Các bài giáo lý về Đời sống Gia
Đình chuẩn bị Đại hội Gia Đình Thế Giới lần VIII tại Philadelphia
(ubmvgiadinh.org/) Ủy Ban MV GIA ĐÌNH trực thuộc HĐGMVN lần lượt kính
gởi đến quý độc giả các bài giáo lý về Đời sống Gia Đình chuẩn bị Đại hội
Gia Đình Thế Giới lần VIII tại Philadelphia 22-27 Tháng 9 năm 2015. Đây là tài
liệu do TGP Philadelphia và HĐTT về Gia Đình soạn thảo. Bản tiếng Việt do Ban
Thư ký UBMVGĐ/ HĐGMVN biên soạn.
Chủ đề của Đại hội cũng là tên của tài liệu huấn giáo:
TÌNH YÊU LÀ SỨ MỆNH CỦA CHÚNG TA - để Gia Đình sống dồi dào
(Love is our
Đại hội diễn ra chỉ ít tuần lễ trước Thương Hội Đồng Giám Mục Thế Giới
thường lệ lần XIV Tháng Mười 2015 tại Rôma hướng tới “Ơn Gọi và Sứ mệnh của Gia
đình trong Giáo hội và trong thế giới”.
Trong sự hiệp thông với Hội Thánh hoàn vũ, Hội Thánh tại Việt Nam luôn
lấy Gia đình làm tế bào cơ bản xây dựng Hội Thánh địa phương và góp phần kiến
tạo xã hội
BÀI MỘT
ĐƯỢC DỰNG NÊN ĐỂ CHUNG HƯỞNG NIỀM VUI
Con người chúng ta không chỉ là một tồn tại ngẫu nhiên của cuộc tiến
hóa. Chúng ta có phẩm giá cao trọng còn hơn một xác thể tổng hợp về sinh học. Thiên
Chúa hiện hữu. Ngài nhân lành. Ngài yêu thương chúng ta. Ngài tạo dựng chúng ta
giống hình ảnh Ngài để chia sẻ niềm vui với Ngài. Ngài tích cực can dự vào cuộc
sống chúng ta. Ngài đã sai Con Một của Ngài đến thế gian để khôi phục lại phẩm
giá và dẫn đưa chúng ta về Nhà với Ngài.
Một hoạch định Sống và Tình Yêu hằng nâng đỡ chúng ta
Giáo huấn công giáo về hôn nhân và gia đình bắt nguồn từ tâm điểm của
đức tin chúng ta. Do vậy, chúng ta có thể bắt đầu bằng cách nhìn lại tiến trình
lịch sử của Giáo hội. Thiên Chúa của chúng ta không phải là Đấng ở quá xa vời
không chạm tới được. Chúng ta tin rằng Thiên Chúa đã tỏ mình ra trong Đức Giêsu
Kitô. Đức Giêsu chính là nguồn mạch của đức cậy trông, đức tin, đức mến và là
nguồn vui làm sinh động đời sống gia đình công giáo. Đức Giêsu chính là chỗ dựa
để chúng ta có thể phó thác sự khôn ngoan của đức tin công giáo. Mọi điều được
trình bày trong các bài giáo lý này đều xuất phát từ chính Đức Giêsu[1].
2. Như gần đây Đức Thánh Cha Phanxicô nói về đời sống hôn nhân:
“Triển vọng về một tình yêu vĩnh cửu có thể thành hiện thực khi chúng ta đón
nhận một kế hoạch vĩ đại hơn những gì bản thân ta tưởng nghĩ và đảm nhận, một
kế hoạch hằng nâng đỡ và giúp chúng ta can đảm phó thác trọn vẹn tương lai của
chúng ta cho Đấng chúng ta yeu mến”[2]. Nhưng chúng lại
ta đang sống trong một thời đại lan rộng chủ nghĩa đa nghi vốn rất đậm chất thế
gian, khiến người ta hay ngờ vực về một “kế hoạch vĩ đại hơn” hoặc một ý nghĩa
cao siêu vượt trên những kinh nghiệm nhân bản. Đối với nhiều người, thì con
người chẳng qua chỉ là một tồn tại ngẫu nhiên của tiến hóa, là một tập hợp các
nguyên tử carbon với một dáng dấp nào đó. Nói cách khác, nhiều người cho rằng,
chúng ta không có một cùng đích nào cao trọng hơn những ý nghĩa do chính chúng
ta tự tạo ra cho mình.
3. Trong một kỉ nguyên của công nghệ cao cấp và vật chất dồi dào như
hiện nay, lối lí luận vô thần như thế có thể được tán dương. Nhưng chung cuộc,
đó là một tầm nhìn quá hạn hẹp về con người, như là nam và nữ, của chúng ta. Lối
tư duy ấy làm tổn hại nhân phẩm. Nó làm cho những linh hồn vốn đang đói khát
còn phải chết đói. Lý luận như thế không đúng.
4. Thực vậy, chúng ta luôn khao khát ý nghĩa cuộc sống. Khao khát
về cùng đích là một kinh nghiệm nhân bản phổ quát. Con người luôn trăn trở với
những vấn đề cơ bản như: “Tôi là ai?”, “Tại sao tôi có mặt ở đây?”, “Tôi phải
sống như thế nào?”. Đức tin Kitô giáo xuất hiện ở vùng Địa Trung Hải cổ xưa nơi
pha trộn các nền văn hóa Hi lạp, La mã, Do Thái và các nền văn hóa khác nữa. Đó
là một thế giới mà những giải đáp khác nhau cho vấn đề cơ bản của cuộc sống
đang đấu tranh đẻ chiếm ưu thế.
5. Hoàn cảnh của chúng ta ngày nay cũng giống như thế. Giống như
xưa kia, các nền văn hóa ngày nay chồng lấp và thấm nhập lẫn vào nhau.
Hiện nay, nhiều triết thuyết về cuộc sống đang đua nhau cống hiến những cách
nhìn khác nhau về câu hỏi này: Điều gì làm cho cuộc sống con người được hạnh
phúc? Trong lúc đó, đau khổ và nghèo đói thì đầy dẫy, và cũng lan rộng nhiều
thái độ sống - trong một số nền văn hóa - đối với bất cứ một tôn giáo hoặc một
triết thuyết nào muốn cung cấp sự thật toàn thể và trói buộc người ta.
6. Thời đại của chúng ta là một thời đại rối rắm với nhiều giải đáp
dị biệt như thế. Ngày nay, có nhiều người thành tâm tìm kiếm ý nghĩa cho cuộc
sống, nhưng chẳng biết phải đặt niềm tin vào ai và giao phó phận đời mình ở đâu.
7. Giữa tình trạng đầy những ngổn ngang ngờ vực như vậy, các Kitô hữu
làm thành một dân tin vào Đức Giêsu Kitô[3]. Dẫu cho
lịch sử nhân loại còn mập mờ, nhưng con đường vui mừng và hi vọng, yêu thương
và phục vụ của đạo công giáo lại cắm rễ sâu trong cuộc gặp gỡ với Đức Giêsu. Như
thánh giáo hoàng Gioan Phaolô II đã tuyên bố trong tông huấn đầu tiên của ngài:
“Trong lịch sử nhân loại, mạc khải về tình yêu và lòng thương xót đã được mang
một hình hài và một danh tánh, đó là Đức Giêsu Kitô”[4].
Mọi sự đều phát xuất từ đó. Đức Giêsu Kitô là nền tảng của đức tin Kitô giáo[5].
Đức Giêsu mạc khải Thiên Chúa, và kế hoạch bắt đầu được tỏ lộ
8. Trong Thánh kinh, Đức Giêsu hỏi các môn đệ của mình: “Các con bảo
Thầy là ai?” (Mt 16,13-20). Lịch sử nhân loại hai ngàn năm qua đã đưa ra câu
trả lời. Còn các Kitô hữu, sau khi đã gặp gỡ Chúa Giêsu bằng những phương cách
khác nhau – qua chứng từ của các thánh và các tông đồ, qua Thánh kinh và Bí
tích, qua cầu nguyện và việc phục vụ người nghèo, qua việc thờ phượng và qua
bạn hữu, gia đình – họ có thể tín thác vào Đức Giêsu, và cùng với thánh Phêrô
tuyên xưng rằng: “Thầy là Đấng Messiah, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16,16).
9. Trong số những điều Chúa Giêsu đã làm trên trần thế, có sự Ngài đã
phải chịu đau khổ nhưng vẫn kiên trì trong yêu thương: Ngài đã chịu đóng đinh
do tay người phàm và đã sống lại trong khải hoàn chiến thắng sự chết. Vì chính
Thiên Chúa đã chịu đau khổ trong cuộc sống đời thường, nên người Kitô hữu tin
rằng Thiên Chúa không xa cách với thân phận con người. Chúng ta cũng không tin vào
một vị thiên chúa bốc đồng, hoặc tin một thứ thần linh thường cạnh tranh với
con người. Thiên Chúa mà chúng ta tin thờ, luôn mong ước chúng ta được triển
nở. Nhờ Đức Giêsu Kitô, Người Công giáo luôn tin tưởng vào tình yêu mà Thiên
Chúa dành cho nhân loại. Như Đức Giáo Hoàng Phanxicô diễn giải trong Tông huấn
đầu tiên của ngài:
Đối với những kẻ đang đau khổ, Thiên Chúa không trưng dẫn những lí
chứng để giải thích hết mọi sự. Nhưng hơn thế, lời đáp trả của Ngài chính là sự
hiện diện đồng hành, một lịch sử của lòng nhân từ đánh động từng số phận đau
khổ, và mở ra một ánh sáng chói ngời. Trong Đức Kitô, chính Thiên Chúa ao ước
được chia sẻ bước đường này với chúng ta, và luôn đưa mắt nhìn đến chúng ta để
chúng ta có thể nhìn thấy ánh sáng chiếu trên bước đường ấy. Chính Đức Kitô,
nhờ kiên vững trong đau khổ, đã trở nên người khai mở và người kiện toàn đức
tin chúng ta”.[6]
10. Theo một nghĩa nào đó, có thể nói rằng, toàn bộ thần học Kitô giáo
là một chú giải về sự kiện Thiên Chúa làm người, chết và trỗi dậy. Sự hiện diện
của Thiên Chúa với thân xác con người nơi Đức Giêsu, hàm ý Đấng Tạo dựng siêu
việt của thế giới này cũng là người Cha của chúng ta, hiện diện nội tại trong
thế giới, rất thân tình và dịu dàng. Thiên Chúa Ba Ngôi luôn là một mầu nhiệm
vô biên, thế nhưng, chính Thiên Chúa cũng đã làm một con người cụ thể trong một
thời gian và một nơi chốn nhất định. Thiên Chúa đã trở nên mỏng manh bé bỏng
như một hài nhi nằm trong máng cỏ hoặc một con người bị treo trên thập giá. Đức
Giêsu đã dạy dỗ và nói năng, cười vui và khóc lóc. Cuộc sống, cái chết và sự
phục sinh của Người cho ta hiểu rằng, mặc dù Thiên Chúa vô cùng mầu nhiệm,
nhưng Người lại không mờ ảo xa vời. Chính Chúa Giêsu khiến cho chúng ta có thể
nói về Thiên Chúa và về sự thật thần linh một cách thâm tín.
11. Chúa Giêsu nói về mình như là Con của Đức Chúa Cha, và cùng với
Đức Chúa Cha, Người lại sai Thánh Thần của Người đến ở cùng dân Người. Do đó, từ
nơi Người, chúng ta được biết bản tính của Thiên Chúa là sự hiệp thông vĩnh cửu
giữa Ba Ngôi vị thần linh, là Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Qua
bí tích Rửa tội cho ta gia nhập vào Hội thánh, Chúa Giêsu mời gọi mọi người
thông phần vào Giao ước của Thiên Chúa và tham dự vào mầu nhiệm hiệp thông thần
linh. Lịch sử của dân Israel, và sau này lịch sử của Hội thánh Chúa, là một
lịch sử có ý nghĩa phổ quát, vì nó mời gọi mọi người sống với tư cách là dân
Thiên Chúa và thông dự vào sự hiệp thông thần linh.
Đức Giêsu mạc khải căn tính và số phận của con người
12. Đức Giêsu mạc khải cho ta biết Thiên Chúa là ai, đồng thời cũng
cho biết Thiên Chúa yêu thương chúng ta và luôn muốn vươn tới gần chúng ta. Nhưng
Đức Giêsu cũng mạc khải con người là ai. Công Đồng Vatican II, khi nói về Đức
Giêsu với tư cách là “Ngôi Lời” của Thiên Chúa, dạy rằng: “Sự thật là chỉ trong
mầu nhiệm Ngôi Lời nhập thể mầu nhiệm về con người mới được phơi bày ra ánh
sáng”[7].
Chính trong Đức Giêsu Kitô, chúng ta mới có thể học biết được sự thật về chính
chúng ta. Sự thật đó, chúng ta không thể sáng tạo cũng không thể hiểu khác đi.
Thánh kinh cũng đ từng đề cập: “Sự sống của anh em hiện đang tiềm tàng với Đức
Kitô” (Cl 3,3). Người công giáo tin rằng Thiên Chúa yêu thương thế gian (Ga
3,16), đến nỗi thay vì Thiên Chúa để chúng ta sống trong sự hiểu biết mơ hồ,
Ngài đã mặc lấy xác phàm nhân để mạc khải cho con người biết Thiên Chúa là ai
và con người là ai. Công Đồng Vatican II giải thích:
Lý do nền tảng của nhân phẩm là ở chỗ con người được mời gọi hiệp thông
với Thiên Chúa. Ngay từ khởi thủy, con người đã được mời gọi đối thoại với
Thiên Chúa. Bởi vì con người sẽ không hiện hữu nếu không được tạo dựng vì yêu
thương và luôn luôn gìn giữ cũng vì yêu thương. Và hơn nữa, con người chỉ sống
trọn vẹn theo sự thật khi tự do nhìn nhận tình yêu ấy và tín thác vào ĐấngTạo
Dựng nên mình.[8]
Dịp Đại hội Gia đình Thế giới vừa qua tại
13. Cụm từ “Hình ảnh của Thiên Chúa” xuất xứ từ sách Sáng Thế (St 1,26-27;
5,1; và 9,6). Nó gợi lên ý tưởng là mỗi ngôi vị cá thể thật sự quí giá, có phẩm
giá duy nhất và không thể giản lược. Có thể chúng ta lạm dụng hoặc “xài” (sử
dụng) người khác hoặc chính bản thân mình, nhưng chúng ta không thể xóa bỏ sự
thật này, là Thiên Chúa đã tạo dựng chúng ta như thế đó. Phẩm giá cơ bản của chúng
ta không dựa trên sự thành công hay thất bại. Lòng nhân từ và Tình yêu của
Thiên Chúa dành cho chúng ta trổi vượt và cơ bản hơn rất nhiều tội lỗi con người.
Hình ảnh của Thiên Chúa luôn ngự trị trong ta, cho dẫu chúng ta có làm gì khiến
hình ảnh ấy bị lu mờ. Được tạo dựng theo hình ảnh của Thiên Chúa, điều đó có
nghĩa là niềm vui và sự viên mãn đích thực của chúng ta hệ tại ở việc chúng ta
có hiểu biết, yêu mến và phục vụ lẫn nhau như Thiên Chúa đã làm hay không.
14. Nói con người, nam cũng như nữ, được tạo dựng theo “hình ảnh
của Thiên Chúa”, điều đó có nghĩa là chúng ta không thể nói đến nhân bản mà lại
không qui chiếu về Thiên Chúa. Nếu bản tính của Thiên Chúa là Ba Ngôi thông
hiệp – giữa Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần – và nếu chúng ta được
tạo dựng theo hình ảnh đó, thì bản tính của chúng ta phải là tùy thuộc lẫn nhau
(tương thuộc). Là người, chúng ta cần sống hiệp thông với nhau.[10] ”Là một
người được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa và giống như Ngài, thì phải hiện
hữu trong tương quan, tương quan với một cái “Tôi” khác”[11].
Chúng ta hiện hữu cần có nhau, và cần có Thiên Chúa. Chúng ta cần ai đó để yêu
thương và cần ai đó để yêu thương ta. Để sống đúng với bản tính được dựng nên,
ta phải tự trao hiến chính mình cho người thân cận. “Làm một nhân vị tức là làm
một con người đúng nghĩa…chỉ có thể hòan tất ‘bởi chân thành tự hiến mình’.
Khuông mẫu để hiểu về con người như thế là chính Thiên Chúa với tư cách như là
Ba Ngôi, là sự hiệp thông giữa các Ngôi Vị. Nói rằng, con người được tạo dựng
theo hình ảnh và giống như Thiên Chúa, có nghĩa là con người được mời gọi hiện
hữu ‘cho’ tha nhân, được mời gọi trở thành một tặng phẩm hiến trao”.[12] Để cứu
lấy sự sống mình, chúng ta phải chấp nhận tan biến nó vì Chúa (Mt 10,39; 16,25).
Quan điểm thần học về nhân vị như thế phải là phác thảo cho tòan bộ thần học
luân lý, trong đó có giáo huấn Hội thánh công giáo về gia đình.
15. Chúng ta có thể rơi vào ảo tưởng của sự tự mãn. Thế nhưng chúng
ta được tạo dựng theo hình ảnh Thiên Chúa – và nếu chúng ta muốn sống tư cách
làm con cái Thiên Chúa đúng như bản chất thật của chúng ta, ta phải đón nhận
lời kêu gọi của Thiên Chúa là yêu mến Chúa và yêu người thân cận. Cũng như Chúa
Giêsu đã mạc khải bản tính của Thiên Chúa qua tình yêu và hy sinh, thì
cũng vậy, chúng ta cần phải chấp nhận nhân tính thực của ta cách sâu xa hơn,
bằng cách sống những tương quan yêu thương và phục vụ đối với tha nhân và thờ
phượng Thiên Chúa.
16. Trong khi bàn luận về phẩm giá con người, Công Đồng Vatican II
đã lưu ý có nhiều người vô thần cho rằng “chỉ cần khoa học thôi” cũng đủ
để chỉ bảo cho chúng ta mọi điều chúng ta cần biết về chính mình, không cần
phải qui chiếu về bất cứ sự gì bên ngoài thế giới tự nhiên này.[13] Nhưng người
công giáo cho rằng thần học mới là cốt yếu cho nhân học. Nói cách khác, chúng
ta tin rằng hiểu biết về Thiên Chúa và ý định của Ngài trong công trình tạo
dựng là điều rất thiết yếu cho bất luận tri thức đầy đủ nào về con người. Người
công giáo tin rằng việc Thiên Chúa tự mạc khải chính mình trong Đức Giêsu đưa
chúng ta trở về bản tính đích thực của chúng ta, mạc khải sự thật chúng ta là
ai, đồng thời tỏ lộ cho ta biết – cách hết sức cơ bản – rằng chúng ta
thuộc về Thiên Chúa. Tình yêu Thiên Chúa là nền tảng cho căn tính của chúng ta,
tình yêu ấy cơ bản hơn bất cứ âu lo, tham vọng hay vấn nạn nào chúng ta
gặp phải. Như Thánh Gioan Phaolô II đã dạy lúc đầu triều đại giáo hoàng của
ngài: “Nếu như con người mong muốn tìm hiểu cặn kẽ về chính mình – mà không
chiều theo những tiêu chuẩn và thước đo của mình, vốn có tính nhất thời, thiên
tư, thường nông cạn và có khi ảo tưởng – nhất thiết nó phải đến gần Đức Kitô,
dù đang xáo động, hoang mang, và thậm chí có yếu đuối và tội lỗi”[14].
17. Khi giảng dạy về hôn nhân, chính Chúa Giêsu qui chiếu về kế hoạch
và ý định của Thiên Chúa về công trình tạo dựng. Khi những người Pharisêu thách
thức hỏi Chúa Giêsu về vấn đề ly dị, câu trả lời của Người nhắc chúng ta rằng
Thiên Chúa tạo dựng con người có nam có nữ, và đôi vợ chồng trở thành một xương
một thịt (Mt 19,3-12; Mc 10,2-12).[15] Cũng vậy, khi Thánh tông đồ Phaolô viết
thư cho các tín hữu thành Côrintô nói về đạo đức tính dục, ngài nhắc họ nhớ về
sự kết hợp nên một xương một thịt giữa người nam và người nữ trong công trình
tạo dựng (1Cr 6,16). Khi ngài viết cho các tín hữu Êphêsô về đạo vợ chồng, một
lần nữa ngài nhắc họ sự kết hợp nên một này, và bảo họ rằng đó là một “mầu
nhiệm sâu thẳm” muốn nói về Đức Kitô và Hội thánh (Ep 5,32). Khi viết thư cho
Hội thánh tại Rôma, ngài nói đến bản tính và ý định của Thiên Chúa được mạc
khải trong tạo thành, và ngài cũng đề cập đến nhiều thứ tội – gồm cả tội về tính
dục – những tội ấy đều xuất phát từ sự không nhận biết Thiên Chúa (Rm 1,8-32).
Yêu thương là sứ mạng của gia đình
18. Đến đây ta cần giải thích rõ lý do tại sao “Yêu thương là sứ mạng
của chúng ta” là chủ đề cho Đại hội các Gia đình Thế giới năm 2015. Một trong
những tài liệu của giáo hoàng rất quan trọng của thế kỷ 20 nói về chủ đề đời sống
gia đình – Familiaris Consortio, do thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II biên soạn
– đã tóm tắt giáo huấn Hội thánh Công giáo về bản tính của Thiên Chúa và con
người xác định ta phải sống thế nào cho phù hợp với đức tin công giáo:
Thiên Chúa đã tạo dựng con người theo hình ảnh và giống như Ngài.
Khi vì yêu thương mà kêu gọi con người bước vào cuộc sống, Ngài cũng đồng thời
kêu gọi họ sống cho tình yêu. Thiên Chúa là tình yêu và nơi chính mình Ngài,
Ngài đang sống mầu nhiệm hiệp thông yêu giữa các ngôi vị. Khi tạo dựng loài
người theo hình ảnh Ngài và liên lỉ bảo tồn nó luôn hiện hữu, Thiên Chúa ghi
khắc vào nhân tính của người nam và người nữ, ơn gọi cũng như cả khả năng và
trách nhiệm tương ứng, mời gọi con người sống yêu thương và hiệp thông.
Như vậy, tình yêu là ơn gọi căn bản và bẩm sinh của mọi người.[16]
Tình yêu Thiên Chúa không bao giờ ngừng mời gọi chúng ta. Chúng ta
không thể coi thường lời mời gọi này. Chúng ta đã được tạo dựng theo hình ảnh
của Thiên Chúa. Cho dẫu con người đã thực sự phạm tội, nhưng ơn gọi tiềm ẩn
trong tạo thành vẫn không bao giờ có thể bị xóa mất.
19. Cái nhìn của Công giáo về hôn nhân, gia đình và tính dục thuộc về
một sứ mạng lớn lao hơn. Đó là phải sống như thế nào để tình yêu Thiên Chúa
được tỏ hiện và chiếu giải; sống sứ mạng này sẽ làm cho cuộc sống thường nhật
của chúng ta trở nên sinh động với niềm vui của Thiên Chúa. Toàn thể con người
– thân xác và linh hồn, giới tính nam và nữ với tất cả những hệ lụy kèm theo –
đều được Thiên Chúa mời gọi can dự vào. Phụ đề của Đại hội Gia đình Thế giới
lần này là “Gia đình được sống dồi dào” có lý do chính đáng. Gia đình được sống
dồi dào khi chúng ta đảm nhận lấy lời mời gọi của Thiên Chúa làm con cái như
Ngài mong ước khi tạo dựng chúng ta.
20. Thời đại của chúng ta là một thời đại rối rắm và bất trắc. Đức Giêsu
Kitô là một cứ điểm chắc chắn cho ta đặt niềm tin cậy. Phẩm giá con người được
bảo đảm vững chắc nơi Đức Giêsu, Đấng Thiên Chúa làm người. Đức Giêsu mạc khải
cho ta biết Thiên Chúa là ai và chúng ta là ai. Nơi Đức Giêsu, chúng ta gặp một
Thiên Chúa luôn muốn gần gũi chúng ta, Đấng tạo dựng sự hiệp thông và mời gọi
chúng ta chia sẻ niềm vui với Ngài. Chúng ta được tạo dựng theo hình ảnh Thiên
Chúa và được mời gọi hiệp thông với Ngài và với nhau. Tình yêu này là cùng đích
và định hình cho mọi khía cạnh của cuộc sống con người, bao gồm gia đình.
CÂU HỎI THẢO LUẬN
a) Điều gì nơi Đức Giêsu làm cho Người đáng tin cậy?
b) Điều gì trong cuộc đời của anh chị làm anh chị xa rời Đức Giêsu?
Điều gì giúp anh chị trở nên thân thiết hơn hoặc thâm chí thâm tình hơn với Người?
c) “Được tạo dựng theo hình ảnh Thiên Chúa” có nghĩa là gì? Có thể
hiểu biết căn tính con người mà không cần có Thiên Chúa không? Tại sao
không hoặc tại sao có?
d) “Yêu thương là sứ mạng của chúng ta” là chủ đề của các bài giáo
lý này. “Tình yêu” có nghĩa gì trong cuộc sống của anh chị? Một sứ mạng yêu
thương có thể ảnh hưởng thế nào đến những chọn lựa, những ưu tiên và ước vọng
của anh chị?
[1] Cf. Giáo
lý Hội thánh Công giáo (GLHTCG) (1992), 425-427.
[2] ĐGH Phanxicô, Tđ. Lumen Fidei (Ánh sáng Đức tin) (LF) (2013), 52.
[3] Cf. LF 57.
[4] ĐGH Gioan Phaolô II, Tđ. Redemptor Hominis (Đấng Cứu Chuộc Con người)
(RH) (1979), 9.
[5] Cf. GLHTCG, 426.
[6] LF, 57. Cf. Dt 12, 2.
[7] CĐ Vatican II, Hc mục vụ Gaudium et spes (Vui mừng và Hi vọng)
(GS) (1965), 22.
[8] GS, 19.
[9] ĐGH Bênêđictô XVI, “Bài giảng thánh
lễ”, Đại hội Gia đình Thê giới lần thứ VII, Milanô, 02/06/2012.
[10] GLHTCG, 2331.
[11] ĐGH Gioan-Phaolô II, Tông thư Mulieris Dignitatem (Phẩm giá người phụ
nữ) (MD) (1988), 7.
[12] MD, 7.
[13] GS, 19.
[14] RH, 10.
[15] Cf. St 1,26-27; 2,24.
[16] ĐGH Gioan Phaolô II, TH. Familiaris
Consortio (FC) (1981), 11. Cf. St 1,26-27; 1Ga 4,8; và GS 12.