CHÚA THÁNH THẦN VÀ GIÁO HỘI
TRONG PHỤNG VỤ

(Theo Sách Giáo Lý Công Giáo số 1091-1109)

Lm. Micae Trần Ðình Quảng

Ðề tài nói đến vai trò của Chúa Thánh Thần và Giáo Hội trong phụng vụ, vì "phụng vụ là công trình chung của Chúa Thánh Thần và Giáo Hội" (Sài GònL 1091), là sự hợp tác giữa Thiên Chúa và con người. Ðể chỉ công việc này, các giáo phụ thường dùng từ synergie (co-action). Hạn từ synergie muốn nói lên nét mới mẻ tuyệt đối trong sự kết hợp giữa Thiên Chúa và con người trong Ðức Kitô, hay đúng hơn, nét mới mẻ trong hành động của Chúa Thánh Thần thấm nhiễm hành động của con người. Khi hành động được thăng hoa này của con người hợp tác với hành động của Thiên Chúa thì có synergie, và synergie này cấu thành phụng vụ.

Tuy phụng vụ là công trình chung, hành động chung của Thiên Chúa và con người, nhưng sáng kiến khởi đầu là từ Thiên Chúa. Thiên Chúa vẫn là Ðấng đi bước trước. Từ liturgie, xét theo nguyên ngữ Hy Lạp (ergon + leitos) tiên vàn có nghĩa là công việc làm cho dân, chứ không chỉ là công việc của dân. Ở đây là việc Thiên Chúa làm cho Dân Người.

Tưởng cũng nên nhấn mạnh lại điều cơ bản trên, mà thực tế lắm khi người ta không biết hay quên đi. Phụng vụ trước hết không phải là nơi con người gặp gỡ Thiên Chúa, nhưng là nơi Thiên Chúa gặp gỡ con người để tác động vào lịch sử nhân loại. Ðiều Thiên Chúa làm thì chủ yếu hơn điều con người làm. Cần nhớ như vậy để tránh một quan niệm quá thuần lý hay quá mang tính chất "đạo đức" về phụng vụ.

Có thể lấy hai câu chuyện Em mau và phó tế Philip ở Samari làm ví dụ cho thấy sáng kiến là từ Thiên Chúa. Cả hai có liên hệ với phụng vụ: một biểu thị cử hành Thánh Thể, một về phép Rửa. Trong câu chuyện Emmau, sáng kiến là do Chúa Giêsu. Còn trong câu chuyện ở Samari, chính Chúa Thánh Thần gợi ý cho Philip đến gặp viên thái giám nước Êthiopi (x. Lc 24,13t; Cv 8,26t).

Ðề tài của chúng ta nói về cả hai tác nhân là Chúa Thánh Thần và Giáo Hội, nhưng, trong phần quảng diễn, Sách Giáo Lý nhấn mạnh vai trò của Chúa Thánh Thần, tác nhân quan trọng nhưng vô hình mà ta thường hay quên lãng. Có thể thấy sự lãng quên này ngay cả trong những văn kiện chính của Giáo Hội về phụng vụ, chẳng hạn: câu định nghĩa phụng vụ trong thông điệp Mediator Dei, số 7 của Hiến Chế về Phụng Vụ thánh, khoản 834-1 của Bộ Giáo Luật 1983.

Những hoặt động chính của Chúa Thánh Thần trong phụng vụ được sách Giáo Lý tóm tắt như sau: chuẩn bị cộng đoàn gặp gỡ Ðức Kitô; nhắc lại và bày tỏ Ðức Kitô cho niềm tin của cộng đoàn; hiện tại hóa công trình cứu độ của Ðức Kitô bằng quyền năng biến đổi; làm cho ơn hiệp thông sinh hoa kết quả trong Giáo Hội (SGL 1092 và 1112).

Chúng ta lần lượt khai triển những điểm trên.

I. CHÚA THÁNH THẦN CHUẨN BỊ CHÚNG TA ÐÓN NHẬN ÐỨC KITÔ.

Chúng ta đón nhận Ðức Kitô bằng tri thức và bằng tâm hồn. Chúa Thánh Thần chuẩn bị chúng ta trong cả hai phương diện đó.

A. Chúa Thánh Thần chuẩn bị đức tin (SGL 1098).

Ðể có thể tham dự phụng vụ, phải có đức tin. Ðòi hỏi này là do chính bản chất của phụng vụ và của các dấu chỉ phụng vụ. Phụng vụ chuyển đạt và áp dụng ơn cứu độ của Thiên Chúa cho con người. Nhưng muốn được ơn cứu độ, cần thiết phải có đức tin (Rm 10,9; GH 14). Phụng vụ cũng là hành vi của con người gặp gỡ và phụng thờ Thiên Chúa. Việc này cũng chỉ có thể được thực hiện trong đức tin. Chính đức tin làm ta nhận biết Thiên Chúa, sự cao cả của Ngài, những việc kỳ diệu Ngài làm cho con người, xưa cũng như nay, để từ đó chúng ta bày tỏ tâm tình tôn phục, ca ngợi, cảm tạ, cầu xin. Vì vậy mà Công Ðồng Vatican II đã viết: "Con người cần phải được mời gọi để tin và hoán cải trước khi có thể tham dự phụng vụ: Làm sao họ có thể kêu lên Ðấng mà họ không tin? " (Rm 10,14) (PV 9).

Ðàng khác, khung cảnh phụng vụ tràn ngập những dấu chỉ và biểu tượng. Trong phụng vụ, những dấu chỉ này có ý nghĩa siêu nhiên, chỉ nhờ đức tin mới có thể biết được ý nghĩa siêu nhiên này. Ngay cả ý nghĩa này vừa bày tỏ vừa đồng thời che dấu. Nó không cho thấy tất cả mầu nhiệm, không diễn tả hành động của Thiên Chúa cho cân xứng và đầy đủ. Phụng vụ sử dụng các dấu chỉ là để thích ứng với quy luật của mạc khải, với bản tính của con người gồm cả hồn lẫn xác, chứ không miễn cho ta khỏi tin.

Riêng về các bí tích là những dấu chỉ quan trọng do Ðức Kitô thiết lập và chiếm phần lớn nội dung của cử hành phụng vụ, Công Ðồng Vatican II nói đó là những "bí tích đức tin" (PV 59). Vì là bí tích đức tin nên giả thiết phải có đức tin để cử hành hay lãnh nhận.

Ðức tin quan trọng cho phụng vụ như vậy nên cần được chuẩn bị.

Công việc chuẩn bị đức tin thuộc về cả Chúa Thánh Thần lẫn Giáo Hội. Giáo Hội hoạt động bên ngoài. Chúa Thánh Thần hoạt động bên trong tâm hồn. Từ đó "ân sủng của Chúa Thánh Thần sẽ khơi dậy đức tin, sự hoán cải tâm hồn là sự gắn bó với ý Chúa Cha" (SGL 1098). Ðây là cả một quá trình đức tin, từ chỗ manh nha, hình thành đến chỗ được củng cố và vững mạnh, với những việc làm cụ thể đi kèm. Quá trình này diễn ra cách khác nhau, tùy như đó là người không tin hay chưa tin, hoặc đã bắt đầu tin, hoặc đã là tín hữu. Ðây là cách làm của Chúa Thánh Thần, vì Ngài là "Nhà sư phạm về đức tin của Dân Chúa" SGL 1091).

[Ta có thể thấy rõ nhất mối liên hệ giữa Chúa Thánh Thần và đức tin ngay sau ngày Phục Sinh. Sức mạnh của Chúa Thánh Thần đã làm cho Ðức Giêsu sống lại, thì cũng ban đức tin cho các môn đệ để họ tin vào Ðấng đã sống lại. Hành động của Chúa Thánh Thần đưa Ðức Kitô lên làm Chúa, thì cũng giúp họ tôn phục Chúa mình bằng sự vâng phục đức tin. Cứ xem trường hợp của Tông Ðồ Tôma: Ðức Giêsu thực sự trở thành Chúa và Thiên Chúa của Ông sau khi ông bày tỏ lòng tin, Ông tin là nhờ Thánh Thần, vì "không ai có thể nói rằng Ðức Giêsu là Chúa, nếu người ấy không ở trong Thần Khí" (1Cr 12, 3).

Theo thứ thứ nhất Gioan, sự hiện diện của Thần Khí trong tâm hồn là bảo đảm cho lòng tin vào Ðức Giêsu.

Thế nên chúng ta không lạ khí thấy sách Công Vụ đặt gần nhau hai từ "Thánh Thần" và "đức tin". Chẳng hạn Stêphanô, Barnaba được mô tả là những người đầy Thánh Thần (Cv 6,5; 11,24).

Chúa Thánh Thần đã chuẩn bị đức tin cho người xưa thế nào, thì cũng tiếp tục làm như vậy cho chúng ta ngày hôm nay].

B. Chúa Thánh Thần chuẩn bị sự hiệp nhất của cộng đoàn (SGL 1097).

Cộng đoàn phụng vụ không phải là một tập hợp tự nhiên, nhưng là một mầu nhiệm, một dấu chỉ thánh, dấu chỉ của dân Giao Ước, bày tỏ cách hữu hình và thể hiện trong lịch sử việc quy tụ những người dã được cứu. Nó biểu thị chính Giáo Hội Chúa Kitô. Cộng đoàn được Lời Chúa triệu tập, dể nghe lời giáo huấn, cầu nguyện và cử hành Giao Ước mơi.

Vì là dấu chỉ Giáo Hội, cộng doàn là mầu nhiệm hiệp nhất giữa các tín hữu tụ họp lại với nhau, một sự hiệp thông trong đức tin (SGL 1102), như các chi thể hiệp nhất với nhau và với Ðầu. Sự hiệp nhất náy được thực hiện giữa mọi người trong cộng đoàn, bất kể chủng tộc, quốc gia, phái tính, tuổi tác, nghề nghiệp, địa vị xã hội., không phân biệt cũng không thiên vị, vì tất cả đã được thanh tẩy trong cùng một Thần Khí, để làm nên một Thân Thể (x.1 Cr 12, 13;Gl 3,28).

Cộng đoàn phụng vụ có được sự hiệp nhất của mình là nhờ sự hiệp thông của Chúa Thánh Thần, vì "Thánh Thần là nguyên lý quy tụ và hiệp nhất" (GH 13), Ðấng "tập họp các con cái Thiên Chúa trong Thân Thể độc nhất của Chúa Kitô" (SGL 1097). Là sự hiệp thông giữa Chúa Cha và Chúa Con trong Ba Ngôi, Thánh Thần làm cho cộng đoàn phụng vụ được hiệp nhất, và nhờ Ðức Kitô mà kết hợp nó với Chúa Cha.

C. Chúa Thánh Thần giúp ta hiểu biết ý nghĩa của những hình bóng trong Cựu Ước được Ngài thực hiện trong nhiệm cục bí tích (SGL 1093-1096).

Hình bóng có liên hệ với thực tại, loan báo thực tại. Hình bóng trong Cựu Ước là những sự kiện, những biến cố, những lời nói, những biểu tượng loan báo thực tại là Ðức Kitô và thời Tân Ước.

Ðể hiểu mối liên hệ giữa hình bóng và thực tại, xem đâu là ý nghĩa tiêu biểu của hình bóng, tức hình bóng muốn ám chỉ thực tại nào, người ta sử dụng khoa Kiểu mẫu song đối (typologie). Kiểu mẫu song đối Thánh Kinh căn cứ vào tương quan loại suy giữa hai thực tại trước và sau trong lịch sử cứu độ, mà, theo ý định của Thiên Chúa, có tác dụng cụ thể hóa cùng một khia cạnh của mầu nhiệm Ðức Kitô. Thực tại trước gọi là biểu mẫu (type), như hình thức phác họa cho điều mà thực tại sau, tức đối mẫu (antitype), sẽ thực hiện cách hoàn hảo hơn. Biểu mẫu chỉ có thể hiểu được khi qui chiếu về đối mẫu. Cách này cũng gọi là loại suy thần học.

Thực ra, ngay từ thời Cựu Ước, các tiên tri được Chúa Thánh Thần linh hứng cũng đã từng giải thích nhiều biến cố đã qua, nhằm phục vụ cho những biến cố sẽ tới. Hai biến cố Xuất Hành và vào Ðất Hứa được nói đến nhiều nhất.

Theo tinh thần ấy, và cũng nhờ Chúa Thánh Thần soi sáng hướng dẫn, Giáo Hội đọc lại Cựu Ước và khám phá ra những gì hình bóng muốn nói. Giáo Hội thấy rằng điều được loan báo trong Cựu Ước thì từ đây được thực hiện nơi con người Ðức Kitô và trong đời sống người Kitô Hữu. Chẳng hạn: Ađam là hình bóng của Ðức Kitô, trận Hồng Thủy hay cuộc vượt qua Biển Ðỏ là hình bóng của Phép Rửa Tội, manna là hình bóng của Thánh Thể; Xuất Hành là hình bóng của đời sống Kitô Giáo.

Giáo Hội áp dụng những khám phá này vào phụng vụ giúp chúng ta biết mầu nhiệm Ðức Kitô đã được tiên báo trong Cựu Ước, để chúng ta sẵn sàng đón nhận Ngài trong cử hành phụng vụ.

II. CHÚA THÁNH THẦN NHẮC LẠI VÀ HIỆN TẠI HÓA MẦU NHIỆM ÐỨC KITÔ.

A. Chúa Thánh Thần nhắc nhớ mầu nhiệm Ðức Kitô (SGL 1099-1102).

Trong lời cáo biệt sau bữa Tiệc Ly, Ðức Giêsu đã nói với các môn đệ: "Ðấng Bảo Trợ là Thánh Thần Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Ðấng đó sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em" (Ga 14, 26). Theo như lời trên đây, Chúa Thánh Thần không những sẽ dạy các môn đệ tất cả những gì các ông phải biết mà Ðức Giêsu chưa nói, giúp các ông hiểu ý nghĩa sâu xa của lời rao giảng và các dấu lạ của Ðức Giêsu mà trước đây các ông chưa nắm được, không những thế, Thánh Thần còn nhắc lại cho các ông nhớ những gì là trí nhớ sống động của các môn đệ. Ðiều Thánh Thần làm cho các môn đệ, Ngài cũng làm cho Giáo Hội. Ngài cũng là "trí nhớ sống động của Giáo Hội".

Trong phụng vụ, Chúa Thánh Thần nhắc lại biến cố cứu độ của Ðức Kitô, nhờ đó chúng ta được giải thoát. Nhắc bằng cách nào? Ðặc biệt bằng Lời Chúa trong Kinh Thánh, được xếp đặt riêng trong phần Phụng Vụ Lời Chúa.

Qua Lời Chúa được công bố, Chúa Thánh Thần nhắc cho cộng đoàn những biến cố của Cựu Ước quy chiếu về Ðức Kitô, hoặc những gì chính Ðức Kitô đã làm cho con người. Ðây cũng là bày tỏ Ðức Kitô. Cũng qua Lới Chúa được công bố và được diễn giảng, Chúa Thánh Thần soi sáng cho cộng đoàn hiểu biết hơn ý nghĩa của mầu nhiệm Cứu Ðộ.

Sau khi đã nghe, hiểu, đón nhận, tin và vâng phục Lời Chúa, cộng đoàn được Chúa Thánh Thần thúc đẩy bày tỏ hành vi đáp trả bằng những lời ca ngợi, cầu xin. Ðiểm đặc biệt là họ còn dùng chính Lời Chúa để đáp lại Lời Chúa, như thấy rõ trong Thánh Vịnh Ðáp ca.

[Ðiều này thật có ý nghĩa, vì khi ta cầu nguyện bằng lời kinh của Kinh Thánh, là lời do Thần Khí linh hứng, ta làm cho lời cầu nguyện của Thánh Thần thành lời cầu nguyện của ta.

Trong cuộc đối thoại giữa Thiên Chúa và con người này, Chúa Thánh Thần đưa ta vào trong "một sự liên lạc sống động với Ðức Kitô". Và nếu Thánh Thần là Ðấng đã chuẩn bị, ban đức tin và sự hiệp nhất cho các tín hữu, thì qua việc họ tham dự phụng vụ, đức tin và sự hiệp nhất của họ còn được Ngài củng cố và làm cho tăng trưởng].

B. Chúa Thánh Thần giúp cộng đoàn tưởng niệm và hiện tại hóa mầu nhiệm Ðức Kitô (SGL 1103-1107).

Trong cử hành phụng vụ, nhất là Phụng Vụ Thánh Thể, Giáo Hội nhớ đến các việc kỳ diệu của Thiên Chúa bằng hình thức tưởng niệm (anamnèse, memoria), mà trọng tâm là mầu nhiệm Vượt Qua của Ðức Kitô. Mầu nhiệm này lại được biểu thị bằng Mình và Máu Thánh là chính Chúa Kitô Phục Sinh hiện diện dưới hình bánh rượu. Dựa vào lời Ðức Giêsu căn dặn trong bữa Tiệc Ly ("Hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy"), chúng ta không còn nhớ đến lễ Vượt Qua cũ, nhưng là nhớ đến Chúa, Con Chiên đích thực của lễ Vượt Qua mới.

Nói đến tưởng niệm trong phụng vụ Kitô giáo, chúng ta cần ghi nhận ý nghĩa đặc biệt và mới mẻ của nó. Theo quan niệm thông thường, tưởng niệm là từ hiện tại hướng về quá khứ. Triết học Tây phương gọi là extensio animi ad praeterita, một hoạt động thuần túy của tâm trí hướng tới quá khứ. Tưởng niệm trong phụng vụ thì khác. Nó là quá khứ trở thành hiện tại. Trong tưởng niệm, biến cố Vượt Qua của Ðức Kitô trở thành hiện tại, tác động và làm biến đổi chúng ta.

[Biến cố Vượt Qua quả đã xảy ra trong quá khứ, nhưng là biến cố xảy ra một lần thay cho tất cả (x. Rm 6,10). Những biến cố nơi ta xảy ra một lần, nhưng không bao giờ thay cho tất cả. Chúng qua đi và thuộc về quá khứ. Còn biến cố Vượt Qua của Ðức Kitô không ở trong quá khứ, nếu không, Chúa không bao giờ chiến thắng sự chết. Chiến thắng này không thể thuộc về quá khứ, nếu không, sự chết sẽ không bị đánh bại. Bao lâu thời gian còn qua đi, nó còn làm tôi cho sự chết. Nhưng một khi được giải thoát, nó không qua đi nữa. Ðó là thời gian mới Chúa đã khai mào bằng Giờ của Ngài. Giờ ấy đã đến, phá tan sự chết, làm phát sinh sự sống, và chúng ta đã ở trong đó rồi. Những biến cố khác đã chết và chết mãi, chỉ riêng biến cố Vượt Qua của Chúa vẫn còn. Nó không ở sau ta, nhưng ở trong thời gian của ta. Ðây là biến cố độc nhất của lịch sử, ghi dấu tất cả lịch sử].

Vậy tưởng niệm là tưởng niệm về phía ta, còn biến cố được tưởng niệm thì không ở trong quá khứ, nhưng ở trong hiện tại, ở đây và lúc này của cử hành phụng vụ. Việc tưởng niệm của Giáo Hội trở thành một biến cố hiện tại.

Một sự tưởng niệm hoàn toàn mới mẽ như vậy có được là do Thánh Thần và Ba Ngôi. Chính Chúa Cha, trong Chúa Thánh Thần, làm cho Chúa Kitô hiện diện. Chính Chúa Cha, khi sai Chúa Thánh Thần đến, làm cho mầu nhiệm Tử Nạn và Phục Sinh của Chúa Kitô trở thành hiện tại cho chúng ta hôm nay. Do đó, Sách Giáo Lý viết: "Phụng vụ Kitô Giáo không những nhắc lại những biến cố đã cứu vớt chúng ta, mà còn hiện tại hóa chúng trở thành hiện tại. Mầu nhiệm Vượt Qua của Chúa Kitô được cử hành, chứ không được lập lại; chính là các cử hành được lập lại. Nơi mỗi cử hành này, Chúa Thánh Thần được đổ xuống, Ðấng hiện tại hóa mầu nhiệm độc nhất" (SGL 1104).

Như vậy, biến cố cứu độ là một ơn không bao giờ được lập lại trong thời gian và không gian, nhưng luôn là dấu chỉ nói lên sự thăm viếng tự do của Chúa Thánh Thần, cùng với ân huệ dồi dào và luôn mới mẻ của Ngài.

Trong phụng vụ Thánh Thể, Chúa Thánh Thần thánh hóa các lễ vật hiến dâng và cộng đoàn tham dự, vì Ngài là Ðấng Thánh, là Thần Khí thánh hóa. Hành động này của Thánh Thần là nội dung của lời kinh, "épiclèse" (appel sur), được đưa vào trong phụng vụ, vì nó là "trọng tâm của mỗi cử hành bí tích, nhất là Thánh Thể" (SGL 1106).

Vì sao là trọng tâm? Là vì ơn cứu độ của Thiên Chúa, đã được Ðức Kitô thực hiện, giờ đây được áp dụng cho ta trong Thánh Thần. Từ nay, Thánh Thần là nguyên lý tối hậu của mọi hoạt động thần linh nơi ta, trong đó có hoạt động qua cử hành phụng vụ. Do đó, phải nại tới Ngài bằng lời kinh Épiclèse.

Épiclèse là gì? Là "Lời kêu cầu trong đó linh mục nài xin Chúa Cha sai Thần Khí là Ðấng thánh hóa, để các lễ vật trở thành Mình và Máu Ðức Kitô, và để khi lãnh nhận Mình và Máu Thánh này, chính các tín hữu trở thành một lễ vật sống động dâng lên Thiên Chúa" (SGL 1105).

Như vậy, épiclèse nhằm hai mục đích: Thánh hiến lễ vật (épiclèse de consécration) và thánh hóa người tham dự lễ vật (épiclèse de communion).

Có thể nói épiclèse làm cho anamnèse có ý nghĩa, giúp cho việc tưởng niệm không chỉ hướng về quá khứ, như rơi vào một thứ nostalgie nào đó, nhưng đưa ta hướng về phía trước, tới eschatologie, nhờ đó mà ta có một thực tại và một đời sống luôn mới.

Quyền năng thánh hóa của Chúa Thánh Thần chính là quyền năng biến đổi: biến những lương thực tự nhiên thành lương thực thánh; biến những con người tội lỗi lãnh nhận lương thực thánh này thành những con người thánh; biến những con người thánh này thành lễ vật sống động dâng lên Thiên Chúa. Tất cả trở nên thánh, vì được Thánh Thần đưa vào bầu khí thiêng thánh, cho tham dự vào sự thánh thiện của Thiên Chúa.

Quyền năng thánh hóa của Chúa Thánh Thần cũng là quyền năng làm cho sống, vì Thánh Thần là "Thần Khí ban sự sống" (Kinh Tin Kính). Lương thực được Thánh Thần biến đổi trở thành lương thực ban sự sống. Ai lãnh nhận lương thực này trở thành người có sự sống đời đời.

III. CHÚA THÁNH THẦN LÀM CHO ƠN HIỆP THÔNG SINH HOA KẾT QUẢ TRONG GIÁO HỘI

A. Chúa Thánh Thần thực hiện sự hiệp thông (SGL 1108)

Như đã nói ở trên (I,B), Chúa Thánh Thần là Thần Khí hiệp thông. Ngài thực hiện nơi chúng ta sự hiệp thông mà Ngài đã thực hiện giữa Chúa Cha và Chúa Con.

Trước hết là sự hiệp thông giữa các tín hữu với nhau. Ðiều này không chỉ xảy ra ở cộng đoàn phụng vụ, mà còn trong đời sống ngoài phụng vụ, trong đời sống Giáo Hội. "Vì tất cả đã lãnh nhận cùng một Thần Khí duy nhất, nên chúng ta, một cách nào đó, kết hợp cách thâm sâu với nhau và với Thiên Chúa. Chỉ có một Thần Khí bất khả phân chia, Ðấng qui tụ nơi mình những tinh thần tách biệt nhau do sự hiện hữu duy nhất nơi Ngài, nếu có thể nói được như thế" (Cyrille d'Alexandrie). Công Ðồng Vatican II, dựa vào Kinh Thánh và các giáo phụ, cũng nói: "Tất cả những ai thuộc về Ðức Kitô và lãnh nhận Thánh Thần của Người, đều họp thành một Giáo Hội duy nhất và liên kết với nhau trong Người" (GH 49). Như vậy, Giáo Hội trở thành "bí tích lớn của sự hiệp thông thần linh qui tụ các con cái tản mát của Thiên Chúa" (SGL 1108). Và nếu Giáo Hội là dấu chỉ của hiệp thông, thì về phần mình, mỗi phần tử của Giáo Hội cũng là như thế.

Thánh Thần làm cho các tín hữu hiệp thông với nhau thì cũng làm cho họ hiệp thông với Ðức Kitô: trong phụng vụ, cách riêng khi họ hiệp thông với Mình và Máu Chúa; trong đời sống, để cùng với Ðức Kitô làm nên một Thân Thể, trong đó "Chúa Thánh Thần là như nhựa sống của cây nho của Chúa Cha, sinh hoa kết quả nơi các nghành nho" (SGL 1108). Chính trong Ðức Kitô, nhờ ơn hiệp thông của Chúa Thánh Thần, mà họ hiệp thông với Chúa Cha, tham dự vào sự hiệp thông của Ba Ngôi.

B. Chúa Thánh Thần làm cho ơn hiệp thông sinh hoa kết quả trong đời sống Kitô Hữu (SGL 1109).

Ðây là những hoa quả nối dài những gì đã lãnh nhận trong cử hành phụng vụ. Phụng vụ được thực hiện do ta trong cử hành, để được thực hiện nơi ta trong đời sống. Mầu nhiệm Ðức Kitô mà chúng ta cử hành cũng chính là mầu nhiệm Ðức Kitô mà chúng ta sống. Hoa quả có hay không, nhiều hay ít, lâu hay mau là do sự cộng tác của mỗi người với hoạt động của Chúa Thánh Thần. Synergie trong phụng vụ nhất thiết phải được tiếp nối bằng synergie ngoài phụng vụ.

Tuy nhiên, cũng như trong phụng vụ chúng ta nài xin Chúa Thánh Thần giúp ta, thì trong đời sống hằng ngày, chúng ta cũng phải làm như vậy, không thể khác. Epiclèse phải là một kinh nguyện thường xuyên của các tín hữu. Và như ta đã thấy, ơn Chúa Thánh Thần đã đổ tràn trong Epiclèse bí tích, chính ơn ấy tiếp tục hoạt động trong đời sống, nếu ít nhất ta cộng tác vào đó.

"Chúng ta cầu xin Chúa Cha sai Chúa Thánh Thần đến để Ngài làm cho đời sống các tín hữu trở thành một lễ vật sống động dâng lên Thiên Chúa bằng sự biến đổi thiêng liêng theo hình ảnh Ðức Kitô, bằng mối quan tâm lo cho sự hiệp nhất của Giáo Hội và bằng việc tham dự vào sứ mệnh của Giáo Hội bằng chứng từ và phục vụ bác ái" (SGL 1109).

Như vậy, hoa quả của sự hiệp thông, mà chúng ta phải cộng tác với Chúa Thánh Thần để phát huy, vừa liên hệ tới từng người vừa liên hệ tới Giáo Hội và thế giới. Chúa Thánh Thần biến đổi ta trong Ðức Kitô cả trong mối tương quan của ta đối với Thiên Chúa lẫn trong mối tương quan của ta đối với người khác.

Chúng ta xin Chúa Thánh Thần giúp cho đời sống ta trở nên lễ vật sống động, để ca tụng vinh quang Chúa, nối dài điều đã xin trong cử hành phụng vụ (nhất là trong các Kinh Nguyện Thánh Thể).

Lễ vật ấy trước hết là nhờ sự biến đổi của Chúa Thánh Thần, chúng ta được biến hình, trở nên đồng hình đồng dạng với Ðức Kitô, "theo hình ảnh của Ðức Kitô", "mặc lấy Ðức Kitô" (Rm 13,14) để có thể nói được như Phaolô: "Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Ðức Kitô sống trong tôi" (Gl 2,20). Ðức Kitô sống trong ta, vì Thần Khí cư ngụ nơi ta, và làm biến đổi ta trong Ngài. Ta phải là một pneumatophore (mang Thần Khí) (Athanase) để có thể là một christophore (mang Ðức Kitô). Ðức Kitô đã là lễ vật thánh thiện, tinh tuyền, hoàn hảo dâng lên Chúa Cha. Ðời sống của Giáo Hội, và của mỗi người mọi ngày cũng phải trở nên lễ vật như thế, để làm đẹp lòng Chúa Cha. Nói như một tác giả (P. Olivaint): "Ban sáng, khi tôi cử hành thánh lễ, thì chính tôi là linh mục, Ðức Kitô là lễ vật; còn trong suốt ngày sống, chính Ðức Kitô là linh mục và tôi là lễ vật".

[Có thể dựa vào chính sự hiệp thông để thấy rõ hơn việc làm trên đây. Nếu ý nghĩa đầu tiên của communio là chia sẻ cùng một công việc và trách nhiệm với người khác (cum+munus), thì Giáo Hội là hiệp thông vì chia sẻ mầu nhiệm Vượt Qua của Ðức Kitô, tức hi tế của Ngài, trong tất cả hữu thể của mình. Chia sẻ là biến đời sống của mình trở thành hi tế].

Khía cạnh thứ hai của một lễ vật sống động là quan tâm tới sự hiệp nhất của Giáo Hội. Sự hiệp nhất này đã thể hiện trong phụng vụ: Cộng đoàn là hình ảnh Giáo Hội hiệp nhất trong cùng một đức tin, đức cậy, đức mến, tham dự vào cùng một hi tế của Ðức Kitô. Chúng ta đã hợp tác với Chúa Thánh Thần góp phần kiến tạo vào sự chia sẻ hợp nhất này trong phụng vụ, để có thể trở nên lễ vật sống động, thì càng phải làm như thế trong đời sống. Một trong những hành vi quan trọng nói lên mối quan tâm đó, và thường xuyên được mời gọi thi hành, là cầu nguyện cho sự hiệp nhất của Giáo Hội (HN 8).

Khía cạnh cuối cùng của một lễ và sống động là tham dự vào sứ mệnh của Giáo Hội bằng chứng từ và phục vụ bác ái. Giáo Hội có sứ mệnh làm lan tỏa tình yêu của Thiên Chúa, tiếp tục công trình cứu độ mà, vì yêu thương, Chúa Kitô đã thực hiện cho Giáo Hội và cho mọi người. Tình yêu này chúng ta đã lãnh nhận đặc biệt trong cử hành phụng vụ hiện tái hóa mầu nhiệm cứu độ. "Thiên Chúa đã đổ tình yêu của Người vào lòng chúng ta, nhờ Thánh Thần mà Người ban cho chúng ta" (Rm 5,5). Hoa quả chính của Thánh Thần là tình yêu. Thế thì, cùng với Giáo Hội, chúng ta phải phát huy hoa quả này, cho thấy tình yêu cứu độ vẫn tiếp tục được đổ xuống, đang hiện diện và hoạt động giữa lòng thế giới. Chúng ta thể hiện tình yêu đó trong chính đời sống và hành vi yêu thương cụ thể của ta, bằng tình yêu mà Thiên Chúa đã yêu ta.


Trở về Trang Phụng Vụ
Trở Về Trang Nhà