Năm Tân Phúc-Âm-hoá đời sống
Giáo xứ và Cộng đoàn
– Gợi ý mục vụ –
Đề tài 9. Tân
Phúc-Âm-hoá Giáo xứ và
cộng đoàn: Canh tân đời sống thánh hiến
“Hãy đi bán những gì anh có… rồi hãy đến
theo tôi” (Mc 10,21)
Trong cộng đoàn
Hội Thánh địa phương sự hiện diện và đời sống của các tu sĩ dòng và những hội
viên tu hội đời, những người được Chúa gọi theo Chúa “sát hơn” và lấy Người làm
“tất cả” đời mình, đã là một lời rao giảng Tin mừng sống động. Chính đời thánh
hiến của họ trở thành sứ vụ. Thật vậy, những người tận hiến được yêu cầu thực sự
trở thành những “chuyên viên về hiệp thông” và thực hành linh đạo hiệp thông. Đời
sống hiệp thông của họ “trở thành một dấu
chỉ cho thế giới và một sức mạnh thu hút người ta tin vào Đức Kitô”[1].
Sống mầu nhiệm hiệp thông mang tính sứ vụ, những người tận hiến trước hết có sự
đồng cảm với Giáo hội, từ đó mới sinh hiệu quả phong nhiêu, nhưng không tránh
khỏi phải đương đầu và vượt qua những thách đố, nhất là trong thời đại ngày
nay.
1. Đồng cảm với
Giáo hội (Sentire cum
Ecclesia)
– Theo gương
các đấng sáng lập dòng, những người tận hiến luôn sống một cảm thức nhạy bén về
Hội Thánh, biểu lộ qua việc tham dự trọn vẹn vào đời sống Hội Thánh trong mọi mặt
và vâng phục mau mắn đối với các vị mục tử, đặc biệt với Đức Thánh Cha. Một
khía cạnh nổi bật của sự hiệp thông với Hội Thánh là gắn bó bằng cả trí tuệ và
con tim với huấn quyền của các Giám mục. Những người tận hiến giữ một vị trí đặc
biệt trong Hội Thánh, cho nên thái độ của họ đối với huấn quyền có tầm quan trọng
lớn lao trước toàn thể Dân Chúa. Chứng tá của lòng yêu mến hiếu thảo của họ
mang lại sức mạnh và sinh khí cho hoạt động tông đồ của họ.
– Những người tận
hiến được kêu gọi trở thành chất men hiệp thông phục vụ cho sứ vụ của Hội Thánh
hoàn vũ, vì các đoàn sủng khác nhau của các tu hội được Chúa Thánh Thần ban cho
là để mưu ích cho toàn Nhiệm Thể, nên họ phải phục vụ công việc xây dựng Nhiệm
Thể (x. 1Cr 12,4-11). “Con đường trổi vượt hơn cả”
(1Cr 12,31), “điều cao trọng
hơn cả” (1Cr 13,13) là đức
mến, vì đức mến dung hòa mọi khác biệt, thúc đẩy mọi người nâng đỡ nhau để hăng
hái dấn thân trong công việc tông đồ. Để đạt tới đức mến đó, đời thánh hiến
trong các tu hội và tu đoàn tông đồ muốn được
liên kết đặc biệt trong tình hiệp thông với đấng kế vị thánh Phêrô trong tác vụ kiến tạo sự hiệp nhất và
thúc đẩy công cuộc truyền giáo phổ quát.
– Các đoàn sủng
của đời thánh hiến có thể góp phần đắc lực vào việc xây dựng đức mến trong Hội
Thánh địa phương. Các Giám mục được yêu cầu đón tiếp và trân trọng các đoàn sủng
của đời thánh hiến, dành cho họ một chỗ trong các kế hoạch mục vụ Giáo phận. Cần
biết đón nhận hồng ân đời thánh hiến mà Thánh Thần khơi lên trong Hội Thánh địa
phương, bằng cách tiếp nhận với tâm tình quảng đại và tri ân.
2. Hiệp thông
phong nhiêu với tôn ti phẩm trật trong Hội Thánh
– “Giám mục là
cha và là mục tử của toàn thể Hội Thánh địa phương. Người có nhiệm vụ nhìn nhận
và tôn trọng những đoàn sủng khác biệt, thăng tiến và phối hợp chúng. Với đức
ái mục tử, người phải đón tiếp đoàn sủng đời thánh hiến như một ân sủng, không
phải chỉ liên hệ đến một tu hội, mà còn để mưu ích cho toàn thể Hội Thánh. Như
thế người phải tìm cách nâng đỡ và trợ giúp những người tận hiến, hầu họ hiệp
thông với Hội Thánh mà mở ra những sáng kiến tu đức và mục vụ đáp ứng nhu cầu của
thời đại chúng ta, trong khi vẫn trung thành với đoàn sủng sáng lập của họ. Phần
họ, những người tận hiến đừng quên quảng đại cộng tác với Hội Thánh địa phương,
theo khả năng của họ và tôn trọng đoàn sủng, họ hoạt động trong tinh thần hiệp thông trọn vẹn với Giám mục ở các lãnh vực loan báo Tin mừng, huấn
giáo, sinh hoạt giáo xứ.”[2]
– Hội Thánh ký
thác cho các cộng đoàn sống đời thánh hiến bổn phận đặc biệt, đó là phát triển linh đạo hiệp thôngtrước tiên
trong chính cộng đoàn mình, kế đến trong cộng đoàn Hội Thánh và vượt cả biên giới
này nữa, bằng cách kiên trì theo đuổi đối thoại bác ái, nhất là tại những nơi
đang bị xâu xé bởi hận thù chủng tộc hay bạo lực điên rồ.[3] Cảm thức về hiệp
thông trong Hội Thánh này được củng cố và nuôi dưỡng thông qua các mối tương
quan thiêng liêng huynh đệ và cộng tác giữa các cộng đoàn tận hiến. Họ hiệp nhất
vì cùng cam kết bước theo Đức Kitô – sequela
Christi – và được cùng một
Thánh Thần thúc đẩy, như thế họ sẽ biểu lộ cách hữu hình sự viên mãn của Tin mừng
tình yêu, như những cành nho của một Cây Nho duy nhất. Sự hiệp thông Hội Thánh
đó cũng biểu lộ qua sự cộng tác với các giáo dân. “Đối với các dòng đan tu và
chiêm niệm, mối tương quan với giáo dân chủ yếu ở mặt thiêng liêng, còn đối với
các tu hội dấn thân tông đồ thì mối tương quan ấy được diễn tả qua sự hợp tác mục
vụ. Các thành viên tu hội đời, giáo dân hay giáo sĩ, duy trì tương quan với các
tín hữu khác trong những hình thức thông thường của cuộc sống hằng ngày. Đoàn sủng
của các tu hội có thể chia sẻ với giáo dân: giáo dân được mời gọi tham dự nhiều
hơn và sâu hơn vào linh đạo và sứ mạng của chính tu hội”.[4]
3. Những thách
đố lớn của đời thánh hiến
Không có sự hợp
tác, trong hiệp thông và đối thoại, của tất cả các thành phần của Hội Thánh,
chúng ta không thể đương đầu hữu hiệu với các thách đố thời đại. Cách riêng, sứ
vụ tiên tri của đời thánh hiến phải đương đầu với ba thách đố quan trọng đặt ra
cho chính Hội Thánh, với những dạng mới mà người tận hiến phải xét lại cách triệt
để.[5]
– Thách đố của khiết tịnh tận hiến. Văn hóa đương đại cổ võ hưởng
thụ, tháo gỡ mọi quy tắc đạo đức khách quan của tính dục, thường giản lược tính
dục thành một thứ trò chơi và một món hàng tiêu thụ, cũng như tôn thờ bản năng tính
dục với sự đồng lõa của các phương tiện truyền thông xã hội. Hậu quả là đủ mọi
thứ vi phạm đạo đức, vô vàn đau khổ. Lời đáp của đời tận hiến hệ tại trước tiên
ớ việc vui vẻ sống khiết tịnh hoàn hảo, như một chứng
tá về quyền năng của tình yêu Thiên Chúa trong phận người mỏng giòn. Người tận
hiến cho thấy rằng điều mà nhiều người cho là không thể được lại trở nên có thể
và thật sự mang lại tự do,
nhờ ơn thánh Chúa. Khiết tịnh của người tận hiện là một kích thích tố quý báu
cho việc giáo dục khiết tịnh, cần cho các bậc sống khác nữa.
– Thách đố của khó nghèo. Thách đố ngày nay đến
từ một thứ chủ nghĩa duy vật chất thèm khát chiếm hữu, vô cảm trước những nhu cầu
và nỗi khổ của người khác, dửng dưng với việc phải làm quân bình những tài
nguyên thiên nhiên. Nhiều người không ý thức tài nguyên của hành tinh có giới hạn,
cần được tôn trọng và bảo vệ công trình tạo dựng bằng cách giảm bớt tiêu thụ,
biết sống thanh đạm và tự kềm hãm những ước muốn của mình. Lời đáp của đời
thánh hiến, qua việc sống khó nghèo theo Tin mừng, mang nhiều hình thức khác
nhau, làm chứng cách mới mẻ và mạnh mẽ về sự từ bỏ và tiết độ, bằng một nếp sống
huynh đệ, đơn sơ và hiếu khách, làm gương cho những người dửng dưng với nhu cầu
của tha nhân; và thường kèm theo hoạt động dấn thân phát huy tình liên đới và
bác ái.
– Thách đố của tự do trong vâng phục. Văn hóa
ngày nay đề cao tự do và phẩm giá con người, nhưng thường muốn tách ra khỏi
tương quan với chân lý và các quy tắc luân lý. Thế nhưng, ai
cũng thấy, nó đã để lại những bất công trầm trọng và những bạo hành khủng khiếp
vì sự sử dụng lệch lạc quyền tự do trong cuộc sống cá nhân và các dân tộc. Lời
đáp của đức vâng phục đời thánh hiến, họa lại Đức Kitô vâng phục Chúa Cha và khởi
đi từ Người, minh chứng tự do và vâng phục không mâu thuẫn với nhau. Họ cho thấy
qua Đức Kitô mầu nhiệm tự do của con người là một con đường vâng phục thánh ý
Chúa Cha, và mầu nhiệm vâng phục là một con đường để dần dần chinh phục sự tự
do chân chính.
Câu hỏi thảo
luận
1. Anh chị tận hiến đã phải đối diện và
vượt qua những khó khăn cụ thể nào trong tương quan nội bộ cộng đoàn tận hiến của
mình để thực thi sứ mạng của tu hội, tu đoàn trong Hội Thánh địa phương?
2. Anh chị tận hiến đã phải đối diện và
vượt qua những khó khăn cụ thể nào trong tương quan với cộng đoàn gia đình giáo
xứ và giáo phận, trong khi sống sứ mạng của tu hội, tu đoàn trong Hội Thánh địa
phương?
3. Anh chị em kitô hữu giáo dân thấy mình
được nâng đỡ gì và như thế nào từ những người tận hiến? Và ngược lại, đời sống
mình đã đóng góp và nâng đỡ như thế nào cho những người kia?
–––––––––––––––––––
[1] Thánh Gioan
Phaolô II, th. Christifideles
laici, 30/12/1988, 31-32.
[2] Thánh Gioan
Phaolô II, th. Vita consecrata,
25/03/1996 (VC), 49.
[3] Ibid., 50.
[4] Ibid., 54.
[5] Ibid., 87-91.
Lm Luy Nguyễn Anh Tuấn