Lịch Sử Mùa Chay Thánh
Tứ thời bát tiết Xuân, Hạ, Thu, Ðông, thay
đổi tuần hoàn luân vòng chuyển đổi. Niên lịch phụng vụ của Giáo Hội Công giáo
cũng nằm trong chu kỳ ấy. Phụng vụ Giáo Hội cũng có các Mùa như: Mùa Vọng, Mùa
Giáng Sinh, Mùa Thường Niên, Mùa Chay và Mùa Phục Sinh. Chúng ta đang chuẩn bị
bước vào Mùa Chay Thánh. Vậy Mùa Chay có từ bao giờ, kéo dài bao lâu? Những
việc chúng ta làm trong Mùa Chay có ý nghĩa thế nào? Mùa Chay đến rồi lại đi,
chúng ta làm gì để Mùa Chay có ý nghĩa và không trở nên nhàm chán?
Mùa Chay có từ bao giờ, kéo dài bao lâu?
Vào những thế kỷ đầu Kitô giáo, để sống đạo
và thực hành đạo, các Kitô hữu tiên khởi đã quan sát những người chung quanh
xem họ sống đạo và thực hành đạo thế nào, cụ thể như việc người Do thái giữ
ngày Sabát, hay lên Ðền thờ cầu nguyện. Tuy các Kitô hữu tiên khởi họp nhau
thành một cộng đoàn tế tự, cử hành phép Rửa nhân danh Cha và Con và Thánh Thần
theo một công thức tuyên xưng đức tin; nhưng khi cử hành các ngày đại lễ như Lễ
Vượt Qua, Lễ Ngũ Tuần, dù vẫn giữ nguyên những ngày lễ của người Do thái nhưng
lại mặc cho các ngày lễ ấy một ý nghĩa mới, chẳng hạn: khi cử hành, họ không
chỉ nhắc lại các biến cố Xuất Hành Cựu Ước, mà còn tưởng nhớ Cuộc Khổ Nạn và
Phục Sinh của Chúa Kitô, cũng như việc Chúa Thánh Thần hiện xuống trên các Tông
đồ.
Mãi đến thế kỷ IV, trong Giáo Hội mới nảy
sinh những ý kiến khác nhau như: Liệu có cử hành lễ Phục Sinh vào ngày lễ Vượt
Qua của người Do thái không? Tại các giáo đoàn thuộc Tiểu Á vẫn giữ nghi lễ
chiên vượt qua. Riêng giáo đoàn Antiokia lại ấn định Lễ Phục Sinh vào ngày Chúa
nhật sau Lễ Vượt Qua của người Do thái, trong khi đó, các Kitô hữu tại
Alexandria do các nhà chiêm tinh tính toán nên đã chuyển dời Lễ Phục Sinh vào
dịp xuân phân.
Cho dù có sự khác nhau về ngày cử hành các
ngày lễ, nhưng Lễ Phục Sinh vẫn là lễ chung của toàn thể cộng đoàn Kitô giáo,
vì Lễ Phục Sinh dựa trên nền tảng đức tin. Trước Lễ Phục Sinh, có một khoảng
thời gian chuẩn bị tương đối dài gọi là Mùa Chay hay "40 ngày", để
tưởng nhớ Chúa Giêsu ở trong hoang địa 40 đêm ngày.
Việc thực hành Mùa Chay đã có ngay ở những
thế kỷ đầu của Kitô giáo, nhưng trải qua những bước thăng trầm, mãi đến thế kỷ
II, thời thánh Irênê, Giám mục thành Lyon, việc giữ chay ngắn hạn từ 2 đến 3
ngày, không ăn bất kỳ thức ăn nào mới được phổ biến. Sang thế kỷ III, tại
Alexandria, người ta kéo dài việc ăn chay ra hết 1 tuần. Những dấu tích của Mùa
Chay hay "40 ngày" được tìm thấy ở thế kỷ IV, trong lễ quy của Công
đồng Nicêa. Ðây là thời gian chuẩn bị mừng lễ, nhưng ưu tiên vẫn là việc giúp những
người dự tòng chuẩn bị lãnh Phép Rửa tội vào Ðêm Vọng Phục Sinh.
Cuối thế kỷ IV, giáo đoàn tại Giêrusalem
bắt đầu giữ chay 40 ngày hay còn gọi là Mùa Chay 8 tuần, người ta ăn chay suốt
thời gian này, trừ thứ Bảy và Chúa nhật. Sang thế kỷ V, tại Ai cập, người ta cũng
giữ chay, tiếp đến là xứ Gôlơ, người ta ăn chay ngày thứ Bảy và thứ Sáu trong
Mùa Chay. Trong khi giữ chay, các Kitô hữu chỉ ăn một bữa mỗi ngày, thức ăn gồm
có bánh, rau và nước. Giữ nghiêm ngặt nhất là ngày Thứ Sáu và Thứ Bảy Tuần
Thánh, người ta không ăn một chút thức ăn nào. Giờ ăn chay được quy định tuỳ
theo sự khác nhau của mỗi giáo đoàn. Vì Mùa Chay gồm 6 tuần không thể tương ứng
với 40 ngày được. Nên sang thế kỷ VII, người ta đã lùi về trước Mùa Chay mấy
ngày, cụ thể như bắt đầu từ ngày thứ Tư cho đến ngày thứ Bảy của tuần trước khi
bước vào Mùa Chay, ngày mà hôm nay chúng ta gọi là Thứ Tư Lễ Tro, ngày chay
tịnh, tức ăn chay. Ðồng thời, ba Chúa nhật trước Mùa Chay, gồm tóm thời gian
chuẩn bị mừng Lễ Phục Sinh, cách Lễ Phục Sinh 9 tuần. Việc giữ chay ngày càng
đòi hỏi nghiêm ngặt hơn, chẳng hạn như buộc chỉ ăn bữa tối. Nhưng đến thế kỷ
VIII, việc giữ chay được nới rộng ra, nghĩa là cho phép những người ốm đau bệnh
tật được ăn trứng, bơ, sữa, cá và cả rượu nữa. Sang thế kỷ XII và XIII, bữa ăn
ngày chay được ấn định là trước giờ trưa 3 giờ, tức 9 giờ sáng, tiếp theo được
ăn "bữa ăn nhẹ" vào buổi tối. Sang thế kỷ XVII, việc ăn chay giảm dần
và Giáo Hội cho phép được ăn cháo, sữa và cá nhỏ. Trong ngày chay, tại các
hoàng gia, nhà bếp thi nhau trổ tài với những thực đơn sao cho dồi dào phong
phú hơn ngày thường.
Từ năm 1949, Giáo Hội Công giáo quy định
việc giữ chay và kiêng thịt là ngày Thứ Tư Lễ Tro và Thứ Sáu Tuần Thánh mà
thôi. Lý do vì hai ngày đó là ngày tưởng nhớ sự chết: Ngày Thứ Tư lễ Tro, linh
mục chính thức làm phép tro được đốt từ những cành lá đã làm phép vào ngày Lễ
Lá năm trước rồi vẽ hình thánh giá trên trán người nhận tro và nhắc lại rằng
"ngươi là tro bụi, và người sẽ trở về tro bụi", nhắc lại cái chết của
mỗi người chúng ta, tiếp đến, ngày Thứ Sáu Tuần Thánh, ngày tưởng niệm cái chết
của Chúa Giêsu trên Thập giá.
Trong phụng vụ của Giáo Hội Chính thống,
thời gian chuẩn bị bước vào Mùa Chay kéo dài 5 tuần liền, mỗi tuần đọc một đoạn
Tin Mừng riêng, với cách thức sám hối sâu xa. Tuần thứ tư, được ấn định là ngày
kiêng thịt và ăn chay trong toàn Giáo Hội. Chúa nhật thứ năm được gọi là Chúa
nhật Hoà giải, mỗi người hoà giải với người bên cạnh trước khi toàn thể cộng
đoàn xin lỗi Chúa.
Cảm tưởng chung là một bầu không khí
"vui và buồn". Mỗi tín hữu, với sự hiểu biết có giới hạn và khác nhau
về phụng vụ, nên khi bước vào nhà thờ với các kinh nguyện của Mùa Chay, mỗi
người mỗi cảm tưởng khác nhau. Một phần vì những lời kinh tiếng hát mang đậm
nét buồn, màu áo tím, những bài đọc dài hơn, đơn điệu hơn ngày thường, và hầu
như không có nét vui tươi. Một nét đẹp nội tâm rực sáng, tựa như ánh sáng ban
mai chiếu rọi từ thung lũng tối tăm lên tận đỉnh cao của núi đồi.
Niềm vui âm thầm, êm dịu và toàn bộ các bài
Sách Thánh trong Mùa Chay nghe thật đơn điệu cho thấy sự bình an đã dẫn đưa
người ta tới những điệp ca hoà tấu Allêluia trong Ðêm Vọng Phục Sinh.
Chúa nhật Lễ Lá là thời gian không còn dành
riêng cho việc tưởng niệm Cuộc Khổ nạn nữa, bước vào một Tuần Thánh, với những
bài đọc nhắc lại những ngày sau hết của Chúa Kitô trên trần gian và sự Phục
sinh của Ngài.
Tại sao lại gọi là 40 ngày chay thánh?
Từ "Mùa Chay" là một từ tương
phản với từ gốc La-tinh là "quadragesima", có nghĩa là 40. Trong Kinh
Thánh, con số 40 có ý diễn tả một khoảng thời gian chờ đợi, một quá trình,
tượng trưng cho việc chuẩn bị gặp gỡ Thiên Chúa. Số 40 còn diễn tả hành trình
trong sa mạc trên đường về Ðất Hứa của Dân Do thái kéo dài 40 năm. Ông Môsê đã
ở trên núi Chúa 40 ngày (x. Xh 24,18; 34,28). Những người trinh sát đã ở trong
vùng đất 40 ngày (x. Ds 13,25). Êlia đã đi 40 ngày trước khi tới được hang ở đó
ngài được thị kiến (x. 1 V 19,8). Ninivê đã được cho 40 ngày để sám hối (x. Gn
3,4). Và quan trọng nhất là Chúa Giêsu được Chúa Thánh Thần thúc đẩy vào trong
hoang địa 40 đêm ngày để ăn chay cầu nguyện trước khi thi hành sứ vụ công khai
(x. Mt 4,2).
Như vậy, Mùa Chay là mùa nhắc nhớ 40 năm
hành trình trong sa mạc của dân Do thái, 40 ngày trong hoang địa của Chúa
Giêsu. Con số 40 ngày, là thời gian đi vào hoang địa của cõi lòng, thinh lặng
để chuẩn bị gặp gỡ Chúa. Ðây là thời gian phụng vụ cao điểm thuận tiện thích
hợp cho các Kitô hữu noi gương Ðức Kitô dùng 40 ngày để ăn năn đền tội và dấn
thân phục vụ anh chị em. Và bằng 40 ngày long trọng của Mùa Chay, mỗi người
được liên kết mật thiết hơn với các Mầu nhiệm của Chúa Giêsu, Ðấng đang tiến
đến cái chết và sự sống lại.
Mùa Chay mang lại cho chúng ta điều gì?
Khi nói về Mùa Chay, người ta thường hiểu
một cách không tích cực lắm. Ðại đa số dân chúng cho rằng trong Mùa Chay việc
kiêng ăn, kiêng uống, giữ chay chiếm vị trí hàng đầu.
Tuy nhiên, điều đáng lưu ý là đại đa số
người Kitô hữu không thực hành đạo trong đời sống vẫn đến nhận tro vào Thứ Tư
Lễ Tro. Ðây là một nghi thức giàu tính biểu tượng, nó tác động đến tận đáy lòng
con người, nhắc nhớ người ta suy nghĩ về thân phận của mình khi nhận tro và mời
gọi con người trở về với Chúa. Vì nhiều khi con người quên đi thân phận yếu
hèn, mỏng dòn của mình, dẫn đến đau thương và đổ vỡ. Bi kịch cuộc đời con người
đều từ đó mà ra. Con người phạm tội, tội cắt đứt sự hiệp thông giữa con người
với Thiên Chúa, làm cho con người mất đi hạnh phúc, phải đau khổ và phải chết.
Chuyện sa ngã của Nguyên tổ đã chứng minh điều đó. Lịch sử cứu độ của Dân Chúa,
tội thì Chúa phạt, hối cải thì Chúa tha và cứu. Nên mỗi khi lâm vào hoàn cảnh
bi đát đau thương hay thất vọng, Dân Chúa đều nhận ra rằng cần phải sám hối trở
về giao hoà với Thiên Chúa để được chữa lành. Mùa Chay là mùa sám hối, chúng ta
hãy ra sức làm những việc cần thiết để được giao hoà và hiệp thông với Chúa,
hầu được Chúa ban ơn.
Trong đời sống người Kitô hữu, nhiều khi
lắng nghe Lời Chúa xong, chúng ta đã có quyết tâm đi xưng tội, làm việc đền
tội, nhưng rồi kết quả không mấy khả quan, thì Mùa Chay là cơ hội rất thuận
lợi. Thư Thánh Phaolô nói với chúng ta: "Ðây là lúc thuận tiện, đây là
ngày cứu độ." (2Cr 6,2). Ðây là thời gian khẩn trương trong Năm Phụng vụ,
thời gian thuận tiện được ban cho chúng ta để đẩy mạnh quyết tâm hoán cải, tăng
cường việc lắng nghe Lời Chúa, cầu nguyện, thống hối, mở rộng tâm hồn đón nhận
thánh ý Chúa, thực hành khổ chế một cách quảng đại hơn, để đi tới và giúp đỡ
tha nhân đang túng thiếu: đó là một hành trình tinh thần giúp chúng ta chuẩn bị
sống Mầu nhiệm Phục Sinh. Vậy chúng ta hãy tin tưởng điều đó và bước vào Mùa
Chay Thánh.
Lm.
Antôn Nguyễn Văn Ðộ