TÔNG THƯ
PATRIS
CORDE
CỦA ĐỨC THÁNH CHA PHANXICÔ
NHÂN KỶ NIỆM 150 NĂM
TÔN VINH THÁNH GIUSE
LÀ BỔN MẠNG HỘI THÁNH
VỚI
TRÁI TIM CỦA NGƯỜI CHA: đó là cách mà Thánh Giuse yêu thương Chúa Giêsu, Đấng
mà cả bốn sách Phúc âm đều gọi là “con của ông Giuse”.[1]
Matthêô
và Luca, hai Thánh sử nói nhiều nhất về thánh Giuse, lại kể rất ít, nhưng cũng
đủ để chúng ta thấy được ngài là người cha như thế nào và Chúa quan phòng đã
giao phó cho ngài sứ mệnh gì.
Chúng
ta biết rằng thánh Giuse là một người thợ mộc đơn sơ (x. Mt 13,55),
đã đính hôn với Đức Maria (x. Mt 1,18; Lc 1,27). Ngài là
“người công chính” (Mt 1,19), luôn sẵn sàng thi hành thánh ý Thiên Chúa
như đã được mạc khải trong Lề Luật (x. Lc 2,22.27.39) và trong bốn
giấc mơ (x. Mt 1,20; 2: 13.19.22). Sau chuyến hành trình dài và mệt
nhọc từ Nadarét đi Bêlem, ngài được chứng kiến Đấng Mêsia sinh ra trong chuồng
bò, vì “không có chỗ cho họ” trong quán trọ (x. Lc 2,7). Ngài đã
chứng kiến các mục đồng (x. Lc 2,8-20) và các đạo sĩ
(x. Mt 2, 1-12) đến thờ lạy Chúa, họ là những người đại diện cho dân
Israel và các dân ngoại.
Thánh
Giuse đã can đảm trở thành người cha của Chúa Giêsu theo lề luật, Đấng mà ngài
đã đặt cho cái tên được mặc khải qua sứ thần báo trước: “Ông hãy đặt tên cho
Người là Giêsu, vì Người sẽ cứu dân Người khỏi tội” (Mt 1,21). Như chúng
ta biết, đối với các dân tộc cổ đại, đặt tên cho một người hoặc một sự vật, như
Ađam đã làm trong trình thuật ở Sách Sáng thế (x. 2,19-20), là để thiết lập một
mối tương quan.
Bốn
mươi ngày sau khi Chúa Giêsu sinh ra, Thánh Giuse và Mẹ Maria đã dâng con mình
cho Chúa trong Đền thờ, và ngạc nhiên lắng nghe lời tiên tri của ông Simeon về
Chúa Giêsu và Mẹ Người (x. Lc 2,22-35). Để bảo vệ Chúa Giêsu thoát
khỏi tay Hêrôđê, Thánh Giuse đã sang Ai Cập sống như một người ngoại kiều
(x. Mt 2,13-18). Sau khi trở về quê hương, ngài sống ẩn dật ở ngôi
làng Nadarét nhỏ bé và ít người biết đến thuộc xứ Galilê, cách xa Bêlem, là
ngôi làng của tổ tiên ngài, và cách xa cả Giêrusalem và Đền thờ. Người ta nói
về Nadarét rằng “Không có ngôn sứ nào xuất thân từ đây” (x. Ga 7,52)
và quả thật, “Ở Nadarét nào có chi hay!” (x. Ga 1,46). Trong cuộc
hành hương lên Giêrusalem, Thánh Giuse và Mẹ Maria đã lạc mất Chúa Giêsu khi ấy
mười hai tuổi, họ lo lắng đi tìm và gặp thấy Người trong Đền thờ, đang trao đổi
với các tiến sĩ Luật (x. Lc 2,41 -50).
Sau Đức
Maria, Mẹ Thiên Chúa, không có vị thánh nào được nhắc đến thường xuyên trong
huấn quyền của Giáo hoàng hơn Thánh Giuse, bạn trăm năm của Mẹ. Các vị tiền
nhiệm của tôi đã suy tư về sứ điệp trong thông tin giới hạn được các sách Phúc
Âm ghi lại để đánh giá đầy đủ hơn vai trò trung tâm của Thánh Giuse trong lịch
sử cứu độ. Chân phước Piô IX đã tôn vinh Thánh Giuse là “Bổn mạng Hội Thánh”,[2] Đấng
đáng kính Piô XII gọi ngài là “Bổn mạng của người lao động”[3] và
Thánh Gioan Phaolô II tuyên xưng ngài là “Đấng bảo vệ Chúa Cứu Thế”.[4] Thánh
Giuse được mọi người kêu cầu là “Bổn mạng kẻ mong sinh thì”.[5]
Giờ
đây, một trăm năm mươi năm sau khi Chân phước Piô IX công bố Thánh Giuse là Bổn
mạng Hội Thánh (ngày 8 tháng 12 năm 1870), tôi muốn chia sẻ một vài suy tư cá
nhân về dung mạo phi thường này, thật gần gũi với kinh nghiệm của con người
chúng ta. Vì, như Chúa Giêsu đã nói, “lòng đầy miệng mới nói ra”
(Mt 12,34). Mong muốn ấy của tôi càng thêm mãnh liệt trong những tháng đại
dịch này, khi chúng ta cảm nghiệm, giữa cuộc khủng hoảng, rằng “cuộc sống của
chúng ta được đan dệt với nhau và được nâng đỡ nhờ những con người bình thường
- những người thường bị quên lãng, - họ không xuất hiện trên báo chí, hay trong
những chương trình truyền hình mới nhất, nhưng ngay trong những ngày này, chắc
chắn họ đang làm nên những biến cố quan trọng của lịch sử chúng ta. Các bác sĩ,
y tá, các chủ cửa hiệu và nhân viên siêu thị, nhân viên vệ sinh, người chăm sóc
người già và bệnh nhân, công nhân vận chuyển, những người cung cấp các dịch vụ
thiết yếu và an ninh công cộng, các tình nguyện viên, các linh mục, nam nữ tu
sĩ, và rất nhiều người khác. Họ hiểu rằng không ai được cứu một mình... Có biết
bao người hằng ngày vẫn kiên nhẫn gieo niềm hy vọng, lo sao để không gieo rắc
hoảng loạn nhưng gieo vãi tinh thần đồng trách nhiệm. Có biết bao người cha,
người mẹ, ông bà, thầy cô, chỉ cho con cái chúng ta – qua những cách thức nhỏ
bé hằng ngày – cách thức đón nhận và đương đầu với khủng hoảng, bằng cách điều
chỉnh các thói quen, ngước mắt lên cao và khích lệ cầu nguyện. Có biết bao
người cầu nguyện, dâng những hy sinh và chuyển cầu cho thiện ích của tất cả mọi
người”.[6] Mỗi
người chúng ta đều có thể khám phá rằng Thánh Giuse – một người chẳng
được để ý – vẫn hiện diện hằng ngày cách âm thầm kín đáo, để cầu thay nguyện
giúp, trợ giúp và hướng dẫn chúng ta khi gặp khó khăn. Thánh Giuse nhắc nhở
chúng ta rằng những ai ẩn mình hay sống trong bóng tối có thể đóng một vai trò
không thể sánh được trong lịch sử cứu độ. Tất cả những người ấy đều đáng được
nhìn nhận và biết ơn.
1. Một
người cha yêu thương
Sự vĩ
đại của Thánh Giuse ở chỗ ngài là bạn trăm năm của Đức Maria và là cha của Chúa
Giêsu. Như thế, theo lời Thánh Gioan Kim khẩu, Thánh Giuse đã tự đặt mình “phục
vụ toàn bộ kế hoạch cứu rỗi”.[7]
Thánh
Phaolô VI đã chỉ ra rằng Thánh Giuse đã thể hiện một cách cụ thể vai trò làm
cha của mình “bằng cách biến cuộc đời mình trở thành của lễ hy sinh phục vụ mầu
nhiệm nhập thể cùng với sứ vụ cứu thế. Thánh Giuse dùng quyền hạn hợp pháp của
mình đối với Thánh Gia để cống hiến hết mình cho các ngài trong cuộc sống và
công việc của mình. Ngài đã biến ơn gọi sống tình yêu gia đình của phàm nhân
thành sự dâng hiến siêu phàm chính mình, trái tim và tất cả khả năng của mình,
một tình yêu được dành để phục vụ Đấng Mêsia đang lớn lên trong mái ấm của
ngài”.[8]
Vì vai
trò của ngài trong lịch sử cứu độ, Thánh Giuse luôn được các Kitô hữu tôn kính
là cha. Điều này được thể hiện qua vô số nhà thờ dâng kính ngài trên khắp thế
giới, nhiều học viện tôn giáo, hội đoàn và các nhóm giáo hội lấy cảm hứng từ
linh đạo của Thánh Giuse và mang tên ngài, cùng với nhiều cách bày tỏ lòng đạo
đức truyền thống cũng tôn vinh ngài. Vô số các thánh nam nữ đã rất sùng kính
ngài. Trong số đó có Thánh Têrêsa Avila, đã chọn Thánh Giuse làm đấng bênh vực
và cầu thay cho mình, đã thường xuyên đến với ngài và bất cứ ơn nào xin với
Thánh Giuse đều được toại nguyện. Được khích lệ bởi kinh nghiệm của chính mình,
Thánh Têrêsa còn thuyết phục những người khác cũng vun trồng lòng sùng kính đối
với Thánh Giuse.[9]
Sách
kinh nào cũng có những kinh cầu nguyện với Thánh Giuse. Có những kinh đặc biệt
cầu cùng Thánh Giuse vào các ngày thứ Tư và nhất là trong tháng Ba, theo truyền
thống được dành để kính Thánh Giuse.[10]
Lòng
tín thác của mọi người vào Thánh Giuse được thể hiện trong câu “Hãy đến
cùng Giuse”, gợi lại nạn đói ở Ai Cập, khi người Ai Cập xin Pharaô cho họ bánh
ăn. Ông trả lời: “Hãy đến cùng Giuse; và hãy làm những gì ông ấy bảo”
(St 41,55). Pharaô muốn nói đến Giuse, con của Giacob, là người đã bị anh
em mình bán làm nô lệ do lòng ghen tị (x. St 37,11-28) và là người –
theo lời Kinh thánh – sau đó trở thành phó vương Ai Cập (x. St 41,41-44).
Thánh
Giuse thuộc dòng dõi vua Đavít (x. Mt 1, 16-20), là cội rễ mà từ đó
Chúa Giêsu sẽ sinh ra theo lời hứa đã được tiên tri Nathan báo cho Đavít
(x. 2 Sm 7), và là bạn trăm năm của Đức Maria thành Nadarét, như thế
Thánh Giuse tượng trưng cho mối liên hệ giữa Cựu ước và Tân ước.
2. Một
người cha dịu dàng và yêu thương
Thánh
Giuse đã chứng kiến Chúa Giêsu lớn lên từng ngày “về khôn ngoan, vóc dạng và ân
sủng, trước mặt Thiên Chúa và trước mặt người ta” (Lc 2,52). Như Thiên
Chúa đã làm với Israel, Thánh Giuse cũng đã làm với Chúa Giêsu: “ngài dạy bước
đi, cầm lấy tay; đối xử như một người cha nâng đứa trẻ lên tận má mình, cúi
xuống và cho ăn” (x. Hs 11,3-4).
Nơi
Thánh Giuse, Chúa Giêsu đã nhìn thấy tình yêu dịu dàng của Thiên Chúa: “Như
người cha yêu thương con cái mình, Chúa xót thương những ai kính sợ Người”
(Tv 103, 13).
Trong
hội đường, khi cầu nguyện bằng Thánh vịnh, chắc chắn Thánh Giuse đã nghe đi
nghe lại nhiều lần rằng Thiên Chúa của Israel là Thiên Chúa chạnh lòng thương,[11] là
Đấng nhân hậu với tất cả mọi người, Đấng “nhân từ hơn tất cả những gì Ngài đã
làm”. (Tv 145,9).
Lịch sử
cứu độ được hoàn thành “trong hy vọng dù không còn hy vọng” (Rm 4,18), qua
những yếu đuối của chúng ta. Chúng ta thường nghĩ rằng Thiên Chúa chỉ hoạt động
qua những mặt tốt của chúng ta, nhưng hầu hết các kế hoạch của Ngài đều được
thực hiện qua các yếu đuối của chúng ta và bất chấp sự yếu đuối ấy. Vì vậy,
Thánh Phaolô mới nói: “Để cho tôi khỏi tự cao tự đại, thân xác tôi như bị một
cái dằm đâm vào, một thủ hạ của Satan được sai đến để hành hạ tôi, để cho tôi
khỏi huênh hoang. Đã ba lần tôi xin Chúa cho thoát khỏi điều này, rằng nó sẽ
rời bỏ tôi, nhưng Người bảo tôi: ‘Ơn Ta đủ cho con, vì quyền năng của Ta được
biểu lộ trọn vẹn trong sự yếu đuối’” (2 Cr 12,7-9).
Vì đây
là một phần của toàn bộ kế hoạch cứu độ, chúng ta phải học cách nhìn vào những
yếu đuối của mình với lòng thương xót dịu dàng.[12]
Kẻ Ác
khiến chúng ta thấy được và lên án sự yếu đuối của chúng ta, trong khi Thánh
Thần đưa nó ra ánh sáng bằng tình yêu dịu dàng. Sự dịu dàng là cách tốt nhất để
chạm vào sự yếu đuối bên trong chúng ta. Chỉ tay và phán xét người khác thường
là dấu hiệu của việc không thể chấp nhận sự yếu đuối, sự mong manh của bản thân
chúng ta. Chỉ có tình yêu dịu dàng mới cứu chúng ta thoát khỏi cạm bẫy của kẻ
tố cáo (x. Kh 12,10). Đó là lý do tại sao việc gặp gỡ lòng thương xót
của Thiên Chúa, đặc biệt là trong bí tích Hòa giải, nơi chúng ta cảm nghiệm
được sự thật và lòng dịu dàng của Ngài là điều rất quan trọng. Nghịch lý thay,
Kẻ Ác cũng có thể nói sự thật với chúng ta, nhưng hắn làm vậy chỉ để lên án
chúng ta. Chúng ta biết rằng sự thật của Thiên Chúa không lên án, nhưng đón
nhận, ôm lấy chúng ta, nâng đỡ và tha thứ cho chúng ta. Sự thật ấy luôn được
bày tỏ cho chúng ta như người cha nhân hậu trong dụ ngôn của Chúa Giêsu
(x. Lc 15,11-32). Sự thật ấy đến gặp chúng ta, phục hồi phẩm giá của
chúng ta, nâng chúng ta dậy và vui mừng vì chúng ta, vì như người cha đã nói:
“Con trai ta đã chết và nay sống lại; nó đã mất và nay được tìm thấy” (câu 24).
Ý Chúa,
lịch sử và kế hoạch của Ngài vẫn hoạt động, ngay cả qua nỗi sợ hãi của Thánh
Giuse. Vì thế, Thánh Giuse dạy chúng ta rằng đức tin vào Thiên Chúa cũng là tin
rằng Ngài có thể hành động cả khi chúng ta sợ hãi, mỏng manh và yếu đuối. Ngài
cũng dạy chúng ta rằng giữa những thử thách của cuộc đời, chúng ta đừng bao giờ
sợ để Chúa dẫn lối cho chúng ta. Đôi khi, chúng ta muốn kiểm soát mọi sự, nhưng
Thiên Chúa luôn nhìn thấy bức tranh toàn cảnh hơn.
3. Một
người cha vâng phục
Như đã
thực hiện nơi Đức Maria, Thiên Chúa cũng mạc khải kế hoạch cứu độ của Ngài cho
Thánh Giuse. Thiên Chúa đã làm như vậy bằng cách dùng những giấc mơ, mà trong
Kinh thánh và trong tất cả các dân tộc cổ đại, được coi là một cách để cho biết
ý muốn của Ngài.[13]
Thánh
Giuse vô cùng bối rối trước việc mang thai lạ lùng của Đức Maria. Ngài không
muốn “công khai tố giác bà”,[14] nên
đã quyết định “lặng lẽ rời bỏ bà” (Mt 1,19).
Trong
giấc mơ đầu tiên, một sứ thần giúp ngài giải quyết tình huống khó xử nghiêm
trọng: “Đừng ngại nhận Maria làm vợ, vì đứa trẻ được thụ thai trong lòng bà là
do Chúa Thánh Thần. Bà sẽ sinh một con trai, và ông sẽ đặt tên là Giêsu, vì
Người sẽ cứu dân Người khỏi tội” (Mt 1,20-21). Thánh Giuse đáp lại ngay:
“Khi Giuse vừa thức giấc, ông đã làm theo lời sứ thần Chúa truyền”
(Mt 1,24). Thái độ vâng phục đã giúp Thánh Giuse vượt qua khó khăn và cứu
được Đức Maria.
Trong
giấc mơ thứ hai, sứ thần bảo Thánh Giuse: “Hãy trỗi dậy, đem Hài nhi và mẹ
Người trốn sang Ai Cập, và cứ ở đó cho đến khi ta nói lại; vì Hêrôđê sắp lùng
bắt Hài nhi để giết đi” (Mt 2,13). Thánh Giuse đã không ngần ngại vâng
lời, bất kể khó khăn gian khổ: “Ngài trỗi dậy trong đêm, đưa Hài nhi và mẹ
Người đi Ai Cập, và ở đó cho đến khi Hêrôđê qua đời” (Mt 2,14-15).
Ở Ai
Cập, Thánh Giuse kiên nhẫn chờ sứ thần báo tin có thể trở về nhà an toàn. Trong
giấc mơ thứ ba, sứ thần cho ngài biết những kẻ tìm giết Hài nhi đã chết và
truyền cho ngài trỗi dậy, đem Hài nhi và mẹ Người trở về đất Israel
(x. Mt 2,19-20). Một lần nữa, Thánh Giuse lại mau mắn vâng lời. “Ông
trỗi dậy, đưa Hài nhi và mẹ trở về đất Israel” (Mt 2,21).
Trên
đường trở về, “khi Giuse nghe tin Archelaô lên làm vua xứ Giuđê thay cho cha
mình là Hêrôđê, thì ông sợ không dám về đó. Được cảnh báo trong giấc mơ” – đây
là lần thứ tư – “ông lui về miền Galilê. Ở đó, ngài lập cư tại một thành gọi là
Nadarét” (Mt 2,22-23).
Còn
thánh sử Luca cho chúng ta biết rằng Thánh Giuse đã trải qua cuộc hành trình
dài và vất vả từ Nadarét đến Bêlem để ghi tên vào sổ bộ nơi nguyên quán của gia
đình mình trong cuộc điều tra dân số của Hoàng đế Cêsarê Augustô. Chúa Giêsu đã
được sinh ra trong hoàn cảnh đó (x. Lc 2,7) và được ghi vào sổ bộ của
Đế quốc Rôma, giống như mọi đứa trẻ khác. Thánh Luca đặc biệt quan tâm kể lại
việc cha mẹ của Chúa Giêsu đã tuân giữ tất cả các quy định của Luật: nghi thức
cắt bì cho Chúa Giêsu, nghi thức thanh tẩy cho Đức Maria sau khi sinh con, nghi
thức dâng con đầu lòng cho Thiên Chúa (x. 2,21-24).[15]
Trong
mọi hoàn cảnh, Thánh Giuse đều nói lời “fiat” của chính mình, cũng như khi Đức
Maria được sứ thần truyền tin và như Chúa Giêsu trong Vườn Cây Dầu.
Trong
vai trò là chủ gia đình, thánh Giuse đã dạy Chúa Giêsu vâng lời cha mẹ
(x. Lc 2,51), theo lệnh truyền của Chúa (x. Xh 20,12).
Trong
những năm sống ẩn dật ở Nadarét, Chúa Giêsu đã học ở trường học của thánh Giuse
để làm theo ý của Chúa Cha. Ý của Chúa Cha là lương thực hằng ngày của Người
(x. Ga 4,34). Ngay cả khi gặp khó khăn nhất, trong Vườn Cây Dầu, Chúa
Giêsu cũng đã chọn làm theo ý muốn của Đức Chúa Cha hơn là ý muốn của mình,[16] trở
nên “vâng lời cho đến chết, thậm chí chết trên thập tự giá” (Pl 2,8). Vì
thế, tác giả Thư gửi người Do Thái kết luận rằng Chúa Giêsu “đã học biết vâng
phục qua những gì Người phải chịu” (5,8).
Tất cả
những điều này cho thấy rõ rằng “Thánh Giuse đã được Thiên Chúa kêu gọi để trực
tiếp phục vụ con người và sứ mệnh của Chúa Giêsu qua việc thực thi chức vụ làm
cha” và như thế, “khi thời gian viên mãn, ngài đã cộng tác vào mầu nhiệm cứu độ
cao cả và thực sự là một thừa tác viên của ơn cứu độ”.[17]
4. Một
người cha chấp nhận
Thánh
Giuse đã chấp nhận Đức Maria một cách vô điều kiện. Ngài tin vào lời sứ thần đã
nói. “Sự cao thượng của tâm hồn Thánh Giuse là ở chỗ những gì ngài học được từ
lề luật thì ngài đã sống theo tình bác ái. Ngày nay, trong thế giới của chúng
ta, nơi mà bạo lực tinh thần, ngôn từ và thân xác đối với phụ nữ đã quá rõ
ràng, thì Thánh Giuse trở thành hình ảnh của một người đàn ông biết tôn trọng
và tinh tế. Mặc dù không hiểu rõ mọi chuyện, nhưng ngài vẫn quyết định bảo vệ
danh thơm tiếng tốt, phẩm giá và cuộc sống của Mẹ Maria. Khi ngài còn do dự
không biết nên làm gì, Thiên Chúa đã soi sáng để giúp ngài quyết định”.[18]
Trong
cuộc sống, vẫn có những điều xảy ra mà chúng ta không hiểu được ý nghĩa. Phản
ứng đầu tiên của chúng ta thường là thất vọng và nổi loạn. Thánh Giuse đã gạt
bỏ ý riêng của mình để chấp nhận các sự kiện xảy đến và, dù các sự kiện ấy xem
ra gây hoang mang, ngài vẫn đón nhận, nhận trách nhiệm và biến chúng thành một
phần lịch sử của chính mình. Nếu chúng ta không hòa hợp với lịch sử của chính
mình, chúng ta sẽ không thể đi tiếp, vì chúng ta sẽ luôn là con tin cho những
kỳ vọng và những thất vọng theo sau.
Con
đường thiêng liêng mà Thánh Giuse vạch ra cho chúng ta không phải là con
đường giải thích, mà là con đường chấp nhận. Chỉ khi nào biết chấp
nhận và giao hoà như thế, chúng ta mới có thể bắt đầu nhìn thấy một lịch sử bao
quát hơn, một ý nghĩa sâu sắc hơn. Dường như chúng ta nghe vọng lại câu trả lời
thật sâu sắc của ông Gióp với người vợ, bà đã xúi giục ông phản kháng vì những
điều ác mà ông phải gánh chịu: “Chúng ta nhận được điều tốt từ tay Thiên Chúa,
sao chúng ta lại không nhận điều bất hạnh?” (G 2,10).
Chắc
chắn Thánh Giuse không cam chịu một cách thụ động, nhưng chủ động một cách can
đảm và vững vàng. Trong cuộc sống của chúng ta, việc chấp nhận và đón nhận có
thể là một biểu hiện của ơn Sức Mạnh của Chúa Thánh Thần. Chỉ có Chúa mới có
thể ban cho chúng ta sức mạnh cần thiết để chấp nhận cuộc sống như nó vốn thế,
với tất cả những mâu thuẫn, nản lòng và thất vọng của nó.
Chúa
Giêsu đến ở giữa chúng ta, đó là một ơn của Chúa Cha, giúp mỗi người chúng ta
có thể hòa hợp với lịch sử cụ thể của đời mình, cả khi chúng ta không hiểu được
hoàn toàn.
Cũng
như Chúa đã nói với Thánh Giuse: “Hỡi Con vua Đavít, đừng sợ!” (Mt 1,20),
dường như Ngài cũng nói với chúng ta: “Đừng sợ!” Chúng ta cần gạt bỏ mọi tức
giận và thất vọng để đón nhận mọi thứ như chúng vốn thế, cả khi chúng không
diễn ra như chúng ta mong muốn. Không phải là đành chịu mà đầy hy vọng và can
đảm. Như thế, chúng ta sẽ mở ra với một ý nghĩa sâu sắc hơn. Cuộc sống của
chúng ta sẽ được tái sinh một cách kỳ diệu nếu chúng ta can đảm sống theo Phúc
Âm. Sẽ chẳng có vấn đề gì nếu mọi thứ dường như đã tồi tệ hoặc có điều gì không
sửa chữa được nữa. Chúa có thể làm cho hoa mọc lên từ đá. Ngay cả khi lòng
chúng ta kết án chúng ta, “Thiên Chúa lớn hơn lòng chúng ta, và Ngài biết mọi sự”
(1 Ga 3,20).
Ở đây,
một lần nữa, chúng ta gặp lại chủ nghĩa hiện thực Kitô giáo vốn không phủ nhận
những gì hiện hữu. Thực tại, trong tính phức tạp bí ẩn và không thể giải thích
của nó, có một ý nghĩa hiện sinh, với tất cả ánh sáng và bóng tối của nó. Thế
nên Tông đồ Phaolô mới nói: “Chúng ta biết rằng Thiên Chúa làm cho mọi sự đều
sinh ích cho những ai yêu mến Người” (Rm 8,28). Thánh Augustinô nói thêm,
“ngay cả cái được gọi là sự dữ (etiam illud quod malum dicitur)”.[19] Theo
góc nhìn rộng hơn này, đức tin mang lại ý nghĩa cho mọi biến cố, dù vui hay
buồn.
Chúng
ta cũng đừng bao giờ nghĩ rằng tin có nghĩa là tìm ra các giải pháp dễ dàng và
an ủi. Đức tin mà Chúa Kitô đã dạy chúng ta là những gì chúng ta thấy nơi Thánh
Giuse. Ngài không tìm kiếm những lối tắt, mà mở rộng đôi mắt để đối mặt với
thực tế và nhận trách nhiệm cá nhân về điều ấy.
Thái độ
của Thánh Giuse khuyến khích chúng ta chấp nhận và đón nhận người khác như họ
vốn có, không có ngoại lệ, và quan tâm đặc biệt đến những người yếu đuối, vì
Thiên Chúa chọn những gì yếu đuối (x. 1 Cr 1,27). Thiên Chúa là “Cha
kẻ mồ côi và là Đấng che chở những người góa bụa” (Tv 68,6), Ngài truyền
cho chúng ta phải yêu thương người xa lạ ở giữa chúng ta.[20] Tôi
thích nghĩ rằng chính từ Thánh Giuse, Chúa Giêsu đã có cảm hứng để kể câu
chuyện dụ ngôn người con hoang đàng và người cha nhân hậu
(x. Lc 15,11-32).
5. Một
người cha có lòng can đảm đầy sáng tạo
Nếu
giai đoạn đầu tiên của mọi chữa lành nội tâm thực sự là chấp nhận lịch sử cá
nhân của chúng ta và chấp nhận cả những gì trong cuộc sống mà chúng ta đã không
chọn lấy, thì nay chúng ta phải thêm một yếu tố quan trọng khác: lòng can đảm
đầy sáng tạo. Lòng can đảm này thể hiện đặc biệt trong cách chúng ta đối phó
với những khó khăn. Đối mặt với khó khăn, chúng ta có thể đầu hàng và bỏ cuộc
hay nhập cuộc cách nào đó. Đôi khi, khó khăn làm bật ra những nguồn lực mà
chúng ta thậm chí không nghĩ rằng mình đang có.
Khi đọc
các bài tường thuật thời thơ ấu của Chúa Giêsu, có lẽ chúng ta thường thắc mắc
tại sao Thiên Chúa không hành động một cách trực tiếp và rõ ràng hơn. Nhưng
Thiên Chúa lại hành động qua các biến cố và qua con người. Thánh Giuse là người
được Chúa chọn để hướng dẫn giai đoạn khởi đầu của lịch sử cứu chuộc. Ngài là
“dấu lạ” thực sự mà Chúa dùng để cứu hài nhi Giêsu và mẹ của Người. Thiên Chúa
đã hành động qua thái độ tin tưởng vào lòng can đảm đầy sáng tạo của Thánh
Giuse. Khi đến Bêlem và không tìm được chỗ cho Đức Maria sinh con, Thánh Giuse
đã chuẩn bị một cái chuồng bò và làm hết sức có thể để biến nó thành ngôi nhà
chào đón Con Thiên Chúa đến thế gian (x. Lc 2, 6-7). Trước nguy cơ
sắp xảy ra là Hêrôđê muốn giết Hài nhi Giêsu, một lần nữa trong giấc mơ, thánh
Giuse đã được báo mộng để bảo vệ Hài nhi, và nửa đêm thức dậy chuẩn bị trốn
sang Ai Cập (x. Mt 2,13-14 ).
Khi đọc
lướt qua những câu chuyện này có thể chúng ta thường có cảm tưởng rằng thế giới
được phó mặc cho những kẻ mạnh và kẻ có quyền, nhưng “tin mừng” của Phúc âm là
ở chỗ cho thấy rằng, bất chấp thói kiêu ngạo và bạo lực của các quyền lực thế
gian, Chúa luôn tìm ra cách thực hiện kế hoạch cứu độ của Ngài. Cuộc sống của
chúng ta vậy, đôi khi xem ra bị phó mặc trong tay kẻ có quyền, nhưng Tin Mừng
cho chúng ta thấy điều gì mới là đáng giá. Thiên Chúa luôn tìm ra cách để cứu
chúng ta, miễn là chúng ta thể hiện lòng can đảm đầy sáng tạo như người thợ mộc
thành Nadarét, người có thể biến vấn đề thành khả năng bằng cách luôn tin tưởng
vào sự quan phòng của Thiên Chúa.
Nếu có
lúc dường như Chúa không giúp chúng ta, thì chắc chắn không có nghĩa là chúng
ta bị bỏ rơi, mà là chúng ta đang được Chúa tin tưởng để tự mình lên kế hoạch,
sáng tạo và tìm ra giải pháp.
Lòng
can đảm đầy sáng tạo đó đã được những người bạn của người bại liệt thể hiện, họ
đã dỡ mái nhà hạ anh xuống để đưa anh đến với Chúa Giêsu (x. Lc 5,
17-26). Khó khăn đã không ngăn cản được sự mạnh dạn và kiên trì của những người
bạn đó. Họ tin chắc rằng Chúa Giêsu có thể chữa lành cho anh, và bởi “không tìm
được cách nào để đưa anh ta vào vì đám đông dân chúng, họ đã trèo lên mái nhà
và thả anh xuống cùng với chiếc giường vào giữa đám đông đang ở trước mặt Chúa
Giêsu. Nhìn thấy đức tin của họ, Chúa Giêsu nói: “Này bạn, tội lỗi của bạn đã
được tha’” (câu 19-20). Chúa Giêsu nhìn nhận đức tin sáng tạo mà nhờ đó họ đã
tìm cách đưa người bạn đau yếu đến với Ngài.
Phúc Âm
không cho chúng ta biết Đức Maria, Thánh Giuse và Hài nhi ở lại Ai Cập bao lâu.
Tuy nhiên, chắc chắn các ngài cần phải có cái ăn, có một mái nhà và có việc
làm. Chẳng cần phải tưởng tượng nhiều cũng thấy được những chi tiết đó. Thánh
Gia đã phải đối mặt với những vấn đề cụ thể như mọi gia đình khác, giống như
rất nhiều anh chị em di dân của chúng ta, là những người ngày nay cũng phải
liều mạng để thoát khỏi bất hạnh và đói khát. Về khía cạnh này, tôi coi Thánh
Giuse là Đấng bảo trợ đặc biệt của tất cả những ai buộc phải rời bỏ quê hương
vì chiến tranh, hận thù, đàn áp và nghèo đói.
Ở cuối
mỗi câu chuyện mà thánh Giuse là nhân vật chính, Phúc Âm kể lại rằng ngài trỗi
dậy, ẵm lấy Hài nhi và cùng với Mẹ Người làm như Thiên Chúa đã truyền
(x. Mt 1,24; 2,14.21). Thật vậy, Chúa Giêsu và Đức Maria Mẹ Người là
kho tàng đức tin quý giá nhất của chúng ta.[21]
Trong
kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa, Chúa Con không tách rời khỏi Đức Maria Mẹ
của Người, Đấng đã “tiến bước trong cuộc lữ hành đức tin, trung thành hợp nhất
với Con cho đến tận bên chân Thập giá”.[22]
Chúng
ta cần luôn xét xem, liệu chúng ta có đang bảo vệ Chúa Giêsu và Mẹ Maria hay
không, vì các Ngài cũng được trao phó cho trách nhiệm của chúng ta một cách mầu
nhiệm, để chăm sóc và giữ gìn. Con của Đấng Toàn Năng đã đến trần gian của
chúng ta trong tình trạng thật yếu đuối mỏng giòn. Ngài cần được Thánh Giuse
che chở, bảo vệ, chăm sóc và nuôi nấng. Thiên Chúa đã tin cậy Thánh Giuse, cả
Đức Maria cũng thế, Mẹ là người đã thấy nơi Thánh Giuse một người không chỉ cứu
mạng mình mà còn luôn chăm lo cho mình và con của mình nữa. Theo nghĩa này,
Thánh Giuse không khác gì Đấng Bảo vệ Hội Thánh, vì Hội Thánh là sự tiếp nối
Nhiệm Thể Chúa Kitô trong lịch sử, cũng như tư cách làm mẹ của Đức Maria được
phản ánh trong tư cách Mẹ của Hội Thánh.[23] Khi
tiếp tục bảo vệ Hội Thánh, Thánh Giuse tiếp tục bảo vệ Hài nhi và mẹ
Người, và cả chúng ta nữa, khi yêu mến Giáo hội, là chúng ta tiếp tục
yêu Hài nhi Giêsu và mẹ Người.
Hài nhi
ấy là Đấng sẽ nói: “Điều ngươi đã làm cho một trong những người nhỏ bé nhất
trong gia đình của Ta đây, là làm cho chính Ta” (Mt 25,40). Vì vậy, tất cả
những ai nghèo khổ, thiếu thốn, đau khổ hay đang hấp hối, tất cả những ai là
người xa lạ, tù nhân hay bệnh nhân đều là “hài nhi” mà Thánh Giuse tiếp tục bảo
vệ. Bởi thế, Thánh Giuse được kêu cầu như Đấng che chở cho người bất hạnh,
người túng thiếu, lưu đày, đau khổ, nghèo đói và hấp hối. Và Hội Thánh không
thể không bày tỏ tình yêu thương đặc biệt đối với những người anh chị em hèn
mọn nhất của chúng ta, vì Chúa Giêsu đã bày tỏ mối quan tâm đặc biệt đến họ và
đồng hoá với họ. Từ nơi Thánh Giuse, chúng ta cũng phải học cách chăm sóc và
trách nhiệm ấy. Chúng ta phải học cách yêu thương Hài nhi và mẹ Người, yêu mến các
bí tích và đức bác ái, yêu mến Giáo hội và người nghèo. Mỗi thực tại ấy luôn là
Hài nhi và mẹ Người.
6. Một
người cha làm việc
Một
khía cạnh của Thánh Giuse đã được nhấn mạnh từ khi Đức giáo hoàng Lêô XIII ban
hành Thông điệp xã hội đầu tiên, Rerum Novarum, là mối quan hệ của ngài
với công việc. Thánh Giuse là một người thợ mộc làm việc lương thiện để nuôi
sống gia đình. Nơi Thánh Giuse, Chúa Giêsu đã học được giá trị, phẩm giá và
niềm vui của việc ăn miếng bánh là thành quả lao động của chính mình.
Trong
thời đại của chúng ta, khi việc làm một lần nữa trở thành một vấn đề xã hội cấp
bách, và tình trạng thất nghiệp đôi khi lên đến mức kỷ lục ngay cả ở các quốc
gia đã được hưởng một mức độ thịnh vượng nhất định trong nhiều thập kỷ, thì cần
ý thức lại để biết quý trọng việc làm đem lại phẩm giá mà Thánh Giuse là vị bổn
mạng mẫu mực.
Việc
làm là một phương tiện để tham dự vào công trình cứu chuộc, một cơ hội để làm
cho Nước Trời mau đến, để phát triển tài năng và khả năng của chúng ta, và để
phục vụ xã hội và tình hiệp thông huynh đệ. Nó trở thành cơ hội để hoàn thiện
không chỉ bản thân mình, mà cả tế bào căn bản của xã hội là gia đình. Một gia
đình không có việc làm đặc biệt dễ gặp khó khăn, căng thẳng, rạn nứt và thậm
chí tan vỡ. Làm sao chúng ta có thể nói về phẩm giá con người mà lại không hành
động để bảo đảm cho ai cũng có thể kiếm được một cuộc sống tử tế?
Những
người đang làm việc, dù làm việc gì, đều đang hợp tác với chính Thiên Chúa, và
theo một cách nào đó trở thành những người sáng tạo thế giới xung quanh chúng
ta. Cuộc khủng hoảng của thời đại chúng ta – về kinh tế, xã hội, văn hóa và
tinh thần – có thể là lời kêu gọi tất cả chúng ta khám phá lại giá trị, tầm
quan trọng và sự cần thiết của việc làm để mang lại một sự “bình thường” mới mà
không ai bị loại ra. Việc làm của Thánh Giuse nhắc nhở chúng ta rằng chính
Thiên Chúa, khi làm người, đã không khinh thường công việc. Tình trạng mất việc
làm vốn ảnh hưởng đến rất nhiều anh chị em của chúng ta và đã gia tăng do hậu
quả của đại dịch Covid-19, cần được coi như một lời kêu gọi xét lại các ưu tiên
của chúng ta. Chúng ta hãy cầu xin Thánh Giuse Thợ giúp chúng ta tìm ra những
cách thể hiện niềm tin vững vàng rằng không một người trẻ nào, không một người
nào, không một gia đình nào không có việc làm!
7. Một
người cha trong bóng tối
Nhà văn
Ba Lan Jan Dobraczyński, trong tác phẩm “Hình bóng của Chúa Cha”,[24] đã
kể câu chuyện về cuộc đời của Thánh Giuse theo hình thức tiểu thuyết. Ông dùng
hình ảnh gợi liên tưởng của một cái bóng để nói về Thánh Giuse. Trong mối tương
quan với Chúa Giêsu, Thánh Giuse là hình bóng trần gian của Cha trên trời: Ngài
trông nom và bảo vệ Chúa Giêsu, không bao giờ để Chúa Giêsu đi một mình. Chúng
ta có thể nghĩ đến những lời của Môsê nói với Israel: “Trong sa mạc … ngươi đã
thấy Đức Chúa là Thiên Chúa ngươi bồng bế ngươi như người ta bồng bế con mình,
trên mọi nẻo đường các ngươi đi” (Đnl 1,31). Tương tự như vậy, Thánh Giuse
đã đóng vai trò một người cha trong suốt cuộc đời của ngài.[25]
Chúng
ta không sinh ra là cha, nhưng trở thành người cha. Một người không trở thành
cha đơn giản chỉ vì sinh ra một đứa con, nhưng vì đảm nhận trách nhiệm chăm sóc
đứa con ấy. Bất cứ khi nào một người nhận trách nhiệm về cuộc sống của một
người khác, thì một cách nào đó, họ trở thành cha của người ấy.
Trẻ em
ngày nay dường như mồ côi cha. Giáo hội cũng cần có những người cha. Lời thánh
Phaolô nói với các tín hữu Côrintô vẫn còn hợp thời: “Dù anh em có vô số người
hướng dẫn trong Đức Kitô, nhưng anh em không có nhiều người cha đâu!” (1
Cr 4,15). Mỗi linh mục hay giám mục đều có thể nói thêm, cùng với vị Tông
đồ rằng: “Tôi đã trở thành cha của anh em trong Chúa Giêsu Kitô nhờ Phúc âm”
(ibid.). Thánh Phaolô cũng nói tương tự như vậy với các tín hữu Galata: “Hỡi
các con bé nhỏ của tôi, mà tôi phải quặn đau sinh ra một lần nữa cho đến khi
Đức Kitô được thành hình nơi anh em!” (4,19).
Làm cha
có nghĩa là đưa con cái đến với cuộc sống và với thực tế. Không giữ chúng lại,
không bảo bọc chúng quá đáng hay sở hữu chúng, mà là giúp cho chúng có khả năng
tự quyết định, tận hưởng tự do và khám phá những khả năng mới. Có lẽ vì thế mà
ngoài danh hiệu cha, truyền thống còn gọi Thánh Giuse là Đấng “cực thanh cực
tịnh”. Tước hiệu đó không đơn thuần là một dấu chỉ của lòng yêu mến, mà còn là
tóm lược một thái độ đối lập với tính chiếm hữu. Thanh khiết là sự tự do thoát
khỏi thái độ chiếm hữu trong mọi lĩnh vực đời sống của mình. Chỉ khi nào tình
yêu thanh khiết, đó mới là tình yêu thực sự. Một tình yêu chiếm hữu cuối cùng
sẽ trở nên nguy hiểm: nó giam hãm, bóp nghẹt và gây đau khổ. Chính Thiên Chúa
đã yêu nhân loại bằng một tình yêu thanh khiết; Ngài để chúng ta được tự do,
thậm chí phạm tội và chống lại Ngài. Luận lý của tình yêu luôn là luận lý của
tự do, và Thánh Giuse biết cách yêu thương với thái độ tự do phi thường. Ngài
không bao giờ biến mình thành trung tâm của mọi sự. Ngài không nghĩ về mình, mà
luôn nghĩ về cuộc đời của Mẹ Maria và Chúa Giêsu.
Thánh
Giuse tìm được hạnh phúc không phải ở sự hy sinh bản thân mà là ở sự tự hiến.
Nơi ngài, chúng ta không bao giờ thấy nỗi thất vọng mà chỉ thấy niềm tin tưởng.
Sự thinh lặng kiên nhẫn của ngài dẫn tới những thể hiện cụ thể của lòng tin
tưởng. Thế giới của chúng ta ngày nay cần những người cha. Nó không chấp nhận
những bạo chúa, những kẻ hà hiếp người khác như một phương tiện để bù đắp cho nhu
cầu của chính họ. Nó từ chối những người nhầm lẫn quyền hành với độc đoán, phục
vụ với tùng phục, thảo luận với áp bức, bác ái với trợ giúp, sức mạnh với hủy
diệt. Mọi ơn gọi đích thực đều được sinh ra từ việc tự hiến, là hoa trái của sự
hy sinh chín chắn. Chức linh mục và đời sống thánh hiến cũng đòi hỏi phải có sự
chín chắn như vậy. Dù ơn gọi của chúng ta là gì, kết hôn, độc thân hay sống
trinh khiết, việc cho đi chính mình sẽ không thành toàn nếu nó chỉ dừng lại ở
sự hy sinh; nếu thế, thay vì trở thành một dấu chỉ của vẻ đẹp và niềm vui của
tình yêu, việc cho đi chính mình sẽ có nguy cơ trở thành biểu hiện của bất
hạnh, buồn bã và thất vọng.
Khi
người cha từ bỏ cám dỗ sống cuộc sống của con cái mình, những khung cảnh mới mẻ
và bất ngờ sẽ mở ra. Mỗi đứa con đều mang trong mình một mầu nhiệm độc đáo chỉ
có thể được tỏ lộ nhờ sự giúp đỡ của người cha biết tôn trọng quyền tự do của
đứa con ấy. Một người cha sẽ nhận ra mình là một người cha và một nhà giáo dục
nhất vào lúc mình trở thành “vô dụng”, khi thấy con mình trở nên độc lập và có
thể bước đi trên con đường của cuộc đời mà không cần ai đi kèm. Khi người cha
ấy trở nên giống như Thánh Giuse, luôn biết rằng con mình không phải là của
riêng mình mà chỉ được giao phó cho mình chăm sóc mà thôi. Cuối cùng, đây là
điều mà Chúa Giêsu muốn chúng ta hiểu khi Người nói: “Các con đừng gọi ai ở
dưới đất là cha, vì các con chỉ có một người Cha ở trên trời” (Mt 23, 9).
Mỗi khi
thi hành thiên chức làm cha, chúng ta phải luôn nhớ rằng thiên chức ấy không
liên quan gì đến sự chiếm hữu, mà là một “dấu chỉ” hướng đến một tình phụ tử
lớn hơn. Một cách nào đó, tất cả chúng ta đều giống như Thánh Giuse: là cái
bóng của Cha trên trời, Đấng “làm cho mặt trời mọc lên trên kẻ dữ cũng như
người lành, và làm mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất lương”
(Mt 5,45). Và là cái bóng bước theo Con của Ngài.
*
* *
Thiên
Chúa nói với Thánh Giuse: “Hãy trỗi dậy, đem Hài nhi và mẹ Người trốn đi”
(Mt 2,13).
Mục
đích của Tông thư này là làm cho chúng ta thêm lòng yêu mến Thánh cả, khuyến
khích cầu xin ngài chuyển cầu cho chúng ta và noi gương các nhân đức và lòng
nhiệt thành của ngài.
Thật
vậy, sứ mệnh cụ thể của các thánh không chỉ là chuyển ban phép lạ và ơn
thánh(*), nhưng là chuyển cầu cho chúng ta trước mặt Thiên Chúa, như Ápraham[26] và
Môsê[27],
và như Chúa Giêsu, “Đấng trung gian duy nhất” (1 Tm 2,5), là “Đấng bảo
trợ” cho chúng ta trước mặt Chúa Cha (1 Ga 2,1) và là Đấng “hằng sống
để chuyển cầu cho chúng ta” (Dt 7,25; x. Rm 8,34).
Các
thánh giúp tất cả các tín hữu “phấn đấu nên thánh và theo đuổi sự trọn lành của
bậc sống mình”.[28] Cuộc
sống của các ngài là bằng chứng cụ thể cho thấy có thể sống Phúc Âm.
Chúa
Giêsu đã nói: “Hãy học cùng tôi, vì tôi hiền lành và khiêm nhường trong lòng”
(Mt 11,29). Cuộc đời của các thánh cũng là những tấm gương để noi theo.
Thánh Phaolô nói rõ điều này: “Anh em hãy bắt chước tôi!” (1 Cr 4,16).[29] Bằng
sự thinh lặng hùng hồn, Thánh Giuse cũng nói như vậy.
Trước
tấm gương của biết bao vị thánh nam và nữ, Thánh Augustinô đã tự hỏi: “Điều các
ngài đã làm được, mi không làm được sao?” Và thế là ngài đã dứt khoát hoán cải
và thốt lên: “Con đã yêu Chúa quá muộn màng, ôi Vẻ Đẹp vẫn cổ xưa mà luôn tươi
mới!”[30]
Vậy
chúng ta hãy cầu xin với Thánh Giuse ban cho chúng ta ơn của các ơn: đó là ơn
hoán cải.
Giờ đây
chúng ta hãy cầu nguyện với ngài:
Kính chào Đấng Gìn giữ Đấng Cứu
Thế,
Bạn trăm năm của Đức Trinh Nữ Maria.
Chúa đã trao Con Một của Chúa cho ngài;
Mẹ Maria đã tin tưởng vào ngài;
Chúa Kitô đã lớn lên thành người cùng với ngài.
Lạy Thánh Giuse diễm phúc,
xin cũng hãy tỏ ra ngài là cha của chúng con
và hướng dẫn chúng con đi trên đường đời.
Xin giúp chúng con đón nhận ân sủng, lòng thương xót và lòng can đảm,(*)
và xin bảo vệ chúng con khỏi mọi sự dữ. Amen.
Ban
hành ở Rôma, tại Đền Thờ Latêranô, ngày 8 tháng 12, Đại lễ kính Đức Trinh Nữ
Maria Vô nhiễm Nguyên tội, năm 2020, năm thứ tám triều Giáo hoàng của tôi.
PHANXICÔ
Bản dịch chính thức của Hội
đồng Giám mục Việt Nam
WHĐ (10.12.2020)
[1] Lc 4,22; Ga 6,42;
cf. Mt 13,55; Mc 6,3.
[2] Thánh bộ Lễ nghi, Quemadmodum
Deus (8/12/1870): ASS 6 (1870-71), 194.
[3] X. Diễn văn với ACLI (Hiệp hội
Công nhân Kitô giáo Italia) trong ngày Lễ trọng kính Thánh Giuse
Thợ (1/05/1955): AAS 47 (1955), 406.
[4] X. Tông huấn Redemptoris
Custos (15/08/1989): AAS 82 (1990), 5-34.
[5] Sách Giáo lý Hội thánh Công giáo,
1014.
[6] Bài Suy niệm trong thời đại
dịch (27/03/2020): L’Osservatore Romano, 29 tháng 3 năm 2020, tr. 10.
[7] Trong Matthaeum Homiliae, V,
3: PG 57, 58.
[8] Bài
giảng (19/03/1966): Insegnamenti di Paolo VI, IV (1966), 110.
[9] X. Tự truyện, 6, 6-8.
[10] Mỗi ngày, trong hơn bốn mươi năm, sau
Kinh Sáng, tôi đều đọc một kinh cầu nguyện với Thánh Giuse trích trong quyển
Sách kinh của Pháp vào thế kỷ mười chín của Dòng Nữ tu Chúa Giêsu và Mẹ Maria.
Kinh này nói lên lòng yêu mến và tin tưởng, và thậm chí còn đặt ra một thách đố
cho Thánh Giuse nữa: “Lạy Thánh tổ phụ Giuse vinh hiển, là Đấng có quyền năng
biến điều không thể thành có thể, xin đến cứu giúp con trong những lúc đau khổ
và khó khăn này. Xin bảo vệ con trước những tình thế ngặt nghèo và rắc rối mà
con phó thác cho cha đây, hầu có một kết thúc tốt đẹp. Lạy cha yêu dấu của con,
con đặt trọn niềm tin tưởng nơi cha. Xin đừng để người ta nói rằng con đã cầu
xin cha luống công vô ích, và vì cha có thể làm mọi sự với Chúa Giêsu và Mẹ
Maria, xin cha cho con thấy rằng lòng nhân hậu của cha cũng vĩ đại như quyền
năng của cha. Amen.”
[11] X. Đnl 4,31; Tv 69,16;
78,38; 86,5; 111,4; 116,5; Gr 31,20.
[12] X. Tông huấn Evangelii
Gaudium (24/11/2013), 88, 288: AAS 105 (2013), 1057, 1136-1137.
[13] X. St 20,3; 28,12;
31,11.24; 40,8; 41,1-32; Ds 12,6; 1
Sm 3,3-10; Dn 2,4; G 33,15.
[14] Luật quy định phải ném đá trong những
trường hợp như vậy (x. Đnl 22,20-21).
[15] X. Lv 12,1-8; Xh 13,2.
[16] X. Mt 26,39; Mc 14,36; Lc 22,42.
[17] Thánh Gioan Phaolô II, Tông
huấn Redemptoris Custos (15/08/1989), 8: AAS 82 (1990), 14.
[18] Bài giảng trong Thánh lễ Tuyên phong
các Chân phước, Villavicencio, Colombia (8/09/2017): AAS 109 (2017),
1061.
[19] Enchiridion de fide, Spe et caritate,
3.11: PL 40, 236.
[20] X. Đnl 10,19; Xh 22,20-22; Lc 10,29-37.
[21] X. Thánh bộ Lễ nghi, Quemadmodum
Deus (8/12/1870): ASS 6 (1870-1871), 193; Chân Phước Piô IX,
Tông thư Inclytum Patriarcham (7/07/1871): l.c., 324-327.
[22] Công đồng Vaticanô II, Hiến chế Tín
lý về Giáo hội Lumen Gentium, 58.
[23] Sách Giáo lý Hội thánh Công giáo,
963-970.
[24] Ấn bản gốc: Cień Ojca, Warsaw,
1977.
[25] X. Thánh Gioan Phaolô II, Tông
huấn Redemptoris Custos, 7-8: AAS 82 (1990), 12-16.
[26] X. St 18,23-32.
[27] X. Xh 17,8-13; 32,30-35.
[28] Công đồng Vaticanô II, Hiến chế Tín
lý Lumen Gentium, 42.
[29] X. 1
Cr 11,1; Pl 3,17; 1 Tx 1,6.
[30] Tự thuật, VIII, 11,
27: PL 32, 761; X, 27, 38: PL 32, 795.
(*)
Câu này đã được hiệu đính vào ngày 21/12/2020.