THẦN HỌC VỀ HÔN NHÂN-GIA ĐÌNH
Trong Năm Đức Tin,
chúng ta có rất nhiều đề tài để học hỏi. Nhân bàn về hôn nhân, chúng ta sẽ mở đầu
với vài suy nghĩ liên quan đến đức tin và hôn nhân. Đây là một đề tài thú vị,
bởi vì nó đưa chúng ta vào nhiều cuộc tranh luận nóng bỏng trong thần học trong
những năm gần đây. Đức tin công giáo nói gì về hôn nhân? Phải chăng đức tin chỉ
dạy là hôn nhân là một bí tích, hay còn dạy điều gì khác nữa? Từ lúc nào, Giáo
hội ý thức rằng hôn nhân là một bí tích? Chúa Giêsu lập bí tích hôn nhân lúc
nào? Tính cách bất khả ly của hôn nhân có thuộc về đức tin không? Chúng ta tạm
gọi đó là "đức tin khách thể về hôn nhân", nghĩa là đạo lý của Hội
thánh về hôn nhân. Bên cạnh đó còn nảy thêm một vấn đề khác liên quan đến
"đức tin chủ thể về hôn nhân", nghĩa là đức tin của những người nhận
lãnh bí tích hôn nhân: nếu người nam hay người nữ không tin rằng hôn nhân là
một bí tích, thì bí tích có thành sự không? Nếu họ không có chủ ý lãnh bí tích
thì bí tích có thành sự không? Chúng ta hãy lần lượt tìm hiểu các vấn đề ấy với
năm đề mục sau đây:
1. Lịch sử thần học về
hôn nhân Kitô giáo: sự tiến triển của đức tin về bí tích hôn nhân
2. Ảnh hưởng thần học công đồng Vaticanô II đối
với bộ giáo luật 1983: sự tiến triển của triết học và thần học trong việc định
nghĩa bản chất hôn nhân
3. Tính cách bí tích của hôn nhân
4. Linh đạo gia đình: gia đình là Hội thánh gia
thất
5. Mục vụ dành cho các hôn nhân tan vỡ
***
I. Những chặng đường tiến triển của thần học về hôn nhân
Thần học về hôn nhân
không phải là những suy diễn rút từ những bản văn Kinh thánh, nhưng thường là
cố gắng của Giáo hội để đối phó với những thách đố của thời đại, khi phải diễn
tả những yêu sách của Phúc âm qua những nền văn hóa khác nhau. Khi ôn lại lịch
sử tiến triển thần học, ta thấy rõ sự hợp tác giữa lý trí và đức tin: những suy
tư triết học về bản chất hôn nhân cũng giúp Giáo hội ý thức rõ rệt hơn về bản
chất của nó dưới ánh sáng mạc khải. Chúng ta hãy lượt qua năm giai đoạn sau: 1.
Hội thánh tiên khởi. 2. Các giáo phụ. 3. Thời Trung cổ. 4. Thế kỷ XVII-XIX. 5.
Thế kỷ XX và Công đồng Vaticanô II.
A. Các Kitô hữu tiên khởi đã đối diện với hai quan điểm khác nhau
về yếu tố tác thành hôn nhân: quan điểm của Do thái và quan điểm của Rôma.
1/ Quan điểm của Do thái (tức là Kinh thánh Cựu
ước) đặt nặng chiều hướng thánh thiêng của mối tương giao vợ chồng dựa theo
luật Chúa.
2/ Quan điểm của Rôma không đếm xỉa đến luật
Chúa cho bằng yếu tố cấu tạo nên giá thú: giá trị của hôn nhân ở chỗ tình nghĩa
vợ chồng (affectio maritalis), nghĩa là ý muốn kết hôn, và ngày nào rút lại ý
muốn đó thì giá thú cũng chấm dứt. Quan điểm này coi hôn nhân như là một khế
ước, tuy rằng không phải là một khế ước song phương theo nghĩa chặt, bởi lẽ đôi
vợ chồng không được đối xử bình quyền với nhau.
3/ Vào thời ấy, các
Kitô hữu cũng kết hôn theo phong tục đương thời: họ chẳng có bộ giáo luật riêng
cũng chẳng có nghi thức riêng. Tuy nhiên, Tân ước và các giáo phụ đã làm một
cuộc cách mạng tư tưởng không nhỏ về hôn nhân ở 3 điểm sau đây:
a) Thánh Phaolô, trong thư 1 Côrintô và trong thư Ephêsô
chương 5, đã khẳng định về sự bình đẳng giữa vợ chồng: người chồng không được
đối xử với vợ như là một món đồ sở hữu theo quan điểm Rôma. Người vợ phải chung
thủy với chồng; nhưng mà chồng cũng buộc phải chung thủy với vợ nữa. Hậu nhiên,
thánh Phaolô cũng cấm ly dị.
b) Mặt khác, tư tưởng của thánh Phaolô cũng làm thay đổi tục
môn đăng hộ đối, theo nghĩa là các Kitô hữu có thể kết hôn với nhau bất kể điều
kiện xã hội về công dân tự do hoặc thành phần nô lệ.
c) Dựa theo một tác phẩm vô danh vào thế kỷ II (Thư gửi cho Diognêtô),
ta thấy mối bận tâm của các Kitô hữu thời ấy là cố gắng cải tổ những hủ tục
trái ngược với luân lý, thí dụ tục bỏ rơi con trẻ, tục ăn nằm chung chạ.
B. Sau những thế kỷ đầu tiên chú trọng tới luân lý tác phong (cách riêng bài trừ tục
ngoại tình và tái hôn sau khi ly dị), Giáo hội bước sang phần suy tư về hôn
nhân, đặc biệt khi chú giải các đoạn văn của Sách Sáng thế, tiệc cưới Cana, vv.
Trong các giáo phụ, thánh Augustinô được xem như một tác giả đã để lại ảnh
hưởng lâu dài cho thần học về hôn nhân.
1/ Thánh Augustinô phải đương đầu với ba lạc giáo đối nghịch về đời
sống hôn nhân:
a) Một đàng quan điểm của phái Manikê coi hôn nhân là tội
lỗi. Đối lại, thánh nhân bênh vực sự tốt lành của hôn nhân, qua các tác phẩm De
moribus Ecclesiae Catholicae, De Genesi contra maniquaeos, De continentia.
b) Ngược lại, ông Giovianianô đề cao hôn nhân đến nỗi
coi nhẹ bậc sống trinh khiết trong Hội thánh. Thánh Augustinô tìm cách duy trì
một thế quân bình: vừa bảo vệ sự thánh thiện của hôn nhân, vừa quý trọng ơn gọi
trinh khiết (x. De bono coniugali; De sancta virginitate).
c) Dưới khía cạnh tín lý, khi đương đầu với phái Pelagiô, thánh
nhân nhắc nhở rằng bản tính con người đã bị tổn thương do tội nguyên tổ. Vì thế
để sống bậc hôn nhân theo ý Chúa như thuở ban đầu, cần phải có ơn thánh (x.
Contra duas Epistulas Pelagianorum, Opus imperfectum contra Iulianum).
2/ Trong bối cảnh của lịch sử cứu độ, thánh nhân nói đến sự
cần thiết của ân sủng để có thể tuân giữ ba thiện ích (bonum) của hôn nhân (De
nuptiis et concupiscentiis), đó là: sự trung tín (fides), con cái (proles) và
bền vững (sacramentum) .
C. Qua thời Trung cổ, ta thấy có bước tiến nhảy vọt về thần học và
giáo luật về hôn nhân, do nhiều nhân tố khác nhau.
1/ Về giáo luật
Đế quốc Rôma sụp đổ,
các cơ cấu xã hội bị đảo lộn. Các vị Giám mục không những phải để ý tới khía
cạnh đạo đức của hôn nhân mà nhiều lần phải đảm đương vai trò của hộ lại dân sự
nữa: nói cách khác, dần dần luật của Giáo hội không những chi phối khía cạnh
tôn giáo của hôn nhân mà còn phải để ý tới hết mọi góc cạnh của nó, từ vấn đề
bản chất, cho tới các thủ tục kết hôn hoặc tiêu hôn. Ngoài phong tục Rôma, Giáo
hội làm quen với phong tục mới từ dân Germanic từ phương Bắc xuống. Luật Rôma
coi giá thú hoàn thành kể từ lúc đôi bạn thỏa thuận kết ước (consensus facit
nuptias); nhưng luật Germanic chỉ coi giá thú hoàn thành kể từ khi vợ chồng ăn
ở với nhau và đã giao nạp sính lễ (mundium). Hai phong tục ấy đã gây ra một
cuộc tranh luận thần học giữa đại học
Thực ra cuộc tranh luận
này không phải chỉ có tính cách lý thuyết nhằm dung hoà hai nền văn hóa khác
nhau, nhưng còn nhằm tới những vấn đề xã hội thực tiễn nữa. Khi nhấn mạnh tới
sự thỏa thuận của đôi vợ chồng trong hôn nhân, Giáo hội muốn bài trừ một hủ tục
đương thời trong đó hôn nhân do cha mẹ xếp đặt: hôn nhân là cơ hội để các họ
tộc kết nghĩa tăng thêm vây cánh, và do đó chỉ chú ý tới lợi lộc vật chất của
gia đình chứ chẳng màng tới hạnh phúc của đôi vợ chồng. Cũng trong chiều hướng
bảo vệ sự thánh thiêng và bền vững của giá thú, Giáo hội đòi hỏi thể thức pháp
lý của sự cử hành. Thực vậy, có những anh chàng đồng ý lấy vợ (nghĩa là thỏa
thuận) rồi, nhưng chỉ là hứa cuội sau đó lại đi với cô khác, với hậu quả là
không biết ai là vợ thật ai là vợ giả. Vì vậy, giáo luật thêm rằng sự thỏa
thuận cần diễn ra theo thể thức pháp định thì mới có giá trị. Sang thế kỷ XII,
thì nói được là những vấn đề thần học và pháp lý về giá thú đã tạm ổn định, và
thánh Tôma Aquinô đã có thể trình bày cách hệ thống trong các tác phẩm của mình
Thánh Tôma nói rằng
thiên nhiên đã hướng con người kết hôn vì hai mục tiêu sau đây: sự sinh sản con
cái, và sự giáo dục con cái cùng là việc vợ chồng nâng đỡ lẫn nhau để chu toàn
việc dưỡng dục con cái. Sự thỏa thuận là nguyên nhân tác thành của giá thú
nhưng không phải là bản chất của nó. Đối tượng của sự thỏa thuận chính là sự
tương giao vợ chồng mang theo những nghĩa vụ và quyền lợi căn bản của hôn nhân.
2/ Về mặt đạo lý, chính vào thời Trung cổ mà Giáo hội khẳng
định tính cách bí tích của hôn nhân. Nên biết là Giáo hội vẫn thực hành các bí
tích ngay từ thời các thánh tông đồ, nhưng phải chờ đến thời Trung cổ thì Giáo
hội mới đưa ra định nghĩa chính xác về bí tích. Trong văn hóa Rôma cổ thời,
sacramentum là lời cam kết trung thành của người lính khi nhập ngũ. Thánh
Augustinô mới chuyển đổi ý nghĩa như là "dấu chỉ thánh thiêng"
(signum sacrum); nên biết là các "dấu thánh" này rất nhiều, bao gồm
cả các nghi thức của Cựu ước (chẳng hạn phép cắt bì). Với Phêrô Lombardo
(+1160), sacramentum mới được dùng theo nghĩa chuyên môn như ngày nay, như là
"nguyên nhân hữu hình của ơn thánh vô hình" (invisibilis gratiae
visiblis causa), và xác định là 7 bí tích. Trong bối cảnh này, Giáo hội khẳng
định tính bí tích qua ba công đồng hoàn vũ: Lyon II, Firenze và
a) Công đồng Lyon II (1274) khi bàn về việc
hợp nhất với các giáo hội Đông phương, đã khẳng định có 7 bí tích, trong đó có
hôn nhân (Denz-Sch 860)
b) Công đồng
c) Công đồng Trentô (sắc lệnh Matrimonii
perpetuum, 11/11/1563: Denz-Sch 1797-1812), để trả lời cho các vấn nạn của Tin
lành, khẳng định rằng hôn nhân là một định chế tự nhiên được nâng lên hàng bí
tích.
Tóm lại, phải chờ đến
công đồng Trentô thì Hội thánh mới có một sự xác tín rõ rệt về bí tích hôn
nhân: tính cách bí tích của nó, cũng như các đặc tính nhất phu nhất phụ và bất
khả ly.
D. Có thể nói được là những thế kỷ XVII-XIX đã đem thần học hôn
nhân đi thụt lùi. Các nhà luân lý và giáo luật bỏ qua những suy tư thần học để bắt
đầu tranh luận về những chi tiết giải nố, và càng ngày càng chú trọng tới khía
cạnh sinh lý, hơn là khía cạnh tinh thần của hôn nhân. Ảnh hưởng của tâm trạng
đó còn ghi lại trong bộ giáo luật 1917 khi định nghĩa đối tượng của sự thỏa
thuận hôn nhân là "quyền trên thân thể" (jus ad corpus). Mục tiêu của
chính của hôn nhân là sinh đẻ và giáo dục con cái; mục tiêu phụ là vợ chồng
nâng đỡ nhau và chữa trị nhục dục.
E. Sự chuyển hướng về thần học hôn nhân bắt đầu vào thập niên thứ
ba của thế kỷ XX. Dietrich von Hildebrand (Le mariage, nguyên tác tiếng Đức Die Ehe
xuất bản năm 1929) viết rằng: vợ chồng lấy nhau là vì họ yêu nhau, muốn trở
thành một; dây kết hợp vợ chồng được tạo nên qua việc trao thân cho nhau, và con
cái là kết quả của tình yêu ấy. Sáu năm sau, linh mục Herbert Doms (Du sens et
de la fin du mariage, 1935) cũng chuyển hướng mục tiêu của hôn nhân sang tình
yêu: tình yêu vợ chồng bao gồm một mối tương quan, và được diễn tả qua việc ái
ân cũng như việc sinh sản; chính tình yêu làm cho sự giao hợp của đôi bạn khác
với sự giao hợp của loài động vật. Khi vừa mới xướng lên, những tư tưởng vừa
nói đã gặp nhiều phản đối không những giữa các nhà thần học luân lý và giáo
luật mà thậm chí cả về phía Tòa thánh nữa. Phải chờ tới công đồng Vaticano II
thì thế cờ mới lật ngược.
II. Thần học Hôn nhân từ công đồng Vaticano II
Công đồng Vaticanô II
đề cập đến hôn nhân và gia đình trong nhiều văn kiện, với vài thuật ngữ ảnh
hưởng đến thần học tâm linh sau này: "ecclesia domestica" (LG 11;
được trưng dẫn trong sách GLCG số 2204), "domesticum sanctuarium
Ecclesiae" (AA 11), "prima schola virtutum socialium" (GE 3),
"primum seminarium" (OT 2). Đặc biệt là Hiến chế "Vui mừng và Hy
vọng" đã trình bày một giáo huấn căn bản về hôn nhân và gia đình ở các số
47-52. Công đồng đã bỏ kiểu nói khô khan của luật lệ với những điều truyền cấm,
và dùng tới ngôn ngữ dựa theo Kinh thánh cũng như đề cao tương quan nhân vị
trong hôn nhân, thí dụ như: giao ước (foedus), trao ban cho nhau (sese tradere
et accipere, mutua duarum personarum donatio), sự kết hợp thân tình (intima
unio), tình yêu hôn nhân (amor coniugalis), chung sống với nhau (consortium
vitae).
Sau công đồng, trong số
những văn kiện quan trọng của Giáo hội về hôn nhân và gia đình, chúng ta có thể
kể đến: thông điệp "Sự sống con người" (Humanae vitae) của đức Phaolô
VI (25/7/1968), tông huấn "Đời sống gia đình" (Familiaris consortio)
của đức Gioan Phaolô II (22/11/1981), Thư gửi các gia đình nhân dịp năm gia đình
do Liên Hợp quốc khởi xướng (2/2/1994).
Những giáo huấn này đã
ảnh hưởng rất lớn vào cuộc cải tổ bộ giáo luật 1983. Thật vậy, bộ giáo luật
1983 đã được soạn thảo với việc du nhập vài từ ngữ mới, đồng thời giải thích
vài thuật ngữ cổ truyền dựa theo tâm thức mới của công đồng Vaticanô II.
Một thí dụ cụ thể là sự
thỏa thuận hôn nhân. Cả bộ giáo luật cũ lẫn bộ giáo luật mới đều coi sự thỏa
thuận như là yếu tính của giá thú; tuy nhiên, bộ giáo luật hiện hành đã xác
định lại đối tượng của sự thỏa thuận ấy dựa theo thần học mới; hậu nhiên, nếu
ai không có khả năng để đạt tới đối tượng ấy thì cũng không có khả năng để kết
hôn. Như vậy, thần học của công đồng Vaticano II không phải chỉ là lý tưởng để
chiêm ngắm nhưng còn mang theo những hậu quả pháp lý nữa. Chúng ta đối chiếu
hiến chế "Vui mừng và Hy vọng" với những điều giáo luật nói về bản
chất hôn nhân.
1. Cộng đồng thân thiết của cuộc sống và tình yêu vợ chồng
(Intima communitas
vitae et amor coniugalis - Consortium vitae)
Mở đầu cho số 48 của
hiến chế "Vui mừng và Hy vọng" bàn về định chế gia đình theo chương
trình của Thiên Chúa, công đồng Vaticanô II đã mô tả hôn nhân như là "cộng
đồng thân thiết của cuộc sống và tình yêu vợ chồng". Từ ngữ này muốn diễn
tả lối nói của Kinh thánh "hai người nên một" (St 2,18) ra thực tại,
bao hàm sự bình đẳng giữa hai vợ chồng, đồng thời với sự kết hiệp giữa hai
người (đồng tâm hiệp ý). Nhưng mà từ ngữ ấy có hậu quả pháp lý gì không, hay
chỉ là ý tưởng thơ mộng? Trong khi duyệt lại bộ giáo luật, các chuyên viên đã
đặt ra câu hỏi như vậy? Họ đã do dự rất nhiều, và đắn đo những từ ngữ pháp lý
trong quá khứ (consuetudo, communio vitae, coniunctio vitae), để rồi đi tới hạn
từ "consortium vitae" (BGL đ. 1055 •1; 1096 •1; 1098; 1135). Thực ra
tiếng "consortium" đã được dùng trong cổ luật Rôma rồi, để nói tới
gia đình như là một xã hội bền vững. Theo nguyên ngữ, "consortium"
(con + sors) có nghĩa là chia sẻ một số phận, do đó có thể bao gồm một nội dung
rất phong phú. Đức Gioan Phaolô II đã dùng nó làm đề tựa cho tông huấn nói về
gia đình (Familiaris consortio).
Bộ giáo luật sẽ rút ra
những hệ luận pháp lý của nó. Nói rằng hôn nhân là "consortium vitae"
có nghĩa là một cộng đồng năng động với quyền lợi và nghĩa vụ hỗ tương giữa vợ
chồng. Nó bao gồm: a) việc hai người chung sống với nhau, đùm bọc che chở nhau (communio
vitae, mutuum adiutorium); b) việc thông hiệp với nhau cả hồn (yêu thương) cả
xác (sự giao hợp hướng tới sự truyền sinh) một cách trường tồn và độc hữu. -
Như vậy từ ngữ "consortium vitae" có nội dung rất bao quát để mô tả
bản chất của hôn nhân cũng như những nghĩa vụ và quyền lợi của đôi bạn.
2. Tình yêu phu thê: Amor coniugalis
Như chúng tôi đã trình
bày trên đây, từ thế kỷ XVII về sau, thần học và luân lý coi mục tiêu chính của
hôn nhân là sinh sản và giáo dục con cái, còn chuyện vợ chồng nâng đỡ nhau chỉ
là mục tiêu phụ. Vào khoảng thập niên thứ 3 của thế kỷ XX, một khuynh hướng
khác trong thần học đã muốn lật ngược lại thứ tự, và đặt tình yêu vợ chồng lên
hàng đầu. Ý kiến này đã gặp nhiều chống đối, vì người ta e rằng nếu đặt tình
yêu vào bản chất hôn nhân thì bao lâu còn yêu nhau thì còn hôn nhân, và ngày
nào hết yêu thì hôn nhân cũng sẽ tan. Công đồng Vatican II đã chấp nhận rằng
tình yêu vợ chồng nằm trong bản chất của hôn nhân, tình yêu có tính cách trao
ban cho nhau và mở rộng tới mầm sống mới.
Thực ra, trong thông
điệp Casti Connubii (30/12/1930), đức Piô XI đã nhìn nhận tầm quan trọng của
tình yêu, nhưng chưa kể nó như là mục tiêu chính của hôn nhân. Sau công đồng,
đức Phaolô VI (Humanae vitae) và Gioan Phaolô II (Familiaris consortio) đã đào
sâu thêm ý nghĩa của tình yêu vợ chồng trong hôn nhân. Nhưng quan điểm ấy có
ảnh hưởng gì tới pháp lý không? Ngoài vấn nạn đã được nêu trên đây (ngày nào
hết yêu thì hôn nhân cũng sẽ tan hay sao?) lại còn vấn nạn khác khi đối chiếu
với các nền văn hóa mà "cha mẹ đặt đâu con ngồi đó", nghĩa là trong
đó vợ chồng bắt đầu yêu nhau sau khi đã kết bạn và chung sống với nhau: phải
chăng giá thú chỉ thành hình từ lúc ấy?
Có lẽ vì những vấn nạn
ấy mà bộ luật không dùng từ ngữ "tình yêu" (amor coniugalis) khi định
nghĩa bản chất của hôn nhân. Tuy vậy, không thiếu tác giả cho rằng tình yêu có
giá trị pháp lý của nó, nếu hiểu tình yêu như là "amor
benevolentiae", nằm trong ý chí (chứ không phải chỉ là tình cảm xuông),
nghĩa là khi chấp nhận trao ban cho nhau, khi muốn tìm thiện ích cho người bạn
của mình và cho con cái: nếu thiếu ý chí đó vào lúc kết hôn thì giá thú sẽ vô
giá trị. Tư tưởng đó làm nền móng cho đ. 1055 •1 và 1057 •2. Ngoài ra thiết
tưởng cũng nên biết là theo đ.1061 •1, hôn nhân chỉ gọi là "hoàn hợp"
(consummatum) khi hành vi ái ân diễn ra cách nhân linh (humano modo), chứ không
phải qua vũ lực hay cuồng loạn !
3. Giao ước hôn nhân: Foedus coniugale
Thật khó dịch từ ngữ
này ra tiếng Việt. Chúng ta thường nghe nói tới "hôn ước", nhưng nó
chỉ là tiếng tắt của "khế ước hôn nhân". Tiếng "khế ước"
(contractus: hợp đồng) có tính cách pháp lý, bao hàm sự thỏa thuận chấp nhận
những nghĩa vụ và quyền lợi. Từ thế kỷ thứ XII, nó đã đi vào thần học và giáo
luật. Tuy nhiên, tại công đồng Vaticano II, nó đã bị chỉ trích nhiều vì quá vật
chất: thực vậy, bộ giáo luật cũ coi hôn ước gần như một món hàng, trong đó đôi
bên mặc cả về thân thể của nhau (jus ad corpus). Hiến chế "Vui mừng và Hy
vọng" đã thay thế bằng một từ ngữ vừa có tính cách nhân bản vừa có tính cách
đạo đức hơn đó là "foedus" (giao ước), một từ được Kinh thánh dùng để
chỉ mối dây liên kết giữa Thiên Chúa với dân tuyển chọn; nó vừa nói lên tính
cách bản vị lại vừa tính cách thánh thiêng; nó không phải chỉ có tính chất pháp
lý nhưng còn bao hàm ý chí chọn lựa, thề nguyền.
Bộ giáo luật 1983 đã du
nhập từ ngữ "foedus" vào các điều mô tả bản tính hôn nhân (đ.1055 •1;
1057 •2) tuy cũng còn duy trì từ ngữ "khế ước" ở điều 1055 •2. Tuy
nhiên ngoài việc du nhập từ ngữ mới, ta cần phải ghi nhận tâm thức mới khi nói
tới đối tượng của sự thỏa thuận hôn nhân. Nhà lập pháp không còn nói tới
"quyền trên thân thể" nữa, song là "sự trao ban và lãnh nhận lẫn
nhau" (sese mutuo tradunt et accipiunt). Họa theo giao ước của Kinh thánh,
giao ước vợ chồng cũng phải mang tính cách bền vững (irrevocabilis). Tính cách
thánh thiêng của giao ước sẽ siết chặt thêm thêm tính cách bất khả ly của hôn
nhân. Và dĩ nhiên, sự chung thủy của vợ chồng cũng đòi hỏi tính chất đồng nhất,
một vợ một chồng.
Hậu nhiên, nếu ai tự ý
loại bỏ sự đồng nhất hoặc bất khả ly (thí dụ: chấp nhận cho phép được ngoại
tình, hay đồng ý sẽ ly dị chừng nào tình yêu phai nhạt), thì giá thú sẽ vô
hiệu. Hơn thế nữa, án lệ còn đi xa hơn khi áp dụng đ.1095 để tuyên bố giá thú
vô hiệu không những vì đôi bạn đã tự ý loại trừ tính cách duy nhất và bền vững
của nó, nhưng còn vì họ thiếu khả năng để đảm nhận bổn phận chung thủy do hậu
quả của vài chứng tật tâm lý (thí dụ những người mắc tật đồng tính luyến ái).
4. Thiện ích của đôi bạn và con cái: Bonum coniugum et prolis
Như đã nói trên đây,
trong thần học và giáo luật trước đây, người ta xếp mục tiêu của hôn nhân thành
hai cấp bậc: chính yếu là sinh sản và giáo dục con cái; thứ yếu là vợ chồng
nâng đỡ nhau. Công đồng Vaticano II đã loại bỏ cách xếp đặt thứ bậc mục tiêu,
và sử dụng một dụng ngữ khác, đó là: hôn nhân nhắm tới thiện ích của đôi bạn và
của con cái. Bộ giáo luật đã lấy lại từ ngữ đó ở đ.1055 •1.
a/ Nói tới thiện ích của đôi bạn, hiến chế "Vui mừng và Hy
vọng" số 48 và 49 đã kê ra vài thí dụ: sự phát triển nhân vị, sự kết hợp khắng khít,
sự giúp đỡ lẫn nhau về dịch vụ, kinh nghiệm; tình bạn hữu nghĩa thiết. Các học
giả tìm cách đào sâu thêm khái niệm về "thiện ích của đôi bạn" dưới
những khía cạnh tinh thần lẫn thể lý.
b/ Thiện ích của con cái. Dựa theo giáo huấn của công đồng
Vaticano II, bộ giáo luật hiện hành coi rằng việc sinh sản và dưỡng dục con cái
nằm trong chính tình yêu vợ chồng, ra như là hoa trái của việc trao ban hỗ
tương của vợ chồng. Như vậy ta có thể hiểu thiện ích của con cái theo hai
nghĩa:
(i) một đàng con cái
được coi như thiện ích của tình yêu hôn nhân, kết quả của tình ân ái vợ chồng;
(ii) đàng khác vợ chồng
phải nghĩ tới thiện ích của con cái, theo nghĩa là không những là sinh ra chúng
mà còn phải nghĩ tới sự dưỡng dục chúng. Điều 1136 đã liệt kê 5 khía cạnh của
sự giáo dục: thể lý, xã hội, văn hóa, luân lý, tôn giáo.
Học lý và án lệ bắt đầu
rút ra những hậu quả pháp lý của những nhận xét vừa nói. Thí dụ: vào lúc kết
hôn, nếu hai vợ chồng cương quyết sẽ không sinh con, (hoặc quyết định rằng sẽ
phá thai trong trường hợp người vợ mang bầu), thì giá thú sẽ vô hiệu. Nhưng
liệu có thể coi một giá thú vô hiệu nếu đôi vợ chồng không có khả năng dưỡng
dục con cái, hoặc chủ trương loại bỏ sự giáo dục tôn giáo hay không ?
Những đặc điểm trên đây
nói đựơc là nằm trong bản chất của hôn nhân theo luật tự nhiên, nhưng đựơc phân
tích dưới ánh sáng của mặc khải và với sự đóng góp của các triết thuyết chịu
ảnh hưởng của Kitô giáo. Tuy nhiên thần học về hôn nhân còn thêm một đặc tính
riêng biệt nữa: hôn nhân là một bí tích. Thế nhưng đây lại là một vấn đề rất
gay cấn của thần học hiện đại: phải hiểu thế nào về tính cách bí tích của hôn
nhân?
III. Hôn nhân là một bí tích
Chúng ta thấy rằng
trong thế kỷ XX, đã có nhiều tiến triển trong thần học và giáo luật liên quan
đến bản chất của hôn nhân, do ảnh hưởng của triết học về nhân vị, hoặc tương
quan liên bản vị, theo đó giá thú không chỉ là một khế ước quy định những nghĩa
vụ và quyền lợi, nhưng tiên vàn là một sự trao ban và chấp nhận hỗ tương, giữa
một người nam và một người nữ: sự trao ban ấy có tính cách độc hữu và vĩnh
viễn. Chính từ tình yêu trao hiến ấy mà nảy ra sự sống mới như là hoa trái của
nó. Cho đến đây, chúng ta vẫn còn ở cấp bậc tự nhiên, nghĩa là xét hôn nhân
theo kế hoạch của Đấng Tạo hóa.
Đối với các Kitô hữu,
hôn nhân còn mang một đặc tính khác nữa: nó là một bí tích, dấu chỉ của mối
tình trao hiến giữa đức Kitô với Hội thánh. Ở số 48 của hiến chế "Vui mừng
và Hy vọng" công đồng Vatican II viết rằng: "Đức Kitô đến gặp gỡ các
đôi bạn Kitô hữu qua bí tích hôn nhân. Người lưu lại với họ ngõ hầu, qua sự
trao ban cho nhau, họ có thể yêu nhau chung thủy trót đời như Người đã yêu Hội
thánh và trao hiến mình cho người bạn của mình. Tình yêu chân chính giữa vợ
chồng đã được thu hút vào trong tình yêu của Chúa, và được điều khiển cùng tăng
cường nhờ sức mạnh cứu chuộc của đức Kitô và nhờ hành động cứu rỗi của Hội
thánh; nhờ vậy họ được dẫn dắt cách hữu hiệu tới cùng Thiên Chúa và được giúp
đỡ cùng trợ lực trong thiên chức làm cha mẹ". Công đồng nói thêm rằng bí
tích là nguồn thánh hóa cho đôi bạn, và nói được như là hiến thánh họ vào những
nghĩa vụ và phẩm giá của hôn nhân; nhờ bí tích, toàn thể đời sống của họ được
thấm nhiễm tinh thần đức Kitô, ngõ hầu họ tiến tới sự trọn lành thánh thiện.
A. Cuộc tranh luận về tính bí tích của hôn nhân
Tuy nhiên, từ sau công
đồng Vaticano II, một cuộc tranh luận được nêu lên chung quanh vấn đề bí tích
của hôn nhân giữa các Kitô hữu. Đạo lý chính thức của Giáo hội cho rằng khi hai
người Kitô hữu kết bạn với nhau, thì hôn nhân của họ đương nhiên là bí tích:
không thể nào tách rời hôn nhân tự nhiên và hôn nhân siêu nhiên được. Dĩ nhiên
đạo lý này đã có một truyền thống lâu đời cũng như dựa trên luận chứng vững
chắc của thần học. Thế nhưng, khi làm việc mục vụ, nhiều linh mục nhận thấy
rằng nhiều người Kitô hữu chẳng còn đức tin gì nữa, và do đó họ chẳng muốn lãnh
nhận bí tích hôn nhân nhưng họ chỉ muốn kết hôn như thói tục của bao nhiêu con
người khác. Vấn đề được đặt ra như thế này: khi những Kitô hữu chỉ muốn kết lập
giá thú tự nhiên chứ không muốn lãnh nhận bí tích, thì giá thú của họ có thành
sự không? Cả bộ giáo luật cũ (đ.1012 •2) lẫn bộ giáo luật 1983 (đ.1055 •2) đều
trả lời rằng giá thú ấy sẽ vô hiệu: "Giữa những người đã chịu phép rửa
tội, không thể có khế ước hôn phối hữu hiệu nếu đồng thời không phải là bí
tích" (inter baptizatos nequi matrimonialis contractus validus consistere,
quin sit eo ipso sacramentum).
Tuy lập trường của Giáo
hội đã dứt khoát như vậy, nhưng thần học vẫn tiếp tục đào sâu thêm vấn đề, xét
vì những hậu quả thần học, pháp lý và mục vụ của nó. Đành rằng đám cưới thuần
túy dân sự của những kitô hữu bị giáo luật coi là vô hiệu bởi vì không tuân giữ
thể thức giáo luật (forma canonica); nhưng Giáo hội không thể đối xử với những
cặp vợ chồng đó như những đôi ngoại tình công khai, ăn ở chung với nhau mà
không có phép tắc ! Vấn đề trở nên gai góc hơn dưới khía cạnh thần học: giả như
một người Kitô hữu xin cử hành hôn nhân theo phép đạo (thí dụ vì muốn làm vui
lòng gia đình, vì họa theo phong tục) nhưng mà chẳng có tin tưởng gì hết, thì
hôn nhân đó có phải là bí tích hay không?
Vì những lý do ấy, một
số tác giả đã đòi xét lại sự gắn chặt giữa khế ước với bí tích hôn nhân: không
thể coi bất cứ khế ước hôn phối nào của người Kitô hữu cũng đương nhiên là bí
tích; cần phải có tối thiểu là đức tin vào bí tích. Chúng ta hãy theo dõi những
lý chứng của hai phe.
1/ Lý chứng của phe chủ trương tách rời khế ước khỏi bí tích
Họ dựa trên lý chứng
thần học và lý chứng lịch sử.
a) Xét về thần học, điều kiện tối thiểu để
lãnh nhận bí tích là phải muốn lãnh nhận nó. Nếu ai không tin và không muốn
lãnh bí tích (thậm chí họ đã minh thị gạt bỏ bí tích) thì tại sao áp đặt người
ta làm gì? Cách riêng về bí tích hôn nhân, tác viên của bí tích chính là đôi
bạn: họ biểu hiệu của sự trao hiến giữa đức Kitô với Giáo hội. Thế thì nếu mà
chính họ không tin thì làm sao bảo họ làm tác viên được?
b) Xét về lịch sử, thì vấn đề gắn liền
giữa khế ước với bí tích không phải là một chân lý đức tin, nhưng là một biện
pháp của Giáo hội để đáp lại những học thuyết tại Âu châu hồi cuối thế kỷ XIX
muốn tách rời hôn nhân khỏi sự kiểm soát của giáo quyền.
2/ Những lý chứng của phe chủ trương không thể tách rời
Phe này dựa trên trật
tự khách quan của bí tích hơn là tâm tình nội tại của người lĩnh nhận bí tích.
Theo họ, tính cách bí tích của hôn nhân gắn chặt với bí tích rửa tội: khi lãnh
bí tích rửa tội, con người đã lĩnh ấn tích, nghĩa là đã được in dấu của Chúa
Kitô: dấu ấy không thể nào bị xóa nhòa, và không tùy thuộc vào lòng tin chủ
quan của con người. Do đó, đối với người Kitô hữu, không thể nào có hôn phối
"tự nhiên" được nữa, xét vì những gì là tự nhiên nơi họ thì đã được
đem vào lãnh vực cứu rỗi rồi. Khả năng biểu hiệu tình yêu của đức Kitô đối với
Giáo hội không tùy thuộc vào lòng tin hay ý muốn của người tín hữu nhưng nằm
trong bản chất của hôn nhân theo ý định của chính đức Kitô. Người tín hữu cần
được huấn giáo để hiểu biết giá trị đó và chấp nhận trong đức tin.
Khỏi nói ai cũng hiểu,
chủ trương này đi sát với lập trường chính-thức của Giáo hội, được biểu lộ qua
bộ giáo luật cũng như trong các văn kiện của Tòa thánh, thí dụ tông huấn
"Đời sống gia đình" của đức Gioan Phaolô II. Thêm vào đó, ta có thể
kể văn kiện của Ủy ban thần học quốc tế năm 1977 dưới tựa đề "Vài vấn đề
đạo lý của hôn nhân kitô giáo" (Problèmes doctrinaux du mariage chrétien).
Ngoài luận cứ dựa trên trật tự khách quan của bí tích do đức Kitô ấn định chứ
không tùy thuộc vào ý muốn người lãnh nhận, văn kiện còn phân biệt giữa ý định
(intention) và lòng tin (foi personnelle) khi lãnh bí tích: a/ điều kiện cần
thiết để lãnh bí tích là ý định muốn làm điều mà Chúa và Giáo hội muốn. Lòng
tin của người lãnh bí tích không có chi phối sự hữu hiệu của bí tích nhưng chỉ
ảnh hưởng tới hậu quả thiêng liêng do bí tích phát sinh. Tuy nhiên văn kiện
cũng nhìn nhận rằng lòng tin có thể chi phối ý định; tiếc rằng, các tác giả
không chịu đi sâu hơn để giải thích mối liên hệ đó (số 2 và 3).
Tông huấn "Đời
sống gia đình" cố gắng dung hòa hai lãnh vực. Một đàng trên lãnh vực đạo
lý, văn kiện này bảo vệ trật tự khách thể của kế hoạch cứu rỗi; tính cách bí
tích được gắn liền với hôn nhân của các Kitô hữu là do ý định của Thiên Chúa
chứ không tùy thuộc ý muốn của họ. (số 13). Điều kiện tối thiểu đòi hỏi nơi họ
là chấp nhận điều mà Giáo hội đã ấn định khi cử hành hôn phối. Mặt khác, trên
lãnh vực mục vụ, nếu chính người Kitô hữu khước từ không chấp nhận học thuyết
của Giáo hội về bí tích hôn nhân, thì các mục tử không được cử hành nghi lễ hôn
nhân cho họ (số 68).
Đức Gioan Phaolô II
nhấn mạnh rằng không phải là Giáo hội khước từ việc cử hành bí tích nhưng là
chính họ đã khước từ. Đức Thánh Cha cũng lưu ý các mục tử trong việc thẩm định
cấp độ lòng tin của những người xin lãnh bí tích: đây là một công chuyện rất tế
nhị và dễ rơi vào quyết định chủ quan. Có lẽ vì thế mà Ngài muốn dựa vào tiêu
chuẩn rõ rệt hơn, nghĩa là ý định (chủ ý: recta intentio) làm theo kế hoạch của
Chúa.
B. Vài hệ luận
1/ Trước hết, nên nhắc lại vài điểm đã được thần học chấp nhận liên
quan đến bí tích hôn nhân:
- Chỉ có hôn nhân giữa
hai người đã được rửa tội mới là bí tích.
- Hôn nhân giữa một
người được rửa tội và một người không được rửa tội thì không phải là bí tích.
(Tuy vẫn là giá thú hữu hiệu theo giáo luật, nếu đã được miễn chuẩn ngăn trở dị
giáo).
- Hôn nhân của hai
người ngoại đạo đương nhiên trở thành bí tích khi cả hai người được rửa tội.
2/ Đối với các Kitô hữu với đức tin nguội lạnh, nhưng vẫn cứ xin cử
hành lễ nghi hôn phối ở nhà thờ, thì hôn phối vẫn hữu hiệu. Dĩ nhiên, bổn phận
của các mục tử là phải cố gắng chuẩn bị tâm hồn họ qua việc huấn giáo.
3/ Giả như một đôi hôn nhân minh thị loại trừ tính cách bí tích của
hôn nhân (họ chỉ muốn cưới hỏi như hôn phối tự nhiên), thì một số tác giả
nghĩ rằng hôn nhân có thể vô hiệu dựa theo đ.1099 và 1101 •2, bởi vì đối với
hôn nhân kitô giáo, việc loại bỏ tính cách bí tích cũng phát sinh hậu quả giống
như việc loại bỏ tính cách đồng nhất và bất khả ly của hôn nhân.
4/ Giá thú thuần túy dân sự của các kitô hữu, tuy rằng vô hiệu xét
theo giáo luật vì thiếu thể thức pháp định, nhưng không thể bị đồng hóa với các
cặp trai gái sống chung không có giá thú (xem: Tông huấn "Đời sống gia
đình" số 82). Có những vấn đề mục vụ được đặt ra cho những đôi vợ chồng ấy
mà Đức Gioan Phaolô II đã nêu lên.
5/ Công đồng Vaticano II đã chú trọng tới khía cạnh thánh hóa và
thánh hiến của Bí tích hôn nhân; điều này được bộ giáo luật lặp lại ở đ.1134
của giáo luật. Tuy nhiên xem ra nhà lập pháp chú trọng cách riêng đến một hậu
quả của bí tích, tức là tính cách bất khả ly (đ.1056); thực vậy, Giáo hội đã dự
trù những trường hợp chước chuẩn hôn nhân khi nó chưa phải là bí tích (những
trường hợp đặc ân đức tin). "Consummatum sed non ratum"
6/ Luôn tiện cũng nên biết là nhiều khó khăn trong cuộc tranh luận
về bí tích hôn phối xảy ra trong thần học latinh. Thần học Latinh quan
niệm rằng trong bí tích hôn phối chính đôi bạn vừa là tác viên (chủ sự) vừa là
thụ viên (người lãnh nhận); chính trong lúc trao đổi sự thỏa thuận hôn nhân,
thì đôi bạn kitô hữu cũng thực hiện bí tích hôn phối. Quan điểm của thần học
của Đông phương thì khác: vị chủ sự bí tích hôn phối là linh mục. Linh mục đọc
lời cầu khẩn xin Chúa Thánh Thần chúc lành thánh hóa tình yêu của đôi bạn. Theo
quan điểm này, sự trao đổi ưng thuận giữa đôi bạn chỉ là chất thể của bí tích;
còn lời cầu của linh mục mới là mô thức của bí tích. Sự khác biệt giữa hai
truyền thống đã được ghi lại trong Sách Giáo Lý Hội thánh công giáo số 1623.
IV. Gia đình là "Giáo hội gia thất"
Tuy chủ đề "hôn
nhân và gia đình" thường đi đôi với nhau, nhưng thường các sách về luân lý
và giáo luật bàn nhiều về hôn nhân hơn là về gia đình. Vì thế để bổ túc, chúng
tôi xin thêm một đề tài thần học về gia đình thường được nhắc tới trong các văn
kiện Tòa thánh, đó là: Gia đình là một "Giáo hội gia thất", (hay cũng
có thể dịch là : Giáo hội tại gia, Giáo hội thu hẹp, nguyên ngữ latinh là:
ecclesia domestica). Từ ngữ đó có ý nghĩa gì ?
Theo các học giả, danh
từ này được du nhập vào các văn kiện của Giáo hội kể từ công đồng Vaticano II.
Ở số 11 của Hiến chế về Hội thánh, khi nói về ý nghĩa của bí tích hôn phối,
công đồng viết như sau: "Do sự kết hợp vợ chồng mà gia đình được hình
thành, từ đó sinh ra những công dân của xã hội loài người; những con người ấy
nhờ ơn của Thánh Thần được trở nên con cái của Chúa qua bí tích rửa tội ngõ hầu
bành trướng Dân Chúa trải qua dòng thời gian. Ở trong gia đình, tựa như trong
một Giáo hội gia thất (velut Ecclesia domestica), cha mẹ phải là những người
tiên phong rao giảng đức tin, bằng lời nói cũng như bằng gương lành; cha mẹ cần
phải cổ võ ơn gọi riêng của mỗi người con, đặc biệt là ơn gọi tận hiến".
Như vậy, ta có thể nói
rằng gia đình ví được như một tế bào của Giáo hội, nơi giúp cho Giáo hội được
tăng trưởng và cũng là nơi hình thành Giáo hội qua việc rao truyền đức tin. Sau
công đồng, đức Phaolô VI đã trở lại với ý tưởng "Giáo hội gia thất"
đặc biệt vào buổi tiếp kiến phong trào "Équipes Notre Dame" hồi tháng
5 năm 1970. Ngài chú giải tư tưởng của công đồng Vaticano II, coi gia đình như
một "tiểu Giáo hội" (petite Église), một "tế bào của Giáo
hội" (cellule d'Église), qua hai sắc thái sau đây:
a) cũng như Giáo hội có sứ mạng bày tỏ lòng khoan nhân của Thiên
Chúa, thì gia đình Kitô giáo cũng cần bày tỏ khuôn mặt tươi cười hiền
dịu của Giáo hội qua việc tiếp đón những tổ ấm khác đang gặp khó khăn;
b) gia đình phản ánh bộ mặt của Giáo hội lữ hành, gồm những lúc vui
buồn, những lần sa ngã cũng như những lần được tha thứ và nên thánh. Vào năm
1975, trong tông huấn "Rao giảng Tin mừng" (Evangelii Nuntiandi) số
70, đức Phaolô VI trình bày gia đình như là một Giáo hội gia thất, theo nghĩa là
một môi trường ở đó Phúc âm được rao truyền, chuyển thông và tỏa rạng.
Với đức Gioan Phaolô
II, tư tưởng gia đình như Giáo hội gia thất được dùng thường xuyên hơn, đặc
biệt là trong tông huấn "Đời sống gia đình" (Familiaris consortio).
Từ ngữ này xuất hiện tới gần 10 lần (ở các số 21; 38; 48-52; 59; 65; 86). Trước
khi phân tích tư tưởng của những đoạn văn vừa kể, thiết tưởng nên đi ngược
giòng lịch sử để tìm hiểu lai lịch của nó.
A. Nền tảng Kinh thánh
Tuy rằng từ ngữ
"Hội thánh gia thất" mới được sử dụng trong các văn kiện gần đây của
Tòa thánh, nhưng nó đã ra đời từ lâu rồi. Trong bài huấn từ dành cho
"Equipes Notre Dame" năm 1970, đức Phaolô VI trích dẫn thánh Gioan
Kim khẩu, người đã dùng từ ngữ "tiểu Giáo hội" trong khi chú giải
đoạn văn của thánh Phaolô gửi giáo đoàn Ephêsô chương năm .
Nhưng các tác giả còn
đi ngược lên cao hơn nữa, nghĩa là ngay từ trong chính Kinh thánh Tân ước, từ
khi Giáo hội vừa mới ra đời. Thực vậy, ở sách Tông đồ công vụ (2,46), Luca cho
ta biết rằng các Kitô hữu hằng ngày lên đền thờ cầu nguyện rồi sau đó họ cử
hành lễ nghi bẻ bánh ở nhà. Trong những tháng năm đầu tiên, các Kitô hữu còn
tham dự các buổi cầu nguyện cổ truyền với người Do thái ở đền thờ; nhưng sau
đó, nghĩa là khi sang phần phụng vụ riêng của mình (gồm việc nghe lời giảng của
các tông đồ và việc bẻ bánh), thì họ cử hành ở nhà (kat'oikon). Nên biết rằng
không phải là ai về nhà nấy, nhưng tất cả tụ họp nhau trong một nhà (thánh Luca
dùng tiếng "nhà" ở số ít, chứ không phải ở số nhiều): chính khi các
tín hữu tụ họp cầu nguyện trong một nhà mà Giáo hội được thành hình. - Trong
Tân ước, ta còn thấy từ- ngữ "ecclesia domestica" (mà bản dịch
Vulgata dùng để chuyển ngữ "kat'oikon ekklesia" tiếng Hy lạp) ở bốn
đoạn của các thư thánh Phaolô: Rm 16,5; 1 Cr 16,19; Cl 4,15; Plm 2.
Thánh Tông đồ dùng từ
ngữ ấy để gọi cộng đồng giáo hội tụ họp tại một căn nhà nào đó (Gaio ở Roma,
Prisca và
Với dòng thời gian, các
tín hữu đã có nơi chốn dành cho việc thờ tự, và nơi ấy được gọi là "giáo
hội" (trong các tiếng Âu mỹ, chỉ có một từ để ám chỉ Giáo hội và thánh
đường: ecclesia, église, church); tuy nhiên các giáo phụ không ngừng khuyên nhủ
các đôi bạn hãy tiếp tục cố gắng duy trì nhà mình, nghĩa là gia đình thành một
"Giáo hội" (hoặc hội thánh, nhà thờ), bởi vì gia đình là một tế bào
của Giáo hội: nơi thể hiện tình yêu của đức Kitô đối với Hội thánh, nơi biểu
hiện tình yêu thông hiệp giữa ba ngôi Thiên Chúa, nơi mà đức Kitô hiện diện khi
có hai ba người ý hợp tâm đồng. Trong các giáo phụ, thánh Gioan Kim khẩu là tác
giả đã năng nhắc nhở các gia đình hãy biến căn nhà của mình thành Giáo hội,
thành thánh đường: bằng lời cầu nguyện, bằng việc nghe Lời Chúa, bằng việc thực
thi bác ái không những giữa các phần tử trong nhà mà còn mở rộng tới đối với
người ngoài nữa
B. Nội dung tư tưởng qua tông huấn "Đời sống gia đình"
Như đã nói trên đây,
Đức Gioan Phaolô II đã nhiều lần nói tới gia đình như "Giáo hội gia
thất" (hay tế bào của Giáo hội, tiểu Giáo hội). Từ ngữ đó có ý nghĩa gì?
Chúng ta hãy cố gắng khám phá nội dung tư tưởng của nó bằng cách rảo qua những
đoạn văn của tông huấn "Đời sống gia đình".
1) Số 21 gọi gia đình là Giáo hội gia thất bởi vì nó là nhiệm tích (dấu chỉ hữu hiệu) của
sự thông hiệp của Giáo hội: nó bao gồm bởi các phần tử được liên kết với nhau
trong bí tích rửa tội và nhờ quyền năng của Chúa Thánh Thần.
2) Số 38 gọi gia đình là Giáo hội, bởi vì thi hành một
sứ mạng mẫu tử như Giáo hội qua việc giáo dục con cái theo tinh thần Kitô giáo.
3) Số 48 so sánh gia đình với Giáo hội bởi vì cùng mang một
thiên chức ở giữa trần thế, tức là dấu hiệu của sự hợp nhất và hòa bình.
4) Những đoạn văn súc tích hơn cả là từ số 49 trở đi, khi đức Gioan Phaolô
II bàn tới sự tham gia của gia đình vào đời sống và sứ mạng của Giáo hội. Gia
đình là một Giáo hội thu gọn, bởi vì cùng thi hành những chức phận làm mẹ của
Giáo hội Mẹ : sinh sản, dưỡng dục con cái (số 49); gia đình một môi trường cần
được Phúc âm hóa (số 50) ngõ hầu trở thành môi trường truyền bá Phúc âm (số
51). Gia đình đôi khi là nơi duy nhất mà các thiếu nhi có thể lãnh nhận Tin
mừng và được huấn giáo (số 52). Qua số 54, ĐTC không ngần ngại thúc đẩy các gia
đình hãy ra khỏi bốn bức tường nhà để mang Tin mừng đi xa hơn, tới những người
không biết Chúa hoặc tới những gia đình sống xa Chúa do đời sống không phù hợp
với luân lý.
5) Từ số 55 trở đi, gia đình được gọi là Giáo hội gia thất dưới
khía cạnh là cung điện cầu nguyện, nơi gặp gỡ đối thoại với Thiên Chúa: qua
việc cầu nguyện, những hy sinh, những nhân đức (số 59). Gia đình là nơi sống bí
tích hôn nhân, nơi chuẩn bị cho con em vào đời sống phụng vụ bí tích (số 61).
Dĩ nhiên, dưới khía cạnh này, gia đình góp phần đắc lực vào việc kiến tạo Giáo
hội thánh thiện (số 65).
6) Sau cùng, trong phần kết luận, Đức Maria Mẹ của Giáo
hội được khẩn nài như là Mẹ của các Giáo hội gia thất, ngõ hầu họ phản ánh
trung thực bản chất của Giáo hội nơi họ.
Kết luận
Tóm lại, gia đình được
gọi là "Giáo hội gia thất" (hay là: "Giáo hội thu hẹp",
"Giáo hội tại gia đình" - "gia đình là Giáo hội", "nhà
Hội thánh") bởi vì gia đình thể hiện bản chất và sứ mạng của Giáo hội: gia
đình phản ánh sự thông hiệp của tình yêu; gia đình được quy tụ do ơn thánh và
đức tin; gia đình thi hành chức vụ rao giảng Tin mừng, thực hiện chức phận làm
mẹ; gia đình là nơi thánh hóa, nơi cầu nguyện kết hợp với Chúa. Sách Giáo Lý
Hội thánh công giáo đã dành các số 1655-1658 (bí tích hôn phối) cho tựa đề
"Giáo hội gia thất".
Nội dung được tóm lại ở
số 1666 như sau : Tổ ấm gia đình kitô giáo là nơi mà con cái lãnh nhận sự loan
báo đức tin đầu tiên. Chính vì vậy mà thực là đúng nghĩa khi gọi gia đình là
"Giáo hội gia thất", cộng đồng ơn sủng và cầu nguyện, trường dạy các
nhân đức nhân bản và đức ái Kitô giáo.
Khái niệm "Giáo
Hội gia thất" đã diễn tả phần nào sứ mạng của gia đình: gia đình xây dựng
Giáo Hội, gia đình biểu lộ Giáo hội như là "mầu nhiệm - hiệp thông - sứ
vụ".
Tông huấn "Đời
sống gia đình" còn sử dụng một lối tiếp cận nữa để diễn tả sứ mạng của gia
đình, đó là phân tích việc thông dự vào ba chức vụ của Đức Ki-tô: Ngôn sứ, Tư
tế, Vua (số 51-64). Thực ra công đồng Vaticanô II đã trình bày cách thức mà các
giáo dân tham dự ba chức vụ (Hiến chế về Hội thánh số 34-36). Tông huấn muốn áp
dụng cách riêng cho các gia đình:
1/ Chức vụ ngôn sứ được thi hành cách đặc biệt khi gia đình loan
báo Tin mừng cho các phần tử và cho những người bên ngoài, làm chứng tá cho Chúa
Ki-tô bằng lời nói và việc làm, giúp cho các gia đình khác sống sứ mạng của họ
(số 51-54).
2/ Chức vụ tư tế. Gia đình thực thi chức vụ này qua việc cầu nguyện, qua việc
thực hành các nhân đức và dâng các việc làm như hy lễ sống động. Trong lãnh vực
này, việc tham dự các bí tích, cách riêng là bí tích Thánh Thể, giữ một địa vị
quan trọng. Dĩ nhiên, vợ chồng và cha mẹ cũng giúp nhau nên thánh qua việc
khuyến khích nhau sống đạo và cử hành bí tích, cũng như qua việc giáo dục con
cái theo tinh thần Ki-tô giáo (số 55-62). Chính trong bối cảnh này mà tông huấn
bàn đến tương quan giữa Thánh Thể và gia đình ở số 57 mà chúng tôi đã trích
dẫn.
3/ Chức vụ vương đế. Chúa Giê-su là Vua không theo nghĩa là thống
trị áp bức người khác, nhưng là để phục vụ nhân loại. Điều quan trọng là Ngài
đã khuất phục và đè bẹp tội lỗi và sự dữ. Theo gương Ngài, các Ki-tô hữu làm
vua qua việc phục vụ nhân loại, phát huy những giá trị nhân bản và đạo đức,
cách riêng là các giá trị liên quan đến đời sống gia đình, chẳng hạn: bảo vệ sự
sống, bảo vệ phẩm giá con người, nhất là của những thành phần yếu ớt (số
63-64).
Dù sao, thần học về
"Giáo hội gia thất" cho thấy rằng thần học về gia đình không thể nào
chỉ giới hạn vào những bổn phận luân lý hay quy tắc giáo luật, nhưng còn bao
gồm nhiều khía cạnh tu đức, thần bí và truyền giáo nữa. Hơn thế nữa, thần học
về "Giáo hội gia thất" cũng giúp chúng ta có một quan niệm trung thực
hơn về bản chất của Giáo hội: Giáo hội không phải chỉ là một cơ chế, nhưng tiên
vàn là một thực thể sống động, gồm những phần tử liên kết với nhau trong tình
thông hiệp của đức tin cậy mến, dưới tác động của ơn thánh, để biểu lộ tình yêu
của Thiên Chúa ở giữa trần thế qua nếp sống, lời nói và việc làm
V. Mục vụ cho những hôn nhân tan vỡ
Cho đến nay, chúng ta
mới chỉ xét tới bộ mặt đẹp của hôn nhân, nghĩa là lý tưởng của hôn nhân theo
chương trình của Thiên Chúa. Thế nhưng không phải lúc nào thực tế cũng trùng
hợp với lý tưởng, và thần học không thể làm ngơ tới sự chênh lệch ấy. Thực ra,
khi lật quyển sách Giáo Lý Hội thánh công giáo, chúng ta thấy tất cả hai bộ mặt
đó. Nói đúng ra, ta không nên đối chọi giữa lý tưởng và thực tại, nhưng là xét
cùng một thực tại dưới hai khía cạnh: một đàng là thế tĩnh (bản chất của nó:
essentia), và một đàng là thế động (sinh hoạt: operatio).
A. Trạng thái tĩnh của hôn nhân
Sách Giáo Lý Hội thánh
công giáo nói đến trạng thái tĩnh của hôn nhân khi cắt nghĩa bí tích hôn phối
(phần thứ hai, từ số 1601-1666), và trạng thái động khi cắt nghĩa điều răn thứ
6 (phần thứ ba, số 2331-2400); ta cũng có thể thêm những số 2197-2233 (điều răn
thứ 4) trong khía cạnh động của đời sống gia đình.
Về bản chất hôn nhân,
Sách Giáo lý bàn tới 6 tiết sau đây: 1) Hôn nhân trong kế hoạch của Thiên Chúa.
2) Sự cử hành hôn nhân. 3) Sự thỏa thuận hôn nhân. 4) Công hiệu của bí tích hôn
phối. 5) Những thiện ích và yêu sách của hôn nhân. 6) Hội thánh gia thất.
Chúng tôi không muốn
lặp lại những gì đã nói, xét vì sách Giáo lý trưng dẫn rất nhiều đoạn từ Công
đồng Vaticano II, tông huấn "Đời sống gia đình", bộ giáo luật.
B. Khía cạnh động của hôn nhân
Khi giải thích điều răn
thứ 6, Sách Giáo lý đã bàn tới tình yêu vợ chồng, bao gồm sự chung thủy cũng
như sự truyền sinh (số 2360-2379); kế đó là những sự xúc phạm tới phẩm giá hôn
nhân: đứng đầu là ly dị (2382-2386); tiếp đó là: đa thê, loạn luân, ngoại hôn,
ngoại tình, vv (2387-2391).
Sách Giáo lý đã đặt vấn
đề ly dị ở hàng đầu của những sự xúc phạm đến phẩm giá hôn nhân. Tiếc thay đây
là một thực tại xã hội mà Giáo hội không thể nhắm mắt, khi mà tỉ lệ những cặp
hôn nhân tan vỡ ngày càng gia tăng. Các chuyên viên về thần học, giáo luật, mục
vụ cũng đã dành nhiều suy tư về vấn đề này. Chúng tôi chỉ xin giới hạn vào hai
điểm : 1) Lý thuyết: Giáo hội có thể tháo gỡ dây hôn phối để cho những người ly
dị làm lại cuộc đời hay không? 2) Thực tế: Giáo hội phải đối xử thế nào với
những người ly dị và tái hôn?
1/ Câu hỏi lý thuyết : hôn nhân có tuyệt đối bất khả ly hay không ?
Thoạt tiên câu trả lời
đã quá rõ ràng: hôn nhân bất khả ly, bởi vì "con người không được tháo gỡ
điều mà Thiên Chúa đã nối kết" (Mc 10,9; Mt 19,6). Nhưng khi giở lại lịch
sử, ta thấy Giáo hội đã tháo gỡ nhiều đôi hôn phối. Thí dụ từ thế kỷ thứ XII,
khi đức Alexandro III (1159-1181) tuyên bố rằng Giáo hoàng có thể tháo hôn phối
thành nhận nhưng chưa hoàn hợp. Cũng từ thế kỷ thứ XII, đức Innocentê III
(1199) bắt đầu tháo gỡ hôn nhân những người ngoại đạo do đặc ân của thánh
Phaolô.
Thế nhưng, đó mới là
khởi điểm, xét rằng từ thế kỷ XII tới nay học lý và án lệ đã tiến triển rất
nhiều. Ta đã biết rằng đặc ân thánh Phaolô được mở rộng thành đặc ân thánh
Phêrô (hay đặc ân đức tin nói chung), khi mà Tòa thánh tháo gỡ dây hôn phối
thành hiệu giữa một kitô hữu với một người ngoại đạo (đã được miễn chuẩn ngăn
trở dị giáo). Còn sự chước chuẩn hôn phối chưa hoàn hợp cũng sẽ tăng, xét vì bộ
giáo luật hiện hành đã đòi hỏi sự hoàn hợp phải có tính cách nhân linh (humano
modo) chứ không áp dụng cho bất cứ sự giao hợp nào! Đi từ những tiền đề lịch sử
đó, ngay từ năm 1971, giáo sư Louis de Naurois đã đặt câu hỏi: tại sao Giáo hội
không tiến thêm bước nữa để miễn chuẩn cả những hôn phối đã hoàn hợp? Trước và
sau sự hoàn hợp, bản chất của hôn phối (kể cả xét như là bí tích) có gì khác
nhau đâu?
Cũng không thiếu tác
giả đề nghị một giải pháp khác ngoài việc tháo gỡ dây hôn phối. Theo họ, trong
các Giáo hội chính thống Đông phương, không có chuyện tháo dây bí tích hôn
phối: dây hôn phối có tính cách vĩnh cửu. Nhưng họ áp dụng nguyên tắc
"oikonomia", nguyên tắc ân sủng trong giai đoạn lữ hành trong lịch sử
cứu độ. Thiên Chúa đã gọi chúng ta vào đường thánh thiện; nhưng Ngài vẫn còn
nhẫn nại với chúng ta bao lâu chúng ta còn đang trên đường tiến về Ngài; Ngài
chấp nhận những sa ngã của ta qua bí tích tha thứ. Giáo hội cũng phải bắt chước
đường lối của Chúa: một đàng phải khẳng định về tính cách bất khả ly của hôn
nhân trên bình diện đức tin và phong hóa bởi vì đó là một giá trị vĩnh cửu; tuy
nhiên đàng khác, cần biết nhẫn nại, không nên khư khư áp dụng một biện pháp cho
hết mọi hoàn cảnh; cần phải tìm ra một giải pháp cho mỗi hoàn cảnh cụ thể. Tuy
nhiên, để chứng tỏ cho thấy rằng sự kết hôn lần thứ nhất mang tính chất vĩnh
viễn, các cuộc tái hôn (kể cả khi người phối ngẫu đã qua đời) đều mang dấu
thống hối.
2/ Vấn đề thực hành.
Trong khi chờ đợi những
bước tiến pháp lý về phía nhà cầm quyền trong Giáo hội, các vị mục tử phải
đương đầu với thực trạng của những người ly dị và tái hôn. Nếu cứ xét theo lý,
thì những người này sống trong tình trạng bất hợp pháp, hay là tội nhân công
khai, với hậu quả là không được lĩnh các bí tích thống hối và Mình Thánh Chúa.
Thế nhưng, xét theo tình, thì không lẽ cứ để họ suốt đời sống xa Chúa và xa
Giáo hội hay sao ? Chúng ta biết rằng giải pháp quen được áp dụng cho tới nay
là cố gắng tìm cách để tuyên bố giá thú thứ nhất vô hiệu (vì mắc ngăn trở tiêu
hôn, vì hà tì ưng thuận, vì hà tì thể thức). Giải pháp khác là khuyên nhủ họ
chấp nhận sống với nhau như anh em .
Nhiều Hội đồng Giám mục
đã thảo ra những đường hướng mục vụ dành cho những người ly dị dù có tái hôn
hay không. Những thí dụ điển hình là Hội đồng Giám mục Pháp ; Các Giám mục miền
Oberrhein (Tây
- Những người ly dị
không chấp nhận đạo lý về hôn nhân bất khả ly. Không hẳn như vậy: nhiều người
vẫn còn thâm tín nơi tính cách bất khả ly, và họ cố gắng duy trì mối dây hôn
phối. Họ tiếc xót về sự đổ vỡ không tránh được, và họ đau khổ do vết thương
lòng đó.
- Những người ly dị bị
tuyệt thông. Không đúng: không có vạ nào dự trù cho tội ly dị cả.
- Những người ly dị bị
loại khỏi Giáo hội. Không phải như vậy: các người ly dị vẫn là phần tử của Giáo
hội. Họ vẫn được mời gọi tham gia vào đời sống của Giáo hội, tỉ như qua các
buổi cầu nguyện phụng vụ, các lớp huấn giáo. Thậm chí họ cũng được mời gọi tham
gia tích cực vào những sinh hoạt của cộng đồng, thí dụ các hoạt động bác ái, xã
hội. Dĩ nhiên, họ vẫn có trọng trách giáo dục đạo đức cho con em của mình như
những phụ huynh khác.
Những đường hướng mục
vụ mà các văn kiện muốn lưu ý có thể tóm lại như sau.
1) Các vị mục tử cần phân biệt từng trường hợp một, như đức Gioan Phaolô
II đã viết trong tông huấn "Đời sống Gia đình" số 84: có những người
đã cố gắng hết sức để cứu vãn hôn phối nhưng họ đã bị bỏ rơi một cách bất công;
có những người đã tái hôn cốt để dưỡng dục con cái; có người thâm tín trong
lương tâm rằng hôn phối đầu tiên đã tan vỡ và cũng vô hiệu nhưng không có đủ
chứng cớ để xuất trình ra tòa án.
2) Các phần tử trong cộng đoàn phải tỏ ra thông cảm với nỗi đau khổ
của những đôi vợ chồng tan vỡ, và hãy nhớ lời của Phúc âm đừng dành quyền
xét đoán lương tâm của tha nhân.
3) Các vị mục tử hãy nâng đỡ những đôi bạn ly dị, để hướng dẫn họ khám
phá ra sự thực của Phúc âm, chứ không khư khư bám theo quan điểm chủ quan của
mình. Việc lắng nghe chân lý của Phúc âm dần dần mở đường cho việc cải hoán,
một điều kiện cần thiết để lãnh nhận bí tích.
4) Tuy rằng các bí tích là những phương tiện thông thường để nhận
lãnh ơn Chúa, song không phải là những con đường duy nhất. Chính sự đau khổ vì
không được thông hiệp hoàn toàn vào các bí tích cũng có thể mang lại an bình
trong tâm hồn một khi kết hợp với Thập giá của đức Kitô.
5) Sau cùng, mặc dù khó tìm ra một giải pháp mới, các văn kiện vừa nói
không quên nhắc tới sức mạnh của ơn thánh Chúa: ơn thánh giúp đôi bạn vượt qua
những thử thách của đời sống vợ chồng; ơn thánh giúp cho các người ly dị tái
hôn có thể chấp nhận yêu sách về sự tiết chế hoàn toàn.
* Ghi chú:
1. De bono coniugali,
24,32. Nên lưu ý các từ ngữ: fides có nghĩa là chung thủy (chứ không phải là
đức tin), tránh ngoại tình; sacramentum có nghĩa là bền vững (chứ không phải là
bí tích), tránh sự ly dị.
2. Đó là không kể các
công đồng địa phương, thí dụ: công đồng
3. Homiliae in epist.
ad Ephesios 20, 5, 22-24: PG 62, 135-140
4. Sermones in Genesim
6,2; 7,1: PG 54,607; 608; Homiliae in Matthaeum 48,7: PG 58,495; Homiliae in
epist. ad Ephesios 20,6: PG 62, 143.
5. Xc. ĐGH Bênêđictô
XVI, Tông huấn Sacramentum caritatis số 29.
6. "Les divorcés
remariés dans la communauté chrétienne" đăng ở: Documentation Catholique
19/7/1992, trang 699-710), Hội đồng Giám mục Italia, Direttorio di pastorale
familiare, Roma 1993, cap. 7: La pastorale delle famiglie in situazione
difficile o irregolare.
(tonggiaophanhanoi.org)
THỨ BẢY, 18 THÁNG 05 2013 08:30 BBT WTGP HN