời ủi an của Cha trong những khi túng cực; xin cho họ nguyện cầu cùng Cha trong Đại hội các thánh, để họ trở thành những chứng nhân cho Tin Mừng của Cha và đạt đến hạnh phúc trong Nước Cha. Nhờ Đức Kitô Chúa chúng con. Amen.

Câu hỏi giúp suy tư:

- Các thánh là ai? Sự thánh thiện liên quan thế nào tới hôn nhân?

- Khi nhìn vào đời sống hằng ngày, đâu là những nỗi lo sợ chính yếu nhất cho cuộc sống hôn nhân tương lai?

- Chúng ta có xem những suy tư đề nghị cho chúng ta trong những gặp gỡ này là chuyện lí thuyết không?

Suy tư:

Hôn nhân và ơn gọi nên thánh

«Chúa Kitô Con Thiên Chúa, cùng với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần, được ca tụng là “Đấng Thánh duy nhất”, đã yêu quí Hội thánh như hiền thê mình và đã hiến thân để thánh hóa Hội thánh. Người kết hợp với Hội thánh như Thân mình Người và ban cho dư đầy ơn Thánh Thần để làm vinh danh Thiên Chúa. Vì thế tất cả mọi người trong Hội thánh (…) đều được kêu gọi nên thánh» (Lumen gentium 39).

«Hôn nhân Kitô giáo, phản ánh sự kết hợp giữa Đức Kitô và Hội thánh của Người, (…) được thánh hiến bởi bí tích trao ban ân sủng để xây dựng một Hội thánh tại gia và men của sự sống mới cho xã hội» (Amoris Laetitia 292).

Tông huấn Familiaris Consortio khẳng định rằng việc nên thánh riêng của các đôi vợ chồng Kitô hữu “được xác định bởi bí tích đôi bạn đã cử hành và được thể hiện cụ thể trong thực tế riêng của cuộc sống hôn nhân và gia đình” (56). Bí tích mà các Kitô hữu lãnh nhận trong hôn nhân dẫn đưa họ vào một cuộc sống chung, được bao bọc bởi một tình yêu đằm thắm rạng ngời tình yêu Ba Ngôi Thiên Chúa. Bởi thế, tình yêu của các đôi vợ chồng là “thánh thiện”, nếu nó mang lấy những đặc tính trọn vẹn và tận tình mà Chúa Giêsu nói: «Như Thầy đã yêu thương anh em, anh em cũng hãy yêu thương nhau» (Ga 15,12).

Ơn gọi nên thánh phổ quát

Sự thánh thiện, trước khi là hoa trái của quyết định có ý thức của cá nhân hoặc của đôi bạn tín hữu, là một ơn huệ do Chúa trao ban trong Giáo hội cho chúng ta qua bí tích Rửa tội, và chúng ta được kêu gọi hết sức làm phát triển nó đến mức viên mãn. Chúng ta có Đức Kitô là người mẫu ưu việt cho việc phát triển sự thánh thiện viên mãn này: sự sống của Người được trao phó vào vòng tay trìu mến của Chúa Cha vì anh em Người. Tình yêu này được biểu lộ và triển nở trong các điều kiện cụ thể của cuộc sống và tìm thấy trong Hội thánh những con đường “thông thường” của nó: phụng vụ, lắng nghe Lời Chúa, bác ái. Đời sống phu thê và hôn nhân chính là một trong những con đường người ta có thể dùng để đáp lại ơn gọi nên thánh theo những đặc tính của hôn nhân như hợp nhất, trung thành, bất khả phân li và phong nhiêu.

Người nam và người nữ vươn tới sự thánh thiện

Đời sống Kitô hữu không phải là một “đời sống đan tu” cũng không phải là cốt đi tìm “những thời gian thinh lặng và cầu nguyện”: nhưng đó là một “lối sống” trong Thần Khí gắn kết mọi chiều kích của cuộc sống. Theo nghĩa đó Hội thánh đã định vị đời hôn nhân như là một biểu đạt đặc trưng và đặc thù của sự thánh thiện. Điều đó có nghĩa là ân điển hiệp thông mà bí tích trao ban không tuôn đổ ráo hết trong ngày cử hành hôn phối mà kéo dài hiệu quả của nó ra trong suốt những ngày đời hôn nhân của đôi bạn.

Gìn giữ sự thánh thiện của đời sống đôi lứa

Đôi bạn thực hiện ơn gọi nên thánh của mình xuyên qua các thực tại tiêu biểu của đời sống hôn nhân và gia đình. Như thế, đối với các người vợ và người chồng, sự thánh thiện không nằm ở nơi đâu khác mà, nằm ngay trong chính cuộc sống hôn nhân, và qua đời sống vợ chồng, nằm trong tình trạng, phẩm giá và các bổn phận bao hàm trong đó. Đời sống phu thê lan tỏa ra bởi Chúa Thánh Thần, và với các ơn huệ của Ngài các ý nghĩa và chọn lựa của cuộc sống đôi lứa trở thành biểu trưng. Chẳng hạn như: nếu tình yêu của họ dành cho nhau được hướng dẫn bởi ơn hiểu biết thì họ sẽ không chỉ dừng lại ở vẻ bên ngoài con người của nhau mà còn cố tìm đọc hiểu các nhu cầu của người kia tương thích với sự thật; nếu để tình yêu đối với con cái được hướng dẫn bởi ơn sức mạnh, thì tình yêu sẽ có khả năng giúp đỡ con cái chiến đấu chống lại sự ác, vì thế họ không tránh né những hi sinh cần thiết hầu có được sự thiện.

Sự thánh thiện của hôn nhân và hành trình tiệm tiến

Nên thánh không đơn giản chỉ là một trạng thái “tiềm ẩn” nhưng phải được cụ thể hóa ra thành một hành trình tâm linh trong đó đôi vợ chồng tự nguyện chọn lựa, suy nghĩ, và thực hiện dần dần theo thời gian. Ơn gọi nên thánh được thực hiện qua một sự phân định về hành trình tâm linh cần phải hoàn tất trong tư cách của vợ chồng và tư cách của cha mẹ. Những chọn lựa của họ từ nay phải thể hiện định hướng của toàn bộ cuộc sống gia đình. Như thế, điều quan trọng là phải sống mỗi chiều kích của cuộc sống theo hướng “tâm linh” và bởi đó, hành trình của đôi bạn đính hôn đã phải đánh dấu bởi một sự quan tâm chăm chú vào đời sống thiêng liêng.

Cần có một linh đạo hôn nhân đích thật và sâu sắc

Có thể gợi ra đây một vài yếu tố cốt lõi và các lãnh vực sống linh đạo hôn nhân:

- Đó là một lối sống đời hôn nhân và gia đình nhằm mục đích luôn tiến đến sát gần hơn tình yêu của Chúa Kitô. Đối với các đôi vợ chồng, lối sống ấy thể hiện qua việc sống tình hiệp thông, cầu nguyện và tham dự phụng vụ. Việc nên thánh cá nhân và trong hôn nhân không nghịch, mà trái lại còn làm thăng hoa đời sống nhân bản và đức tin của cá nhân và của đôi bạn.

«Linh đạo tình yêu gia đình được cấu thành từ hàng ngàn cử chỉ thực tế và cụ thể. Trong tình hiệp thông được xây dựng từ bao nhiêu là hi sinh và gặp gỡ, Thiên Chúa có chỗ ngự trị của Ngài. Sự dâng hiến cho nhau đó kết hợp “những giá trị nhân văn và thần linh”, vì nó là sự tròn đầy của tình yêu Thiên Chúa» (Amoris laetitia 315).

«Nếu gia đình luôn qui hướng về Đức Kitô, Người sẽ hiệp nhất và soi sáng toàn thể đời sống của gia đình. Những khổ đau và những vấn đề của gia đình trải nghiệm trong sự thông hiệp với Thập Giá của Chúa, và được Người ôm lấy sẽ giúp gia đình chịu đựng được những thời khắc tồi tệ. Trong những ngày giờ cay đắng của gia đình, việc kết hợp với Đức Giêsu bị bỏ rơi có thể giúp tránh được sự đổ vỡ. Các gia đình dần dần, đạt đến sự thánh thiện của mình qua đời sống hôn nhân, bằng ân sủng của Thánh Thần và bằng việc tham dự vào mầu nhiệm thập giá Đức Kitô, nhờ đó những khó khăn và đau khổ chuyển hóa thành một hiến lễ tình yêu» (Amoris laetitia 317).

- Linh đạo phát sinh từ bí tích hôn nhân đảm nhận cả thực tại thể xác của người nam và người nữ và quan hệ yêu đương của họ, để cho thấy con đường chủ đạo thực hiện viên mãn. Tính dục của đôi bạn đề cao các chiều kích hiến dâng, vô cầu, đón nhận sự sống có trách nhiệm. Đó là một linh đạo sống tính dục nhân bản và nhân vị toàn vẹn. Từ bản tính của tình yêu phu thê, ta thấy linh đạo hôn nhân là :

«linh đạo của tình yêu tự dođộc hữu» (Amoris laetitia 319).

- Thần Khí được tuôn ban trong bí tích đưa đôi bạn vào trong Hội thánh với tư cách như một đôi vợ chồng Kitô hữu và biến họ thành một biểu hiện mầu nhiệm hiệp thông, điều mà toàn thể gia đình phàm nhân được kêu gọi hướng tới. Cả điều này cũng cần được thực hiện theo cách thế không có “cạnh tranh” giữa đời sống gia đình và tham dự vào các sinh hoạt Giáo hội. Vấn đề là làm sao hòa hợp về thời gian và nguồn lực nhưng nhất thiết phải tránh thái độ khép kín làm “tàn tạ” gia đình theo cái nhìn thiêng liêng.

Các nguồn lực và phương tiện để nâng đỡ và nuôi dưỡng linh đạo hôn nhân

Tham dự các bí tích, cầu nguyện và tạ ơn, chứng tá cho một đời sống thánh thiện, với những hi sinh và việc bác ái là những trọng điểm của linh đạo Kitô giáo và đòi hỏi phải được đôi bạn sống một cách trọn vẹn, theo nhịp riêng của đời sống gia đình. Đặc biệt, ngày càng thấy rõ ràng hơn cần thiết phải xác minh thường xuyên hành trình  đức tin của đôi bạn và gia đình, ngay cả phải nhờ đến bí tích Hòa giải, gặp gỡ và đối thoại với một vị linh hướng, đối thoại giữa hai vợ chồng. Trong hướng đi đó, người ta ngày càng nhận thấy các nhóm gia đình qui tụ thành cộng đoàn rất quan trọng. Họ nâng đỡ nhau, không để cho một đôi bạn nào lẻ loi cô đơn chịu đựng trước các hoàn cảnh khó khăn, hoặc trước nhiệm vụ gay go sống niềm tin của mình trong thế giới.

Thảo luận theo nhóm:

. Phản ứng tức thời của chúng ta như thế nào trước điều được nghe?

. Anh chị có cảm thấy sợ hãi, e thẹn và khó khăn khi phải nói ra những điều riêng tư thuộc đời sống nội tâm và thiêng liêng không? Đâu là những khó khăn chính và tại sao?

. Đâu là những hoàn cảnh có thể giúp củng cố và làm tăng trưởng linh đạo này trong cộng đoàn của chúng ta?

. Phải chăng giáo dục đời sống thiêng liêng cũng là một trong những mục tiêu chính yếu của việc giáo dục con cái? Chúng ta có thể gặp phải những vấn đề nào?


 

 

Gặp gỡ VI:

CHÚNG TA SẼ NÊN MỘT XƯƠNG MỘT THỊT

Mục đích:

Cùng nhau suy nghĩ về chuyện kết hôn, đó là sự kiện ta phải xây dựng dần dà theo thời gian đồng thời học nhìn hôn phối như là một bước khởi đầu của kế hoạch sống. Chúng ta thấy nhiệm vụ luân lí này được thiết lập dựa trên nền tảng của chọn lựa hôn nhân là một lựa chọn trọn vẹn, bất khả phân li và duy nhất của và đôi bạn thiết yếu phải tin tưởng dự phóng này.

Cầu nguyện và lắng nghe Lời Chúa:

Lời dẫn:

Ơn ta nhận được trong bí tích hôn phối đòi hỏi phải được sống và làm cho mới mỗi ngày: đó là lời hứa đôi tân hôn trao cho nhau khi tuyên bố ưng thuận kết hôn.

Nhiệm vụ luân lí của anh chị sẽ được thực hiện trong một hành trình dài để dần dần trở nên “một xương một thịt” trong khi biết tôn trọng sự khác biệt nhau, để cùng nhau xây dựng một cuộc sống chung nuôi dưỡng bởi một tình yêu trọn vẹn, trung tín, bất khả phân li và phong nhiêu (sẵn sàng đón nhận và nuôi dạy con cái).

Trong cuộc hành trình này anh chị không đơn độc: trong cuộc sống và trong nhà của anh chị sẽ có Thánh Thần Chúa hiện diện và hoạt động.

Lời Chúa: trong Tin Mừng theo thánh Marcô

«Đức Giêsu bỏ nơi đó, đi tới miền Giuđê và vùng bên kia sông Giođan. Đông đảo dân chúng lại tuôn đến với Người. Và như thường lệ, Người lại dạy dỗ họ. Có mấy người Pharisêu đến gần Đức Giêsu và hỏi rằng: "Thưa Thầy, chồng có được phép rẫy vợ không? " Họ hỏi thế là để thử Người. Người đáp: "Thế ông Môsê đã truyền dạy các ông điều gì? " Họ trả lời: "Ông Môsê đã cho phép viết giấy li dị mà rẫy vợ." Đức Giêsu nói với họ: "Chính vì các ông lòng chai dạ đá, nên ông Môsê mới viết điều răn đó cho các ông. Còn lúc khởi đầu công trình tạo dựng, Thiên Chúa đã làm nên con người có nam có nữ; vì thế, người đàn ông sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ thành một xương một thịt. Như vậy, họ không còn là hai, nhưng chỉ là một xương một thịt. Vậy, sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân li." Khi về đến nhà, các môn đệ lại hỏi Người về điều ấy. Người nói: "Ai rẫy vợ mà cưới vợ khác là phạm tội ngoại tình đối với vợ mình; và ai bỏ chồng để lấy chồng khác, thì cũng phạm tội ngoại tình." » (Mc 10,1-12).

Linh mục:

Trong khi cùng nhau cầu nguyện bằng thánh vịnh 127, chúng ta hãy bày tỏ niềm xác tín rằng sự bình an của Chúa sẽ cư ngụ trong gia đình trung tín với Người, vì Người làm cho gia đình tràn ngập hạnh phúc. Chúng ta chia ra làm hai bè luân phiên các chị rồi các anh xướng đáp.

Những người nữ:

Hạnh phúc thay bạn nào kính sợ CHÚA, ăn ở theo đường lối của Người.

Công khó tay bạn làm, bạn được an hưởng, bạn quả là lắm phúc nhiều may.

Những người nam:

Hiền thê bạn trong cửa trong nhà khác nào cây nho đầy hoa trái;

và bầy con tựa những cây ô-liu mơn mởn, xúm xít tại bàn ăn.

Những người nữ:

Đó chính là phúc lộc CHÚA dành cho kẻ kính sợ Người. Xin CHÚA từ Sion xuống cho bạn muôn vàn ơn phúc! Ước chi trong suốt cả cuộc đời bạn được thấy Giêrusalem phồn thịnh,

Những người nam:

được sống lâu bên đàn con cháu. Nguyện chúc Israel vui hưởng thái bình!

Tất cả:

Vinh danh Chúa Cha và Chúa Con, cùng vinh danh Thánh Thần Thiên Chúa,

Tự muôn đời và chính hiện nay, luôn mãi đến thiên thu vạn đại. Amen.

Câu hỏi giúp suy tư:

- Luật luân lí là gì? Hạn chế các ước muốn và khát khao của con người, cá nhân cũng như đôi bạn, có chính đáng không?

- Anh chị hiểu như thế nào khẳng định sau đây: “Hôn phối không phải là điểm đến nhưng là điểm khởi đầu” ? Tại sao, và theo nghĩa nào, với những chọn lựa nào?

- Diễn ngữ tin mừng liên hệ tới hôn nhân sau đây có ý nghĩa gì: “Cả hai sẽ trở nên một xương một thịt” ?

Suy tư:

Đề tài của lần gặp gỡ này là thái độ và hành vi luân lí Kitô giáo của đôi bạn.

Hôn nhân không chỉ gói trọn trong một nghi lễ cử hành, nhưng là một “bậc sống”, tức là một tình trạng của cuộc sống, được trải dài trong thời gian và đòi hỏi phải được làm mới lại mỗi ngày trong khi đối mặt với một chuỗi những điều cụ thể phải quyết định. Nói đến “thái độ và hành vi luân lí” khiến nhiều người trong chúng ta cảm thấy không ít bối rối hay khó khăn. Quả thật, một cách tự nhiên, người ta thường nhìn vấn đề này như một tổng thể các luật lệ và qui tắc được áp đặt bởi lề luật từ bên ngoài: luật lệ và qui tắc được cảm nhận như một gánh nặng phải mang, như một sự giới hạn tự do riêng của mỗi người. Trong bối cảnh văn hóa thời đại hôm nay với đặc trưng chủ nghĩa tương đối về đạo đức khá phổ biến, cảm thức ấy còn thấy rõ ràng hơn.

Ý nghĩa của luân lí Kitô giáo

Không nên lẫn lộn tính luân lí với chủ nghĩa duy luân lí hay chủ nghĩa duy pháp lí (hiểu như là chỉ giữ luật bề ngoài, hay thái độ sống nệ luật). Phải nhìn luân lí như là một dấn thân của tự do và lương tâm của ta tìm kiếm và thực thi sự thiện đích thật, khi ta nhận ra chính chân lí. Lề luật và các qui tắc, theo nghĩa này, là để diễn giải như một ơn huệ của Thiên Chúa nhằm giúp chúng ta gặt nắm được sự thật về mình dễ dàng hơn, để làm sao cho chúng ta trong tự do có thể gắn kết được với Ngài. Điều này đúng cho cá nhân và cũng đúng cho đời hôn nhân. Đặc tính nền tảng của luân lí Kitô giáo là: trong luân lí ấy ơn Chúa đi trước đòi hỏi sống theo lề luật và qui tắc, và ơn này, khi khơi dậy trong ta sự đáp trả và chất vấn tự do của mình, trở thành tiếng kêu gọi ta đảm nhận một lối sống nào đó. Qua khế ước hôn phối, tức là bằng tình yêu phu thê, người kết hôn tham dự vào chính tình yêu của Đức Kitô dành cho Hội thánh Người: đó là ơn ban của Thần Khí làm cho hai vợ chồng có khả năng sống theo những tính năng của chính tình yêu này. Từ ơn huệ này phát sinh ra bổn phận phải sống theo sự thật của tình yêu vợ chồng và phù hợp với căn tính của người đã kết hôn: người được kêu gọi thể hiện trong lịch sử mầu nhiệm tình yêu của Đức Kitô dành cho Hội thánh. Sống cuộc hôn nhân của mình, bởi thế, không hệ tại nơi việc thích nghi theo một lề luật bên ngoài, cho bằng là thực hiện những gì là chính hôn nhân.

«Tuy nhiên sẽ không tốt nếu chúng ta lẫn lộn các bình diện khác nhau: không được đặt lên hai con người đầy giới hạn cái gánh nặng to lớn của việc phải thể hiện lại cách hoàn hảo mối kết hợp giữa Đức Kitô và Hội thánh, vì hôn nhân – xét như một dấu chỉ – là “một tiến trình năng động dần dần tiến tới hội nhập ngày một hơn các ơn huệ của Thiên Chúa” (FC 9).» (Amoris laetitia 122).

Thái độ hành động luân lí của các đôi vợ chồng

Hôn nhân, trong khi kết hợp vợ chồng nên một, đòi hỏi hai người mỗi ngày không ngừng trở nên “một xương một thịt”. Nói cách khác, điều quan trọng là vợ chồng sống đời hôn nhân của mình làm sao để thực hiện tốt các đặc tính của tình yêu phu thê, một tình yêu hoàn toàn nhân bản và trọn vẹn và nhìn nhận tình yêu phu thê «là một tình yêu trọn vẹn gồm thâu mọi nhân tố thuộc ngôi vị - cả về thể xác và bản năng, sức mạnh của cảm xúc và tình yêu, khát vọng của tâm linh và ý chí -; tình yêu ấy nhằm đến một sự hợp nhất sâu xa giữa các ngôi vị, một sự hợp nhất ngoài sự kết hợp nên một trong thân xác, còn nên một trong tâm hồn và trong linh hồn» (Familiaris consortio, 13). Được kêu gọi nên một không hề có nghĩa là loại trừ những khác biệt, nhưng đúng hơn là nhìn nhận, tôn trọng, thăng tiến và quí trọng tính cá biệt của nhau, đem hòa nhập nó vào mạch chảy của tình yêu và hiệp thông sâu xa. Những tính chất không thể chối bỏ của hôn nhân dựa trên nền tảng sự hiệp nhất vợ chồng, khi ấy, là trung thành (với kế hoạch yêu thương tự hiến), bất khả phân li (li dị là một sự xúc phạm nghiêm trọng đến phẩm giá của hôn nhân, đến ơn ta lãnh nhận), phong nhiêu (mở ra với sự sống), khiết tịnh vợ chồng (tình yêu không so đó tính toán ích kỉ).

«Sau tình yêu kết hợp chúng ta với Thiên Chúa, tình yêu phu phụ là “tình bạn cao cả nhất”.[16] Đó là một sự kết hợp bao hàm mọi đặc tính của một tình bạn tốt đẹp: quan tâm tới thiện ích của người kia, tính hỗ tương, sự thân mật, sự dịu dàng, tính ổn định và sự tương đồng bằng hữu cần được thiết lập từ một đời sống chung. Nhưng Hôn nhân còn thêm vào đó tính đơn nhất bất khả phân li được diễn tả trong dự phóng ổn định cùng chia sẻ và xây dựng toàn bộ cuộc sống. Chúng ta hãy chân thành và nhìn nhận những dấu chỉ của thực tại: Ai đã yêu nhau thì không dự định duy trì mối quan hệ đó của mình chỉ trong một thời hạn, ai sống mãnh liệt niềm vui của kết hôn thì không nghĩ tới một kết hợp tạm thời; những người đồng hành cuộc cử hành mối kết hợp tràn ngập tình yêu dù có mong manh này, cũng hi vọng nó sẽ đứng vững qua thử thách của thời gian; con cái không chỉ muốn cha mẹ chúng yêu nhau, mà còn trung thành và mãi mãi gắn bó với nhau» (Amoris laetitia 123).

Những nồng nàn và chông chênh

Thuở ban đầu hôn nhân thường rất giàu các nguồn lực và vì thế đây là thời gian cần được quí trọng. Những nồng nhiệt thuở ban đầu cuộc sống lứa đôi, niềm vui nhìn thấy người này được tạo dựng để cho người kia, sự thanh bình của một đời sống vợ chồng thân mật và quân bình, niềm vui trong việc thực hiện những dự phóng và ước mơ được ấp ủ từ lâu, mở ra với những viễn ảnh mới cho sự tăng trưởng đức tin… Nhưng cũng không thiếu những khó khăn tương ứng. Sự hòa hợp với nhau đòi hỏi cả một quá trình dài lâu, khám phá cũng có phần bất ngờ những mặt tiêu cực hoặc “vấn đề” của nhau, không thể chịu đựng nhau, cám dỗ khép kín mình trong cõi riêng tư… Những khó khăn ấy có thể phát sinh từ chỗ người này hay người kia không có khả năng hòa hợp các khác biệt, hoặc nổi lên thường xuyên những ghen tương lạnh nồng, để rồi bắt đầu hay giận hờn, im lặng, nghi ngờ rồi một ngày bùng nổ tranh luận, cải vã. Trong bối cảnh đó, các anh chị cần học biết sống “có đôi” và “thành đôi”, mọi sự cần được quyết định chung bởi cả hai người hay có tham khảo sự đồng thuận của người kia.

“Đức Chúa là chứng nhân giữa ngươi và người đàn bà ngươi đã cưới trong tuổi thanh xuân. […] Ngươi đừng phản bội người đàn bà ngươi đã cưới trong tuổi xuân xanh. Quả thật Ta ghét việc rẫy vợ” (Ml 2,14-16).

Những ân cần và thái độ sống cần vun xới

Một tình yêu đem đến ích lợi khi biến thái với những nét sau đây mà thánh Phaolô trong Thư gửi tín hữu Côlossê (3,12t.) đã gợi ra: dịu hiền, có lòng thương cảm, nhân hậu, khiêm nhu, hiền hòa (không xét đoán gay gắt), nhẫn nại, chịu đựng lẫn nhau, sẵn sàng tha thứ cho nhau. Để được như thế, ta phải quay về với nguồn dinh dưỡng: lắng nghe Lời Chúa và cầu nguyện trong gia đình. Hai vợ chồng cần có nói chuyện, đối thoại với nhau, đối diện cùng bàn bạc với nhau về các chương trình sống của mình và những chọn lựa họ dự định làm, tìm chia sẻ tâm sự trên mỗi biến cố cuộc sống, giúp đỡ nhau cả về cầu nguyện và tăng trưởng đức tin. Đôi bạn sẽ cần sống những thời gian bình yên và dành riêng cho nhau, cũng như để học biết ý nghĩa và kinh nghiệm sâu sắc của sự thân mật trong tình dục vợ chồng, theo lôgich của sự trao hiến toàn thân không dè xẻn và chống lại mọi hình thức chiếm hữu ích kỉ biến người kia thành một thứ đồ vật cho ta hưởng dùng. Đôi bạn cũng nên vun trồng một mối quan hệ ân cần tiếp nhận và trao hiến ưu tiên dùng các phương thế điều hòa sinh sản tự nhiên, vốn là những kĩ thuật hợp pháp và đáng tin cậy nhưng nhất là, chúng có thể khơi dậy và phát triển một tương quan thanh bình và hòa điệu trong yêu thương và phục vụ sự sống.

Hành trình tiệm tiến

«Tình yêu mà không tăng trưởng là một tình yêu đang lâm nguy. Và chúng ta chỉ có thể lớn lên khi chúng ta đáp lại ân sủng của Thiên Chúa xuyên qua các hành động yêu thương không ngừng, những hành động từ ái trở nên ngày càng thường xuyên hơn, nồng nhiệt, quảng đại, dịu dàng và vui tươi hơn. Người chồng và người vợ “kinh nghiệm ý nghĩa về sự hợp nhất của mình và theo đuổi nó ngày một trọn vẹn hơn” (Gaudium et spes 48). Ơn ban của tình yêu Thiên Chúa tuôn tràn trên đôi bạn cũng là một lời mời gọi không ngừng phát triển quà tặng của ân sủng này» (Amoris laetitia  134).

Cần nhìn tất cả mọi sự ấy như một hành trình tiệm tiến đôi bạn phải đi qua cách kiên trì và quyết liệt, không như những kẻ ráng giữ mình trung tín cho bằng là, họ không ngừng trở nên trung tín mỗi ngày một hơn. Vượt trên những xung lực thuộc bản năng và tình cảm tự nhiên, đôi bạn cần sống mối quan hệ với trách nhiệm, trung thành với những bổn phận của mình, và tinh thần hi sinh. Cuộc sống sẽ không thiếu những lúc căng thẳng, nhưng luôn có thể vượt qua được. Cần vun xới sự đối thoại giữa hai vợ chồng và đưa vào gia đình tinh thần các mối phúc thật: khiêm nhu, hiền lành, biết thương cảm, thái độ công bằng đối với những khác biệt của nhau, ước muốn hòa bình. Trên hành trình này có Chúa Thánh Thần hiện diện và hoạt động, Ngài được ban cho ngày ta thành hôn và lại được thông ban mỗi ngày, Ngài giúp ta sống trong sự thật tình yêu phu thê bởi Ngài cho sinh hạ và lớn lên trong các vợ chồng chính Chúa Giêsu.

Thảo luận theo nhóm:

. Phản ứng tức thời của chúng ta như thế nào trước điều được nghe?

. Đâu là những trở ngại chính yếu anh chị có thể dự kiến trước liên quan đến chuyện “họ không còn là hai nhưng trở nên một xương một thịt”?

. Tại sao cầu nguyện là rất quan trọng trong hành trình tăng trưởng này?

. Dành chỗ cho sự đối thoại vợ chồng và trao đổi với nhau trong cuộc sống hằng ngày của hôn nhân và gia đình, có nghĩa là gì?

. Có cần đến sự giúp đỡ hay không trong những trường hợp đôi bạn có khó khăn về quan hệ (đối thoại hay tương giao về mặt tình cảm, tình dục)? Sẽ nhờ ai giúp đỡ?


 

 

Gặp gỡ VII:

CHÚNG MÌNH SẼ SINH CON

Mục đích:

Hiểu giá trị của việc truyền sinh có trách nhiệm và quảng đại, cởi mở trước chương trình của Thiên Chúa. Từ đó, đôi bạn biết quí trọng giá trị con cái và coi trọng các phương pháp điều hòa sinh sản mà Hội thánh Công giáo đề nghị.

Cầu nguyện và lắng nghe Lời Chúa:

Lời dẫn:

Tình yêu phu thê được mời gọi trở nên phong nhiêu, nghĩa là làm sự sống sinh sôi nảy nở dồi dào, qua nhiều cách thức, đặc biệt là truyền sinh cho con cái. Thật vậy, khi cử hành lễ hôn phối, anh chị sẽ xác nhận, với một tình yêu đầy trách nhiệm và quảng đại, sẵn sàng đón nhận con cái mà Chúa muốn trao ban cho anh chị và giáo dục chúng theo đức tin Kitô giáo.

Vậy, anh chị hãy đón nhận phúc lành của Thiên Chúa Đấng Tạo Thành và là Cha, và hãy trở nên là những người cộng tác với Thiên Chúa bằng việc hạ sinh những con người mang trong mình hình ảnh và là họa ảnh thần linh.

Lời Chúa: trích trong sách Sáng thế

«Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh mình, Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh Thiên Chúa, Thiên Chúa sáng tạo con người có nam có nữ. Thiên Chúa ban phúc lành cho họ, và Thiên Chúa phán với họ: “Hãy sinh sôi nảy nở thật nhiều, cho đầy mặt đất, và thống trị mặt đất. Hãy làm bá chủ cá biển, chim trời, và mọi giống vật bò trên mặt đất.”

Con người ăn ở với Evà, vợ mình. Bà thụ thai và sinh ra Cain. Bà nói: “Nhờ ĐỨC CHÚA, tôi đã được một người.”» (St 1,27-28. 4,1).

Linh mục:

Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu,

Chúa đã ban cho cộng đoàn hôn ước này luật tình yêu dịu ngọt và dây liên kết bất khả phân li bình an, để các đôi vợ chồng qua kết hợp khiết tịnh và phong nhiêu họ làm sinh sôi nảy nở những người con cái Chúa.

Tất cả:

Này con cái là hồng ân của CHÚA, con mình sinh hạ là phần thưởng Chúa ban. Bầy con sinh hạ thời son trẻ tựa nắm tên người dũng sĩ cầm tay (Tv 127, 3-4).

Linh mục:

Chúa đã hoạch định chương trình kì diệu của Chúa để các tạo vật bé bỏng sinh ra làm vui thỏa gia đình phàm nhân, và để chúng được tái sinh trong Chúa Kitô xây dựng nên Hội thánh Chúa.

Tất cả:

Này con cái là hồng ân của CHÚA, con mình sinh hạ là phần thưởng Chúa ban. Bầy con sinh hạ thời son trẻ tựa nắm tên người dũng sĩ cầm tay.

Câu hỏi giúp suy tư:

-          Tại sao Hội thánh tiếp tục khẳng định lại sự tất yếu của việc truyền sinh? Những điều Hội thánh dạy về việc này có lỗi thời không?

-          Khoái cảm và việc sinh sản có tương quan thế nào trong đời sống tình cảm và tình dục của đôi bạn?

-          Chúng ta có ý kiến như thế nào về các phương pháp tự nhiên?

Suy tư:

Tình yêu phu thê và sự phong nhiêu

Trước những chọn lựa về sinh sản chúng ta thường thấy có hai thái độ đối nghịch: hoặc sợ sinh con vì những khó khăn thực tế khác nhau (như đình hoãn sinh con đầu lòng vì phải lo “giải quyết cho ổn thỏa những việc khác trước đã”; qua những hành động ngừa thai hoặc phá thai…, tất cả cho thấy một cái nhìn hời hợt, ích kỉ và sai lầm về sự sống), hoặc khao khát có con bằng mọi giá (bởi một viễn ảnh mới ngày nay được mở ra nhờ khoa học và kĩ thuật). Ẩn bên dưới thái độ đó thường là cái nhìn xem sinh sản như một sự kiện kĩ thuật: sinh sản giống như việc ta tạo ra một sản phẩm mới.

Trong cả hai trường hợp người ta có khuynh hướng tách biệt tình yêu ra khỏi sinh sản, tách biệt khía cạnh kết hợp yêu thương ra khỏi việc truyền sinh. Những vấn đề về truyền sinh được giản lược lại chỉ còn là: “làm sao để tránh có con?” “làm thế nào để có thể kiểm soát được việc sinh sản?”. Để hiểu chúng ta cần quay lại tìm hiểu một vài khía cạnh của mối tương quan phải có giữa tình yêu vợ chồng và sự phong nhiêu. Trong viễn tượng Kitô giáo phong nhiêu là đặc tính cốt yếu của tình yêu phu thê. Con cái không phải chỉ là một tình yêu trương nở ra bên ngoài, nhưng là hoa trái của tình yêu này, bởi lẽ khuynh hướng sinh hạ sự sống mới thuộc về bản tính của mối quan hệ nam-nữ. Một tình yêu phu thê mà không khát khao “được nhập thân” ở trong đứa con mình sinh hạ thì tình yêu đó không chân thực. Như thế, con cái chính là ngân hàng chứng thực cho tình yêu vợ chồng. “Bi kịch” của hiếm muộn không xóa bỏ giá trị của tình yêu vợ chồng bởi lẽ phong nhiêu không chỉ hệ tại ở khả năng sinh sản về mặt sinh học, nhưng nhất là bởi khả năng trao ban sự sống và vì thế còn bởi việc nhận con nuôi hay nhận ủy thác nuôi dưỡng một sinh linh chào đời.

Ý nghĩa của sự sinh thành con người

«Mỗi sự sống mới cho phép chúng ta khám phá chiều kích vô vị lợi nhất của tình yêu, một tình yêu khiến chúng ta không baog giờ hết thán phục […] Đứa con mới sinh, tặng phẩm Chúa trao phó cho người cha và người mẹ, được đón tiếp ngay từ lúc khởi đầu, được tiếp tục bảo vệ trong suốt hành trình cuộc sống trần thế hướng tới định mệnh cuối cùng là niềm vui sự sống đời đời. Bằng cái nhìn thanh thản hướng đến sự hoàn tất chung cuộc của một nhân vị, cha mẹ sẽ ý thức hơn về tặng phẩm sự sống quí giá được giao phó cho họ: quả thật, Thiên Chúa nhượng ban cho họ việc đặt tên con, tên mà Ngài sẽ gọi từng đứa con của Ngài mãi mãi» (Amoris laetitia 166)

Sinh con không chỉ là một sự kiện thuần túy sinh học. Sinh hạ là một cuộc đầu tư, thẩm thấu, đảm nhận lấy và biến đổi toàn thể con người của ta. Kinh nghiệm này đồng thời vừa có tính sinh học, vừa thuộc tình cảm, và thiêng liêng và do đó nó hội nhập toàn thể con người của ta liên lụy vào đó. Nó nảy sinh từ tình yêu, lớn lên và biểu lộ ra trong tình yêu. Bởi thế, đứa con có thể được sinh hạ một cách thực sự phù hợp với nhân tính chỉ “bởi tình yêu” và “trong tình yêu” qua hành vi vợ chồng. Vì là một hành vi nhân linh sâu xa gắn kết với toàn thể con người, gồm cả về mặt tôn giáo, nên việc sinh một con người là cộng tác với tình yêu Thiên Chúa, Đấng Tạo Dựng và là Cha. Chọn lựa này đưa ta vào công trình sáng tạo của Thiên Chúa và như thế đôi vợ chồng trở nên là thừa tác viên và người phục vụ trong hân hoan chương trình của Thiên Chúa.

Cũng trong viễn tượng đó việc sinh hạ con người là một hành vi của tự do và tin tưởng vào sự sống và việc đón nhận con cái vô điều kiện là cách thức trao ban và tìm lại được sự sống. Sinh hạ là bắt đầu và cũng là bước vào mối quan hệ với một sự tự do mới: con cái không phải là tài sản của cha mẹ nhưng chúng được trao ban cho cha mẹ. Theo nghĩa đó, sinh hạ là đón nhận một tặng phẩm, vì đứa con là một thực thể còn lớn lao hơn sự trao hiến của hai vợ chồng.

Con cái là ơn huệ của Chúa ban và hành vi giáo dục đầu tiên là có thể nhận ra con mình là ơn huệ của Thiên Chúa khơi dậy tự do của cha mẹ đón nhận nó. Theo truyền thống của Thánh kinh con cái đồng thời vừa là một ơn huệ, vừa một lời hứa, vừa là một nhiệm vụ. 

Sinh sản có trách nhiệm

Có trách nhiệm trước hết có nghĩa là “sẵn sàng vô điều kiện đón nhận con cái” như ơn huệ của Chúa ban và là hoa quả của chúc lành của Người. Sinh sản có trách nhiệm, khi ấy, trước hết là có một “dạ con thường trực sẵn sàng tiếp đón sự sống”.

«Một đứa trẻ tượng hình trong dạ mẹ là thuộc kế hoạch muôn đời của Thiên Chúa Cha và tình yêu vĩnh cửu của Ngài: “Trước khi cho ngươi thành hình trong dạ mẹ, Ta đã biết ngươi; trước khi ngươi lọt lòng mẹ, Ta đã thánh hiến ngươi” (Gr 1,5). Mỗi đứa trẻ tự muôn đời đã có một chỗ ở trong trái tim Thiên Chúa, và vào chính lúc nó được thụ thai là lúc giấc mơ vĩnh cửu của Đấng Tạo Hóa trở thành hiện thực» (Amoris laetitia 168).

Điều đó không có nghĩa là bạn cần phải sinh nhiều con nhưng là trước mỗi quyết định có con bạn đã phải sẵn sàng đón nhận con cái và ý thức ơn kêu gọi cộng tác với Thiên Chúa. Trong viễn tượng ấy không có việc gọi là “mang thai ngoài ý muốn” hoặc là “có những đứa con do lầm lỡ” nhưng là những đứa con được Chúa kêu gọi vào cuộc sống. Như thế, nói “kế hoạch hóa sinh sản” có nghĩa là bước vào chương trình của Thiên Chúa Đấng vốn là thẩm phán của “bí mật sự sống”: mỗi đứa trẻ chào đời được phó thác cho lương tâm của mẹ cha, chứ không cho ý muốn tùy tiện của họ hay những tính toán ích kỉ. Như thế, làm cha mẹ là cố gắng để có những quyết định phù hợp đúng lúc, tìm kiếm chân thành những gì tình yêu Chúa đang mong đợi ở họ.

Chính để thành người cộng sự xứng đáng của Thiên Chúa vợ chồng cần phải biết rõ các cách thức có thể thụ thai. Họ phải có khả năng tự chủ kiểm soát được bản năng và dục vọng vốn giúp việc truyền sinh, học biết trân trọng những chọn lựa phù hợp nhất dựa trên cơ sở thiện ích của chính mình và con cái mình, những đứa con đã sinh ra lẫn những đứa con dự kiến sẽ sinh ra, dựa trên hoàn cảnh sống phù hợp về thời gian và điều kiện vật chất và tinh thần của đôi bạn. Sinh sản có trách nhiệm, trước khi là khả năng hạn chế sinh con, đó là thái độ sống quảng đại rộng mở với sự sống, giữ mình tự do không sống trong sợ hãi, ích kỉ, hoài nghi, thất vọng… Chính trong viễn tượng này mà đôi bạn cần phải suy nghĩ đã đến lúc, nếu không vì lí do nào rõ rệt và nghiêm trọng, có thêm một đứa con ngoài đứa duy nhất đã có.

Các phương pháp tự nhiên và những phương tiện chống thụ thai

Các “phương thế” giúp thực hiện sinh sản có trách nhiệm không được bao gồm, vì những lí do phi pháp hệ trọng, những biện pháp chống thụ thai cũng như phá thai. Cách riêng phá thai được xem là một tội ác!

«Giá trị của sự sống một con người cao cả biết bao, và quyền được sống của một trẻ thơ vô tội lớn lên trong cung lòng người mẹ là bất khả nhượng, đến nỗi không ai có thể viện đến quyền trên thân thể mình để biện minh cho quyết định chấm dứt sự sống ấy» (Amoris laetitia 83).

Về mặt luân lí mà nói, việc nhờ tới các phương pháp tự nhiên hơn là các phương tiện chống thụ thai là một chuyện khác hẳn. Thật vậy, nói rằng xét cho cùng kết quả của cả hai phương pháp là như nhau thì không đúng, vì nói thế cũng giống như khẳng định “mục đích biện minh cho phương tiện” vậy, trong khi chúng ta biết rằng thực tế không phải như vậy. Quả thật, các phương pháp tự nhiên đã được Giáo hội chỉ định như phương thế sử dụng ưu tiên bởi cả một chuỗi các lí do liên hệ đến phẩm chất tương quan giữa vợ chồng. Bởi vì chúng khuyến khích các đôi vợ chồng sống hòa hợp với nhau. Chúng ta có thể nói tóm lược như sau: sử dụng các phương pháp chống thụ thai phá vỡ mối tương quan giữa ý nghĩa kết hợp và ý nghĩa truyền sinh của tình yêu phu thê (thực ra nó loại trừ mọi ý nghĩa truyền sinh và khép kín lại trước mầu nhiệm sự sống); còn các phương pháp tự nhiên cổ cõ cả hai vợ chồng đồng trách nhiệm, vốn là điều hết sưc quyết định (tránh dồn mọi gánh nặng trách nhiệm quản lí sinh sản lên chỉ một người); các phương pháp tự nhiên giúp ta biết bản thân và biết người bạn đời hơn (điều cơ bản để có được sự hòa điệu vợ chồng); các phương pháp tự nhiên không đưa ra những phản ứng nghịch và bao hàm các hiệu ứng phụ đi kèm như các phương pháp ngừa thai (ngược lại còn thêm điều kiện thuận lợi giúp phát triển trọn vẹn hơn cách biểu lộ tình yêu ngay cả khi bị chối từ); các phương pháp tự nhiên giúp thực thi nhiệm vụ làm cha làm mẹ có trách nhiệm.

Giáo hội cũng ý thức những nỗi khó khăn còn đó của đề nghị này, và theo hướng đó có thể chấp nhận tiến bước dần trong kiên nhẫn đến lí tưởng, cả khi cần thiết phải nhờ đến sự giúp đỡ của những người có khả năng chuyên môn.

Sinh sản có trợ giúp của y khoa

Trước vấn đề này chúng ta cần phải nhớ các tiêu chuẩn phân tích như sau:

-          Nếu sinh sản đòi hỏi một sự dấn thân của toàn thể con người của đôi bạn, thì rõ ràng sinh sản nhờ sự trợ giúp của y khoa là một sự thu hẹp khách quan cứu cánh đích thật và thể thức kết hợp phu thê.

-          Chọn lựa này gặp nguy cơ giản lược việc sinh hạ con người thành ra như sản xuất một sản phẩm, một sự vật.

-          Sinh con bằng mọi giá là chối bỏ giá trị của con cái như một nhân vị: tôi phải có con bằng bất cứ giá nào, làm như thế là tôi đã thỏa mãn một yêu sách của tôi và biến con cái thành một sự vật.

-          Sinh sản có trợ giúp của y khoa không mở ra một khả năng nào cho niềm tín thác vào Thiên Chúa và chối bỏ một trong những chiều kích quan trọng của hôn nhân, đó là: người ta chuyển đổi từ là “những thừa tác viên” thành “chủ nhân ông” của chương trình của Thiên Chúa.

Như thế ta cần phải nói rằng mỗi đôi vợ chồng tín hữu được kêu gọi từ chối mọi hình thức sinh sản tách biệt người mẹ và người cha và tách li hành vi tính dục khỏi sinh sản.

Thảo luận theo nhóm:

. Phản ứng tức thời của chúng ta như thế nào trước điều được nghe?

. Con cái có phải là kẻ làm hạn chế lại tự do của đôi bạn không? Tại sao lại có ai đó khẳng định rằng sinh con ngày nay là một hành động vô trách nhiệm?

. Sinh con là một hành động riêng tư hay nó một giá trị nào khác nữa? Nó liên hệ ra sao với việc tìm kiếm thánh ý Chúa và với hoàn cảnh và những đòi hỏi của cộng đoàn Hội thánh và cộng đồng dân sự?

.  Anh chị có thấy những ích lợi và vấn đề gì trong việc người ta sử dụng phương pháp tự nhiên ?

.  Anh chị đánh giá như thế nào những cơ hội sử dụng các kĩ thuật thụ tinh nhờ sự trợ giúp của y khoa?


 

 

Gặp gỡ VIII:

CHÚNG MÌNH SẼ TẠO LẬP MỘT GIA ĐÌNH – HỘI THÁNH TẠI GIA

Mục đích:

Giúp đôi bạn nhận ra tầm quan trọng của gia đình. Gia đình là nơi chốn của yêu thương, gia đình hiện diện tích cực trong cộng đoàn Hội thánh Kitô. Giúp đôi bạn nảy nở một niềm tin tưởng đối với cộng đoàn hội thánh hướng dẫn họ và đồng hành dọc dài suốt hành trình hôn nhân của mình.

Cầu nguyện và lắng nghe Lời Chúa:

Lời dẫn:

Gia đình Kitô hữu, được khai sinh với bí tích Hôn phối, gắn kết thâm sâu với Hội thánh, với đời sống và sứ mạng của Hội thánh. Bởi thế, gia đình cũng được gọi là “Hội thánh tại gia”. Gia đình là một cộng đoàn Kitô hữu sống tại gia, trong đó Chúa Phục sinh hiện diện như người bạn đường.

Các anh chị đang chuẩn bị xây dựng cho mình một gia đình Kitô hữu nơi đó chúng ta giúp nhau lớn lên trong đức tin và đức cậy, trong đối thoại và hiệp thông với Chúa, trong bác ái huynh đệ và phục vụ lẫn nhau.

Lời Chúa: trong sách Công vụ các Tông đồ

«Sau đó, ông Phaolô rời Athêna đi Côrintô. Tại đây, ông gặp một người Do-thái tên là Aquila, quê ở Pontô, vừa mới từ Italia đến, cùng với vợ là Priskila, vì hoàng đế Clauđiô đã ra lệnh cho mọi người Do-thái phải rời Rôma. Ông Phaolô đến thăm hai ông bà, và vì cùng nghề, nên ông ở lại nhà họ và cùng làm việc: họ làm nghề dệt lều. Mỗi ngày sabat, ông thảo luận tại hội đường, cố thuyết phục cả người Do-thái lẫn người Hi-lạp. Ông Phaolô còn ở lại Côrintô khá lâu, rồi từ giã các anh em và vượt biển sang miền Syria, cùng với bà Priskila và ông Aquila. Khi đến Êphêsô, ông Phaolô từ biệt hai người kia. Phần ông, ông vào hội đường và thảo luận với người Do-thái.

Có một người Do-thái tên là Apôlô, quê ở Alêxanđria, đã đến Êphêsô; ông là người có tài hùng biện và thông thạo Kinh Thánh. Ông đã được học Đạo Chúa; với tâm hồn nồng nhiệt, ông thường lên tiếng giảng dạy chính xác những điều liên quan đến Đức Giêsu, tuy rằng ông chỉ biết có phép rửa của ông Gioan. Ông bắt đầu mạnh dạn rao giảng trong hội đường. Sau khi nghe ông nói, bà Priskila và ông Aquila mời ông về nhà trình bày Đạo của Thiên Chúa cho ông chính xác hơn. » (Cv 18,1-4.18a.19.24-26).

Linh mục:

Lạy Thánh Gia Nadaret,

Cộng đoàn yêu thương của Chúa Giêsu, Đức Mẹ Maria, và thánh Giuse,

Là gia đình mẫu và lí tưởng của mọi gia đình Kitô hữu,

Chúng con xin phó dâng cho Thánh Gia các gia đình sẽ khai sinh ra từ hôn phối của những người con cái này của Người.

Tất cả:

Xin hãy làm cho gia đình chúng con trở thành một “Hội thánh tại gia”, một cộng đoàn sống đức tin, đức cậy, và đức mến, để phục vụ Thiên Chúa và toàn thể nhân loại.

Xin cho chúng con tìm thấy được nguồn dưỡng nuôi trong cầu nguyện chung và lắng nghe Lời Chúa, khám phá một nguồn mạch ân sủng và thánh thiện trong cử hành các bí tích. Như thế, gia đình chúng con có thể cộng tác vào việc xây dựng Hội thánh và tham dự vào sứ vụ cứu độ của Hội thánh trong thế giới.

Câu hỏi giúp suy tư:

-          Khi nào và tại sao sự kết hợp giữa hai người được xác định là một gia đình? Nền văn hóa hiện nay có chấp nhận định nghĩa này không?

-          Đâu là những mối tương quan chính yếu mà gia đình được kêu gọi bảo vệ và phát triển?

-          Diễn ngữ “Gia đình là một Hội thánh tại gia” có thể mang những ý nghĩa nào?

Suy tư:

Gia đình ngày nay và gia đình trong ý định của Thiên Chúa

Nói về gia đình ngày nay có nghĩa là nói về một điều gì đó mà những đường nét phân định ranh giới rất mờ nhạt hay thậm chí nghi nghĩa (hàm hồ). Ở những cấp độ khác nhau, người ta luôn có xu hướng không nói nhiều về “gia đình” cho bằng là nói về “các gia đình”. Nói thế là ám chỉ không những về những hình thái khác nhau mà thực tại gia đình có thể đang mang, mà còn ám chỉ các ý tưởng và quan niệm khác nhau về gia đình. Trong bối cảnh đó, ta cần phải tái khám phá gia đình là gì theo ý định của Thiên Chúa, điều này đã được biểu lộ ra ngay từ thuở tạo dựng ban đầu. Khi ấy chúng ta có thể mô tả gia đình như là «cộng đồng các ngôi vị, tạo lập bởi một người nam và một người nữ kết hợp trong hôn nhân và các con cái của họ, một cộng đoàn bền vững và được xã hội nhìn nhận, gắn chặt với nhau bởi những mối liên kết luân lí, tôn giáo và pháp lí trong sự kính trọng, yêu thương, hợp tác và giúp đỡ lẫn nhau. Gắn kết với hạt nhân gia đình có thể có các thành viên khác, thường là những người bà con thân thuộc với lai lịch khá khác biệt». Do bản tính này, dù đang thể hiện dưới bất cứ hình thái lịch sử nào, mỗi gia đình phải được nhìn như là «một cộng đồng thân mật của sự sống và tình yêu» (Gaudium et spes 48; Amoris laetitia 80). Căn tính chính xác này của gia đình còn xác định sứ vụ và nhiệm vụ trong lịch sử của gia đình. Một sứ vụ được xác định bởi tình yêu nhằm giữ gìn, biểu lộ và thông truyền tình yêu qua việc hình thành nên một cộng đồng đích thật gồm những con người, những nhân vị, để phục vụ sự sống, tham dự vào sự phát triển xã hội (FC 17).

Gia đình Kitô hữu: một Hội thánh tại gia

Tất cả những điều nói trên đây dành cho mọi gia đình cũng như cho mọi gia đình Kitô giáo. Nhưng đối với gia đình Kitô hữu, ta còn phải nhấn mạnh đến sứ vụ do bản chất của nó và không thể loại bỏ, đó là: tham dự vào đời sống  và sứ mạng của Hội thánh (ibid.).

«Trong gia đình, ‘vốn có thể gọi là Hội thánh tại gia’ (Lumen Gentium, 11), ta được dần trưởng thành kinh nghiệm trong Hội thánh về mối hiệp thông giữa các ngôi vị, nơi đó, nhờ ân sủng, phản ánh chính mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi. “Ở đó, người ta học được sự kiên nhẫn và niềm vui của lao động, tình yêu thương huynh đệ, sự tha thứ quảng đại, thậm chí tha thứ nhiều lần, và nhất là việc phụng thờ Thiên Chúa qua kinh nguyện và sự hiến dâng cuộc đời mình’ (GLHTCG, 1657)”» (Amoris laetitia 86).

Nếu đối chiếu giữa Hội thánh và Gia đình, người ta không khó nhận ra hình ảnh tương tự và mối liên kết thông dự giữa hai bên. Một điều đã rất có ý nghĩa là hình ảnh gia đình là một trong những hình ảnh gợi mở nhất để diễn đạt phẩm chất của Hội thánh: “gia đình của Thiên Chúa”. Kế đến, hình ảnh Hội thánh như là Thân Mình Đức Kitô gợi lên ý tưởng các gia đình, như đức Giáo hoàng Gioan XXIII đã nhấn mạnh, là “những tế bào của Hội thánh”. Cần nhắc lại là cả hai có nguồn gốc từ một bí tích: thật vậy, cũng như Hội thánh xuất thân từ bí tích Rửa tội, cũng thế gia đình Kitô hữu khai sinh từ bí tích hôn phối. Hơn nữa, Hội thánh cũng như gia đình đều là hình ảnh của Thiên Chúa Ba Ngôi. Hội thánh là hình ảnh của Ba Ngôi xét như là «dân được qui tụ trong sự hiệp nhất của Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần». Gia đình Kitô hữu là hình ảnh của Ba Ngôi vì nơi đó người ta gặp được một sự hiệp nhất thâm sâu, cởi mở ra với sự sống phong nhiêu, một tình yêu vốn có ở trong Ba Ngôi. Lại nữa, cũng như trong Hội thánh có thừa tác vụ dưới nhiều hình thức, cũng thế trong gia đình có một “thừa tác vụ hôn nhân và gia đình” được trao ban bởi bí tích hôn phối vì thiện ích của hai vợ chồng cho nhau và, khi gia đình cởi mở đón nhận con cái, vì thiện ích và giáo dục đức tin cho con cái.

«Hội thánh là Gia đình của các gia đình, thường xuyên được làm phong phú bởi đời sống của tất cả các Hội thánh tại gia. Bởi thế, nhờ Bí tích Hôn Phối, mỗi gia đình thực sự trở thành một thiện ích cho Hội thánh. Trong viễn ảnh này, việc xem xét mối tương tác giữa gia đình và Hội thánh chắc chắn sẽ là một ơn ban quí giá cho Hội thánh ngày nay: Hội thánh là một phúc lành cho gia đình, và gia đình là một phúc lành cho Hội thánh. Việc gìn giữ hồng ân Bí tích của Chúa không chỉ liên hệ đến các gia đình riêng lẻ, nhưng còn đến chính cộng đoàn Kitô hữu» (Amoris laetitia 87).

Bởi thế, khi suy tư về cuộc sống gia đình của mình đôi bạn cần phải xác tín mỗi ngày một hơn rằng, ngay cả khi đã kết hôn, họ cần phải tiếp tục sống và tham dự vào đời sống của Hội thánh và sẵn sàng đón nhận những lời đề nghị mà cộng đoàn hội thánh sẽ gợi mời đôi bạn và gia đình để họ được lớn lên và sống sung mãn. Hơn nữa, gia đình còn tham dự vào sự sinh sôi nảy nở của Hội thánh. Cách tương tự, gia đình tự biểu lộ mình như “cộng đoàn được cứu độ” bởi tình yêu của Chúa Kitô Đấng tự hiến cho cộng đoàn, và như “cộng đoàn cứu độ”, vì được kêu gọi loan báo và thông truyền cho anh em chính tình yêu này của Chúa và được ban cho khả năng hoàn tất nhiệm vụ này.

Gia đình tham dự vào đời sống và sứ vụ của Hội thánh

Đặc tính bẩm sinh là “Hội thánh tại gia” này của gia đình làm cho gia đình Kitô hữu lặn ngập trong cuộc sống của Hội thánh: gia đình tham dự cách cụ thể vào đời sống và sứ vụ của Hội thánh. Có thể nói: gia đình cư xử và hành động giống như cách Hội thánh cư xử và hành động. Và vì Hội thánh là cộng đoàn tin và loan báo Tin mừng, hiệp thông với Thiên Chúa và phục vụ con người, nên gia đình Kitô hữu cũng phải như thế, tất cả mọi người, cha mẹ lẫn con cái, đều dấn thân. Đó cũng là thành phần của dự phóng mà các anh chị cần phải suy nghĩ và quyết định trong khi chuẩn bị cử hành bí tích hôn phối (cf. FC 49-64).

Trước hết, gia đình Kitô hữu được kêu gọi trở thành là một cộng đoàn tin và loan báo Tin mừng. Để được như thế, đôi bạn và gia đình cần phải được giáo dục đức tin không ngừng nhờ nghe và đọc Lời Chúa, học giáo lí, được chỉ dẫn sống đức tin, giúp đỡ lẫn nhau đọc ý nghĩa và các biến cố của cuộc sống dưới ánh sáng Tin mừng… Thứ đến, cần quan tâm đến chính sứ vụ loan báo Tin mừng, ngoài nhiệm vụ giáo dục đức tin cho con cái không những bằng lời nói mà còn bằng gương sáng đời sống cụ thể qua những chọn lựa và việc làm hằng ngày. Sau cùng, gia đình biết mình còn phải biểu lộ ra bên ngoài, đặc biệt sẵn sàng phục vụ như các cặp hôn phối trong Hội thánh để giúp đào tạo các đôi vợ chồng trẻ, các đôi đính hôn, các bạn trẻ thanh thiếu niên, như thế là đồng thời họ cũng thực thi “thừa tác vụ” được trao ban bởi bí tích hôn phối phục vụ toàn thể Hội thánh. Vì thế, người ta có thể khẳng định rằng gia đình Kitô hữu loan báo Tin mừng bằng chính cuộc sống của họ.

Ngoài ra, gia đình Kitô hữu cũng được mời gọi đối thoại với Thiên Chúa nhờ một đời sống bí tích sâu xa và trung thành, kéo dài ra trong gia đình bằng giờ kinh nguyện chung. Gia đình Kitô hữu dâng lên Chúa một phụng tự thiêng liêng qua kinh nguyện chung và hi lễ là chính sự qui hợp cùng nhau. “Gia đình hiệp nhau cầu nguyện thì hiệp nhất bên nhau” (Families that pray together stay together) (Amoris laetitia 227). Trong gia đình nên có một góc không gian nơi đó ta để bàn thờ, tượng ảnh Chúa, Mẹ Maria để cả nhà cầu nguyện chung. Những ngày nghỉ lễ, những ngày giỗ chạp, Tết nhất là dịp thích hợp để cả gia đình cùng cầu nguyện chung. Cùng tham dự thánh lễ Chúa nhật theo gia đình là điều tuyệt vời.

«Kinh nguyện gia đình có nội dung độc đáo là chính cuộc sống gia đình. Qua những hoàn cảnh khác nhau, cuộc sống này được diễn giải như một tiếng gọi từ Thiên Chúa và được gia đình sống như lời đáp trả của con cái: những vui mừng và sầu muộn, hi vọng và thất vọng, ngày sinh và ngày kỉ niệm sinh nhật, kỉ niệm ngày cưới của cha mẹ, những chuyến đi xa và trở về, những chọn lựa quan trọng và quyết liệt, sự ra đi mãi mãi của những người thân yêu … đều là những dấu hiệu về sự hiện diện ưu ái của Thiên Chúa trong cuộc sống gia đình; những biến cố ấy cũng phải trở thành những lúc thuận tiện cho lời tạ ơn, khẩn nguyện, tin tưởng phó thác của gia đình trong bàn tay Cha chung trên trời» (FC 59).

Cha mẹ phải đồng hành với con cái trong hành trình khai tâm Kitô giáo. Ngoài ra, thật tốt cho họ và cho Hội thánh nếu các thành viên có thể tham gia các hội đoàn, các cộng đoàn nhỏ, các phong trào linh đạo hôn nhân gia đình.

Thứ đến, gia đình Kitô hữu được kêu gọi phục vụ con người trong tinh thần bác ái. Những chứng từ yêu thương như thế là chứng từ và là lời loan báo Tin mừng Tình yêu của Thiên Chúa. Biểu lộ một tình yêu bác ái như thế, cụ thể có thể là đón tiếp các cụ cao niên và giúp đỡ các gia đình khó khăn, phục vụ những người nghèo bị bỏ rơi, bị nạn. Thế nhưng trước hết, chúng ta phải thực thi bác ái như thế, theo cung cách riêng của đời sống hôn nhân gia đình, đối với người thân cận là những thành viên trong gia đình: bác ái giữa vợ chồng với nhau, sống trung tín với nhau trong hôn nhân, quảng đại chu toàn trách nhiệm làm cha làm mẹ, giáo dục con cái.

«Như vậy gia đình Kitô hữu được luật mới của Thánh Thần sinh động, hướng dẫn và được mời gọi sống “thừa tác vụ” vì tình yêu đối với Thiên Chúa và tha nhân trong sự hiệp thông mật thiết với Hội Thánh là dân vương đế. […] trong khi phụng sự Đức Kitô nơi tha nhân, họ có thể khiêm nhường và kiên nhẫn dẫn đưa anh em mình đến với Đức Vua, Đấng mà ta phụng sự Người cũng lại là cùng thống trị với Người» (FC 63).

Thảo luận theo nhóm:

. Phản ứng tức thời của chúng ta như thế nào trước điều được nghe?

. Thế nào là hiện diện và tham dự tích cực vào đời sống của Hội thánh của các đôi bạn chọn kết hôn trong Hội thánh Kitô?

. Trong những chọn lựa cho dự phóng tương lai đời sống hôn nhân của anh chị, anh chị có dự định khả năng quay về gặp gỡ với các đôi vợ chồng trẻ khác cùng hoàn cảnh để chia sẻ, học hỏi, giúp đỡ lẫn nhau không?

.  Một đôi vợ chồng tín hữu có thể có những cách thức sống chứng từ đặc biệt nào (như giáo dục con cái theo một định hướng nào đó, một cung cách phục vụ, một sự hòa hợp giữa lời nói và việc làm, sự can đảm…)?

.  Cầu nguyện và “Hội thánh tại gia” có liên quan gì với nhau không?


 

Gặp gỡ IX:

TRONG XÃ HỘI

 

“Tôi muốn có một Giáo hội bị bầm dập, thương tích và vấy bẩn vì ở ngoài đường, còn hơn một Giáo hội bệnh hoạn kín cổng và an nhàn bám víu vào sự an tòan riêng của mình” (Evangelii Gaudium 49).

Mục đích:

Giúp đôi bạn hiểu việc lựa chọn hôn nhân có một giá trị xã hội và đồng thời học biết quí trọng mối quan hệ xây dựng với các định chế và tổ chức xã hội hầu mở ra sống liên đới với mọi người.

Cầu nguyện và lắng nghe Lời Chúa:

Lời dẫn:

Gia đình, được khai sinh với hôn nhân, là “hạt nhân tự nhiên và cơ bản của xã hội con người”. Bởi thế, xã hội và nhà nước phải bảo vệ gia đình và tạo ra những điều kiện để gia đình có thể phát triển trọn vẹn và hoàn tất các nhiệm vụ của mình.

Đàng khác cũng vì thế, cả anh chị nữa, trong khi cố vượt qua một cái nhìn hạn hẹp xem gia đình chỉ là thế giới “riêng tư”, anh chị phải khám phá lại vai trò và nhiệm vụ xã hội của gia đình. Quả thật, ngay cả gia đình của anh chị cũng sẽ có thể và phải đóng góp cho sự phát triển xã hội, không chỉ bằng cách sống yêu thương cụ thể, cởi mở với sự sống và giáo dục con cái trong nhà, mà còn qua thực hành cởi mở tiếp đón khách lạ và sống liên đới, và cùng với các gia đình khác, gia đình anh chị hãy góp phần chủ động để có một chính sách về gia đình tốt hơn.  

Lời Chúa: trong Tin mừng theo thánh Matthêu

«“Khi Con Người đến trong vinh quang của Người, có tất cả các thiên sứ theo hầu, bấy giờ Người sẽ ngự lên ngai vinh hiển của Người. Các dân thiên hạ sẽ được tập hợp trước mặt Người, và Người sẽ tách biệt họ với nhau, như mục tử tách biệt chiên với dê. Người sẽ cho chiên đứng bên phải Người, còn dê ở bên trái. Bấy giờ Đức Vua sẽ phán cùng những người ở bên phải rằng: "Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ thuở tạo thiên lập địa. Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm viếng; Ta ngồi tù, các ngươi đến hỏi han.” Bấy giờ những người công chính sẽ thưa rằng: "Lạy Chúa, có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đói mà cho ăn, khát mà cho uống; có bao giờ đã thấy Chúa là khách lạ mà tiếp rước; hoặc trần truồng mà cho mặc? Có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đau yếu hoặc ngồi tù, mà đến hỏi han đâu? " Đức Vua sẽ đáp lại rằng: "Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy."» (Mt 25,31-40).

Tất cả:

Lạy Chúa, xin cho gia đình chúng con trở nên hiếu khách và biết tiếp rước mọi người, để loan báo cho thế giới về tình phụ tử của Thiên Chúa, tình mẫu tử của Hội thánh. Xin cho chúng con biết mở lòng ra với những người nghèo khổ nhất để họ cảm nghiệm được tình thương của Ngài. Xin cho chúng con biết lưu tâm đến các đôi vợ chồng đang gặp khó khăn. Cho chúng con dấn thân làm thay đổi hoàn cảnh xã hội bất cập qua việc làm phục vụ cho công lí và bác ái. Amen.

Câu hỏi giúp suy tư:

-          Theo anh chị nghĩ, gia đình và xã hội có mối tương quan như thế nào?

-          Cho rằng hôn nhân là chuyện riêng tư và nghĩ rằng xã hội chỉ như là một thứ sở dịch vụ cung ứng an sinh, có đúng hay không?

-          Anh chị có biết những hậu quả dân sự của cuộc hôn nhân mà anh chị đang chuẩn bị cử hành hay không ?

Suy tư:

Hoàn cảnh hiện nay

Trong nền văn minh kĩ nghệ hiện nay dường như người ta không còn thấy tỏ hiện bao nhiêu ý thức về vai trò xã hội của gia đình nữa. Đàng khác, tình trạng bất ổn phổ biến với bao hình thái bệnh hoạn của các gia đình lại quay lại tác động lên xã hội. Bởi thế, đôi bạn đính hôn nghĩ về gia đình tương lai của mình thường dễ nhìn gia đình như một thực tại đóng kín và thờ ơ với mọi nhiệm vụ xã hội. Hậu quả là họ rất ít ý thức về trách nhiệm xã hội vốn cũng là đặc trưng của nhiều gia đình Kitô hữu. Đồng thời, khi nghĩ đến gia đình tương lai của mình, một số người dễ nghĩ đến nó với một thái độ tự vệ trước xã hội và các guồng máy xã hội hiện nay.

«Ngày nay chủ nghĩa cá nhân đôi khi dẫn ta đến lối sống khép kín trong sự an toàn của một tổ ấm nhỏ và cảm thấy tha nhân như một phiền toái nguy hiểm. Thế nhưng, sự cô lập này không đem lại niềm an bình và hạnh phúc, mà khép kín con tim của gia đình và làm cho gia đình mất đi tầm nhìn rộng lớn của cuộc sống» (Amoris laetitia 187).

Hôn nhân trong xã hội

Khi hai người kết hôn một thực tại mới được sinh ra: hai người không còn là hai nữa nhưng đã trở thành một xương một thịt (cf. St 2,24). Trên bình diện xã hội, thực tại mới này có một cấu hình chính xác của nó: đó là các “đôi vợ chồng”, các “cặp phối ngẫu”. Khi kết hôn dân sự, trước khi kí giấy hôn thú, đôi bạn sắp cưới cũng thường được người chủ lễ nhắc nhở về đặc tính xã hội này của chọn lựa của họ (cf. điều 1-5 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 nước CHXHCN VN). Chiều kích xã hội này của đôi hôn phối liên hệ đến toàn thể gia đình sinh ra từ cuộc hôn nhân. Thật vậy, gia đình có những mối dây liên kết sống động và hữu cơ với xã hội, bởi lẽ cũng chính hành động tạo dựng của Thiên Chúa, Đấng vốn «đã thiết lập hôn nhân như là khởi nguyên và nền tảng của xã hội loài người», đã đóng ấn trong mỗi gia đình «sứ mạng làm tế bào đầu tiên và sống động của xã hội» (FC 42) . Quả thật, gia đình sinh hạ các thành viên mới; hình thành nên nhân cách của chúng; chuyển giao các giá trị cốt yếu của cộng đồng xã hội dân sự, như là phẩm giá của nhân vị, sự tin tưởng lẫn nhau, sử dụng tự do đúng đắn, đối thoại, tình liên đới, vâng phục quyền bính. Chính bởi là nền móng xã hội đó, mà gia đình có một nhiệm vụ xã hội tự bản sắc là độc đáo, không thể thay thế và bất khả chuyển nhượng. Như thế,

«Vì bản chất và ơn gọi của nó, thay vì đóng khung trên chính mình, gia đình rộng mở đến những gia đình khác và mở ra với xã hội, và chu toàn vai trò xã hội của mình» (FC 42).

Gia đình Kitô hữu trong xã hội

Ngoài ra, đối với gia đình Kitô hữu, còn có những lí do khác để lí giải và đòi hỏi gia đình phải dấn thân vào xã hội và cho xã hội. Lí do thứ nhất là, bí tích hôn phối, khi đảm nhận trọn vẹn thực tại nhân linh là tình yêu phu thê, làm cho các bậc vợ chồng và cha mẹ Kitô hữu có khả năng và thúc đẩy họ sống ơn gọi Kitô hữu giáo dân ở giữa đời của họ, và như thế thúc đẩy họ «tìm kiếm Nước Thiên Chúa bằng cách dấn thân vào các việc trần thế và xếp đặt chúng theo ý Thiên Chúa» (Lumen gentium 31). Từ tính cách trần thế đặc thù của ơn gọi Kitô hữu giáo dân đó, gia đình thấy phải đảm nhận nhiệm vụ xã hội và chính trị như một khía cạnh không thể bỏ qua của ơn gọi Kitô hữu giáo dân của mình. Một lí do khác là, gia đình Kitô hữu với tư cách là «Hội thánh tại gia» hay là «Hội thánh thu nhỏ», được kêu gọi, như “Hội thánh lớn”, phục vụ xã hội để giúp xã hội thể hiện chính mình như là nền văn minh tình thương.

Nội dung đặc biệt và những cách thức cơ bản của nhiệm vụ xã hội của gia đình

Người ta có thể tập hợp nhiệm vụ xã hội của gia đình lại quanh ba lãnh vực hay mức độ sau đây: phạm vi bao quanh chính đời sống gia đình; sống tình liên đới; can thiệp trong lãnh vực chính trị xã hội.

Điều đầu tiên qua đó gia đình đóng góp phần mình cho xã hội và cho sự phát triển xã hội là tình thương, được sống dưới nhãn hiệu “cho không biếu không” nghĩa là một tình yêu thương vô cầu! Tình thương ấy được học sống từ trong gia đình, thể hiện cụ thể qua lối sống biết «nhẫn nhục, nhân hậu, không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc, không khiếm nhã, quảng đại, không nóng giận, không nuôi hận thù, dung thứ, biết vui với người khác, tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, hi vọng tất cả, chịu đựng tất cả» (1Cr 13,4-7; cf. Amoris laetitia 90-119). Đây là một tiềm lực rất to lớn của gia đình, vừa như là một lời tố giác xã hội muốn xây dựng chủ yếu (nếu không muốn nói là duy chỉ) dựa trên tương quan nhắm đến hiệu năng và thực dụng, vừa như một lực thúc đẩy nhân bản hóa và nhân vị hóa chính xã hội.

Điều đặc biệt thứ hai gia đình phục vụ cho xã hội là: sinh hạ những công dân mới. Sinh sản và giáo dục con cái, vốn là hoa quả và là dấu chỉ của tình yêu vợ chồng, là điều kiện thiết yếu và nhân tố đệ nhất của sự tồn tại và phát triển của xã hội. Nhưng có điều còn sâu xa hơn thế nữa, việc sinh sản của con người là một cuộc sinh hạ con người, một hành vi nhân bản đích thật bởi lẽ đó là một hành động “trao hiến sự sống”. Nói cách khác, gia đình phục vụ xã hội qua việc truyền sinh, theo nghĩa là thông truyền thực tại nhân vị sâu xa chứ không chỉ thuần túy là một sự kiện sinh học. Đây quả thực là một hành động dâng hiến, vốn là hoa quả và dấu chỉ của tình yêu liên vị (giữa người với người) và trọn vẹn của hai vợ chồng. Cũng nên quan tâm đến những khía cạnh khác của chiều kích xã hội của việc truyền sinh, chẳng hạn như giá trị xã hội nội tại của (đạo lí của Hội thánh về) việc làm cha làm mẹ có trách nhiệm. Đây là một giá trị đã có mặt sẵn rồi từ trong nội dung của việc sinh sản có trách nhiệm. Thật vậy, sinh sản có trách nhiệm không hề được hiểu chỉ theo một chiều, theo nghĩa kiểm soát việc “sinh đẻ” (tức là chỉ nhằm hạn chế sinh sản), nhưng theo hai chiều, nghĩa là còn cởi mở đón nhận quảng đại sự sống mới. Và với quyết định này, đôi bạn còn phải biết đến các nghĩa vụ đối với xã hội. Còn về các phương thế để thực hiện việc truyền sinh có trách nhiệm, quan điểm của Hội thánh (vốn từ chối quyết liệt và coi phá thai, triệt sản, chống thụ thai là những hành vi bất hợp pháp nghiêm trọng) có một ý nghĩa xã hội rất lớn. Hội thánh chối bỏ mọi não trạng chống lại sự sống vì rốt cuộc đó không gì khác hơn là một cuộc tự sát tiềm ẩn của xã hội. Nếu nhìn vào con người chủ thể chịu trách nhiệm truyền sinh, ta sẽ thấy rằng Hội thánh muốn cứu lấy một lối đường đúng đắn cho các mối quan hệ trong xã hội qua việc bảo vệ quyền của đôi vợ chồng tự quyết định về số con sinh ra, chống lại mọi can thiệp phi lí.

«Mỗi đứa trẻ có quyền được hưởng tình yêu của một người mẹ và một người cha, cả hai tình yêu này đều cần thiết cho trẻ để được trưởng thành toàn diện và hài hòa. Như các Giám mục Úc châu đã khẳng định, cả hai “đóng góp, mỗi người một cách khác nhau, cho sự tăng trưởng của trẻ. Tôn trọng phẩm giá của một đứa trẻ có nghĩa là khẳng định nhu cầu và quyền tự nhiên của nó là có một người mẹ và một người cha”[17]. Vấn đề không chỉ là tình yêu của người cha và của người mẹ xét cách riêng rẽ, mà còn là tình yêu của họ dành cho nhau, vốn được coi như nguồn mạch của chính sự hiện hữu, như tổ ấm tiếp nhận và như nền tảng của gia đình» (Amoris laetitia 172).

Một điều đặc biệt thứ ba của chiều kích xã hội của gia đình liên hệ đến giáo dục. Mọi nền giáo dục, quả thực, bởi bản tính của nó, đều có mục đích hàng đầu là làm tăng trưởng tự do và trách nhiệm. Đó là những tiền đề thiết yếu để con người có thể đảm nhận các nhiệm vụ của mình trong xã hội. Hơn nữa, giáo dục có nghĩa là thông truyền một số các giá trị cơ bản như tự do thực sự trước các sức mạnh của cải vật chất, sự kính trọng tha nhân, nhạy cảm với công lí, thái độ tiếp đón chân thành, tinh thần đối thoại, sẵn sàng phục vụ quảng đại vô vị lợi, sự liên đới sâu xa với người nghèo khổ… Chỉ những giá trị này mới có thể làm tăng trưởng những con người đích thực, công chính tạo nên kho tàng quí giá nhất và là bảo đảm đích thật nhất cho mọi xã hội.

Kế đến, việc gia đình phục vụ cho xã hội còn vượt quá những công trình nội bộ gia đình và thực thi qua những liên đới cụ thể. Những sự liên đới này diễn đạt qua những cách thức và nhiều hình thức phục vụ khác nhau của gia đình cho các gia đình khác, bắt đầu từ những gì trong đời thường nhất và bình thường nhất hằng ngày, ở những việc làm nhỏ bé và khiêm tốn hằng ngày «đặc biệt ưu tiên cho người nghèo, trẻ em mồ côi, những người khuyết tật, những người bệnh hoạn, người già yếu, những người đang sầu buồn đau khổ, những người đang sống trong hoài nghi, trong cô đơn hay bị bỏ rơi và những người nghiện ngập hoặc không có gia đình».

Một lãnh vực cuối cùng trong đó gia đình được mời gọi thực thi trách nhiệm là dấn thân trực tiếp vào các việc xã hội và chính trị. Giáo huấn của Thánh Gioan Phaolô II nói rõ:

«Vai trò xã hội của gia đình còn được mời gọi diễn tả dưới hình thức, can thiệp chính trị: chính các gia đình là những kẻ đầu tiên phải làm sao để các luật lệ và cơ chế của nhà nước không những đừng làm tổn thương các quyền lợi và bổn phận của gia đình, nhưng còn nâng đỡ và bảo vệ chúng một cách tích cực. Về điểm này, gia đình cần có một ý thức càng lúc càng mạnh mẽ rằng, mình là những người đi đầu của điều gọi là “chính sách gia đình”, và mình phải lãnh lấy trách nhiệm biến đổi xã hội; nếu không chính gia đình sẽ là nạn nhân đầu tiên của những điều xấu vì đã thụ động và lãnh đạm đứng nhìn» (FC 44).

Cũng cần nhắc đến tầm quan trọng của các hiệp hội hay phong trào gia đình trong vai trò xã hội của gia đình:

«Vai trò của những hiệp hội này là làm dấy lên nơi các tín hữu một ý thức bén nhạy về sự liên đới, là tạo điều kiện thuận lợi cho một nếp sống được gợi hứng do Tin Mừng và do đức tin của Hội Thánh, là đào tạo cho lương tâm của mọi người biết theo giá trị Kitô giáo chứ không theo các tiêu chuẩn của ý kiến đám đông, là khuyến khích các công cuộc bác ái đang hướng về việc giúp đỡ lẫn nhau hay hướng về người khác với một tinh thần cởi mở có sức làm cho các gia đình Kitô hữu trở thành thật sự là nguồn sáng đích thực và là men lành mạnh cho các gia đình khác» (FC 72).

Thảo luận theo nhóm:

. Phản ứng tức thời của chúng ta như thế nào trước điều được nghe?

. Đâu là những đóng góp cụ thể và hữu hiệu mà một gia đình có thể mang lại trong lãnh vực xã hội và chính trị?

. Chỗ nào trong đời sống gia đình có thể góp phần sống tình liên đới với người khác?

. Anh chị có ý kiến gì về việc nhận con nuôi hay nhận ủy thác nuôi con trẻ?

 

PHỤ LỤC

Dẫn vào

“Tình yêu luôn mang đến sự sống” (AL 165). Gia đình đông con là một niềm vui cho Hội thánh. Trong đó tình yêu thể hiện sự quảng đại phong nhiêu của mình” (AL 167). Thế nhưng không được quên lời cảnh báo tốt lành của Thánh Gioan Phaolô II khi ngài giải thích việc làm cha làm mẹ có trách nhiệm không phải là “sinh sản không giới hạn hay thiếu ý thức về ý nghĩa của việc nuôi dạy con cái”. Vì thế việc kiểm soát số con vừa với khả năng Chúa ban cho đôi vợ chồng để làm cha làm mẹ có trách nhiệm là điều chính đáng. Để đôi bạn có thể vừa sống tình yêu quảng đại và phong nhiêu, vừa đáp ứng tinh thần trách nhiệm, Hội thánh giới thiệu cho các đôi bạn Phương Pháp Kế hoạch hóa tự nhiên (Natural Family Planning) (viết tắt KHHTN). Lưu ý đầu tiên là Phương pháp KHHTN không gọi là “phương pháp ngừa thai nhân tạo”. KHHTN không phải là nhằm “kiểm soát sinh sản”. Người ta hay nói, do hiểu lầm hoặc thành kiến, Hội thánh Công giáo chống lại việc kiểm soát sinh sản bằng phương pháp nhân tạo. Hội thánh không chống các biện pháp nhân tạo vì chúng nhân tạo, nhưng chống thái độ và ý hướng ngừa thai. Ngừa thai là một chọn lựa dùng bất kì phương cách nào để ngăn chặn việc mang thai có thể có do hành vi giao hợp vốn thuộc quan hệ phu thê. Nói cách khác, các đôi bạn “ngừa thai” là người đã chọn đi vào thực hành giao hợp vợ chồng và thấy trước hành vi ấy có thể làm đậu thai và vì thế cố ý loại bỏ khả năng đậu thai này. Điều này có thể được làm bằng nhiều dụng cụ nhân tạo khác nhau hay dùng hoóc-môn, hoặc bằng triệt sản, hoặc bằng giao hợp nửa chừng (coitus interruptus). Hội thánh chống các phương pháp nhân tạo vì chúng “chống thụ thai” ngay trong bản chất phương pháp, chứ không vì chúng nhân tạo. Hội thánh chấp nhận và cổ võ phương pháp KHHTN (khi có lí do chính đáng không mang thai) không bởi vì nó “tự nhiên” đối nghịch vói “nhân tạo”, nhưng vì nó dù sao cũng không chống thụ thai xét tự thân hành vi khách quan. Đôi bạn thực hành phương pháp KHHTN không bao giờ chọn ngăn chặn sự thụ thai tiềm ẩn trong hành vi vợ chồng. KHHTN không phải là “ngừa thai” tự nhiên. Vì nó không hề là chống thụ thai.

Ở đây, chúng tôi xin giới thiệu một phương pháp KHHTN ngày nay được Hội Thánh quan tâm, cổ võ tích cực, đó là phương pháp Rụng trứng Billings (B.O.M.).

GIỚI THIỆU PHƯƠNG PHÁP BILLINGS (B.O.M)

Phương pháp Billings là một trong những phương pháp điều hòa sinh sản tự nhiên (NFP), dựa trên cảm giác và quan sát chất nhờn từ cổ tử cung tiết ra, để đạt 3 mục đích: (1) thụ thai, (2) trì hoãn thụ thai, (3) theo dõi sức khỏe sinh sản.

Lịch sử phương pháp:

Trăn trở vì hiệu quả thấp của các phương pháp tự nhiên gồm Ogino Knauss và đo thân nhiệt căn bản…, Cha Maurice Catarinic, một cha xứ ở Melbourne, nước Úc, đã nhờ Ông Bà bác sĩ Billings tìm kiếm một phương pháp hiệu quả cao hơn, giúp các gia đình yên tâm sống đúng theo giáo huấn của Giáo Hội.

Năm 1953, Ông Bà cùng các nhà khoa học bắt đầu nghiên cứu trên khoảng 300 phụ nữ, yêu cầu họ để ý cảm giác nơi âm hộ trong một chu kỳ sinh dục và ghi lại trên biểu đồ. Những hiểu biết về phương pháp Billings dần được khám phá và truyền giảng.

Đến năm 1978, phương pháp được Tổ chức Y tế thế giới WHO công nhận sau 01 năm nghiên cứu trên 5 Quốc gia, với nhiều loại phụ nữ và ở những lứa tuổi khác nhau. Hiệu quả ban đầu là 97% (WHO 1978), đã tăng lên đến 98,5% - 99.7% (Ấn Độ 1996, Trung Quốc 1997)

Đến nay, phương pháp vẫn được các nhà khoa học tiếp tục nghiên cứu sâu hơn, đặc biệt trong lĩnh vực hiếm muộn. Phương cách truyền giảng được cập nhật thường xuyên sao cho dễ hiểu, dễ áp dụng nhất đối với từng đối tượng học viên.

Vì sao cần giảng dạy phương pháp?

Vì Phương pháp Billings hoàn toàn tự nhiên, phù hợp với giáo huấn của Giáo Hội Công Giáo, đã được các Đức Giáo Hoàng Phaolô VI, Gioan Phaolô II, Benedict XVI chuẩn nhận. Đặc biệt, vào ngày 1/6/2016, Đức Thánh Cha Phanxicô đã ban Phép lành Tòa Thánh mãi mãi cho Cha Linh hướng và những ai được tổ chức Billings phục vụ.

Vì phương pháp không có tác dụng phụ và có nhiều lợi ích:

(1) Giúp người phụ nữ tự tin, hiểu biết về cơ thể, tôn trọng bản thân, biết quí trọng giữ gìn khả năng sinh sản của mình.

(2) Giúp thăng tiến tình yêu vợ chồng qua đối thoại, quan tâm tinh tế, đồng thuận giữ tiết độ định kì, chung trách nhiệm, sáng tạo, thăng hoa trong tình yêu.

(3) Hợp tác với những qui luật Thiên Chúa đã đặt để trong người phụ nữ để đón nhận con cái như Quà tặng của Ngài.

(4) 90% phụ nữ cảm giác được chất nhờn đặc trưng của mình, kể cả người khiếm thị, mù chữ.... Dễ sử dụng cho mọi chu kỳ, cả đều và không đều, ở những giai đoạn và tình huống khác nhau trong đời sống sinh sản của người nữ như dậy thì, cho con bú, tiền mãn kinh, stress, sau ngưng thuốc ngừa thai, tập luyện quá căng thẳng….

(5) Nếu người phụ nữ quan tâm theo dõi chất nhờn, ghi biểu đồ đều đặn, vợ chồng áp dụng nghiêm túc luật Billings, tỷ lệ thành công trong việc trì hoãn thụ thai lên đến 99.7%. Tỷ lệ thất bại là 1% - 25% do truyền giảng không rõ ràng hay người học hiểu sai, do tình huống sinh học, do vợ chồng không dứt khoát giữa muốn và chưa muốn có thai. Vì vậy, học viên cần được đồng hành cho đến khi thành thạo B.O.M.

(6) Để hỗ trợ các đôi hiếm muộn, B.O.M cung cấp thông tin chính xác về chất nhờn, ngày dễ thụ thai nhất, gợi ý và đưa ra chỉ dẫn tìm kiếm một số nguyên nhân gây hiếm muộn. Một nghiên cứu ở Trung Quốc cho kết quả 1032 trên 3268 phụ nữ hiếm muộn chưa rõ nguyên nhân đã thụ thai sau 2-5 chu kỳ. Nghiên cứu ở Úc trên 384 phụ nữ, 75% đã có thai trong 5 tháng; Cố gắng hướng dẫn B.O.M cho 65 phụ nữ từ 38-46 tuổi, đã giúp 49% người có thai.

(7) B.O.M còn giúp theo dõi sức khỏe sinh sản: Bằng cách ghi biều đồ mỗi tối, người phụ nữ sẽ phát hiện sớm các dạng bất thường, bệnh lí…, nhờ vậy được khám và điều trị kịp thời.

Nội dung giảng dạy phương pháp cho cả hai vợ chồng trong 6 tiết gồm:

(1)Giáo huấn của Giáo Hội về Sinh sản có trách nhiệm, ý nghĩa và cách giữ tiết độ định kỳ trong đời sống vợ chồng.

(2)Học biết như thế nào là một chu kì sinh dục nữ có khả năng thụ thai trọn vẹn

(3)Cách quan sát và theo dõi chất nhờn, ghi biểu đồ mỗi ngày

(4)Nhận định mẫu không thụ thai của chính mình để biết thời điểm bắt đầu có khả năng thụ thai

(5)Nhận định ngày Đỉnh, là ngày 85% phụ nữ có rụng trứng

(6)Thực hành làm biểu đồ mẫu và phân tích biểu đồ

(7)Áp dụng luật Billings để đạt mục đích, thực hành trên biểu đồ mẫu

(8)Tóm tắt bài giảng bằng cách làm bài kiểm tra và đưa ra đáp án.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

MỤC LỤC

CHUẨN BỊ CHO NGƯỜI TRẺ BƯỚC VÀO   ĐỜI SỐNG HÔN NHÂN                                               Trang 1

Chuẩn bị hôn nhân theo Th. AMORIS LAETITIA      Tr. 8                                            

Gặp gỡ I: CHÚNG TA YÊU NHAU                          Tr.17

Gặp gỡ II: CHÚNG MÌNH KẾT HÔN NHÉ             Tr. 28

Gặp gỡ III: KẾT HÔN NHƯ NHỮNG KITÔ HỮU  Tr. 39

Gặp gỡ IV: VỚI BÍ TÍCH HÔN PHỐI                       Tr.49

Gặp gỡ V: ĐƯỢC KÊU GỌI NÊN THÁNH              Tr. 60

Gặp gỡ VI: CHÚNG TA SẼ NÊN MỘT XƯƠNG MỘT THỊT                                                                           Tr.71

Gặp gỡ VII: CHÚNG MÌNH SẼ SINH CON             Tr. 83

Gặp gỡ VIII: CHÚNG MÌNH SẼ TẠO LẬP MỘT GIA ĐÌNH – HỘI THÁNH TẠI GIA                                Tr. 94

Gặp gỡ IX: TRONG XÃ HỘI                                   Tr. 105

PHỤ LỤC: GIỚI THIỆU P. P BILLINGS            Tr. 116                                                              

 

 



[1] Phanxicô, tông huấn Niềm vui Tình yêu (Amoris Laetitia), 206.

[2] Ibid. 207.

[3] HĐGMVN, Thư Chung 2016 s. 5.

[4] Phanxicô, Niềm vui của Tình yêu, cit., 208.

[5] Inhaxiô Loyola, Linh Thao, Chú thích 2.

[6] Ibid., Chú thích 5.

[7] Gioan Phaolô II, Huấn Gíao Thư Tư (HG) (27.6.1984), 4: Insegnamenti VII/1 (1984), 1941.

[8] HG (21.10.2015): L’Osservatore Romano, 22.10.2015, tr. 12.

[9] HĐGM Kênya, Sứ Điệp Mùa Chay (18.02.2015).

[10] Cf. Piô XI, Thđ. Casti Connubii (31.12.1930): AAS 22 (1930), 583.

[11] Gioan Phaolô II, HG (4.7.1984), 3, 6: Insegnamenti VII/2 (1984), tr. 9, 10.

[12] Gioan Phaolô II, Thần học về Thân xác XLVIII, 1, bản dịch Việt ngữ, NXB Tôn giáo 2016, 352.

[13] Gioan Phaolô II, Thần học … cit., 125.

[14] Bênêđictô XVI, Deus caritas est, 11. Cf. Phanxicô, Amoris … cit., 70.

[15] Chúng ta cũng không được quên rằng giao ước của Thiên Chúa với dân Ngài được diễn tả như một sự đính hôn (Cf. Ed 16,8. 60; Is 62,5; Hs 2,21-22), và giao ước mới cũng được trình bày như một hôn ước (Cf. Kh 19,7; 21,2; Ep 5,25).

[16] Tôma Aquinô, Summa contra Gentiles, III, 123; Cf. Aristotele, Etica Nic., 8, 12 (ed. Bywater, Oxford 1984, 174).

[17] HĐGM Úc Châu, Thư mục vụ Don’t Mess with Marriage (24.11.2015), 11.