Giáo
Dục Gia Đình
Giuse Nguyễn Đức Hòa, OP. (daminhvn.net) - ngày 02 Tháng tư 2014
I. GIÁO DỤC NHÂN BẢN
Muốn nên thánh bạn phải là một con người trước đã.
Muốn là một người đạo đức bạn phải có những đức tính nhân bản trước
đã.
Một vị thánh cũng đồng nghĩa với một con người có đời sống nhân bản
tốt; một người công giáo đúng nghĩa cũng phải là một người công dân gương mẫu.
Không thể có một vị thánh mà lại thiếu những đức tính nhân bản như sự tế nhị,
lòng nhân ái, tình liên đới với người khác. Không thể có một người đạo đức mà
lại bất lịch sự, ăn nói chanh chua hay cư xử cứng cỏi với mọi người.
“Thư chung của Hội Đồng Giám Mục Việt
Nền giáo dục Kitô giáo không xây dựng con người trên những lý
thuyết viển vông, xa rời thực tế, nhưng là đào tạo con người trên cơ sở nếp
sống nhân bản. Và trách nhiệm ưu tiên trong vấn đề giáo dục Kitô giáo thuộc về
gia đình, những người làm cha làm mẹ. Sống trong môi trường gia đình, các trẻ
em có điều kiện tốt nhất để hấp thụ nền giáo dục kitô giáo đầu tiên trong đời,
và là nền tảng để các em phát triển hơn nữa trong môi trường giáo xứ và xã hội
sau này. Vấn đề là các bậc cha mẹ phải bắt đầu giáo dục con cái từ đâu và như
thế nào. Vì giáo dục nhân bản là một đề tài lớn và phức tạp, chỉ xin tập trung
vào việc giáo dục hai đức tính sau đây : lòng tự trọng và trung thực.
1. Giáo dục lòng tự
trọng
Từ điển tiếng Việt xuất bản năm 2003 định nghĩa tự trọng là “coi
trọng và giữ gìn phẩm cách, danh dự của mình”. Nói cách khác, tự trọng là ăn
nói, cư xử và sống đúng với nhân phẩm và địa vị của mình. Khác với tự tôn là tự
đề cao mình, tự khoe mình, tự đánh giá mình cao hơn con người thực của mình :
đó là một hình thức của tính kiêu ngạo và là một tính xấu. Ngược lại tự trọng
là một đức tính nhân bản quan trọng nhất, là nên tảng đức hạnh của một người có
nhân cách. Thí dụ một người không ăn gian nói dối là người biết tự trọng, một
người có sao nói vậy là người tự trọng, một người giữ lời hứa cũng là người
biết tự trọng.
Lòng tự trọng trước hết được thể hiện qua cách ăn mặc. Không nhất
thiết phải ăn mặc sang trọng hay hàng hiệu mới là tự trọng, nhưng cần ăn mặc
đúng cách, đúng lúc, phù hợp với hoàn cảnh. Một người đi lễ mà ăn mặc như đi
picnic hay đi tắm biển thì chắc chắn không phải là nghiêm túc rồi. Đi đến nơi
công cộng mà ăn mặc luộm thuộm hay thoải mái như trong phòng ngủ. Có lần dự
tiệc cưới tại khách sạn New World Hotel tôi thấy một cô gái mặc đầm, nhưng áo
thì chỉ là một miếng vải to cỡ cái khăn mùi soa che phía trước, đàng sau lưng
thì cột hai đầu lại với nhau một cách cẩu thả. Ai nhìn thấy kiểu thời trang
“kinh dị’ ấy cũng lắc đầu! Rõ ràng ăn mặc như vậy là thiếu tự trọng và cũng
thiếu thẩm mỹ nữa! Mấy ông, mấy anh lớn mà cứ về đến nhà là cởi trần trùng trục,
rồi ăn cơm, đọc báo, coi TV với gia đình cũng cởi trần thì chắc chắn là không
biết tự trọng. Con em chúng ta nhìn thấy rồi chúng sẽ bắt chước thôi. Cho nên
muốn giáo dục con cái ăn mặc đàng hoàng thì chính các người làm cha làm mẹ, làm
anh làm chị trong gia đình phải làm gương trước.
Lòng tự trọng cũng thể hiện qua lời ăn tiếng nói của chúng ta. Chỉ
cần nghe một người nói dăm ba câu là chúng ta đã có thể biết người đó là người
như thế nào, có giáo dục, có tư cách hay không. Điều rất đáng tiếc là nhiều
người Việt
Một du khách Việt
Tự trọng cũng có nghĩa là phải đúng giờ. Giữ đúng giờ không những
nói lên tư cách của một người mà cũng chứng tỏ chúng ta biết tôn trọng người
khác.
Có lẽ không ở đâu mà giờ giấc lại du di, co giãn như ở Việt
Cuối cùng lòng tự trọng cũng có nghĩa là phải giữ lời hứa. Không ai
bắt chúng ta phải hứa điều gì, nhưng nếu đã hứa thì phải giữ lời hứa, thực hiện
lời hứa, như thế mới là người có tư cách. Người hứa mà không giữ lời hứa tức là
người nói xạo, không trung thực. Có lẽ chúng ta đã thấy nhiều cha mẹ khi con
cái xin điều gì đó thì hứng lên là hứa : “Ừ, rồi ba sẽ mua cho con; ừ chiều này
mẹ cho con đi chơi”. Nhưng sau đó thì không giữ lời hứa, hay hứa cho hai mà chỉ
cho một, hứa cho đi chơi Đầm Sen nhưng cuối cùng chỉ đưa con đi công viên Lê
Văn Tám chẳng hạn. Không giữ lời hứa dần dần sẽ đưa đến lỡ hẹn, không trả nợ,
trả tiền thuê nhà đúng ngày như đã thỏa thuận, tự ý hủy hợp đồng khi thấy hợp
đồng bất lợi cho mình, trả lại tiền cọc cho người mua nhà trước để bán cho
người mua sau với giá cao hơn !
2. Giáo dục sự trung
thực
Chúng ta thử tưởng tượng nếu tất cả mọi người đều nói dối thì mọi
tổ chức từ gia đình, khu xóm, làng xã, giáo xứ, cho đến thành phố, đất nước và
cả thế giới sẽ tan rã, rối loạn; người ta sẽ không còn biết tin vào ai, vì
không biết đâu là đúng đâu là sai, đâu là sự thật và đâu là gian dối (thí dụ
bảng thông cáo ghi lễ chiều lúc 17g30, nhưng mãi đến 19 giờ mới có lễ; tiệc
cưới ghi chiều thứ bảy, nhưng thực tế mãi đến chiều thứ hai mới tổ chức!).
Các trẻ em VN từ xưa đến nay vẫn bị mang tiếng là hay nói dối (đi
nói dối cha, về nói dối chú). Một trong những nguyên nhân là vì chính cha mẹ
cũng nói dối, thậm chí còn khuyến khích con cái nói dối (Mẹ nằm trong phòng :
có ai hỏi thì nói mẹ đi vắng; hay ba về thăm nội, nếu má con hỏi thì nói ba lên
cơ quan có chút việc nha con). Chính cách giáo dục của nhiều cha mẹ, dùng hình
phạt hay mắng chửi để răn đe cũng làm cho con cái sợ mà nói dối (con đánh bể
cái chén là bị trận đòn; làm bài sai bị bố la hét. Trong khi đó người tây
phương không dùng hình phạt để dạy con : con làm bể cái tô, người mẹ ôn tồn nói
lần sau con cẩn thận hơn, cho nên đứa con sẵn sàng nói cho mẹ nó biết đã làm bể
cái tô mà không sợ bị phạt hay bị đánh).
Nhưng điều đáng báo động là hiện nay bệnh nói dối đã lây lan sang
người lớn, len lỏi vào mọi ngành nghề, kể cả những nghề đáng kính như tòa án,
thanh tra, giáo dục, y tế và tình trạng ngày càng tệ hại hơn. Nói dối, lừa lọc,
gian lận đang trở thành căn bệnh tràn lan, đến nỗi nó đã trở thành chuyện đương
nhiên, ‘bình thường’. Ông Lương Hoài Nam, một tiến sĩ kinh tế, viết trong loạt
bài “Nước Việt Nam nhỏ hay không nhỏ” của báo Thanh Niên năm 2006 : “Ở các nước
văn minh thì cả năm nguời ta nói thẳng nói thật đến mức phải tạo ra ngày “cá
tháng tư” để được quyền nói xạo, nói dối cho vui mà không bị lương tâm cắn rứt.
Còn ở ta nói dối gần như trở thành một nếp sống, một nếp ứng xử rất phổ biến.
Người ta thấy nói thật chẳng được gì, có khi tai bay vạ gió, mang họa vào thân”.
Ngay từ khi đứa con lớn dần trong bụng mẹ đến ngày sanh, người ta
đã phải chú tâm chạy chọt tìm một bệnh viện, chạy tìm bác sĩ để gửi gắm. Khi
con vào nhà trẻ, một lần nữa, cha mẹ lại chạy tìm một nhà trẻ tin cậy, dù rất
xa nơi cư trú và tốn kém không ít. Khi con vào các lớp đầu cấp (lớp 1, lớp 6, lớp 10) các bậc cha mẹ lại gồng mình chạy cho con vào trường
công lập, trường điểm, dù học lực không đáp ứng, điểm không đủ. Và dĩ nhiên chỉ
có tiền mới giải quyết được. Sau bốn năm năm ra trường thì lại chạy chọt vào
doanh nghiệp có tên tuổi, có thu nhập cao, chạy chức, chạy quyền. Khi mua một
cái xe phải chạy, lo lót để có số đẹp; khi mua lô đất, làm một căn nhà phải
chạy toát mồ hôi với hàng chục thủ tục giấy tờ. Thậm chí đến lúc chết nằm
xuống, tuy bản thân không còn chạy lo cho mình được thì người thân phải chạy để
có miếng đất cho mồ yên mả đẹp (Hoàng Mạo, VN Forum 74, 75). Cái cảnh vào bệnh
viện mà không biết điều với y tá, bác sĩ thì bệnh nhân, dù trong tình trạng cấp
cứu, cứ nằm đấy mà chờ dài cổ cũng chẳng ai thèm ngó ngàng gì.
Có lẽ không ở đâu mà chuyện làm giấy tờ giả nhiều như ở VN : bằng
lái xe giả, chứng chỉ giả, văn bằng giả, hôn thú giả, hộ chiếu giả, thi hộ thi
dùm, thậm chí ở Quảng Ngãi có người còn đắp mộ giả để đòi bồi thường. Tại một
nghĩa trang liệt sĩ, người phụ trách trông coi nghĩa trang còn khai man số mộ
liệt sĩ để lấy thêm tiền. (Báo Tuổi Trẻ số 04-03-2008 đăng tin một phụ nữ ở
Thanh Hóa giả chết để lấy tiền bảo hiểm. Nghi ngờ, công an mở nắp quan tài thì
bên trong là một bao nylon đựng 20 kg đất pha với tiết heo!). Đáng buồn hơn
nữa, trong chính môi trường giáo dục nơi mà lẽ ra học sinh phải được dạy cho
biết thế nào là sống trung thực, ngay thẳng, thì người ta lại dạy các học sinh,
sinh viên những hình thức dối trá. Một sinh viên nói : “Mùa thi học sinh đã đến,
lớp tôi học lại rộn lên những điệp khúc như : “Đã đi thầy X chưa? Đi được bao
nhiêu môn rồi? Khi đi qua thầy thì rủ tao với nha!” Đã có quan niệm cho rằng
mùa thi là mùa làm ăn của thầy cô. Nhiều học sinh, sinh viên sẵn sàng bỏ ra
đống tiền mồ hôi nước mắt của cha mẹ để đổi lấy thành tích trong học tập. Những
ai không làm như vậy thì bị coi là ngố, là không thức thời!
Ngày nay nhân phẩm xuống giá rồi
Chỉ có thực phẩm lên giá thôi.
Lương tâm giá bèo hơn lương thực,
Chân lý chân giò một giá thôi!
Chúng ta đã thấy những chuyện ăn cắp điện, ăn cắp nước, ăn cắp cước
viễn thông, khai man thuế, khai man thu nhập, khai man tuổi trong thể thao,
khai man thành tích, rút ruột các công trình công cộng xảy ra tràn lan như thế
nào (Có một công trình xây dựng ở Hà Nội phát hiện ngoài là bêtông nhưng trong
là cốt tre!). Đất nước sẽ thiệt hại bao nhiêu nếu các công chức cứ tìm cách đi
chơi rồi nói dối là đang đi làm, đất nước sẽ thất thu bao nhiêu nếu mỗi doanh
nghiệp bán được nhiều nhưng khai thuế chỉ một phần mười. Tất cả đều từ thói dối
trá mà ra cả (Hmhai 2005. VN Forum 49).
Điều này xảy ra tại ai? Dĩ nhiên một phần là do môi trường xã hội
chúng ta đang sống đầy những cái chướng tai gai mắt, những gương mù gương xấu,
những người sống bừa bãi, thiếu tư cách. Nhưng phải nói rằng gia đình, cha mẹ
cũng có phần trách nhiệm trong việc tạo ra tình cảnh này. Nhiều cha mẹ cũng
sống không trung thực, hoặc răn dạy con cái bằng lời hay lẽ phải nhưng lại cư
xử theo kiểu chấp nhận tiêu cực. Chính họ đã trở thành tấm gương cho con cái
họ. Rồi phải kể đến những người chỉ vì muốn đạt được mục đích (vật chất) trước
mắt mà không biết là đang gieo mầm họa vào xã hội. Chúng ta thử tưởng tượng xem
khi những quan niệm ấy được nhân rộng, trở thành điều mặc nhiên thì sẽ khủng
khiếp thế nào? (Hung LeTrung, VN Forum 45).
Cứ cho là môi trường xã hội ngày nay đầy dẫy những chuyện gian dối,
lừa lọc mà chúng ta chẳng hy vọng thay đổi được, nhưng ít ra trong mỗi gia đình
các bậc cha mẹ vẫn phải dạy con cái sống ngay thẳng, vì nó là điều cần thiết
cho bản thân chúng và cũng cần thiết cho gia đình chúng ta nữa. Nếu thấy xã hội
tràn lan những gương xấu mà chúng ta buông xuôi đầu hàng, thì có khác gì khi
thấy phần lớn nhân loại (5/6 tỷ người) không tin có Chúa, chúng ta cũng không
tin có Chúa sao? Ngược lại, càng thấy nhiều người chưa tin vào Chúa thì chúng
ta càng phải củng cố niềm tin của mình cho vững mạnh hơn.
Cũng vậy, càng thấy xã hội gian trá nhiều thì chúng ta càng phải
giáo dục con em chúng ta sống trung thực hơn, trung thực trong lời nói, trung thực
trong việc làm, trung thực trong cách đối xử với mọi người, và nhất là trung
thực với bản thân chúng. Nhất định không bao giờ tự lừa dối mình bằng cách quay
cóp, phóng đại thành tích của mình, hay khoe khoang những điều mình không có.
Chúa nói : “Có thì nói có, không thì nói không, chứ không thể vừa có vừa không
được!”
Đã đến lúc các bậc làm cha làm mẹ không được phép chần chừ hơn nữa
mà phải bắt tay vào việc giáo dục nhân bản cho con cái. Chúng ta đã thấy cả một
thế hệ con em bị tiêm nhiễm cái thói gian dối của người lớn, và nếu không có
những biện pháp cấp bách giáo dục tại gia đình thì rồi có lẽ những thế hệ mai
sau cũng sẽ cứ tiếp nối cái lối sống gian dối, gian lận như ngày hôm nay thôi,
và có thể trong tương lai còn tệ hơn nữa. Bản thân mỗi cha mẹ, mỗi người lớn
phải biết tự trọng, cương quyết nói không với tiêu cực, không thỏa hiệp với
những gì là gian dối, mờ ám, quyết tâm sống trung thực, để những người khác khi
nhìn vào chúng ta có thể nhận định : “Nơi những người công giáo không có gì là
gian dối!”, cũng giống như ngày xưa Đức Kitô nói về ông Nathanaen : “Đây đích
thực là người Israel, nơi ông không có gì gian dối!” (
II. GIÁO DỤC TINH
THẦN CHUNG
Từ lâu đã có một câu nói mỉa mai như thế này : “Nếu đẩy ba người
Nhật xuống một cái hố, họ sẽ tìm cách đưa nhau lên. Còn nếu đẩy ba người Việt
Chính mắt tôi chưa nhìn thấy, nhưng nhiều người nói rằng người Hoa
sống ở TPHCM rất có tinh thân liên đới, tương thân tương ái với nhau, giúp đỡ
nhau. Chẳng hạn những người Hoa cùng buôn bán trong một khu phố sẵn sàng đóng
cửa tiệm của họ trong một thời gian để khuyến khích khách mua hàng đến mua tại
một cửa hàng mới mở của một người Hoa khác mới đến. Những chuyện giúp nhau như
vậy đối với người Việt Nam chúng ta có lẽ chỉ có trong truyện cổ tích, chứ
trong thực tế thì ‘ma cũ bắt nạt ma mới’, những người buôn bán cũ sẽ tìm mọi
cách gây khó dễ, thậm chí đe dọa những người mới vào nghề (khi mở nhà sách ở tu
viện Martinô, Hố Nai cũng bị những người bán sách gần đó gây sự).
Một giáo sư Việt kiều dạy học tại đại học
Lm Giuse Nguyễn Ngọc Bích dcct (Bài giảng Chúa nhật 02/2008 ), khi
so sánh tinh thần cộng đồng của người Việt
Một lần tôi đi xem một show diễn tại Universal Studio ở
Mỗi người chỉ lo sống cho cá nhân mình, lo cho quyền lợi của mình,
chỉ mong cho cuộc đời mình, gia đình mình ấm no, yên ổn chứ không hề nghĩ đến
vận mệnh của đất nước sẽ đi về đâu. Vì trong mỗi người chúng ta có tầm nhìn quá
hạn hẹp nên mỗi người chỉ là một cá thể chứ chưa hẳn đoàn kết thành một sức
mạnh tập thể to lớn. Người Việt
Một nhân viên phục vụ tại bệnh viện Pháp-Việt kể : “Cách đây chừng
một tháng tôi dẫn hai bố con anh bạn đồng nghiệp người Mỹ đi tìm thuê nhà tại
khu đô thị mới Phú Mỹ Hưng, có lẽ là khu đô thị đẹp nhất nhì tại TPHCM. Chúng
tôi thả bộ dọc theo các nhà cao tầng, anh bạn trầm trồ khen : “Không khác mấy
so với các thành phố bên Mỹ”. Tôi phổng mũi tự hào nói với bố con anh ta :
“Đấy, ở Việt
Nói đến chuyện vượt đèn đỏ, một em trong ca đoàn giáo xứ kể lại :
“Một hôm đến ngã tư gặp đèn đỏ con dừng xe lại, thì phía sau có anh đi Honda
nói như quát : “Đồ ngu, đi đi, còn chờ gì nữa? Mới trong rừng ra hả?” Con vừa bực
vừa buồn cười tự hỏi : Không biết ai trong rừng ra, người tuân thủ luật giao
thông hay người không tuân thủ luật giao thông? Thực ra không phải họ không
biết vượt đèn đỏ là sai trái, nhưng họ cứ vượt bởi vì họ chỉ nghĩ đến cái lợi
của mình mà không cần quan tâm đến người khác, đến lợi ích chung.
Một trong những nguyên nhân khiến họ hành động như vậy là vì chung
quanh mọi người đều làm như vậy, hay đã được người lớn giáo dục như vậy từ khi
còn nhỏ. Chẳng hạn một đứa con trong gia đình thấy có con chuột chết ở trong
bếp quay ra hỏi ba nó : “Ba ơi ba, có con chuột chết ở trong bếp nè. Làm gì bây
giờ ba?” – “Thì vứt ra đường chứ còn làm gì nữa!” Cứ cái kiểu giáo dục ích kỷ
như vậy cho nên không lạ gì mà sáng mùng một Tết chúng ta thấy những bịch rác
vứt đầy ngoài đường, vì sợ để rác trong nhà vào ngày đầu năm thì nó xui, cho
nên cứ dục ra đường là xong, ai xui thì xui miễn nhà mình không xui là được
rồi.
Một Cha bề trên kể rằng ngài có một đứa cháu 6 tuổi cùng với bố mẹ
từ Mỹ về thăm Việt
Lối sống bừa bãi, coi thường cái chung hầu như đã ăn sâu vào trong
máu huyết người Việt
Có cả những hành động ích kỷ coi thường tính mạng người khác như
nạn rải đinh trên xa lộ, tháo ốc vít đường ray xe lửa cũng vẫn thường xảy ra mà
những người làm chuyện đó vẫn cứ an tâm bình thản. Không biết họ có nghĩ đến
nhiều người bị tai nạn giao thông, thậm chí chết vì xe cán phải đinh, hay nghĩ
đến những tai nạn xe lửa trật đường rày làm chết hàng trăm người nếu nhân viên
kiểm tra không phát hiện kịp thời ? Mà mấy con bù loong thì bán được bao nhiêu
tiền, có đáng giá gì so với mạng sống của bao nhiêu người! Ấy là chưa nói đến
chuyện vẽ khoan cắt bêtông bừa bãi trên các tường nhà trong thành phố, chuyện
ăn cắp đèn đường, ăn cắp dây điện thoại, ăn cắp dây cáp quang, ăn cắp nắp cống.
(Robinet nhà vệ sinh giáo xứ bị mất hoài).
Có ý kiến cho rằng tất cả cũng do cái nghèo mà ra cả, như chúng ta
thường nói : “Đói ăn vụng, túng làm liều”. Cứ cho là sự nghèo túng một phần nào
có ảnh hưởng đến việc làm bậy, ăn cắp ăn trộm của một số người, nhưng không
phải mọi người nghèo đều đi ăn trộm ăn cắp. Có nhiều người nghèo vẫn sống lương
thiện, vẫn tôn trọng của chung. Cũng có những người ăn trộm ăn cắp không phải
vì nghèo, nhưng là do thiếu ý thức, không được giáo dục hay vì lười biếng.
Thỉnh thoảng có cả con những gia đình khá giả mà vẫn đi ăn cướp. Cho nên điều
quan trọng là phải giáo dục lương tâm ngay thẳng cho con cái khi chúng còn nhỏ,
để khi biết những gì sai trái, là gian dối, bất công chúng sẽ không làm, hoặc
nếu làm thì cảm thấy ngượng hay lương tâm cắn rứt.
Bạn Trần Xuân Khoa, trong loạt bài “Nước Việt Nam nhỏ hay không
nhỏ” đăng trên báo Thanh Niên 2006, thuật lại : “Cách đây 3 năm tôi có một đứa
cháu cùng bố từ Úc về ghé thăm. Năm ấy cháu lên bảy và đang học lớp 3. Một hôm
tôi đưa cháu đi dạo phố. Sau khi đi qua những con đường nhiều cây xanh bóng mát
và những nơi trẻ em thường vui chơi, chúng tôi ghé vào quán nước để nghỉ chân
uống nước. Cháu rất vui khi thấy cái gì cũng lạ, nhưng có lẽ điều làm cháu vui
nhất là mọi người gặp cháu đều nở nụ cười thân thiện. Sau khi nghỉ mệt chúng
tôi lại tiếp tục cuộc hành trình. Đột nhiên cháu dừng lại đòi đi tiểu, tôi đưa
cháu vào gốc cây và bảo cháu tự nhiên đi. Nó vùng vằng không chịu, đòi tìm
toilet. Tôi giải thích cho cháu ở đây là phố nhỏ làm gì có toilet công cộng, vả
lại cũng đang vắng người nên cháu tè đại đi. Tôi năn nỉ mãi không xong đành đưa
cháu trở lại quán nước để xin đi nhờ. Vào quán nước cũng đông người, nhà vệ
sinh thì đang bận nên tôi dắt cháu qua phòng tắm bảo cháu “giải quyết” đi cho xong.
Nó lại vùng vằng không chịu, tôi đành chờ cho tới khi người trong toilet đi ra,
rồi cuối cùng mọi việc cũng “diễn biến” tốt đẹp.
Trên đường về nhà, trời sắp đổ cơn mưa, tôi đưa cháu băng qua đường
cho nhanh. Bỗng nhiên cháu khựng lại không chịu đi, sự cố gì nữa đây. Chao ôi,
nó lại đòi đi vào đường có vạch sơn trắng (lối dành cho người đi bộ). Thôi rồi,
ông cụ non nghiêm chỉnh chấp hành luật giao thông, tôi chưa từng thấy ở người
lớn và trẻ em chung quanh ta. Chia tay đứa cháu, tôi suy nghĩ mãi về cách dạy
trẻ con của họ, làm sao có thể học và hành nghiêm chỉnh thế. Còn ở ta biết đến
bao giờ mới dạy, học và làm được như vậy?” (Trần Xuân Khoa – VN Forum 1).
Cũng là người Việt
Chắc chắn là nhiều người Việt
III. GIÁO DỤC ĐỨC
TIN TẠI GIA ĐÌNH
Giáo dục nhân bản và tính cộng đồng cho con cái là những đức tính
căn bản làm nên nhân cách con người, để có thể sống hài hòa với mọi người trong
gia đình cũng như ngoài xã hội. Phan nay đề cập đến vấn đề giáo dục cách sống
đạo, sống đức tin cho con cái, vì một người công giáo không chỉ sống đúng với
nhân cách của mình, mà còn phải sống đúng với tư cách là con cái của Chúa nữa.
Điều này càng trở nên cấp bách hơn khi mà đời sống đức tin của người kitô hữu
đang bị đặt trước rất nhiều thách thức và cám dỗ trong một thế giới chỉ biết đề
cao và tôn vinh những giá trị vật chất. Và một lần nữa, vai trò của những bậc
cha mẹ trong việc giáo dục đức tin tại gia đình là không thể thay thế được.
Hiện nay, có lẽ vẫn còn nhiều cha mẹ cứ “khoán trắng” việc dạy đức tin cho nhà
thờ, cho giáo xứ. Họ nghĩ rằng dạy giáo lý cho trẻ em là việc của các cha, các
thầy, các sơ, các giáo lý viên. Thực ra, vai trò của giáo xứ chỉ là củng cố và
đào sâu chính đức tin mà cha mẹ đã dạy cho con cái trong những năm tháng đầu
của cuộc sống.
Vậy thì cha mẹ phải bắt đầu dạy đức tin cho con cái từ lúc nào? Xin
thưa, càng sớm càng tốt, ngay từ lúc bập bẹ biết nói. R.M. Restak nói : “ Mỗi
đứa trẻ sinh ra là một thiên tài, nhưng chúng ta lại làm mai một tố chất bẩm
sinh ấy trong sáu năm đầu”. (Nhân chi sơ, tính bản thiện). Có nghĩa là trẻ em
khi còn nhỏ rất ngoan, rất dễ giáo dục, uốn nắn, nhưng chính vì sự thiếu quan
tâm hay gương mù của cha mẹ và người lớn làm cho chúng ra hư. Cho nên cha mẹ
phải dạy con các đức tính nhân bản cũng như đời sống đức tin ngay khi chúng còn
nằm trong nôi.
Tôi đã thấy nhiều bà mẹ vừa cầm tay con chỉ vào ảnh Chúa hay ảnh
Đức Mẹ vừa đọc to “Chúa, Đức Mẹ” cho tới khi bé quen và có thể tự mình làm được
như vậy. Lớn hơn một chút, cha mẹ dạy các cháu đọc những kinh đơn giản như Lạy
Cha, Kính mừng, Sáng danh… Thánh nữ Têrêsa Hài đồng kể rằng nhờ được cha mẹ dạy
đọc kinh Mân côi từ rất sớm, nên khi mới ba bốn tuổi thánh nữ đã thuộc. Mỗi lần
lên cầu thang, cứ leo được chừng 7, 8 bậc thì thánh nữ ngồi nghỉ, và trong khi
nghỉ thì đọc Kính mừng Maria!
Khi các cháu lớn hơn thì dạy các cháu cách cầu nguyện đơn giản :
xin Chúa cho con khoẻ mạnh để con đi nhà trẻ; xin Đức Mẹ cho ba hết đau, cho má
về sớm. Rồi trong những buổi đọc kinh tối tại gia đình nên khuyến khích các
cháu nhỏ cũng ngồi đọc chung với mọi người, dù cháu chưa thuộc hết các kinh và
dù cháu vừa đọc vừa ngủ gật cũng được. Một thi sĩ nước ngoài, trong một bài thơ
có viết : “Thật là đẹp và dễ thương, hình ảnh em bé vừa đọc kinh với gia đình
vừa ngủ gật!” Nó đẹp và dễ thương ở chỗ dù em bé có quyền nằm ngủ, không bắt
buộc phải đọc kinh với gia đình, nhưng cũng cố gắng ngồi được lúc nào hay lúc
ấy. Đó cũng là có công phúc và đẹp lòng Chúa lắm rồi! Những buổi đọc kinh tối
như vậy dần dần thấm vào tâm hồn em bé và làm cho đức tin của em lớn lên.
Trước mỗi bữa ăn nên dạy các cháu làm dấu thánh giá và giải thích
cho các cháu biết ý nghĩa của việc làm dấu thánh giá trước bữa ăn là có ý cám
ơn Chúa vì Chúa đã ban cho có đất đai, ruộng vườn, cho mưa thuận gió hòa để
người nhà nông cày cấy làm ra thóc lúa, cho ba má làm ra tiền để mua gạo, mua
thức ăn. Việc làm dấu thánh giá truớc bữa ăn tuy đơn giản nhưng lại là cách
tuyên xưng niềm tin công khai của người Kitô hữu, và nó cũng là một cách truyền
giáo nữa.
Tôi nghe nói một số các cháu con cán bộ gửi học tại nhà trẻ của mấy
sơ, khi các sơ dạy các cháu công giáo cách làm dấu thánh giá trước khi ăn cơm,
thì những cháu không có đạo cũng bắt chước miết thành thói quen, đến nỗi khi về
nhà ăn cơm với ba má các cháu cũng làm dấu; nếu thấy ba má không làm dấu thì
các cháu nhắc “ phải làm dấu cám ơn Chúa thì Chúa mới ban ơn!” rồi các cháu dạy
ba má cách làm dấu như thế nào. Nhiều trường hợp vì chiều con, hơn nữa thấy
chẳng mất mát gì, các cha mẹ là cán bộ cũng làm theo, rồi dần dần có cảm tình
với đạo.
Đến khi các cháu bắt đầu học tiểu học thì nên tập cho các cháu nghe
hay đọc lời Chúa. Mỗi buổi tối một người trong gia đình hay chính cháu bé đọc
một đoạn lời Chúa trong sách Tin mừng để cho lời Chúa thấm nhiễm vào tâm hồn
các cháu. Muốn như vậy thì mỗi gia đình nên có một cuốn kinh thánh Tân ước loại
nhỏ (giá chỉ có 15.000đ) hay cuốn Lời Chúa trong Thánh lễ (giá 45.000đ) có bán
tại nhà sách. Nghe và đọc lời Chúa như vậy liên tục trong mấy năm thì rồi dần
dần mọi người trong gia đình sẽ thuộc hết. Chỗ nào thắc mắc không hiểu thì hỏi
các cha, các thầy. Đây là một trong những cách giáo dục đức tin rất có hiệu
quả.
Song song với việc nghe và đọc lời Chúa, nếu có thể nên đọc hoặc kể
chuyện các thánh cho các cháu nghe. Chúng ta biết các truyện cổ tích mà chúng
ta được ông bà, cha mẹ kể cho nghe khi còn nhỏ thì chúng ta nhớ mãi, nhớ cho
đến già, không bao giờ quên; cũng vậy nếu được nghe về đời sống các thánh, các
em cũng sẽ nhớ mãi, những gương sáng và hình ảnh về đời sống các thánh sẽ in
sâu vào đầu óc các em và ảnh hưởng đến các em rất nhiều.
Hiện nay có cuốn sách “Uống nước nhớ nguồn” viết về tiểu sử của 118
vị thánh tử đạo Việt Nam, trong đó có những gương sáng về lòng trung kiên giữ
vững đức tin, trung thành với Giáo hội và can đảm tuyên xưng đức tin bất chấp
những lời đe dọa, tra tấn, hình phạt và cả cái chết. Có những vị đã nhất định
không nghe theo lời dụ dỗ của vua quan mà bước qua thập giá, vị khác không màng
chi đến tiền bạc danh vọng mà chỉ muốn chết vì Chúa; chẳng hạn như thánh TÚC
mới 19 tuổi : gia đình bỏ tiền mua chuộc lính để trốn về nhà, nhưng ngài không
trốn, cứ ở lại trong tù để được tử đạo; thánh NGÔN, 22 tuổi , mới lầy vợ được
hai tháng tìm cách trốn về thăm vợ, rồi cha mẹ vợ khuyên đã tự nguyện vào tù
trở lại.
Thánh CẦN : giáo dân cám dỗ bỏ đạo rồi về cha xứ tha tội cho đã
khảng khái tuyên bố : “dù thiên thần hiện xuống bảo bỏ đạo cũng không bỏ!”
Thánh TÔMA THIỆN, chủng sinh 18 tuổi : quan hứa gả con gái và ban chức tước
nhất định không nhận… Những điển hình về đức tin như thế chắc chắn sẽ có tác
động củng cố đời sống đạo của các thanh thiếu niên ngày hôm nay. Những người
lớn, những bậc làm cha mẹ, nếu có dịp, cũng nên đọc những sách như vậy để biết
cha ông chúng ta ngày xưa đã phải can đảm bảo vệ niềm tin của mình như thế nào,
đồng thời để hâm nóng lại đời sống đức tin của chúng ta ngày hôm nay
Giáo dục Kitô giáo còn nhấn mạnh việc huấn luyện lương tâm. Lương
tâm là luật tự nhiên phản ảnh phẩm giá con người và đặt nền tảng cho các nghĩa
vụ căn bản của con người (GHXH/GH 140). Khi có lương tâm ngay thẳng, con người
sẽ dễ dàng cộng tác để xây dựng cuộc sống công bằng, tôn trọng phẩm giá và sự
sống con người hơn (TC 36). Dạy lương tâm ngay thẳng cho con cái cũng có nghĩa
là dạy cho chúng biết sợ tội, nói không với những hiện tượng tiêu cực trong xã
hội, tránh làm những điều xấu, tránh những điều gian dối, bất công gây thiệt
hại cho người khác (xc. Tv. 100).
Tháng 11 năm 1916 tại một làng phía bắc nước Ý, một toán lính người
Áo đến bắt cha xứ và đem đi. Cha xứ chỉ kịp trao chiếc chìa khóa nhà chầu cho
cậu bé giúp lễ tên là Almiro, 7 tuổi và dặn cậu : “Đây là chìa khóa nhà chầu,
khi nào cần thì con cho người ta rước lễ”. Sau khi cha xứ bị đem đi, giáo dân
tuốn đến nhà thờ cầu nguyện. Trong y phục trang nghiêm, cậu bé mở cửa nhà chầu
và cho mọi người rước lễ. Buổi sáng hôm đó khi trở về nhà, cậu nói với mẹ : “
Mẹ à, bây giờ con phải làm gì với đôi bàn tay này, đôi bàn tay đã từng chạm đến
Mình Thánh Chúa?” Bà mẹ âu yếm trả lời : “ Almiro con yêu dấu của mẹ, con hãy
cẩn trọng giữ gìn để đôi bàn tay này không bao giờ làm điều gì xấu, trái lại
luôn làm điều tốt, điều đẹp lòng Chúa”.
Mười bảy năm sau, tức là vào năm 1932 Almiro thụ phong linh mục và
dâng lễ mở tay tại chính bàn thờ mà trước kia cha đã cho mọi người rước lễ. Lễ
xong, khi hôn tay vị tân linh mục, bà mẹ cảm động nói : “ Mẹ không ngờ đôi bàn
tay này đã một lần chạm đến Mình Thánh Chúa này, lại có một định mệnh tốt đẹp
của ngày hôm nay : đôi bàn tay của vị linh mục đời đời của Chúa”. (Đôi bàn tay
chạm đến Chúa - Chứng nhân Tin mừng A, 85).
Đúng là “cây tốt thì sinh quả tốt” : cha mẹ đạo đức, thánh thiện
thì sẽ có những đứa con đạo đức, thánh thiện. Việc giáo dục của cha mẹ đem lại
kết quả tốt đẹp là như thế. Muốn làm được điều này thì chính cha mẹ phải là
những người đạo hạnh, có lương tâm ngay thẳng. Cha mẹ gian dối trong buôn bán,
chẳng hạn, không thể dạy con buôn ngay bán thật được. Cha mẹ làm điều bất công,
tham những, hối lộ thì không thể giáo dục con cái sống trong sạch được.
Sách Tobia có ghi lại câu
chuyện rất cảm động sau đây về một người có lương tâm ngay thẳng : “ Lúc bấy
giờ, Anna, vợ tôi, nhận làm những công việc dành cho phụ nữ. Nàng giao hàng cho
chủ và họ trả tiền công cho nàng. Ngày mồng bảy tháng Đytrô, nàng xén tấm vải
đã dệt xong, rồi giao cho chủ. Tiền công bao nhiêu, họ trả hết cho nàng, lại
còn thưởng cho một con dê con để ăn một bữa. Khi nàng bước vào nhà, thì con dê
bắt đầu kêu be be. Tôi mới gọi nàng lại và hỏi : “Con dê nhỏ đó ở đâu ra vậy?
Có phải của trộm cắp không? Đem trả lại cho chủ nó đi! Vì chúng ta không có
quyền ăn của trộm cắp”. Nàng bảo tôi : “Đó là quà người ta thưởng cho tôi, thêm
vào số tiền công!” Tôi không tin và cứ bảo nàng phải trả lại cho chủ. Vì chuyện
đó, tôi xấu hổ cho nàng. (Tobia 2, 11- 14).
Cha mẹ cũng phải dạy con lòng quảng đại, biết chia sẻ giúp đỡ những
người nghèo khổ, túng thiếu. Việc bố thí không những đem lại niềm an ủi cho
những người nghèo khổ mà còn chứng tỏ chúng ta là những người có lòng thương
cảm, biết rung động trước nỗi đau của người khác. Cái gì thì cũng cần được giáo
dục, dạy dỗ, kể cả lòng trắc ẩn, thương người. Không phải tự nhiên mà thánh
Martinô có lòng yêu thương những người nghèo khổ, bệnh tật; cũng chẳng phải
tình cờ ngẫu nhiên mà mẹ Têrêsa Calcutta lại quan tâm đến những người vô gia
cư, những người đói rách, những người không có nơi nương tựa. Chắc chắn các
ngài đã được hoặc là cha mẹ hoặc là dòng tu giáo dục trước nên mới có tâm hồn
nhạy cảm như thế đối với những người bất hạnh.
Tôi rất phục những bậc cha mẹ đã tập cho con cái biết giúp đỡ người
nghèo bằng cách đưa tiền cho chúng để chúng đem cho những người ăn mày ăn xin;
như vậy là tạo cơ hội để con cái tận tay giúp đỡ người nghèo, gần gũi những
người nghèo và cảm nhận được thế nào là lòng bác ái kitô giáo. Ở Hoa Kỳ, tôi
thấy khi đi lễ Chúa nhật thì không phải chỉ có cha mẹ bỏ tiền vào giỏ mà tất cả
các đứa con cũng bỏ tiền vào giỏ luôn, như vậy là tập cho các em biết đóng góp,
chia sẻ ngay từ khi còn nhỏ.
Quan trọng hơn tất cả là cha mẹ phải giáo dục con cái bằng gương
sáng đời sống. Lời nói chỉ có thể gợi lên những ý tưởng tốt đẹp nơi con cái,
nhưng chính gương sáng mới có sức “đẩy” chúng làm theo. ĐGH Phaolô VI đã nói :
“Ngày nay người ta thích nghe những chứng nhân hơn là các thầy dạy”. Cho nên
cách giáo dục hữu hiệu nhất vẫn là gương sáng của chính cha mẹ. Một người cha
lúc nào cũng phì phào điếu thuốc lá không thể dạy con kiêng thuốc lá được. Muốn
khuyên con không hút thuốc thì chính người cha phải ngưng hút thuốc trưóc đã.
Một người anh lớn ‘chửi thề như máy’ không thể dạy em ăn nói nghiêm túc được.
Cha mẹ sáng nào cũng ngủ cho đến 7 giờ mới dậy không thể khuyên con đi lễ sớm
mỗi ngày được. Muốn dạy con tinh trung thực trong vấn đề “cân, đong, đo, đếm”
thì khi thấy con cân thiếu cho người ta, chẳng hạn, phải sửa ngay : “Con không
được làm như vậy, đó là lỗi đức công bằng. Con phải cân cho đủ. Chẳng thà cân
dư một chút còn hơn là cân thiếu cho người ta!” Khi bị mất của, nếu cha mẹ có
lòng tín thác vào Chúa sẽ nói như ông Job :
Chúa ban cho, Chúa cất lấy. Con xin cám ơn Chúa. Con xin vâng theo thánh
ý Chúa!” đó là dạy con biết sống đức tin khi gặp khó khăn. Ngược lại nếu cha mẹ
lại kêu trách Chúa : “Chúa ơi, sao con khổ thế này. Thế là mất hết của con
rồi!” như vậy là làm gương mù cho con cái.
Để kết thúc, xin trích Thư chung của Hội Đồng Giám Mục Việt
Nhờ vậy mà đức tin được nuôi dưỡng, củng cố và phát triển. Sự giáo
dục của cha mẹ không những làm cho con cái trở thành những công dân tốt cho xã
hội, nhưng còn biến con cái thành những vị thánh, nhưng công dân của nước trời.
Và đây chính là niềm vui, niềm hạnh phúc lớn nhất của những bậc làm cha làm mẹ.
________________
“Con sẽ sống theo lòng thuần khiết ở trong cửa trong nhà.
Việc xấu xa đê tiện con chẳng để mắt trông.
Con ghét kẻ làm điều tà vạy, không để cho dính dáng đến mình.
Tâm địa gian manh con hằng xa lánh,
chẳng muốn biết gì đến chuyện xấu xa.
Nhà con ở không hề chứa chấp kẻ quen trò bịp bợm thói lưu manh.
Hạng nói dối chuyên nghề con đuổi cho khuất mắt”. (Tv. 100)