Lịch Sử Và Ý
Nghĩa Của Tro Ngày Lễ Tro
Thứ Tư trước Lễ Phục sinh sáu
tuần, Giáo Hội cử hành Lễ Tro. Với Thứ Tư Lễ Tro Giáo Hội khai mạc Mùa Chay
Thánh. Lễ này có nguồn gốc từ tên gọi của nó, vì sau bài giảng có nghi thức làm
phép tro được đốt từ cành lá dừa của Chúa nhật Lễ Lá năm trước, ngày
này khắp nơi ăn chay” (x. Quy luật tổng quát phụng vụ, số 28 và
29). Tro đã được làm phép sẽ được rắc lên đầu hay xức trên trán các tín hữu
theo dấu thánh giá và nói : “Hãy nhớ mình là bụi tro và sẽ trở về bụi
tro” (x. St 3,19) hay “Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng” (Mc 1,15).
Lời Kinh thánh này nhắc nhở chúng ta ý thức về thân phận con người qua biểu
hiệu “bụi tro”. Năm 2021, Bộ Phụng tự và Kỷ luật Bí tích đã
ban hành hướng dẫn đề xuất rằng các linh mục nên sử dụng phương pháp rắc tro
trong mọi trường hợp, do đại dịch COVID-19.
Tro trong Cựu Ước
Thời Cựu Ước, Tro được dùng để chỉ sự u
buồn, thống hối và sự chết. Cụ thể như trong sách Esther, Mordecai mặc áo vải
thô và xức tro khi nghe chiếu chỉ của vua Ahasuerus (hay Xerxes, 485-464 BC) ra
lệnh giết hết người Do Thái trong Đế quốc Ba Tư (Et 4,1).
Vào khoảng giữa thế kỷ thứ VII và V trước
Chúa Giêsu giáng sinh, Ông Gióp đã mặc áo vải thô và xức tro khi sám hối (G 42,
6). Khoảng 550 năm trước Chúa Giêsu giáng sinh, khi tiên báo thành Giêrusalem
bị quân Babylon chiếm đóng, Đaniel đã viết: “Tôi ăn chay, mặc áo vải
thô và rắc tro lên đầu rồi ngẩng mặt lên Chúa Thượng là Thiên Chúa, để dâng lời
khẩn nguyện nài van” (Đn 9, 3). Tiếp đến là Giona rao giảng về sự
thống hối và hoán cải, cả thành Ninivê mặc áo vải nhặm, ngồi trên đống tro và
ăn chay (Gn 3, 5-6). Những bằng chứng trên cho thấy Tro được sử dụng từ lâu
trong Cựu Ước với những ý đặc biệt của nó. việc xức tro và mặc áo nhậm được
dùng để thực hành và biểu lộ lòng thống hối cá nhân hay toàn thể cộng đoàn dân
Israel. Tro chỉ thân xác chúng ta là bụi tro, sẽ phải chết (xc. St 3,18.27;
Giob 34, 17; Gr 6, 26; 25, 34; Est 4,13; Is 58, 5; Dn 9,3; Giona 3,6; Giudith
4,16; 9,1).
Tro trong Tân Ước
Chính Chúa Giêsu cũng nhắc đến tro: khi dân
các thành phố không nghe lời Chúa Giêsu rao giảng, họ từ chối thống hối dù đã
chứng kiến những phép lạ và nghe Tin Mừng, Người nói: “Vì nếu các phép
lạ đã làm nơi các ngươi mà được làm tại Tia và Siđôn, thì họ đã mặc áo vải thô,
rắc tro lên đầu tỏ lòng sám hối” (Mt 11, 21).
Tro trong tuyền thống Kitô Giáo
Việc thực hành Mùa Chay đã có ngay ở những
thế kỷ đầu của Kitô giáo, nhưng trải qua những bước thăng trầm. Trong suốt thời
kỳ giáo hội sơ khai, tro được dùng với các ý nghĩa biểu tượng của nó như rắc
lên đầu những người bị buộc phải thú tội và sám hối công khai. Trong cuốn De
Poenitentia (về sự sám hối), Tertullian (khoảng năm 160-220) quy định người sám
hối phải “sống u buồn sầu thảm trong sự thô ráp của áo vải nhặm và tro
bụi dơ dáy”.
Trong lịch sử phụng vụ của Giáo Hội, Tro
được dùng để bỏ trên đầu hay trên mình người phạm tội nặng công khai, như chối
bỏ đức tin, giết người, ngoại tình... và bị loại ra khỏi cộng đoàn. Ðể được
nhận lại trong cộng đoàn, định chế Giáo hội qui định, ngoài việc thống hối công
khai, mặc áo vải nhặm, vào ngày thứ Tư trước Chúa Nhật thứ nhất Mùa Chay hối
nhân phải nhận tro nữa.
Vào khoảng thế kỷ thứ VIII, Tro được các đan sĩ và tu viện dùng để chỉ mối
liên hệ sự chết và sự khiêm nhường thống hối trước mặt Chúa. Vì thế, tại một số
nơi các đan sĩ, tu sĩ có thói quen nằm trên đống tro với chiếc áo nhậm để chết.
Thánh Martino thành Tours bên Pháp đã nói: “Không gì xứng hợp hơn cho một tu
sĩ là việc nằm chết trên đống tro bụi”. Các vị này lấy tro đã được làm phép
trong ngày Thứ Tư Lễ Tro, rồi vẽ hình thánh giá trên đất, trên đó còn trải thêm
áo nhặm để nằm trên đó khi hấp hối và khi chết.
Từ đó, những người sắp qua đời được đặt nằm
trong tấm vải rắc tro để trên đất. Linh mục rảy nước thánh trên người đấy và
nói: “Hãy nhớ mình là tro bụi và sẽ trở về bụi tro”. Tiếp theo,
linh mục hỏi: “Anh (chị) có đồng ý mặc áo vải thô và rắc tro trên minh
để chứng lòng thống hối trước mặt Thiên Chúa trong ngày phán xét không?”. Người
ấy đáp: “Con xin đồng ý”. Đây là những bằng chứng cho thấy ý
nghĩa biểu trưng cho tang chế, cái chết và thống hối.
Sang thế kỷ thứ X, thì có việc làm phép tro
và một lời nguyện kèm theo. Sang thế kỷ thứ XI, chính Ðức Giáo Hoàng làm phép
tro, trước đó chỉ xức cho giáo dân, nay bỏ tro trên hết mọi người, và kiệu về
nhà thờ thánh nữ Sabina ở đồi Aventino. Trong khi đi kiệu, Ðức Giáo hoàng và cộng
đoàn hát kinh cầu các thánh. Tất cả đều mặc áo nhặm, đi chân không, để tỏ lòng
thống hối ăn năn. Khi đến nhà thờ, Ðức Giáo hoàng đọc lời xá giải và cộng đoàn
cùng hát bài “Chúng ta hãy thay đổi đời sống, xức tro và ăn chay hãm mình,
khóc than vì lỗi lầm đã phạm. Hãy khẩn cầu Thiên Chúa chúng ta. Vì Người rất từ
bi nhân hậu sẵn sàng tha thứ mọi tội khiên” (Immutemur, xc. Ge 2, 13).
Vào năm 1091, Công đồng Benevento (Nam
Italia) đã truyền cử hành nghi lễ bỏ tro cho tất cả các nơi trong Giáo hội. Tro
này lấy từ những cành lá đã được làm phép trong ngày Chúa nhật Lễ Lá năm trước
để lại. Trước Công đồng chung Vaticanô II, lễ nghi làm phép tro và bỏ tro được
cử hành trước Thánh lễ. Vào năm 1970, khi công bố Sách Lễ Rôma được tu chính,
thì lễ nghi này được cử hành sau phần phụng vụ Lời Chúa.
Tóm lại, Lễ Tro có nghi làm phép tro và xức
tro là dịp để chúng ta suy nghĩ về bụi tro, cho thấy sự yếu hèn của mình và
tính cách tùy thuộc vào Thiên Chúa vì con người được Ngài tạo dựng, nhưng Thiên
Chúa đoái thương và ban ơn cứu rỗi.
Lm.
Antôn Nguyễn Văn Độ