Biện chứng trong Giáo hội: Ðoàn sủng và giáo luật
(conggiao.info)
9/18/2013 8:15:56 PM – Trước đà sống mạnh dậy của các khuynh hướng giáo hội học
nặng tính chất đoàn sủng, và trước sức sinh sôi nẩy nở nhanh chóng của các
phong trào Thánh Linh, các nhà chuyên môn về giáo luật học, hay nói cho đúng
hơn, các nhà thần học giáo luật, đã cảm thấy cần phải nỗ lực thêm nữa để tìm hiểu
cho tường tận hơn về những mối liên hệ giữa đoàn sủng và giáo luật. Đó chính là
chủ đích của bài viết này.
Chủ đề trên đây quá rộng lớn: cần giới hạn lại.
Và cần phải làm quen với những đóng góp mới của khoa thần học về các đoàn sủng,
với những vấn đề khoa thần học này đặt ra trên bình diện lý thuyết cũng như
trong thực hành, thì mới cóthể phác họa ra được một vài đường lối phân tích và
định giá đối với những chiều hướng có cởi mở hơn nhiều, mà vẫn chưa hoàn toàn
thoả đáng, của việc canh tân giáo luật. Bộ giáo luật mới tự giới thiệu như là
biểu hiện pháp lý của nền thần học Công đồng chung Vaticanô II và như là khí cụ
sắc bén để thể hiện nền thần học này, cũng như để đáp ứng thích đáng cho các
nhu cầu mục vụ của Giáo hội.
Thế nên, tiêu đích của nổ lực nghiên cứu đang
tiến hành đây, là tìm xem Bộ giáo luật mới đã lưu tâm đến các yếu tố đoàn sủng
trong Giáo hội, đã đảm bảo và nâng đỡ chúng cho tới mức nào.
Không những bộ giáo luật cần phải ý thức là
mình không có quyền vượt ra ngoài giới hạn lãnh vực riêng của mình, cũng như
không có quyền xâm phạm đến biên cương khôn tả của hoạt động Thánh Linh; nhưng
hơn nữa, còn cần phải lưu ý đến trách vụ mình có đối với việc tích cực đảm bảo
và chân thành phục vụ cho những biên cương ấy. Nếu chẳng may mà gây cản trở cho
hoạt động của đoàn sủng, thì giáo luật sẽ làm thiệt hại đến công ích trong Giáo
hội và không nói lên được bản chất đặc thù của mình.
Tôi muốn đặc biệt lưu ý tới hàng giáo dân vì
tính cách thời sự của giới này, và vì giáo dân đã được chọn để làm chủ đề
nghiên cứu cho thượng hội đồng giám mục thế giới năm 1989 vừa rồi. Tôi xin miễn
nhắc lại ở đây những điểm đã đuợc đề cập tới trong ba bài viết trước đây, bàn về
vấn đề giáo dân, coi như chúng đã được giải quyết xong và có thể dựa theo đó mà
đào sâu tiếp.[1]
1. NỀN TẢNG THẦN HỌC CỦA GIÁO LUẬT
Tự bản chất, Giáo hội là mầu nhiệm. Khoa giáo
hội học ngày nay hiện đang mạnh mẽ nêu bật đặc tính căn bản này của Dân Chúa.
Công đồng chung Vaticanô II, đặc biệt là qua Hiến chế về Giáo Hội (Lumen
Gentium), đã minh bạch khôi phục lại tầm giá trị của các khía cạnh đoàn sủng
trong Giáo hội. Quyển II của Bộ giáo luật mang tựa đề: Dân Chúa, và Phần I thì
dành để bàn riêng về: Các tín hữu. Thiên II của Phần này mang tựa đề: Nghĩa vụ
và quyền lợi của các giáo dân. Như thế nghĩa là Bộ giáo luật đã đề cập đến giáo
dân trước khi bàn tới Cơ cấu phẩm trật trong Giáo hội (Phần II). Đó là một sự
kiện mang nhiều ý nghĩa. Và phương pháp làm việc theo cách thức như thế là rất
hợp lý: toàn bộ thì phải được đặt trước phân bộ, bởi lẽ phân bộ có hiện hữu thì
cũng chỉ nhờ và cho toàn bộ. Rồi từ đó giáo luật còn đi theo một lề lối tổ chức
xác đáng: lề lối tổ chức dùng đến mối tương quan như là chân lý để phục vụ chân
lý mạc khải tức là tín lý và thần học, để phục vụ hiệp nhất và thông hiệp, cũng
như để nhờ đó mà phục vụ Thánh Linh và Thánh Thể (GL, đk 897). Giáo hội là duy
nhất, có một không hai: duy nhất không phải chỉ do những đặc điểm biện giáo thường
nói tới, nhưng là do tự chính bản chất cố hữu của mình.[2]
Đặc tính hiệp nhất/hiệp thông đoàn sủng sẽ
giúp tránh khỏi một mối nguy lớn: đó là khuynh hướng duy thực nghiệm pháp lý
trong giáo luật. Nhờ ơn Chúa, Đức Gioan Phaolô II không phải là người duy thực
chứng. Trong tông hiến Sacrae disciplinae leges, Ngài đã đưa ra một tiêu chuẩn
có tính cách quyết định cho việc giải thích toàn bộ cơ cấu giáo luật. Tông hiến
có đoạn viết: Bộ giáo luật không mảy may nhằm tới việc thay thế cho đức tin,
cho ơn thánh, cho các đoàn sủng, và nhất là càng không phải để thay thế cho đức
ái trong đời sống Giáo hội hoặc là trong đời sống các tín hữu. Trái lại, chủ
đích của bộ giáo luật chính là nhằm tạo nên trật tự cần thiết để đảm bảo chỗ đứng
hàng đầu của ơn thánh và của các đoàn sủng, và để đồng thời tạo điều kiện thuận
tiện cho việc phát triển có tổ chức của đời sống cộng đoàn giáo hội cũng như của
đời sống từng cá nhân trong Giáo hội. [3] Tông huấn
còn nói rõ tiêu đích của giáo luật là: Để cổ vũ cho các mối tương quan giữa các
tín hữu được điều chế theo công bình dựa trên bác ái, nhờ việc quy định và đảm
bảo quyền lợi của mỗi người; và sau hết là để các sáng kiến chung trong nổ lực
xây dựng một đời sống kitô ngày càng hoàn hảo hơn, được nâng đỡ, củng cố và cổ
vũ nhờ chính giáo luật. [4]
Thánh Linh là linh hồn, là vị hướng đạo và là
sức mạnh của Giáo hội. Dùng các ân huệ, Ngài không ngừng chuyền sức sống cho
Giáo hội, cùng tác động một cách hoàn toàn tự do, cả giữa lòng cộng đoàn lẫn
nơi từng cá nhân: phân phát ơn của Ngài cho mỗi người theo một cách, tùy ý Ngài
(1Cr 12, 11). Như vậy, Thần khí hoạt động tận trong nơi sâu thẳm nhất của linh
hồn người được rửa tội, mở ra cho các tín hữu chân trời mênh mông của tự do
phát nguồn từ Phúc âm, và làm cho cộng đoàn giáo hội nên phong phú với các ân
huệ của thánh thiện, với tình yêu thương cũng như với việc làm chứng truyền
giáo. Tự trong chính bản chất của chúng, các đoàn sủng hàm chứa một chiều kích
cộng đoàn và xã hội. Còn giáo luật thì diễn đạt, hiện thực hóa và phục vụ cho
bí tích tính của Giáo hội và của niềm hiệp thông trong Giáo hội. Là một nền
pháp chế xã hội của loài người, giáo luật không làm sao có thể gói trọn hoặc diễn
tả mầu nhiệm của giáo hội cho đầy đủ và toàn vẹn được. Dù có hàm chứa nhiều điều
khoản thuộc thần luật, giáo luật cũng chỉ là một thực tại trần thế, có giới hạn
và bất tất, bởi đã chỉ được thiết định do thẩm quyền loài người trong Giáo hội,
và vì thế mà phải tùng phục các nhân tố thần thiêng và siêu nhiên trong Giáo hội.
Lỗi lầm lớn nhất và cám dỗ hấp dẫn nhất gặp phải trong lãnh vực thiết kế giáo
luật là tìm cách áp đặt cho được quyền làm chủ lên trên nhân tố đoàn sủng trong
Giáo hội.
Vì khuôn khổ hạn hẹp của bài viết này không
cho phép đề cập đầy đủ đến tất cả các khía cạnh của vấn đề, nên chúng tôi xin bỏ
qua phần nghiên cứu lịch sử. Tuy nhiên, để độc giả có một khái niệm, tôi xin
lưu ý tới hai điểm coi như đã được đả thông của phần nghiên cứu đó:
Tiến trình lịch sử của thần học đoàn sủng kể
từ J.A. Moehler cho đến công đồng chung Vaticanô II và bộ giáo luật mới; ý niệm thần học về đoàn sủng đi từ lối
chú giải Kinh Thánh theo phương pháp cổ điển và từ quan niệm của các nhà thần học
kinh viện, cho đến thời mới và thời hiện đại với ảnh hưởng của khoa xã hội học,
v.v...
2. ĐOÀN SỦNG VÀ CƠ CẤU
Muốn thấu hiểu mối quan hệ căn bản này, thì cần
phải đứng từ quan niệm cao rộng và bao quát về bí tích tính Giáo hội mà nghiên
cứu. Otto Semmelroth phát biểu như thế này: Bí tích tính của Giáo hội sẽ cho thấy
tầm quan trọng của nó đối với việc thấu hiểu đúng mức bản chất đoàn sủng của
Giáo hội, nếu chúng ta biết coi Giáo hội như là một thực tại xã hội hữu hình,
nghĩa là biết lưu ý đến dấu chỉ bí tích. [5]
Từng được công đồng chung Vaticanô II nhiều lần
đề cao, bí tích tính của Giáo hội giúp cho chúng ta xác tín chắc chắn về bản chất
song diện, tức là vừa đoàn sủng mà vừa cơ cấu, của Giáo hội; hai yếu tố này
tương can tương trợ lẫn nhau: yếu tố cơ cấu bảo toàn và đem lại hiệu năng cho
đoàn sủng; còn yếu tố đoàn sủng thì chuyền sức sống và mang lại ý nghĩa đích thực
cho cơ cấu.
Trên bình diện lý thuyết chẳng có vấn đề;
nhưng trong cuộc sống thực tế thì lúc nào cũng gặp thấy những rắc rối khó khăn
và những dằng co căng thẳng. Cả đến Ô. Semmelroth cũng phải thú nhận rằng: Luôn
luôn con người phải đối diện với mối nguy cải biến những gì là hữu hình, là thể
chế, thành ra cái tuyệt đối, và do đó, làm phương hại đến bí tích tính. Vì thế,
có thể xảy ra là hành động của Thiên Chúa bất chợt can thiệp qua con đường các
đoàn sủng, mang hình thái đối nghịch hẳn lại với một lề lối thể chế tê liệt, cứng
nhắc nhưng lại được coi như là tuyệt đối. Sự kiện này, tự nó, không có nghĩa là
các đoàn sủng thù ghét thể chế, nhưng ngược lại, cho thấy rõ sự hỗ trợ mà các
đoàn sủng đem lại để giúp cho thể chế chu toàn số mạng của mình đúng theo bản
chất đặc thù của Giáo hội, ngõ hầu Giáo hội thực sự là dấu chỉ và là bí tích của
ân sủng, nghĩa là như một thực tại tương đối đang chỉ trỏ một thực tại khác, và
qua tính chất dấu chỉ hàm ngụ thực tại khác, làm cho thực tại này hiện diện thật
sự. [6]
2.1 Đoàn sủng và thừa tác vụ
Người ta thường đối chiếu các đoàn sủng với
thừa tác vụ có chức thánh, nghĩa là với phẩm trật và bí tích truyền Chức Thánh.
Thời gian gần đây, các nhà nghiên cứu thần học thường ưa nói tới các thừa tác vụ,
và mở cách hiểu ý niệm này ra rộng hơn để bao gồm cả những thừa tác vụ giáo dân
trong Giáo hội nữa.[7]
Mặt khác, người ta cũng tìm cách giải quyết
cho xong tình trạng đối ngẫu muôn thuở giữa thừa tác vụ và đoàn sủng, và tất
nhiên là không phải theo con đường của thần học kinh viện, vì nền thần học này
hằng quan niệm rằng chức thánh là một ơn nhưng không (gratis data). Thế
nên, phải giải quyết theo một đường lối khác.
Đối lại với luận đề cho rằng thừa tác vụ phẩm
trật đã dùng bạo lực mà áp phục hoạt động của đoàn sủng, thì có nổ lực suy tố
và đào sâu lịch sử thần học cho đến tận nguồn cội, tức là những gốc rễ đã làm
cho thừa tác vụ chức thánh phát sinh ra và lớn mạnh lên cũng như cho đến tính
chất phục vụ bẩm thụ của thừa tác vụ ấy.
Đối với L. Sartori, một thần học gia chuyên
môn về vấn đề này, thì: Thánh Phaolô đã cố gắng đưa ra một danh sách còn bỏ ngỏ
để liệt kê các đoàn sủng; ngài đã cố dành chỗ cho mọi ân huệ, cho mọi tín hữu;
ngài đã cố ưu đãi cách riêng những đoàn sủng thấp hèn nhất, bền vững nhất,
thông thường nhất và có sức nâng cao nhân tính nhiều nhất. Làm như vậy, là ngài
đã dọn đường để nâng cao dần giá trị của các thừa tác vụ mà lúc đầu đã bị lu mờ
trước những chức vụ và đoàn sủng to lớn khác: chẳng hạn như là ơn làm tông đồ
sáng lập các giáo hội, ơn làm tiên tri, ơn dạy dỗ, và các ơn đặc biệt ban cho
khôn ngoan hoặc là quyền làm phép lạ, v.v... Rút kinh nghiệm lịch sử, Giáo hội
đã đi đến chỗ cảm thấy cần phải củng cố các liên hệ hiệp nhất để ứng phó với
con số các tín hữu và các cộng đoàn cố tăng dần. Chính lúc đó, vấn đề điều hòa
giữa đoàn sủng với thừa tác vụ đã nhảy lên hàng đầu. Và như thế, ý niệm về vai
trò của tất cả các đoàn sủng nói chung và của một số các đoàn sủng khác nói
riêng, đối với công tác phục vụ cho hiệp nhất, đã bừng hiện lên.[8]
Nhu cầu phục vụ cho hiệp nhất như thế đã dần
dần đưa ra ánh sáng một lề lối mới trong cách thức đánh giá các đoàn sủng: lề lối
này sẽ trở thành dứt khoát trong Giáo hội. Ngay từ thời cộng đoàn kitô sơ khai,
người ta cũng đã nhận thức được rằng có những đoàn sủng xuất hiện thoáng qua nhất
thời, để như là gióng lên một lời nhắc nhở Giáo hội đừng quên chú tâm đến Thánh
Linh. Loại đoàn sủng này đôn thúc Giáo hội theo chiều dọc.
Cũng có những loại đoàn sủng khác biểu thị những
nhu cầu chung và thông thường của cộng đồng kitô, và đáp ứng những nhu cầu chức
năng lâu bền trong mỗi cộng đoàn cũng như trong Giáo hội hoàn vũ. Các đoàn sủng
này đôn đốc Giáo hội theo chiều ngang, và có liên hệ mật thiết hơn với cuộc sống
cũng như với các nhu cầu của cộng đoàn.
Thiếu chúng, cộng đoàn không thể phát triển
được. Ân huệ của Thiên Chúa thì cao trọng hơn người thụ ân. Do đó, các thừa tác
vụ có chức thánh phải được hiểu như là những chức vụ, những dịch vụ. Tự bản chất,
mọi đoàn sủng đều hướng đến công tác xây dựng cộng đoàn giáo hội, và vì thế, cần
phải hội nhập vào trong thể chế cũng như cần phải được phối hợp với các thừa
tác vụ.
Xét cho cùng, không thể nào các đoàn sủng và
vai trò xây dựng của chúng lại mâu thuẫn với các thừa tác vụ được. Các thừa tác
vụ khởi đầu ngay từ buổi khai sinh Giáo hội với nhóm môn đồ của Đức Giêsu tại
thế, cụ thể là với phận vụ cánh chung của nhóm 12; rồi sau đó, trong thời hoạt
động của Đức Giêsu, các thừa tác vụ càng ngày càng tăng triển thêm lên nhờ việc
Ngài tuyển chọn, cắt đặt những viên chức và trao quyền hành cũng như ủy nhiệm số
mệnh cho các tông đồ. Tiếp đó, chức vụ tông đồ tách rời ra khỏi mọi thứ tác vụ
hậu tông đồ khác, như đọc thấy trong hai sách của thánh Luca, trong các thư mục
vụ và trong thư thứ nhất của thánh Phêrô. Trước tiên, thừa tác vụ nhắm tới công
cuộc giáo huấn, tuy nhiên không phải vì thế mà không bao gồm cả việc chỉ đạo và
quản trị cộng đoàn nữa. Dựa theo nguồn gốc và đường lối thực hành của thừa tác
vụ, có thể coi nguồn gốc của việc kế truyền hế thống thừa tác vụ (tông truyền)
và phong chức thánh như là đã được xác định. Có điều lý thú đáng lưu ý là Tân ước
giới thiệu các nhân tố đặt định thừa tác vụ một cách rất tự nhiên, và theo Tân
ước, các nhân tố này không phải chỉ có tính cách phụ thuộc vòng ngoài, nhưng thực
sự ảnh hưởng đến những gì là then chốt. Cuối cùng, trong Tân ước, cũng không đọc
thấy có chỗ nào thừa tác vụ đối địch lại với các dịch vụ của đoàn sủng. [9]
2.2 Đoàn Sủng Và Quyền Bính
Điểm này chỉ là một khía cạnh cụ thể và thực
tiễn của đề mục trên đây. Thừa tác vụ có chức thánh phẩm trật nắm giữ một số
quyền hành; các quyền này có thể đặt định điều kiện cho hoạt động cụ thể của
các đoàn sủng. Trung thành với đường hướng Công đồng chung Vaticanô II (GH 21),
khoản 375,2 của giáo luật quy định rằng:
Nhờ chính việc thụ phong giám mục, cùng với
nhiệm vụ thánh hóa, các giám mục còn lãnh nhận cả các nhiệm vụ quản trị và giảng
dạy nữa. Tuy nhiên, theo bản tính của chúng, các nhiệm vụ ấy chỉ có thể được
hành sử trong niềm hiệp thông phẩm trật với vị thủ lãnh và với các thành viên của
giám mục đoàn. Và khoản 381,1 còn ghi thêm: Trong giáo phận đã được giao phó,
giám mục giáo phận có mọi quyền hành thông thường, riêng biệt và trực tiếp cần
thiết cho việc thi hành nhiệm vụ mục vụ của ngài, ngoại trừ những vụ mà pháp luật
hoặc sắc luật của Giáo Hoàng đã dành lại cho quyền bính tối cao hoặc cho một
quyền bính nào khác trong Giáo hội.
Còn đối với Giáo Hoàng, điều khoản 331 tuyên
bố rằng: do uy lực của nhiệm vụ mình, ngài có quyền thông thường tối cao, sung
mãn, trực tiếp và phổ quát trong Giáo hội, và luôn luôn ngài có thể tự do hành
sử quyền ấy.
Theo giáo luật hiện hành, các quyền hành
trong Giáo hội đều được ghép chặt ngay từ trong bản chất của chúng với các nhiệm
vụ, mà các nhiệm vụ là những lối biểu hiện của các thừa tác vụ, tức là của những
cách thức phục vụ công cuộc xây dựng cộng đồng giáo hội. Cho dù đó đây có gặp
thấy những thái độ do dự và một vài khó khăn chưa hẳn là nan giải, bộ giáo luật
mới vẫn tiếp tục khẳng định về mối liên hệ nối chặt quyền bính trong Giáo hội lại
với chức thánh lãnh nhận qua bí tích; nhưng không phải vì thế mà không thể hy vọng
sẽ có một lập trường cởi mở hơn. Điều khoản 129 của giáo luật cho thấy nhiều
triệu chứng báo hiệu:
Chiếu theo quy tắc luật định, những người có
chức thánh là chủ thể đủ tư cách để nhận được quyền cai trị là quyền bính do
thiên định mà có trong Giáo hội và cũng gọi là quyền tài phán (xét xử);
Trong việc hành sử quyền ấy, các giáo dân có
thể cộng tác theo quy tắc của luật.
2.3 Đoàn sủng và pháp luật
Sau đây là một vài nhận định tổng quát về điểm
chính yếu của bài viết này. Không ai trong chúng ta là không rõ về ý nghĩa và
tiêu đích duy nhất của giáo luật. [10]
Điều khoản 1752 là điều khoản cuối cùng của
giáo luật, miêu tả điều đó một cách rõ ràng khi viết rằng:... cần phải giữ lẽ
công bình theo giáo luật và để ý tới phần rỗi các linh hồn, vì phần rỗi này
luôn luôn phải là luật tối thượng trong Giáo hội.
Nhờ nhắm theo tiêu đích như thế, nên nếu hiểu
cho đúng, thì pháp luật không những đã mặc lấy một diện mạo mới, nhưng còn trở
nên một thành tố quan yếu trong bí tích tính của Giáo hội nữa. Phủ nhận việc thực
tại loài người này có khả năng biến đổi như thế thì chẳng khác gì giảm thiểu
chính khả năng cứu chuộc của Chúa. Chỉ khi nào chủ trương rằng tự bản chất,
pháp luật là một điều ác, thì mới có thể loại trừ pháp luật ra khỏi tầm hiệu lực
cứu độ của mầu nhiệm Ngôi Lời Nhập thể được. Trái lại, nếu hiểu cơ cấu tổ chức
trong Giáo hội như là cách thức điều hòa của communio, tức là của cộng đồng hiệp
thông được phát sinh và múc lấy sức sống từ Thánh Thể, thì lúc đó, cách hiểu
này sẽ ảnh hưởng sâu rộng trên chính toàn bộ cơ cấu kia. Cả hai nhân tố đoàn sủng
và pháp luật sẽ điều hợp để hiện thực hóa bí tích tính đích thực của Giáo hội.
Những vụ căng thẳng có thể xảy ra trong bình diện thực hành, nhưng không thể
nào dựa vào sự kiện này mà nói rằng giữa hai nhân tố nói trên có một mối tương
kỵ từ căn bản; trái lại, đó chỉ là cái biện chứng thường tình, tương tự như là ở
giữa hồn và xác trong con người vậy. Xác không hồn thì chỉ là thây; hồn không
xác thì chỉ là ma.
Là một lập trường còn thiếu sót nếu chỉ vỏn vẹn
chủ trương cho rằng giữa đoàn sủng và pháp luật không có tình trạng vô phương
hòa giải; còn cần phải đi xa hơn nữa để khám phá cho ra mối tương quan mật thiết
của hai thực tại đó nữa; bởi vì tự chính trong bản chất, Giáo hội là một. Toàn
bộ Giáo hội mang đậm tính chất đoàn sủng, cả đến những khía cạnh hữu hình cũng
vậy, bởi vì trong Giáo hội, không có gì là không do Thần khí khởi xướng. Hết thảy
mọi yếu tố nhân loại trong Giáo hội đều là dụng cụ Thiên Chúa dùng mà hành động.
Và giống như mọi sự của con người, các yếu tố ấy cũng hữu hạn, đầy khuyết điểm
và vì thế còn có thể cải tiến. Dẫu vậy, hay đúng hơn, chính vì vậy mà pháp luật
là một yếu tố được Thần khí thu dụng và, theo một ý nghĩa nào đó, cũng là một
đoàn sủng.
Có lắm lúc, các nhà thần học và mục vụ học
băn khoăn tự hỏi khổ nỗi, đôi lúc băn khoăn như thế là rất có lý không biết yếu
tố pháp lý có phá hủy mất đi yếu tố đoàn sủng trong đời sống cộng đồng kitô hay
không. Còn chúng tôi thì đặt câu hỏi hơi ngược lại: nếu không có pháp luật, thử
hỏi các đoàn sủng có được thành tựu sung mãn theo bản chất phục vụ cộng đoàn của
chúng hay không? Và hơn nữa, nếu mục tiêu cốt yếu của chúng là xây dựng cộng
đoàn, thì làm sao đoàn sủng lại chẳng hàm ngụ ở trong chính mình, một chiều
kích pháp lý/giáo luật? Sau cùng, pháp luật chẳng có nhiệm vụ đảm bảo cho các
đoàn sủng được thực sự thành tựu ở trong đời sống Giáo hội hay sao?
Vì thế, chúng tôi nghĩ rằng có thể và cần phải
nói tới một chiều kích pháp lý/giáo luật của các đoàn sủng trong đời sống Giáo
hội. Đặc điểm của các đoàn sủng nằm ở nơi chiều kích xã hội có trật tự, có tổ
chức và công bằng, cũng như ở nơi tính cách quy hướng về với công tác phục vụ cộng
đoàn. Tự bản chất, các đoàn sủng mang tính cách cộng đoàn và liên bản vị; và
như thế, không thể nào chúng lại không mang trong mình một mối liên hệ tự nhiên
với pháp luật được, vì pháp luật là một thực thể có bản sắc liên chủ thể khách
quan, tức là công bằng. Trong cộng đồng Giáo hội, tác động của các đoàn sủng ảnh
hưởng sâu đậm đến quyền lợi và nghĩa vụ các cá nhân, đến địa vị và các sinh hoạt
liên bản vị pháp lý của họ.
Chính giáo luật cũng là một loại dịch vụ
trong Giáo hội, được hội nhập vào trong kế hoạch mầu nhiệm cứu độ, và được
Thánh linh thu dụng như là một yếu tố cần thiết cho bí tích tính của Giáo hội.
2.4 Quyền lợi và nghĩa vụ hành sử các đoàn sủng
Sắc lệnh về Tông đồ giáo dân đặt ra một số vấn
nạn hóc búa trong lãnh vực giáo luật và mục vụ. Xin ghi lại đây đoạn văn quý
giá này: Hết mọi tín hữu đều có bổn phận rất cao cả là hoạt động để mọi người ở
mọi nơi trong khắp thế giới, nhận biết và đón nhận Phúc âm cứu độ của Chúa. Để
giúp thực hiện công tác tông đồ này, Thánh Linh là Đấng hằng thánh hóa Dân Chúa
qua các thừa tác vụ và các bí tích, sẽ ban cho các tín hữu cả những ơn đặc biệt
(xem 1Cr 12,7), bằng cách phân phát những ơn đó cho mọi người tùy ý Ngài (1Cr
12,11), để mỗi người tùy theo ơn đã nhận được mà giúp đỡ nhau và chính họ sẽ trở
nên như những người quản lý trung tín cho ân sủng muôn hình thái của Thiên Chúa
(1Pr 4,10), hầu xây dựng toàn thân trong đức ái (xem Ep 4,16) (TĐ 3). Do sự đón
nhận những đoàn sủng này, mọi tín hữu đều có quyền lợi và bổn phận hành sử những
ơn ấy trong Giáo hội cũng như giữa trần gian để mưu ích cho mọi người và để xây
dựng Giáo hội, với tất cả tinh thần tự do trong Thánh Linh, là Đấng 'muốn đâu
thì thổi đến đó' (Ga 3,8), và đồng thời việc hành sử này cũng tiến hành trong
niềm hiệp thông với anh chị em trong Chúa Kitô, nhất là với các vị chủ chăn của
mình. Chính các ngài có nhiệm vụ phân định về tính chất đích thực của các đoàn
sủng, cũng như về cách thức để hành sử chúng cho thích hợp, dồ nhiên là không
phải để dập tắt Thánh Linh đi, nhưng là để thử nghiệm tất cả và giữ lại những
điều tốt lành (xem 1Tx 5,12; 19,21) (TĐ 3).
2.5 Chủ thể quyền lợi và những cơ nguy của việc
hạn chế
Điểm then chốt của vấn đề là chủ trương cho rằng
Thánh Linh tự do ban phát đoàn sủng cho các tín hữu; ai nhận được các ơn ấy thì
cũng đều có quyền lợi và nghĩa vụ hành sử chúng. Thì không có lý do gì để không
thu gồm vào trong lãnh vực hoạt động trên đây của Thánh Linh, cả hàng giáo sĩ
(phó tế, linh mục và giám mục) nữa, vì họ cũng là những tín hữu kitô với những
quyền lợi và nghĩa vụ căn bản giống hệt như bất cứ ai trong các tín hữu. Cố xem
các khoản giáo luật 96 và 208 thì sẽ rõ.
Rõ ràng là Công đồng chung Vaticanô II cũng
như các khoa giáo hội và mục vụ học hiện đại đều lưu tâm cổ xúy các giáo dân
tích cực đảm trách các hoạt động trong đời sống và số mạng của Giáo hội. Bằng
chứng rõ nhất là sự việc Thượng hội đồng giám mục năm 1989 đã chọn đề tài sau
đây về giáo dân làm chủ đề cho đại hội: Ơn gọi và số mệnh của giáo dân ở trong
Giáo hội và ở giữa trần gian. Song song với các ưu tư trên đây, còn có một mối
lo khác không phải là vô căn cứ, sợ rằng việc các giáo dân đảm trách các hoạt động
như đã đề cập trên đây, sẽ bị chèn ép bởi giới giáo sĩ quen lấy chuyên quyền mà
điều khiển cộng đoàn Giáo hội. Cũng nên báo nguy về sự việc những chỉ thị mục vụ
quá tỉ mỉ của một số cơ quan (như là các hội đồng giám mục, linh mục, mục vụ,
v.v...) đưa ra, có thể hạn chế đến độ bóp nghẹt cách tai hại các hoạt động của
giáo dân.
2.6 Cần phải cụ thể hóa pháp luật
Quyền lợi và nghĩa vụ hành sử các đoàn sủng
không phải chỉ là chuyện lý thuyết vỏn vẹn đóng khung trong một bản tuyên ngôn
đưa ra các nguyên tắc trừu tượng mà thôi. Vì thế, cần phải xác định cho chúng một
nội dung có nền tảng pháp lý thực sự và được luật lệ đảm bảo đầy đủ. Về điểm này,
Bộ giáo luật mới đã không thực thi một cách trọn vẹn và rõ ràng những gì ghi
trong văn bản công đồng chung Vaticanô II. Tuy nhiên, cách chung thì Bộ giáo luật
mới cũng đã tỏ ra cởi mở hơn đối với đà phát triển của hoạt động đoàn sủng.
Thử nhìn lại một vài trường hợp cụ thể. Điều
khoản 211 của giáo luật có vẻ hơi là lạ: thực ra, đó chỉ là bản ghi lại của số
3 trong Sắc lệnh về Tông đồ giáo dân (Apostolicam Actuositatem); còn đoạn này thì lại chép gần như nguyên
văn, số 33 của Hiến chế về Giáo hội; chỉ khác một điều là Hiến chế dùng từ giáo
dân (laici), còn Sắc lệnh
thì thay thế từ này bằng một từ ngữ có nghĩa rộng hơn, tức là tín hữu kitô (christifideles).
Trong khi đó, điều khoản 211 lại ghi rằng: Tất
cả các tín hữu có nghĩa vụ và quyền lợi phải làm sao cho số điệp cứu độ của
Thiên Chúa càng ngày càng được truyền tới hết mọi người thuộc mọi thời và mọi
nơi. Bản văn không ám chỉ gì đến đoàn sủng cả; trong khi đó, Sắc lệnh (TĐ) coi
đoàn sủng như là một thành tố làm nền tảng cho quyền lợi và nghĩa vụ thực thi
công tác tông đồ.
Điều khoản 208 cũng cần được giải thích theo
một cách thức tương tự như vậy: vì bình đẳng như nhau, nên các tín hữu cộng tác
với nhau để xây dựng Thân Thể Đức Kitô tùy theo điều kiện và chức vụ riêng của
từng người.
Các đoàn sủng được ban cho nhằm tiến hành
công cuộc xây dựng ấy. Nếu giáo dân có quyền... bày tỏ ý kiến của mình... (đ.
212,3), thì cũng phải có quyền hành sử ơn phân định đã nhận được. Đó là những
gì điều khoản 214 muốn nói lên một cách khá rõ ràng: Các tín hữu có quyền... theo
đuổi một đường lối tu đức riêng, miễn sao phù hợp với đạo lý của Giáo hội. Các
nhận định trên đây cho phép kết luận rằng còn có một khoảng rộng thêng thang
dành cho tự do cá nhân để cho các đoàn sủng có thể triển nở thoải mái. Hơn nữa,
điều khoản 215 còn khẳng định rõ về quyền thành lập hiệp hội: lịch sử các phong
trào đoàn sủng trong Giáo hội chứng minh cho thấy đó là một trong những điểm có
tầm quan trọng rất lớn. Chúng tôi sẽ bàn đến điểm này trong đoạn 2.8 tiếp sau
đây.
2.7 Những vấn nạn do điều khoản 216 đặt ra
Với điều khoản 216, giáo luật làm như ngầm
công nhận quyền hành sử các biệt sủng: Vì được tham dự vào số mạng của Giáo hội,
tất cả các tín hữu đều có quyền cổ võ và nâng đỡ hoạt động tông đồ kể cả bằng
sáng kiến riêng, tùy theo tình trạng và điều kiện của họ; tuy nhiên, không sáng
kiến nào có thể mệnh danh là công giáo nếu không có sự đồng ý của nhà chức
trách có thẩm quyền trong Giáo hội. Nên lưu ý là điều khoản này chép lại gần
như từng chữ số 24 của Hiến chế TĐ.
Từ Latinh incepta được dịch ra nhiều cách
trong tiếng Việt: Bản dịch văn kiện Công đồng chung Vatican II do Giáo Hoàng Học
viện Piô X, Đàlạt thực hiện, thì dùng từ công cuộc; còn bản dịch Bộ giáo luật mới
(N.S Trái Tim Đức Mẹ, Hoa Kỳ) thì dựa theo một số bản dịch tiếng Ý và Tây ban nha[11] mà dùng
từ sáng kiến. Trong tiếng Pháp, các bản dịch có khi thì dùng từ initiative
(sáng kiến), [12] có khi thì dùng cả hai từ initiative
và entreprise (kế hoạch, công trình) [13] trong
cùng một đoạn, chẳng hạn như trong điều khoản 216.
Cách dịch từ incepta đã được lưu ý đặc biệt
như thế là vì từ ngữ đó hàm súc một điểm hết sức quan trọng trong bộ giáo luật
mới. Quyền sử dụng các biệt sủng sẽ được hiểu rộng, hẹp thế nào là tùy theo
cách giải thích điều khoản 216. Thí dụ, các giáo số Đại học Navarra (Opus
Dei) giải thích điều khoản này như
sau: Một trong các hình thức hành sử quyền thành lập hiệp hội là tổ chức các
công trình kinh doanh tông đồ (empresas apostólicas), chẳng hạn như: nhà xuất bản, chẩn y viện,
trung tâm giáo dục, đài phát thanh hoặc truyền hình, v.v... Quyền này gồm có
quyền sáng lập, quyền tham gia vào các công tác đã có, quyền tự do lập quy chế
và quản lý, v.v.... [14]
Lối giải thích này gây ra nhiều vấn đề hóc
búa. Hình như các tác giả nói trên hiểu từ inceptaơ theo nghĩa công việc, công
tác, công trình kinh doanh tông đồ, và đưa ra một số dẫn dụ mà đa số đã được
quy định trong Quyển ba của Bộ giáo luật. Chính ý niệm empresas apostólicas (công trình kinh doanh tông đồ) cũng rất
là mập mờ. Có thể hiểu đó là những công trình kinh doanh tổ chức theo dân luật
hay là luật thương mại, nhưng với mục tiêu tông đồ. Tuy nhiên, nếu hiểu như thế,
thì thử hỏi Bộ giáo luật cần gì phải xác định về một quyền lợi không mấy liên
quan gì tới cộng đồng giáo hội, và cũng đã được đảm bảo cho mọi tín hữu sống
trong xã hội tự do dân chủ?
Cần phải dựa theo bối cảnh của toàn bộ quyền
lợi và nghĩa vụ ở chính trong nội bộ của Giáo hội mà giải thích điều khoản 216.
Trong bối cảnh này, người đã được chịu phép rửa tội đạt đến chỗ thành tựu về mặt
pháp nhân, và hành sử những quyền lợi cũng như nghĩa vụ ấy vào việc kiến tạo cộng
đoàn giáo hội. Giải thích ý niệm sáng kiến và coi như đồng nghĩa với công trình
kinh doanh là thu hẹp ý nghĩa của nó; giải thích cho khoảng khoát hơn thì phải
coi sáng kiến bao gồm cả dịch vụ xây dựng Thân Mình Chúa Kitô nữa, tức là thông
phần tích cực vào số mạng của Giáo hội. Vì thế, cần phải chính thức công nhận
những sáng kiến ấy về mặt xã hội và pháp lý trong Giáo hội. Đó là trường hợp của
sự kiện giáo luật công nhận quyền lợi và nghĩa vụ trong việc hành sử các đoàn sủng.
Chúng tôi nghĩ rằng cần phải giải thích từ incepta theo một lối khoảng khoát rộng rãi hơn
và ít có vẻ xí nghiệp kinh doanh hơn mới được; tốt hơn là hiểu incepta theo nghĩa sáng kiến.
Các giáo số Đại học Salamanca thì giải thích
điều khoản 216 theo sát các văn bản của Công đồng chung Vaticanô II hơn: Dùng một
thứ ngôn ngữ riêng, điều khoản 216 công nhận sự việc Thánh Linh hoạt động trong
Giáo hội không những qua trung gian của thừa tác vụ phẩm trật, mà còn ở ngoài
tác vụ ấy nữa. Lịch sử đã hùng hồn chứng minh điều đó. Nhưng một sáng kiến nào
đó, dù tập thể hay cá nhân, muốn mang danh nghĩa là công giáo, thì cần phải được
phẩm trật chấp thuận. Làm thế, phẩm trật không có ý muốn chiếm độc quyền về đặc
tính công giáo, song là để chu toàn phận vụ nhận định của mình; bởi vì trong
Giáo hội, có thể xuất hiện những sáng kiến hay khuynh hướng không mấy phù hợp với
số điệp mạc khải, hoặc là nói cho rộng hơn cố đồng hóa với thực chất công giáo
những quan điểm đảng phái chưa chắc là đúng. [15]
Ngoài ra, vì điều khoản 216 thuộc Tiết I, Quyển
II là sách đề cập đến quyền lợi của tất cả mọi tín hữu, nên cũng phải được áp dụng
cho cả các giáo sĩ nữa, chứ không phải chỉ cho riêng các giáo dân thôi.
Cũng nên lưu ý là J. Perarnau, một chuyên gia
nổi tiếng về Sắc lệnh TĐ, cũng đã dùng từ sáng kiến để dịch từ incepta, và đã
giải thích như sau: Trên nguyên tắc, Công đồng khẳng định việc giáo dân tự do
có sáng kiến tông đồ: muốn nghiên cứu vấn đề, thì cần lưu ý là về điểm này, dưới
một hình thức nào đó và ngấm ngầm trong toàn văn bản của Sắc lệnh, vẫn đọc thấy
một số điều còn gây căng thẳng giữa quyền bính và tự do. [16]
Một chuyên gia trong Ủy ban Công đồng đặc
trách về dự thảo Sắc lệnh, đã trình bày với các giám mục thế này: Giáo dân là
những phần tử của Nhiệm Thể; nhưng thực sự, các giám mục muốn trước hết các
giáo dân phải lo vâng phục các ngài; trong khi đó thì ngược lại, các giáo dân ước
muốn thấy quyền tự do có sáng kiến của mình được công nhận. Chương IV bàn về
Giáo dân, trong Hiến chế tín lý về Giáo hội, nhận định rằng: là chi thể sống động
của Nhiệm Thể, các giáo dân được hưởng tự do của con cái Thiên Chúa. Các giáo
dân là những con người, và vì thế được quyền có sáng kiến; còn phẩm trật thì có
bổn phận phục vụ các chi thể của Nhiệm Thể, và chính vì vậy, cũng có bổn phận
phát huy sáng kiến của giáo dân. Có một điều căn bản trong đời sống Giáo hội,
đó là tự do, đặc biệt là trong lãnh vực đời. Giới chức trách cần phải đưa ra những
quy tắc để nâng đỡ và chỉ đạo cho tự do.[17]
Ý hướng của văn bản Công đồng (TĐ 24) là nhằm
xác nhận lại quyền tự do của giáo dân. Bằng chứng là trong Công đồng, lúc các
nghị phụ thảo luận về các modiơ (những điểm tu chỉnh), một giám mục đề nghị là
phải viết hẳn lại bản văn nói trên, vì nó nhường quá nhiều quyền tự do cho giáo
dân, thì được ban chủ tịch trả lời: Đa số các nghị phụ có ý kiến ngược lại.[18]Đức Cha Hengbach, giám mục Essen (Đức), một trong các
tác giả có ảnh hưởng quyết định nhất trên bản văn, đã nói là: Hoàn toàn trung
thành với giáo lý về nhiệm vụ của phẩm trật đối với kỷ luật, chiều hướng chủ yếu
của các đề nghị đưa ra để tu chỉnh bản văn, kể cả những đề nghị có tính cách
pháp lý nhất, cũng chỉ một mực quy về với việc cổ võ cho tự do và trách nhiệm
riêng của giáo dân. [19]
Trong khi họp để bàn về đoạn nói trên trong Sắc
lệnh TĐ, Công đồng đã thảo luận một cách sống động và tinh vi, văn bản được coi
là nguồn phát xuất trực tiếp của điều khoản 216 trong bộ giáo luật mới. Thực
ra, điều khoản này không lấy lại nguyên vẹn từ ngữ Công đồng dùng là libera electione (tự do
chọn lựa). Từ ngữ này được dùng ở trong điều khoản 215 khi bàn tới Quyền tự do
thiếp lập và điều hành các hiệp hội, cũng như lúc đề cập đến một số khía cạnh
thuộc Thiên V, Quyển II của Bộ giáo luật mới, liên quan tới Các hiệp hội của
các tín hữu. Chẳng hạn, điều khoản 299 ghi về: quyền lập các hiệp hội tốơ với
thể chế tự trị (đk. 323) và được tự do chọn chủ tịch (đk.324,1) cũng như linh
hướng (đk.324,2), cùng được tự do quản lý tài sản theo nội quy riêng
(đk.325,1).
2.8 Bộ giáo luật mới còn mơ hồ đối với quyền
tự do lập hiệp hội
Trong bộ giáo luật mới, phạm vi dành cho tự
do, và vì thế cũng là dành cho sáng kiến phát huy các đoàn sủng, đã được nới rộng
khá nhiều. Giáo luật cũng đưa ra những đảm bảo; tuy nhiên, vẫn thường xuyên gặp
thấy một mối lắng lo đề phòng, và dù sự hiện diện của các hiệp hội tố là một bước
tiến lớn trong lãnh vực tự do sáng kiến, thì cũng vẫn không tránh khỏi một sự hạn
chế đáng kể tới, đó là việc nội quy phải được phê chuẩn trước khi các hiệp hội
được quyền hưởng tính cách pháp nhân (đk. 322,2).
Thừa nhận quyền lập hiệp hội và đảm bảo cho
hiệp hội sống còn là điều khác xa nhau rất nhiều! Điều khoản 299,3 ghi rằng:
Không một hiệp hội nào của tín hữu được thừa nhận trong Giáo hội nếu nội quy của
hiệp hội không được nhà chức trách có thẩm quyền duyệt y. Duyệt y ở đây có
nghĩa là nihil obstat (không gì trở ngại), tức là xác nhận rằng hiệp hội thành
lập do sáng kiến riêng không có điều gì đi ngược lại với giáo lý của Giáo hội,
và các mục tiêu nhắm tới cũng như phương thức hoạt động của hiệp hội không nghịch
với đức tin và luân lý kitô. Phạm vi dành cho tự do thật là rộng.
Hai điều khoản 299,3 và 322,2 nói rõ về việc
thừa nhận những hiệp hội có nội quy đã được giáo quyền chuẩn y. Điều này giới hạn
phạm vi của quyền tự trị, và như thế gây khó khăn thực sự cho quyền hành sử các
đoàn sủng. Dù sao thì việc thừa nhận kia cũng cho thấy một thái độ tích cực
đánh giá các thành tố làm nên sáng kiến đoàn sủng. Sợ sệt và dị ứng đối với cái
mới là chuyện thường thấy. Lịch sử còn đó để nói cho biết là các vị lừng danh
vì các đoàn sủng nhận được, đã phải trả giá đắt tới mức nào mới được thừa nhận
vào trong cơ cấu Giáo hội. Đó là trường hợp của một Phanxicô thành Assisi với
Quy luật Dòng Anh Em hèn mọn, của một Inhã thành Loyola với Hiến pháp Dòng Tên,
hay là của một Têrêxa thành Avila với các tu viện Carmêlô không có lợi tức...
Dù giáo luật công nhận các hiệp hội tố và đó
là một bước tiến đáng kể, thì việc buộc nội quy phải được giáo quyền duyệt y, đặt
các hiệp hội vào trong một vị thế pháp lý gò ép, không ổn định và chỉ có giá trị
mong manh về mặt xã hội. Nói rằng các hiệp hội được quyền hưởng tính cách pháp
nhân, không phải là một câu trả lời thỏa đáng trong Giáo hội, vì điều ấy chỉ muốn
nói rằng Giáo hội thừa nhận ở giữa lòng cuộc sống của mình sự hiện diện của một
tổ chức dân sự, chứ chưa chắc gì đã có nghĩa là đón nhận sinh hoạt của sáng kiến
các giáo dân đưa ra. Đó chỉ là một cách chạy trốn vấn đề mà thôi.
3. PHẠM VI TỰ DO ĐƯỢC GIÁO LUẬT ĐẢM BẢO
Những cuộc tranh luận trong Công đồng
Vaticanô II về ý nghĩa quyền tự do của giáo dân, và về nhiệm vụ của hàng giáo
phẩm cần thiết cho mọi sáng kiến tông đồ, chứng tỏ rằng Giáo hội cần phải cẩn
trọng cân nhắc thêm hầu đảm bảo thỏa đáng cho phạm vi tự do của giáo dân. Công
đồng Vaticanô II đã có những trực cảm sâu rộng và đã mở ra những con đường mới;
nhưng những khó khăn gặp phải trong thực tế thời hậu công đồng, cũng như thái độ
ù lì trì trệ của nhiều thể chế và của một số nhân vật đã hãm dần đà tiến của
Công đồng. Bộ giáo luật mới có một số nhận định phân tích và nguyên tắc rất xác
đáng, có sức đảm bảo cho các quyền lợi căn bản cũng như nói lên một tinh thần mới,
một lối nhìn mới về Giáo hội. Nhưng tiếc thay là những điều ấy có khi chỉ để
làm tiêu đề cho các chương các mục, chứ nhiều lúc không được thể hiện đầy đủ qua
các điều khoản thực tế của bộ luật.
Ngay từ năm 1970, các nhà bình giải Sắc lệnh
về tông đồ giáo dân đã cũng tỏ ra bận lòng đối với Sắc lệnh TĐ. J. Grotaers đã
viết như thế này: Việc củng cố tổ chức các giám mục đoàn (từ sau Công đồng)
trên bình diện quốc gia, đã tạo cơ hội thuận lợi cho đà tập trung ảnh hưởng
liên giáo phận, gây thương tổn đến sự tự trị của các giáo dân, và làm cho vấn đề
tự trị vốn khó khăn này càng trở nên sôi sục hơn.[20] Thực ra, mối bận lòng kia không phải
là không có lý, vì bộ giáo luật mới đã giữ thái độ lặng thinh trước một số vấn
đề.
Việc nhận định về một sự đảm bảo đích thực
dành cho quyền tự do hành sử các đoàn sủng, có liên hệ mật thiết với phạm vi tự
do mà giáo lý Công đồng khẳng định nhiều lần. Đoàn sủng nào cũng mang chiều
kích xã hội; và vì thế, phải được thực thi ngay ở giữa lòng của cộng đoàn giáo
hội.
Vậy nếu mọi sự sáng tạo đều phải quy phục một
sự kiểm soát thể chế đanh thép, thì lúc đó sẽ gặp nhiều trở ngại lớn. Chính
Công đồng cũng đã nhắn nhủ các giám mục là đừng dập tắt Thánh thần đi (GH 12).
Cha Karl Rahner đã lên tiếng báo động về nguy cơ đó: Có những đoàn sủng đã vì lỗi
con người mà mất hết hiệu lực đối với Giáo hội. Vì vậy, giới chức trách trong
Giáo hội không có quyền viện lý cho là một thần linh, nếu thực sự từ Thiên Chúa
mà đến, thì thế nào cũng sẽ biết cách tìm ra con đường thành công cho dù có gặp
kháng cự, để chủ trương rằng mình có phép lầm lỡ. Thái độ ấy chỉ chồng chất
thêm khổ đau lên trên những đau khổ không thể tránh khỏi đã sẵn có: đó thực là
một hành động bất công đối với Thiên Chúa, đối với các người nhận được đoàn sủng
cũng như đối với Giáo Hội.[21]
3.1 Một vài trường hợp cụ thể
Các điều khoản của bộ giáo luật mới liên quan
đến thừa tác vụ giám mục, đã không ghi lại lời nhắn nhủ của Công đồng khuyên đừng
dập tắt Thánh Thần đi (GH 12). Nhưng điều khoản 387 thì nhắc nhở giám mục giáo
phận hãy ra sức cổ động bằng mọi cách để các tín hữu chăm lo nên thánh, tùy
theo ơn gọi riêng của từng người. Điều khoản 386,2 cũng khuyên phải nhìn nhận sự
tự do chính đáng trong việc tìm hiểu chân lý cách sâu rộng hơn, và điều khoản
394,2 nói về bổn phận của giám mục phải thúc dục mọi giáo hữu chu toàn nghĩa vụ
làm việc tông đồ tùy theo điều kiện và khả năng của mỗi người.
Các điều khoản bàn riêng về công việc mục vụ
trong giáo xứ cũng không đề cập gì tới hoạt động của các đoàn sủng, nghĩa là
không nói đến việc phát hiện và đón nhận các ân huệ của Thánh Linh trong đời sống
cộng đồng. Cả đến các điều khoản 528í529 mang nhiều ý nghĩa nhất, cũng chẳng
cho thấy một dấu lưu tâm nào tới sức sinh động của các đoàn sủng trong các cộng
đoàn mà đáng lý phải được các vị chánh xứ chăm sóc, đảm bảo hoặc ít là cần được
để ý tới. Cũng có thể là các người biên soạn Phần II trong Quyển II của Bộ giáo
luật đã quên đọc các Chương đầu trong Phần I của Quyển này. Tuy nhiên, một tia
sáng đã lóe lên trong Phần III tiếp đó, tức là trong Phần bàn về các tu hội tận
hiến, vì không thể nào bỏ quên ý nghĩa đoàn sủng của lối sống phúc âm này được.
Chính Bộ giáo luật đã gọi lối sống này là ân huệ Chúa ban (đk. 575), diễn ra dưới
tác động đặc biệt của Thánh Linh (đk. 573). Các tu hội đã nhận được những ân huệ
khác nhau tùy theo ơn riêng ban cho mỗi tu hội (đk. 577).
Trong lãnh vực các tu hội, Bộ giáo luật mới
đã cho thấy một bước tiến khả quan. Nhưng quan trọng nhất là điều khoản 605. Điều
khoản này không bàn đến việc thành lập các tu hội tận hiến mới, khuôn rập theo
mẫu mực cổ điển của Luật chung, nhưng là nói lên sức phong phú và tính chất
muôn hình thái của các đoàn sủng mới. Bộ giáo luật có trực cảm về sự việc Thánh
Linh có thể dùng đoàn sủng của Ngài mà dấy lên những hình thức mới của đời sống
tận hiến, như là những cách biểu đạt mới của việc làm chứng cho Phúc âm, những
đóng góp sung sức cho sinh lực của Giáo hội. Liên quan đến vấn đề này, giáo luật
cẩn trọng lưu ý các giám mục về trách vụ phải cảnh giác, nhận định và đón nhận
cái mới, cũng như phải biết cổ xúy và tôn trọng các ân huệ ấy của Thiên Chúa.
Điều khoản 605 là một trong những điều khoản nói lên nhiều ý nghĩa nhất của Bộ
giáo luật mới.
Dù có thể rất nhiều và rất khác nhau, các
hình thức mới của đời sống tận hiến cũng vẫn phải phù hợp với các yếu tố ghi
trong điều khoản 573. Có điều đáng chú ý là trong điều khoản 605, bổn phận chăm
sóc các đoàn sủng mới này được trao cho giám mục giáo phận (theo nghĩa của đk.
143,3), tức là như một nhiệm vụ cá nhân của giám mục địa phương. Điều này thể
hiện rõ vai trò của giám mục làm người cha linh hướng của cộng đoàn, biết mở
lòng cho hoạt động của Thánh Linh và biết đẩy mạnh đà sinh động của các đoàn sủng.
Điều khoản 605 có một tầm quan trọng lớn, vì
đó là điều khoản duy nhất đề cập đến bổn phận của các giám mục đối với hoạt động
các đoàn sủng. Có điều gây ngạc nhiên là khi bộ giáo luật mới đưa ra những quyết
định rất tỉ mỉ về nhiệm vụ và quyền hạn của giám mục, thì đã nhiều lần nhắc tới
sự việc các giám mục có quyền tự do hành động trong một số trường hợp và tự do
chỉ định một số chức vụ ; [22] nhưng
tuyệt nhiên không một đoạn nào nói tới bổn phận của các ngài phải lo chăm sóc đến
tự do và các quyền lợi của giáo dân. Sự im lặng này vang vọng càng rõ hơn, nếu
đem nó đối chiếu với điều khoản 384 là điều khoản quy định việc các giám mục phải
bênh vực quyền lợi của các linh mục. Các luật gia soạn ra bộ giáo luật mới đã
quên không quy các phó tế vào trong trường hợp này, vì điều khoản trên đây chỉ
nói tới một mình các linh mục, làm như giáo sĩ trong giáo phận chỉ có gồm các
linh mục mà thôi.
Duy chỉ có điều khoản 386,2 đã nêu lên các
quyền lợi và phạm vi tự do ở trong cộng đồng giáo phận khi quy định rằng các
giám mục phải cương quyết dùng mọi phương thế hữu hiệu hơn cả để bảo vệ tính chất
toàn vẹn và duy nhất của đức tin, nhưng đồng thời cũng phải nhìn nhận quyền tự
do chính đáng trong việc tìm hiểu chân lý cho sâu rộng hơn.
3.2 Giáo luật công nhận quyền tự do và các
quyền lợi cá nhân
Để đảm bảo quyền hành sử các đoàn sủng được
công đồng công nhận, nhưng lại bị bộ giáo luật mới ỉm đi, điều quan yếu bậc nhất
cần lưu ý đến là phải làm thế nào để qua cách giải thích giáo luật, các quyền
cá nhân cũng như phạm vi tự do ở giữa lòng cộng đồng giáo hội càng ngày càng được
đánh giá cao hơn, theo tinh thần của toàn bộ giáo lý công đồng chung Vaticanô
II.
H.R. Schlette đã đưa ra những nhận định rất
đúng lúc, khi viết về Tuyên ngôn Dignitatis humanae như thế này: Uy thế của các
lời công đồng Vaticanô II phát biểu về tự do tôn giáo sẽ như thế nào là tùy ở
chỗ chính Giáo hội có phải là một quê hương cho tự do tôn giáo hay không, nghĩa
là tùy ở mức độ Giáo hội có thực sự là một vùng tự do theo đúng nghĩa thần học
tín lý, cũng như theo đúng nghĩa thiêng liêng, văn hóa và tâm lý, trong đó, tự
do của chân lý sẽ không bị sát tế đi trên bàn thờ của văn tự đội lốt chân lý.
Vì vốn coi các quyền của con người là bất khả xâm phạm (xem TD 6), bởi lẽ các
quyền này có trước mọi thứ quy luật thiết định (nghĩa là các quyền ấy thuộc
lãnh vực thần luật, luật do chính Thiên Chúa đặt định), cho nên Giáo hội không
thể không thừa nhận để cho chúng có hiệu lực ngay trong chính ranh giới phạm vi
hoạt động của mình, cũng như không thể không để cho chúng được sáp nhập một
cách thích đáng vào trong pháp chế nội bộ của mình, hầu bảo vệ chúng chống lại
mọi thứ lạm dụng. Nếu ở giữa lòng Giáo hội cụ thể (được hiểu theo lối nhìn súc
tích và đầy hứa hẹn của Hiến chế Lumen gentiumơ), mỗi và mọi phần tử vẫn chưa
có thể sống tự do thực sự, còn phải lo sợ, còn phải chịu đủ thứ biện pháp hạn
chế, và không được bảo vệ chống lại các nguy hiểm bởi những anh em giả (2Cr
11,26), thì lúc đó, Giáo hội sẽ mất đi uy tín trong vai trò bênh vực các quyền
xã hội và công dân của con người.[23]
Đối với học thuyết về các quyền con người và
quyền tự do cá nhân nói trên đây, lúc đưa ra những lời phát biểu nhận định, Bộ
giáo luật mới đã tỏ ra rõ ràng minh bạch hơn là lúc phải ứng dụng nó vào trong
cuộc sống thực tế. Có thể lấy các điều khoản 747,2 và 768,2 làm điển hình cho lời
nhận định vừa nói.
3.3 Quyền tự do: một suy đoán pháp lý
Cần phải thay đổi tâm thức một cách tận gốc.
Cần phải hối cải trở lại. Trong Giáo hội, còn có một số nhóm chủ trương rằng mọi
sự đều phải được quy định (bằng lệnh truyền hoặc bằng lệnh cấm), không nên để
cho tự do sáng kiến một kẽ hở nào cả. Trong khi đó, cách giải thích luật pháp tốt
thiết tưởng là phải biết đặt nền móng trên một lập trường chủ trương ngược lại.
Phạm vi hoạt động của tự do là cái bẩm sinh, là cách biểu đạt của chính bản
thân con người, của nhân phẩm cũng như của khả năng sáng tạo nơi con người. Và
đồng thời, tự do cũng biểu hiện hoạt động của Thánh Linh, là Đấng làm cho Giáo
hội sống động và nên phong phú với các ân huệ Ngài ban. Vì vậy, tự do phải trở
thành một suy đoán pháp lý cơ bản. Luật pháp chỉ ra lệnh hay cấm chỉ khi vì
công ích mà cần phải điều hòa các mối quan hệ liên bản vị của tự do, tức là phối
hợp các quyền tự do của mọi phần tử trong cộng đồng xã hội.
Trong thời hậu công đồng, việc thiết đặt nhiều
quy luật đủ loại đã làm cho người ta có cảm tưởng là tự do bị giảm thiểu đi nhiều,
vì phải sống trong một hoàn cảnh có quá nhiều cấm chỉ hạn chế: không chỉ có các
quy định của Tòa Thánh mà thôi (nào là các Tông hiến đưa ra chỉ thị về cách áp
dụng các sắc lệnh của công đồng, nào là vô số những huấn thị và văn kiện của
các Bộ trong Tòa Thánh). Đáng lo ngại hơn nữa là khối văn kiện khổng lồ do nhiều
cơ quan khác nhau đưa ra, chẳng hạn như là của: các hội đồng giám mục, các văn
phòng thư ký và ủy ban quốc gia, các ban đại diện và các hội đồng địa phận,
v.v... Đà hứng khởi đối với nổ lực phối hợp mục vụ hoặc là đối với việc mục vụ
đồng loạt, cộng với sức quyến rũ của việc ứng dụng các ky thuật thần hiệu lấy từ
xã hội học kinh doanh hoặc là từ tâm lý học sư phạm, đã làm cho sinh hoạt của
Giáo hội bị tràn ngập với những quy định, với những chương trình và kế hoạch có
tính cách bắt buộc, v.v... Đó đây thấy ló dạng khuynh hướng muốn kiểm soát và
chỉ coi là hợp pháp những gì được chính thức cổ xúy qua các tổ chức công lập.
Nhiều chương trình mục vụ áp đặt không những các mục tiêu chung mà còn cả những
phương pháp hành động và thể chế nữa, không còn chừa cho sáng kiến cá nhân hay
đoàn thể một chỗ trống nào ngoài thái độ ngoan ngoãn phục tùng như máy móc.
Ghi nhận và tố cáo tình trạng hạn chế bóp nghẹt
tự do như thế tuyệt nhiên không có nghĩa là chủ trương một lối sống hỗn độn
trong cộng đồng giáo hội, và một lối hoạt động phân tán trong công tác mục vụ.
Đưa ra chỉ thị và đặt chương trình kế hoạch cho công tác mục vụ là điều hợp lẽ,
nhưng cần phải biết thiết kế làm sao để chúng có sức điều hợp các khuynh hướng
đa dạng, và cổ xúy các tiềm năng đoàn sủng do Thánh Linh ban cho Giáo hội. Độc
canh thường làm sụp đổ kinh tế nông nghiệp, cũng vậy, mục vụ độc quyền sẽ làm
cho sức sáng tạo đoàn sủng tàn lụi đi. Lịch sử Giáo hội đã chứng minh điều đó
qua nhiều trường hợp tương tự: việc áp đặt một số phương pháp nghiên cứu thần học
đã có lần gây suy sụp tai hại cho tố tưởng và sức sinh động của thần học, làm
cho nhiều vùng văn hóa quan trọng không đón nhận được ảnh hưởng của Phúc âm. Việc
cơ cấu giáo xứ độc chiếm một số lãnh vực trong mục vụ bí tích đã làm cho tác vụ
ban bí tích trở thành một lối hành sự hầu như thuần túy hành chánh; v.v...
Sức sinh động không ngừng đổi mới của cuộc sống
Giáo hội đòi hỏi phải chân thành thừa nhận và đảm bảo đầy đủ cho phạm vi hoạt động
của tự do. Đó là một quyền lợi và là một điều thiết yếu sinh tử.
Vì có bổn phận phục vụ Giáo hội trong lãnh vực
này, nên giáo luật có trách vụ đào sâu ý nghĩa của luật pháp trong Giáo hội
cũng như của cách thức giải thích luật lệ đó: không phải là chỉ biết rập theo
khuôn mẫu của chủ trương thực chứng pháp lý vừa nguy hiểm vừa sai lạc, mà là dựa
theo bản chất đích thực của luật pháp, và hơn nữa của chính giáo luật, mà Đức
Gioan Phaolô II coi là cần thiết để các mối tương quan giữa các tín hữu được điều
chế theo công bình dựa trên bác ái, nhờ việc quy định và bảo đảm quyền lợi của
mỗi người..., để các sáng kiến chung nhằm sống đời Kitô giáo càng hoàn hảo hơn
được nâng đỡ, củng cố và cổ võ bởi Giáo Luật.[24]
Giáo hội thường nhắc đi nhắc lại rằng toàn thể
dân Chúa cần phải ý thức về trách vụ của mình đối với số mệnh chung trong Giáo
hội; điều này đòi hỏi phải vứt bỏ đi thái độ thụ động và bàng quan cũ kồ. Đằng
khác, một cơ cấu tổ chức giáo hội quá cứng rắn, độc đoán và tự mãn, sẽ làm cho
sức sinh động hợp tác của các phần tử trong cộng đoàn bị tê liệt đi. Cũng thế,
một hệ thống pháp luật quá rườm rà và tỉ mỉ sẽ tạo ra một loại não trạng quan
niệm rằng mọi sự đều phải được quy định bởi lệnh truyền hay là lệnh cấm, không
nên để một kẽ hở nào cho óc sáng tạo cá nhân cả.
Trong cuộc sống Giáo hội, chính học thuyết chủ
trương rằng phải có quyền ủy nhiệm thì giáo dân mới được hoạt động tông đồ, đã
sinh ra thái độ thụ động mà, bằng mọi cách, công đồng Vaticanô II đã ra sức tẩy
trừ. Điều này đòi hỏi không những các phần tử trong Giáo hội, đặc biệt là các
giáo dân, phải ý thức rõ ràng về trách nhiệm riêng của mình và dấn thân hợp tác
nghiêm chỉnh với hoạt động của cộng đoàn, nhưng còn phải có những con đường rộng
mở cho việc hợp tác, trong đó có thể tin tưởng dấn bước mà không gặp trở ngại.
Những phần tử có bản lồnh trưởng thành, không thể ngồi chờ luật lệ chỉ rõ cho hết
mọi chi tiết của những gì buộc phải hoặc được phép làm. Hơn bất cứ cộng đoàn xã
hội nào khác, Giáo hội cần phải nhớ rõ các nguyên tắc khôn ngoan của luật pháp
Rôma ngày xưa, biết xác tín rằng tự do là thuộc phạm vị cá nhân của công dân,
và: Plurimae leges,
pessima res publica, càng nhiều luật
ra, quốc gia càng tệ.
3.4 Tầm quan trọng của điều khoản 18 để giải
thích giáo luật:
Các khoản luật quy định hình phạt, hoặc hạn
chế sự tự do hành sử quyền lợi, hoặc bao hàm một khoản miễn trừ của luật, thì
phải được giải thích theo nghĩa hẹp. Có một lối quan niệm không mấy pháp lý về
luật pháp, đáng được gọi là con đường sắt, cho rằng người dân có bổn phận phải
luôn luôn đi một chiều trong lối mòn của luật lệ, không được phép vượt ra
ngoài, vì toàn bộ cuộc sống xã hội đã được luật pháp quy định: đó là chế độ cực
quyền. Giáo hội cũng đã từng trải qua cơ nguy vướng phải lối quan niệm cực quyền
ấy. Karl Rahner nhận định như thế này: Nguyên tắc tình thương xác định là bao
lâu không chứng minh được họ đang đi theo thần trí sai lạc, thì mọi phần tử
trong Giáo hội có quyền làm như thần trí riêng của mình soi dẫn; và do đó, cần
phải coi là họ thực sự hành động theo tự do và thiện chí, chứ không được nghĩ
ngược lại. Đó không phải chỉ là những quy tắc tự nhiên và tất yếu của mọi hình
thức chung sống hợp lý trong xã hội loài người mà thôi, nhưng đó còn là những
nguyên tắc đã và phải đâm rễ sâu vào trong chính bản chất của Giáo hội...[25]
Do đó, trong Giáo hội, quan niệm về luật pháp
nhất thiết phải hoàn toàn khác với lối quan niệm kiểu con đường sắt nói trên: tức
là quan niệm như một cánh đồng bát ngát của người cha gia đình, cánh đồng tự do
của các con cái Thiên Chúa, trong đó các quy luật chỉ có phận vụ soi sáng cho
thấy những mốc giới cuối cùng. P. Lombardia bình luận như sau về điều khoản 18
của giáo luật: Các khoản luật hạn chế sự tự do hành sử quyền lợi thì phải được
giải thích theo nghĩa hẹp. Điều khoản này sẽ phải giữ một vai trò canh tân trọng
yếu trong bộ giáo luật đổi mới, trong đó, quyền tự trị cá nhân và các quyền lợi
căn bản của giáo dân đã được nhìn nhận một cách rõ ràng hơn. Quy phạm này phải
được các tòa án lưu ý tới những khi cần mở cuộc kiểm soát tài phán về các tác
vi hành pháp.[26]
Quy phạm trên đây không phải là cái gì mới,
vì đã thấy ghi ở trong Bộ giáo luật 1917 (đk 19) rồi. Nhưng bây giờ nó có được
một sức mạnh mới và hàm ngụ một ý nghĩa sâu xa hơn không những đối với các tòa
án, mà còn cho cả toàn bộ cuộc sống thực tế trong Giáo hội nữa. Vì đã được
chính thức ghi vào trong bộ luật, nên các quyền lợi của giáo dân cũng phải được
thiết định hóa (trong những luật cụ thể) và do đó, phải được thừa nhận trong
toàn bộ giáo luật cũng như ở giữa các mối liên hệ nội tại nơi cộng đoàn giáo hội.
Có thể là giáo số Jiménez Urresti đã không mảy may đoán nhận ra ý nghĩa tiềm
tàng của điều khoản 18, khi bình luận rằng: Công thức được dùng trong các điều
luật hạn chế sự tự do hành sử quyền lợi (công thức mà bộ giáo luật 1917 đã mượn
từ bộ dân luật Ý) là một lối diễn đạt khó giải thích và thường làm đề tài tranh
luận giữa các tác giả.
Tất cả mọi luật lệ thiết định mag tính cách
quy định và bắt buộc - hoặc dưới hình thức khẳng định hay truyền dạy
(preceptiva), hoặc dưới hình thức phủ định hay cấm chỉ (prohibitiva), trừ
các luật có tính cách cho phép ra thì đều hạn chế hoặc thu hẹp việc tự do hành
sử các quyền lợi tiền thiết định, (prépositivos). Thế mới hiểu tại sao
các tác giả thường quan niệm là phải giải thích theo nghĩa hẹp các luật lệ thiết
định hạn chế hoặc thu hẹp việc tự do hành sử các quyền lợi đã được thiết định
hóa ở trong bộ luật qua các điều khoản khác. [27]
Coi tất cả các khoản luật dạy hay luật cấm đều
có tính cách hạn chế các quyền lợi tiền thiết định, là phương hại đến ý nghĩa của
luật pháp, và để lộ một quan niệm bi quan đối với cấu trúc pháp chế cũng như đối
với cuộc sống xã hội. Trong một xã hội công bằng và dân chủ, luật pháp, kể cả
những quy luật cấm chỉ, cũng là để đảm bảo cho các quyền lợi căn bản của con
người, để phục vụ cuộc sống chung trong xã hội, vừa chính đáng vừa cần thiết
cho đà phát triển phong phú của các cá nhân, cũng như để phục vụ cho quyền tự
do của các công dân. Tự nó, không phải lúc nào mệnh lệnh cũng có nghĩa là hạn
chế tự do và quyền lợi cá nhân. Có những quy phạm truyền dạy, và cả những quy
phạm cấm chỉ nữa, cũng chỉ nhằm một chủ đích duy nhất là làm cho các quyền lợi
và các quyền tự do thực sự trở thành một thực tại xã hội ở giữa môi trường cụ
thể của các mối tương quan liên bản vị.
Đáng sợ thực sự là những quy luật thuần túy
thiết định nhưng lại có sức vô hiệu hóa hay bất năng hóa; chẳng hạn: những ngăn
trở tiêu hôn chỉ thuần túy do giáo luật đặt định, chứ không có căn bản rõ ràng
trong luật tự nhiên; vì cho dù đương sự có không biết, thì luật vẫn hữu hiệu,
trừ phi luật đã rõ ràng dự liệu một cách khác.
Nếu lỡ bẵng quên luật tự nhiên và thần học luật
pháp đi một chút, thì các nhà giáo luật sẽ bình thản phủ nhận khả năng kết hôn
theo bí tích nơi một đôi uyên ương công giáo đạo đức, có đủ khả năng làm vợ làm
chồng, nhưng khổ nỗi là phải sống lạc lõng trên một hòn đảo xa xôi hẻo lánh và,
do đó, không sao có thể xin phép miễn chuẩn cho ngăn trở tiêu hôn vì liên hệ
huyết tộc cấp bốn ràng buộc họ được! Dù biết hay là không biết, theo giáo luật,
hai người họ hàng ấy không cách nào có thể chịu bí tích hôn phối đuợc, bởi lẽ
giữa họ, hôn ước sẽ không thành sự. Như thế có nghĩa là nhân danh một nền pháp
chế thiết định gay gắt và dựa cả vào uy thế công đồng chung Trentô, để yên tâm
hành quyết cả triết học pháp luật lẫn thần học luật pháp vô tội: cả hai đều sẽ
phải cam chịu bó tay trước cường lực vô biên của quy phạm thiết định!
3.5 Bảo toàn tự do
Đức Phaolô VI nói rõ: Trong Giáo hội, tự do
và quyền bính không phải là hai thực tại tương khắc nhau, song là hai giá trị
tương hợp với nhau. Mối tương can giữa chúng hằng giúp cho cộng đoàn lớn mạnh,
và đồng thời làm cho mọi phần tử có thêm khả năng đưa ra nhiều sáng kiến phong
phú, cũng như tiến triển tốt đẹp trên bước đường trưởng thành của mình. Khẳng định
lại nguyên tắc quyền bính và sự cần thiết của luật pháp, không có nghĩa là làm
giảm thiểu đi, dù chỉ là một mảy may, giá trị của tự do và thái độ kính nể phải
có đối với nó. Tuy nhiên, có một điều nổi bật trước mắt mọi người, đó là sự cần
thiết phải bảo trợ cho hữu hiệu các công ích, trong đó có cả lợiích căn bản của
con người, tức là quyền sử dụng chính sự tự do của mình: một quyền lợi mà chỉ một
xã hội có tổ chức chu đáo mới có thể đảm bảo đầy đủ được. Xét cho cùng, tự do
nào có thể mưu ích chi cho cá nhân, nếu nó không được những luật lệ khôn ngoan
và thích đáng bảo vệ cho ?. [28]
Không cần phải chú giải gì thêm về những lời
trên đây của Đức Thánh Cha: những lời hàm súc ý nghĩa sâu sắc nhất và hiện đại
nhất về một nền pháp chế đượm nhuần bản sắc xã hội đến tột bực. Đó là chìa khóa
phải dùng để hiểu về sinh hoạt pháp lý trong Giáo hội. Nhà giáo hội học nổi tiếng
L. Bouyer đã viết: Cả ở trong lẫn ở ngoài Giáo hội, dù cần thiết đến đâu và quý
hóa đến thế nào đi nữa, thì luật pháp cũng phải luôn luôn được Giáo hội quan niệm
trong bối cảnh của bác ái: nhất thiết phải dựa trên công lý, nhưng đồng thời
cũng vẫn phải biết vượt xa trên nó những khi cần. Vì vậy, trước ai hết, Giáo hội
có bổn phận ghi nhớ rằng đòi hỏi số một của công lý nằm ở chỗ phải biết kính trọng
con người, là chủ thể có khả năng trở thành đối tượng của bác ái; nhưng nếu bị
áp bức dù là với chiêu bài của những thiện chí cao đẹp nhất, thì không sao con
người có thể làm cho khả năng đó thành hiện thực được.[29]
Chúng tôi nghĩ rằng L. Bouyer đã đưa ra những
nhận định hết sức thức thời, qua đó, vấn đề hoạt động của các đoàn sủng trong
Giáo hội đã tìm ra được giải đáp duy nhất đứng vững. Sau đây, xin vắn tắt ghi lại
bốn đề nghị quan trọng L. Bouyer đã nêu lên để giúp xác định ý nghĩa của luật
pháp trong Giáo hội, tức là của một hình thức pháp chế nhắm mục đích điều hợp
các đoàn sủng, các quyền lợi cũng như các quyền tự do cá nhân:
a. Nếu có một khuynh hướng nào xem ra đang thắng
thế trong tổ chức pháp chế của Giáo hội cũng như trong các ngành luật pháp hiện
đại khác, thì đó chính là mối quan tâm làm sao để trước hết thiết định cho toàn
thể Giáo hội trong khắp hoàn vũ, một số những lề luật khuôn mẫu, hơn là đặt định
vô số những quy luật chi tiết tỉ mỉ bất tận.
b. Cần để cho các giới thẩm quyền địa phương,
là những giới tiếp xúc trực tiếp với đại đa số các tín hữu, có quyền định đoạt
về cách thức áp dụng luật lệ tùy theo nhu cầu hoàn cảnh trong từng cộng đoàn.
c. Còn các giới thẩm quyền địa phương thì có
bổn phận phải cảnh giác để động viên các sáng kiến tích cực, cho dù sau đó có
phải tu sửa những sai lệch có thể xảy ra nhằm đẩy mạnh bước tiến của chúng, hoặc
là thay thế chúng bằng những sáng kiến khác.
d. Ngày nay, dù không chủ trương áp đặt giới
mức giả tạo không thể chấp nhận được cho hoạt động của Thánh Linh, thì giáo luật
cũng còn cần phải tiếp tục đảm bảo cho các sáng kiến nhưng không do Thánh Thần
linh ứng, có được một nền tảng vững chắc ở giữa các thực tại lịch sử, và một sự
phòng vệ hữu hiệu chống lại thái độ thiếu kỷ luật của các cá nhân cũng như chống
lại óc độc đoán của giới thủ lãnh, là hai hình thức biếm họa của sáng kiến có sức
sáng tạo thực sự.
4. ĐOÀN SỦNG VÀ GIÁO LUẬT
Được soi chiếu nhờ ánh sáng của công đồng Vaticanô
II và của cuộc sống cụ thể trong Giáo hội, bộ giáo luật đã mở ra những lối đi mới
cho việc thừa nhận cũng như đảm bảo quyền lợi và nghĩa vụ hành sử đối với các
đoàn sủng nhận được. Dù trong bộ giáo luật mới vẫn còn gặp thấy thái độ do dự
ngập ngừng nơi một số khẳng định, cũng như cả thái độ im hơi lặng tiếng và những
thiếu sót khác, thì không ai có thể chưi cãi được là trong bầu khí cởi mở của tự
do, đường hướng của pháp chế trong Giáo hội hiện nay và những nguyên tắc chìa
khoá hướng dẫn việc giải thích luật pháp, đang thực sự có thái độ tích cực và
niềm nở đối với đà sinh động của các đoàn sủng.
Có những nhà thần học và những chuyên gia mục
vụ cho rằng giáo luật thường tỏ ra đối kháng với sức sáng tạo nói trên của
Thánh Linh, hoặc thường gây cản trở làm cho các đoàn sủng không triển nở được.
Nhưng thực ra, phải nhận rằng giáo luật thực sự đóng một vai trò tích cực trong
nổ lực phát huy các đoàn sủng. Các luật lệ không những có bổn phận phải bảo vệ,
mà còn phải khích lệ công lý và các quyền lợi nữa.
Giáo luật đảm bảo cho các tín hữu quyền tự do
hành sử những ân huệ đã nhận được nhằm phục vụ cộng đoàn. Dĩ nhiên là thẩm quyền
giáo hội có bổn phận phải phân định để nhận chân những đoàn sủng đích thực, và
phối hợp sinh hoạt của chúng ở trong cộng đoàn; nhưng đồng thời giáo luật cũng
chỉ tỏ những giới hạn và cách thức thi hành của chính quyền bính ấy, cũng như
xác định những bảo đảm cần thiết cho phía các tín hữu nữa. Giám sát quyền bính
như thế, là giáo luật muốn giữ cho người lãnh nhận đoàn sủng của Chúa được an
toàn.
Trong lịch sử, qua việc chuẩn nhận và quy định
các hình thức thể chế tương ứng (chẳng hạn như là các dòng tu, các hiệp hội,
các phong trào tông đồ), giáo luật đã tạo điều kiện giúp cho các đoàn sủng có
cơ hội để phát triển và trường tồn. Đôi lúc, giáo luật cũng đã đưa ra những quy
định theo hình thức đặc ân, nghĩa là theo đường hướng thích nghi của chính luật
lệ đối với sức thúc đẩy hoàn toàn tự do của Thánh Linh, bởi vì không thể nào
khóa chặt tự do của Thánh Linh vào trong khuôn khổ hạn hẹp và cứng nhắc của những
quy pháp chung cho mọi trường hợp được. Trong bộ giáo luật mới, phần đề cập đến
các Dòng tu đã minh bạch công nhận các đặc nét của mỗi tu hội. Đặc sủng của các
vị thánh sáng lập dòng là những trường hợp điển hình cho thấy tính chất trường
tồn của các đoàn sủng. Các ngài đã mở rộng con đường canh tân, để về sau nhiều
người khác tiến bước theo mà lãnh nhận những ân huệ đặc biệt, tức là những đoàn
sủng có thể gọi là phụ thuộc, ngõ hầu nhờ đó, họ không ngừng ứng dụng hữu hiệu
đặc sủng sáng lập vào trong công tác phục vụ cộng đoàn.[30]
4.1 Những khía cạnh đoàn sủng của giáo luật
Hans Kung đã phát biểu như sau khi bàn về việc
kế nhiệm đoàn sủng của các tiên tri và các bậc huấn giáo trong Giáo hội; số mệnh
của các vị này đã không hề kết thúc với thời các tông đồ. Thánh Linh đã không
quên và hằng không ngừng khơi dậy trong Giáo hội hai loại đoàn sủng này, là những
đoàn sủng được thánh Phaolô coi như quan trọng nhất sau đoàn sủng làm tông đồ.
Một giáo hội sẽ ra như thế nào nếu trong đó các bậc giảng dạy đều im hơi lặng
tiếng? Giáo hội sẽ là như thế nào nếu đã không có một Origênê, một Augutinô và
bao nhiêu thần học gia khác?
Không bao giờ có Giáo hội mà lại không có các
bậc thầy giảng dạy. Thánh Phaolô xác tín rằng mỗi giáo hội đều phải có những thầy
huấn giáo riêng của mình... [31]
Rõ ràng là trong lúc đối chiếu sự chuyển của
các đoàn sủng khác như ơn làm tiên tri và ơn giảng dạy với việc kế nhiệm đoàn sủng
tông đồ, H. Kung đã làm một bước nhảy vọt về mặt phẩm chất, bởi lẽ đoàn sủng
làm tông đồ đi dính liền với một bí tích, còn hai loại đoàn sủng kia thì không
và chỉ tương ứng với những nhu cầu thường trực trong Giáo hội; nhưng vì đó là
những nhu cầu thường trực, cho nên Thánh Linh sẽ không ngừng ban các loại đoàn
sủng ấy cho các tín hữu. Kế nhiệm tông đồ là một điều, còn sự thường tồn của một
đoàn sủng lại là một điều khác. Học thuyết trên đây của H. Kung đã bị Yves
Congar bác bỏ.[32] Ở
đây, khi nhắc đến học thuyết ấy, chúng tôi chỉ muốn lưu ý tới một điều duy nhất,
đó là lối cảm nhận sáng suốt về ý nghĩa đoàn sủng ở nơi tác vụ của các nhà thần
học trong Giáo hội.
Đã có những công trình nghiên cứu sâu rộng về
tầm quan trọng đặc biệt của đoàn sủng làm thần học gia,[33] giúp Giáo hội trung thành gìn giữ, áp
dụng và phổ biến Lời Chúa mạc khải. Luigi Serentha đã viết như sau: Thần học giải
thích thời đại này nhân danh đức tin... làm cho đức tin tỏ hiện ra trong một
hình thái phong phú hơn, qua một cuộc sống giáo hội thực sự trong suốt, thích ứng
và hữu hiệu.[34]
Trong bài tựa cuốn Mysterium Salutis, các
giáo số Feiner và Lohrer đã cương quyết đòi cho tính chất đoàn sủng của thần học
được công khai thừa nhận; các giáo sư viết: Thánh Linh là hiện thân của nguyên
tắc theo đó, qua đức tin, thần học có khả năng đạt tới đối tượng của mình như
là một thực thể sống động. Trong đức tin, Thánh Linh mở ra cho thần học gia
chân trời siêu nhiên để có thể quan niệm đúng đắn về nội dung của mạc khải.
Theo ý nghĩa này, thì thần học mang tính chất thần khí (pneumatic) tự
chính gốc rễ của nó. Hơn nữa, có thể hỏi rằng thần học có cần phải được Thánh
Linh nâng đỡ và làm cho sinh động, như một hành động thấu hiểu đức tin hay
không...? Theo Kinh Thánh, đó phải là điều hiển nhiên, bởi thần học mang tính
chất của việc tuyên xưng đức tin qua cuộc sống cụ thể; bởi vì, theo Tân Ước thì
chỉ ở trong Thánh Linh, một hành động tuyên xưng đức tin như thế mới có thể có
được (1Cr 12,3). Đối với các giáo phụ, dĩ nhiên thần học hàm ngụ một yếu tố
đoàn sủng, vì khoa này mang tính chất gnosis/sapientia. Tóm lại, các ngài đã gắn liền thần học với
công trình có ảnh hưởng đến con người toàn diện đối với ơn cứu độ. Đà biến chuyển
sau này với khuynh hướng nhấn mạnh đến tính cách khoa học của thần học, và tác
động của lý trí mà khuynh hướng này đề cao, đã đưa quan niệm của các giáo phụ
coi thần học như là một sinh hoạt toàn diện, đến chỗ suy suyển, cũng như đã làm
cho tính chất đoàn sủng của thần học bị lu mờ đi... Nói chung, đà biến chuyển
kia có lý khi dành cho lý trí con người một chỗ đứng thích đáng trong công tác
suy tố thần học, cũng như khi làm cho nổi bật vai trò thiết yếu của nỗ lực để đạt
tới cho được những ý niệm rõ ràng và vững chắc trong công trình nghiên cứu thần
học. Nhưng dù đà biến chuyển kia có chính đáng mấy đi nữa, thì xem ra cũng
không thể bỏ quên sắc thái đoàn sủng trong nỗ lực lồnh hội đức tin đi được, hoặc
chỉ coi đó là một yếu tố nhân tạo phụ thuộc, tức là nói cho cùng cũng chỉ bằng
thừa.[35]
Các lý lẽ trưng dẫn để minh chứng cho tính chất
đoàn sủng của thần học cũng có thể ứng dụng xác đáng được cho giáo luật và cho
các nhà giáo luật, vì giữa các khoa này có những mối liên hệ cơ bản.[36] Một
trong những cố gắng đáng chú ý nhất của khoa giáo luật học hiện nay là làm sao
để tìm cho ra yếu tố thần học làm nền tảng cho luật pháp trong và của Giáo hội.[37]
Để lồng khoa thần học về các đoàn sủng vào
trong khung thể chế giáo luật, giáo sư E. Corecco đã đưa ra một giả thuyết rất
hợp lý cho việc xác định nền tảng thần học của giáo luật: một thể chế giáo luật
đặt nền tảng trên communio (niềm hiệp thông) và nhằm mục đích phục
vụ communio trong Giáo hội, là một nền pháp chế tự bản chất mở rộng ra để đón
nhận sức sinh động đoàn sủng, và đồng thời chính nền pháp chế ấy cũng là một ân
huệ lớn của Thánh Linh ban nhằm xây dựng cộng đoàn giáo hội. Một thể chế giáo
luật như thế thì có khả năng biểu dương cách hiển nhiên mầu nhiệm Giáo hội.
Giáo sư viết: Về phương diện thiết chế của các mối quan hệ giữa Giáo hội hoàn
vũ và các Giáo hội địa phương, ý niệm hiệp thông trở thành hiện thực ở chính
trong communio
ecclesiarum; mối hiệp thông
này biểu hiện thực thể đặc thù của cuộc sống chung trong Giáo hội, và thực hiện
ơn cứu độ cánh chung ngay ở giữa lòng lịch sử đang tiếp diễn. Vì cầm khía cạnh
cánh chung như là yếu tố nội tại của Giáo hội, cho nên ý niệm kia xem ra có thể
biểu thị được diện mạo đặc thù của cách kết cấu và của các thể chế giáo luật
đang điều hành cuộc sống Giáo hội. Mối hiệp thông ấy vừa là một thực tại cần phải
được hiện thực hóa, vừa là một lề lối để dựa theo đó giáo luật thiết đặt cấu
trúc của mình làm sao để có thể hiện thực hóa được chính mối hiệp thông kia...
Do đó, trong tư thế là nguyên nhân vừa chất thể (causa material) vừa mô thức (formal) và tiêu đích (final) của thể chế giáo luật, tự nó, hiệp thông
mang tính chất cưỡng chế về mặt pháp luật. Bản chất thần học của thực thể giáo
luật đòi buộc phải dùng lề lối thần học mà tìm hiểu luật pháp trong Giáo hội,
ngay cả khi chỉ nghiên cứu về phương thức kết cấu của nó thôi. Không thể để cho
phương pháp lịch sử có hệ thống (método históricó sistemático) được tự trị về mặt
suy luận lý trí giống như là trong trường hợp của khoa luật học bên đời; trái lại,
cần phải thường xuyên lấy đức tin, là objectum
quo (đối tượng mô thức), mà
phê chuẩn và giám sát phương pháp ấy. Cho dù phương pháp lịch sử có hệ thống có
thể chỉ đóng vai phụ thuộc trong khoa giáo luật học, thì như thế cũng đã đủ để
đảm bảo cho giáo luật giữ được tính chất tự trị đặc thù ở trong khoa thần học...
Một khi đã khẳng định tính chất thần học của giáo luật, thì về phương diện pháp
lý, không còn có thể coi nó như là một thực tại thuần túy nhân tạo và lý tính
được nữa. [38]
Không thể nào tách rời việc làm của các nhà
giáo luật ra khỏi hoạt động của Thánh Linh được, bởi vì công tác phục vụ ấy là
thành quả của các ân huệ đặc biệt Thánh Linh ban, giống hệt như trong trường hợp
của các bậc giảng dạy và các tiến sĩ khác. Dù trong lịch sử đã có nhiều nhà
giáo luật mang nặng đầu óc thày cò hẹp hòi chỉ hiểu luật lệ như là xiềng xích
trói chặt cuộc sống cộng đồng, thay vì coi đó là những gì nói lên mầu nhiệm cứu
độ; song cũng không thiếu những luật gia thật sự thấm nhuần tinh thần đoàn sủng,
biết đưa ra những sáng kiến đóng góp vào nổ lực canh tân cuộc sống giáo hội và
phát hiện những hình thức thích đáng khả dồ thể hiện tính chất bí tích của Nhiệm
Thể Đức Kitô.
Đoàn sủng của các nhà giáo luật tỏ lộ rõ nhất
và phong phú nhất trong hai trường hợp điển hình này:
a. Những cố gắng liên tục nhằm tới việc khai
triển giáo luật để phụng sự và cải tiến Giáo hội.
Mọi cuộc cải cách lớn, kể cả Công đồng chung
Vaticanô II, cũng như hết thảy các nhà cải cách tiếng tăm đều đã dùng pháp luật
như là một giữa những khí cụ quyết định nhất trong công cuộc canh tân Giáo hội.
Hệ thống giáo luật đã là một nhân tố đầy năng động trong cuộc sống Giáo hội, và
qua các giai đoạn canh tân, nền pháp chế ấy còn mang ý nghĩa của những cố gắng
để thanh luyện cuộc sống Giáo hội cũng như để trở về với tình trạng thuần khiết
ban sơ và thích ứng cuộc sống này với các yêu cầu thời đại. Giáo luật tiến bộ đồng
nhịp với bước đổi mới của Giáo hội.
b. Phận vụ của Giáo hội trong việc áp dụng và
giải thích các điều khoản giáo luật.
Công trình nghiên cứu của các tòa án cũng như
của các đại học để thấu hiểu, giải thích và áp dụng các quy phạm giáo luật, được
coi như là một phần đóng góp chủ yếu vào trong việc nhận thức và biểu đạt chính
thực tại bí tích của Giáo hội. Sự kiện các nhà giáo luật phải lần bước tìm tòi
trong những điều kiện thăng trầm của những dò dẫm và thiếu sót, của những xác
tín và sáng kiến có tầm hưởng lớn, đã khiến cho Giáo hội phải suy nghĩ về chính
mình và về bản chất bí tích của mình.
Giáo sư V. Ramallo kết luận rằng: Vì là cần
thiết, chủ yếu, có từ đầu và là hỗ tương, nên mối liên hệ giữa pháp luật và
đoàn sủng biểu hiện hoạt động cụ thể của Thánh Linh đang triển khai ra ở nơi
Thân Mình Đức Kitô. Sự biểu hiện đơn thuần này của Thánh Linh duy nhất bao gồm
nhiều chức năng thể chế cũng như nhiều đoàn sủng khác nhau, nhưng lại thường trực
có ảnh hưởng hỗ tương đối với nhau... Nói tới lối hành sử đúng đắn chức năng
pháp lý trong Giáo hội là nói tới một cách thức đồng hóa cá nhân với Đức Kitô:
lối hành sử ấy phải được hiện thực hóa và hoàn thiện hóa ở trong mối đồng hóa
này. Cách hành sử pháp luật theo tinh thần kitô tự nó là một chức năng xã hội
kitô, và vì thế, nó mang bản sắc đích thực của một đoàn sủng. [39]
Các nhà giáo luật nhất thiết phải có thái độ
cởi mở và phải biết ý thức đối với hoạt động bí nhiệm của Thánh Linh, vì đó là
điều kiện tiên quyết để tiến bước vào trong những chân trời mênh mông đang rộng
mở cho số mệnh Giáo hội ở giữa thế giới mới của kỷ nguyên 2000. Giáo luật có bổn
phận phải đảm bảo cho mọi tín hữu trong cộng đoàn có điều kiện để sống trọn ơn
gọi riêng của mình. G. Hasenhutl xác tín như sau: Chu toàn
ơn gọi riêng của mình không phải chỉ là một nghĩa vụ, nhưng còn là một quyền lợi
được các đoàn sủng trao ban cho các tín hữu: công nhận như thế tức là Giáo hội
biến thành một cộng đoàn sống động với một tương lai mở rộng ra trước mắt. Nếu
mỗi người kitô được công nhận là có chỗ đứng riêng, và tìm thấy được ở trong cộng
đoàn những điều kiện thuận lợi Thiên Chúa ban để hành động, thì Giáo hội sẽ vượt
ra khỏi tình trạng án neo bất động bên bến, để bất cứ lúc nào cũng sẵn sàng
xông pha ra khơi. [40]
4.2 Ứng dụng cụ thể: giáo dân với chức vụ quản
trị
Chủ đề chung của Thượng hội đồng các giám mục
thế giới vừa rồi bàn Về ơn gọi và số mạng của giáo dân trong Giáo hội và trong
thế giới: muốn tìm hiểu về ơn gọi này, thì cần phải đi từ kế hoạch cứu độ của
Thiên Chúa (xem Ep 1,3-15), tức là đi từ lời Thiên Chúa mời gọi mọi người và mỗi
người. Ơn gọi cụ thể và toàn diện ấy được linh hoạt ghép liền với tác động liên
lỉ của Thánh Linh là hồn của Giáo hội và của thế giới. Vì thế, tính chất đoàn sủng
là đặc nét đầu tiên trong đời sống của Giáo hội cũng như của thế giới.
Không thể tách biệt ơn gọi tự nhiên khỏi ơn gọi
siêu nhiên được, vì cả hai đều có cùng một nguyên nhân tác thành (nguồn gốc) và
cùng một nguyên nhân tiêu đích (mục đích); có thế, mới bảo toàn được tính chất
đơn nhất và liên đồng của con người. Theo thánh Augutinô thì trong lịch sử loài
người chỉ có một cục diện duy nhất, chỉ có một kế hoạch duy nhất của Thiên
Chúa, đó là kế hoạch đã được mạc khải ra trong Đức Kitô. Nói đến cục diện tự
nhiên là dùng đến một lối nói trừu tượng, nhưng lại hữu lý và hữu ích để giúp
cho các nhà thần học, nhất là các nhà thần học công giáo, có cách giải thích về
sự kiện tội nguyên tổ đã không làm cho bản tính con người ra hư đốn hoàn toàn,
chống lại chủ trương của Luther.
Không ai là bác sĩ hay là luật sư tự bẩm sinh
cả; trái lại, tự bẩm sinh con người là một nhân vị. Thế thì, cần phải lấy mầu nhiệm
chủ chốt tiềm ẩn ở nơi nhân vị/chủ thể để làm khởi điểm, vì những lý do cơ bản
này: con người chiếm giữ một chỗ đứng chủ chốt, và tự chính mình là mục đích,
chứ không phải là phương tiện. Nhân vị chính là pháp luật sống động và là nguồn
phát sinh pháp luật, và vì vậy, không phải con người đã được sinh ra cho luật
pháp, nhưng ngược lại, luật pháp phải được thiết định cho con người, tức là để
phục vụ con người. Bởi lẽ, với những quan hệ liên bản vị và với cấu trúc mang
tính chất cộng đoàn, nhân vị chiếm giữ phần chủ yếu nhất trong công ích; bởi lẽ,
chủ thể của những quyền lợi căn bản, nhân vị là giới mức bất khả xâm phạm đối với
mọi thứ quyền bính, trong Giáo hội cũng như giữa trần thế. Và chính vì vậy mà
không thể nào được quyền coi một hệ thống giáo luật là công minh, khi thể chế ấy
không quan tâm tới nhân vị, không biết phục vụ con người, và không biết tôn trọng
các quyền căn bản của con người. Điều đó muốn nói rằng tự trong cơ cấu, giáo luật
phải mặc lấy thái độ trọng nhân vị thì mới hòng tránh khỏi được khuynh hướng thực
chứng quá trớn.
Qua bí tích Rửa tội, không ai được tái sinh
thành linh mục hay giám mục, hoặc là giáo dân cả, nhưng là thành những tín hữu
kitô (đk 204,1), được quyền thủ đắc nhân cách ở giữa lòng Giáo hội (đk 96). Tất
cả những khác biệt khác, kể cả giới tính, cũng đều là những ân huệ, những đoàn
sủng, hoặc là những dịch vụ, để diễn tả theo kiểu nói thánh Augutinô dùng và đã
được Công đồng Vaticanô II trưng dẫn lại (GH 32).
Cho nên, cần phải lấy khởi điểm từ chính nơi
bản chất hiệp nhất đâm rễ sâu tận trong cơ cấu tổ chức của Giáo hội, và Giáo hội
ở đây được hiểu như là cộng đồng thông hiệp đã được cứu độ cũng như có khả năng
cứu độ. Cần phải đi từ chức tư tế chung và phổ quát; theo Tân Ước mà công đồng
Vaticanô II trưng dẫn, thì đó là một chức tư tế không phát nguyên từ chức tư tế
thừa tác (sacerdocium ministeriale),
và xét về mặt hiệu lực cứu độ thì không kém gì chức tư tế thừa tác.
Còn hơn thế nữa, chức tư tế phổ quát là hình
thức công tác tông đồ đầu tiên trong sứ mạng cứu độ, bởi vì bất cứ ai, dù là
giáo hoàng hay giám mục, thì cũng chỉ có được hiệu năng, tức là chỉ có thể mang
lại được hoa trái trong nhiệm cục cứu độ, khi biết sống trong niềm hiệp thông với
toàn thể và hành động như là một bộ phận của tổng thể ấy. Trước tiên, các tín hữu
là anh chị em của nhau, rồi sau đó mới đến các khác biệt khác về ơn gọi và chức
vụ; tình huynh đệ vẫn còn trọn vẹn. Các giáo phụ không quan niệm sứ mạng mục vụ
theo dạng thức quyền bính (potestas), nhưng theo dạng thức tình huynh đệ - lòng
bác ái - lòng nhân đạo (fraternitas-caritas-humanitas). Lúc nào tiêu đích nhắm tới cũng là con
người.
Hiệp thông là một ý niệm nòng cốt trong Thượng
hội đồng giám mục thế giới năm 1987. Giáo hội nhìn lại chính mình trong Đức
Kitô và ý thức mình là bí tích, nghĩa là dấu chỉ và là khí cụ cho việc kết hợp
mật thiết với Thiên Chúa, cũng như cho nổ lực hiệp nhất toàn thể nhân loại (GH
1). Giáo hội là Thân Thể của Đức Kitô, tựa như là Thánh Thể. Điều khoản 897 của
giáo luật đã dùng những lời rất hay ý rất đẹp mà mô tả thực tại đó: Bí tích
Thánh Thể là bí tích cao cả nhất...từ đó Giáo hội múc lấy sức để sống và để
không ngừng lớn lên. Hy lễ Thánh Thể... là tuyệt đỉnh và là nguồn suối của toàn
bộ công việc phụng tự và của toàn bộ cuộc sống kitô. Nhờ hy lễ ấy, sự hiệp nhất
của Dân Chúa được biểu lộ và thực hiện, còn công trình xây dựng Thân Mình Đức
Kitô thì được hoàn tất. Bởi đó, các bí tích khác và hết thảy mọi hoạt động tông
đồ trong Giáo hội đều liên kết chặt chẽ với Thánh Thể và đều quy hướng về với
bí tích ấy.
Chỉ có một Đức Kitô duy nhất, và do đó, Đức
Kitô Thánh Thể cũng chính là Đức Kitô Nhiệm Thể. Nhờ bí tích Rửa tội, các tín hữu
được sáp nhập vào trong Đức Kitô duy nhất và phổ quát ấy, cũng như được thủ đắc
nhân cách ở giữa lòng Giáo hội, với những nghĩa vụ và quyền lợi riêng của các
tín hữu kitô (đk 96).
Hiểu theo nghĩa cộng đoàn, Giáo hội là Dân
Thiên Chúa: đó là tựa đề đặt cho chương II trong Hiến chế về Giáo hội, và cho
Quyển II của Bộ giáo luật mới. Dân Thiên Chúa là một khái niệm rút ra từ Kinh
Thánh cả Cựu lẫn Tân Ước, và ngày nay được dành để chỉ những người được Đức
Kitô dùng lời chân thật cùng tác động mục vụ và tư tế của mình mà kết hợp thành
một vào trong thân thể của Giáo hội. Với những ân huệ như thế, các tín hữu nhận
ra trách nhiệm, ơn gọi, nhiệm vụ và quyền lợi của mình, tức là những gì làm nên
gia sản chung trong Giáo hội. Trong gia sản chung này, người tín hữu cũng sẽ
tìm thấy bổn phận của mọi người đối với công tác tông đồ (GH 11), và thực tại
đa dạng chính đáng trong Giáo hội (GH 13).
Nếu trước tiên Giáo hội là Dân Thiên Chúa sống
trong hiệp thông, hiệp nhất trong đa dạng, thì cần phải dùng tới phạm trù và
khái niệm về tương quan mới hiểu được Giáo hội là gì. Hết thảy mọi ân huệ và mọi
dịch vụ, hết thảy mọi thừa tác vụ dù phẩm trật hay không, đều là esse ad (hướng
thể), và như thế mới có sự việc một cơ thể duy nhất sinh hoạt ở giữa những khác
biệt đa dạng. Đức Kitô đã không muốn dùng đến thể chế dân chủ hay là cực quyền
để thiết lập Giáo hội. Không thể có cộng đồng mà không có thừa tác vụ phẩm trật,
cũng như không thể có thừa tác vụ phẩm trật mà không có cộng đồng. Phận vụ chăm
lo cho hiệp nhất trong bối cảnh có nhiều đoàn sủng khác nhau đã được ủy thác
cho một đoàn sủng khác, đó là đoàn sủng quản trị (1Cr 12,28), đoàn sủng chủ tọa
trong Giáo hội (Rm 12,8; 1Tx 5,12; 1Tm 5,17). Là một giữa các dịch vụ khác, dịch
vụ của đoàn sủng này là làm sao để tất cả các đoàn sủng hiệp nhất và hợp tác với
nhau.
Cũng như các đoàn sủng khác, đoàn sủng của phẩm
trật có một chức năng khác hẳn và độc nhất mà các đoàn sủng khác không thay thế
được. Vì thế, cấu trúc có tính chất đoàn sủng của Giáo hội không những không loại
trừ mà ngược lại, còn gồm hàm cả cơ cấu phẩm trật nữa và mang lại cho nó ý
nghĩa đích thực. Vậy, cần phải làm sao để trong Giáo hội, mối căng thẳng giữa
phẩm trật và cộng đoàn, giữa những gì đang được thực hiện trong cuộc sống và những
gì được coi là có giá trị trên bình diện chính thức, được giảm bớt đi. Nói cách
khác: cần phải biết điều hợp những yếu tố làm nên mối hiệp thông; cần phải biết
phối hợp hoạt động của Thánh Linh, chứ không phải bóp ngạt hoạt động ấy đi. Đặc
điểm nổi bật hẳn trong hoạt động của Thánh Linh là tự do. Vì thế, đoàn sủng potestas (quyền bính) là để phục vụ tự do, tức
là phục vụ các hình thức ơn gọi và các ân huệ khác nhau (cho dù không phải là
quyền bính, các hình thức này cũng có uy thế riêng của chúng). Tuy thế, không
thể nào hoạt động của Thánh Linh lại diễn ra một cách vô kỷ cương được, vì mục
đích nó hằng nhắm tới là xây dựng. Công tác riêng của đoàn sủng là phẩm trật,
là thiết đặt trật tự, nghĩa là dọn chức vụ và tác vụ nhằm xây dựng cho cân đối
Thân Mình Đức Kitô. Tự bản chất của nó, pháp luật dựa theo tiêu chuẩn phổ cập
và khách quan của tự do nói theo kiểu của Emmanuel Kant mà phối hợp các quyền tự
do; điều đó giúp cho hoạt động của hết thảy mọi phần tử được tăng cường nhằm
xây dựng hiệp thông Giáo hội và góp phần mang lại ơn cứu độ cho loài người: đó
phải là luật tối thượng và trường tồn trong Giáo hội (đk 1752).
Trong bối cảnh của những gì trình bày trên
đây, công tác tông đồ giáo dân sẽ xuất hiện như là một dấu chỉ thời đại. Trong
Giáo hội, có các thừa tác viên chịu chức thánh, gọi là giáo sĩ, và các thành
viên của các dòng tu hay các tu hội, gọi là tu sĩ, còn các tín hữu khác không
thuộc các thành phần vừa kể thì được gọi là giáo dân (đk 207,1); họ có ơn gọi
và sứ mệnh riêng: là phải lo tìm kiếm Nước Thiên Chúa bằng cách đem tinh thần
Phúc âm thấm nhập vào trong các thực tại trần thế, cũng như dùng chính tinh thần
ấy mà kiện toàn chúng (xem đk 225,2). Bản chất của ơn gọi giáo dân là ở chỗ tổng
hợp một cách có hiệu năng, vào trong cuộc sống của mình, những gì là thánh
thiêng và những gì là phàm tục, những gì thuộc lãnh vực Phúc âm-Giáo hội và những
gì thuộc về trần thế. Ơn gọi ấy được thánh hiến nhờ ấn tín của bí tích Rửa tội
làm cho thông dự vào chức tư tế chung, và được củng cố nhờ bí tích Thêm sức, để
đem tinh thần Đức Kitô vào giữa lòng xã hội ngõ hầu giúp cho thế gian đạt đến
được cùng đích của mình một cách hữu hiệu hơn trong công bằng, bác ái và hòa
bình (GH 36, TĐ 7).
Nói cho đúng, giáo dân là kiểu mẫu chung và
phổ quát của con người kitô. Giáo dân thể hiện mẫu người toàn diện[41] làm căn bản cho mọi bậc sống chuyên biệt trong
Giáo hội, như là giáo sĩ hay tu sĩ. Bao lâu chưa thực sự có một hàng ngũ giáo
dân khắng khít hợp tác với hàng giáo phẩm, thì bấy nhiêu lâu Giáo hội-Dân Chúa
chưa thực sự thành hình, cũng như chưa có được một cuộc sống sung mãn, và chưa
phải là hình ảnh toàn vẹn của Đức Kitô (xem TG 21).
Thánh Linh ban cho giáo dân một đoàn sủng và
một ơn gọi đặc biệt; qua các bí tích Rửa tội và Thêm sức, giáo dân tham dự vào
các quyền tư tế, sứ ngôn và vương giả của Đức Kitô (đk 204); vì thế, họ cũng phải
có quyền và phải được quyền về mặt pháp lý tham dự vào quyền quản trị trong
Giáo hội, tức là: trong việc hành sử quyền cai trị, các giáo dân có thể cộng
tác theo quy tắc của luật (đk 129,2), và họ có khả năng đảm trách các giáo vụ
theo quy tắc luật định (đk 228,1); thí dụ: điều khoản 230 nói đến tác vụ đọc
sách và giúp lễ, nhưng lại chỉ dành riêng cho nam giới vì những lý do không mấy
rõ; còn các công tác khác (như chú giải phụng vụ, ca trưởng, v.v...) thì không
dành riêng cho giới nào cả (đk 230,2.3).
Sau đây xin kể ra một ít quyền hành của giáo
dân : [42] Hội đồng giám mục có thể đặt cả các
giáo dân làm thẩm phán [trong một tòa án tập đoàn; nhưng họ lại không có quyền
được bổ nhiệm làm đại diện hay là phó đại diện tư pháp]; nếu cần, thì một trong
những người ấy có thể được lựa chọn để thành lập tập đoàn thẩm phán (đđkk
1421,2). Đó là một chức vụ quan trọng và có tính cách vững bền. Từ ngữ nếu cần
không có nghĩa là nếu thiếu giáo sĩ, và trong thực tế, không cần phải để ý tới.
Một quyền nổi bật khác, đó là quyền hạn các bề
trên và các công hội trong các tu hội tận hiến và các dòng tông đồ, dù là hội
dòng giáo dân: quyền này không phải là một quyền mang sắc thái thống trị, song
là một loại công quyền thừa ủy lãnh nhận từ Thiên Chúa qua tác vụ của Giáo hội
(đk 618).[43]
Dù không có vẻ, nhưng thực sự Thiên VII, Phần
I trong Quyển IV (đđkk 1055-1165) của bộ giáo luật mới có một tầm quan trọng nổi
bật đối với giáo dân; đó là phần mang tựa đề: Bí tích hôn phối. Thêm vào đó,
còn có Thiên I, Phần III trong Quyển VII, đề cập đến: Các vụ tố tụng hôn nhân
(đđkk 1671-1707). Hôn phối là một cơ chế căn bản của loài người, vừa thuộc lãnh
vực thần luật và luật tự nhiên vừa mang tính chất pháp chế thực định. Qua bí
tích Rửa tội, các kitô hữu đã trở thành chi thể của Đức Kitô và của Giáo hội;
việc họ kết hợp trong hôn ước sẽ làm cho Giáo hội là một cộng đồng thông hiệp,
trở nên phong phú trong một cách thức rất đặc biệt. Xử dụng quyền tư tế chung
đã nhận lãnh ở nơi bí tích Rửa tội, và trong tư thế là những tư tế chung đích
thực, các người vợ người chồng ban bí tích Hôn phối rất cao quý cho nhau. Nhờ
bí tích kết hợp phong phú ấy, các người làm vợ làm chồng trở thành những cơ
quan sinh động làm cho Thân Mình Đức Kitô lớn rộng ra trong thế giới. Không ai
có thể chối cãi được là để hành sử quyền lợi và nghĩa vụ của mình trong đời sống
hôn nhân và gia đình, những người làm vợ làm chồng và làm cha làm mẹ không cần
phải có một thứ ủy nhiệm giáo luật nào cả (đk 226). Như thế mới rõ là phạm vi tự
do và những quyền lợi nghĩa vụ của hôn nhân và gia đình thì rất rộng lớn. Đây
là một trường hợp đáng được chọn làm mẫu mực để thiết định các hình thức thể chế
khác trong Giáo hội.
H. Kung đưa ra giả thuyết đúng hay sai là
chuyện khác nói rằng theo thần luật thì hàng ngũ giáo dân có quyền triệu tập
công đồng. Thời xưa, các hoàng đế đã làm như vậy. Có thể nói bẻ lại rằng họ đã
được thừa ủy để làm như thế; tuy nhiên, chính sự kiện ấy đã cho thấy là họ có
khả năng căn bản để có thể lãnh nhận một quyền hành tài phán (potestas
iurisdictionis) trong Giáo hội.[44]
Nói Tóm Tắt:
a) Hàng ngũ giáo dân trong Giáo hội là hiện
thân của Đức Kitô đang hiện diện một cách bí tích ở giữa lịch sử loài người. Hiến
chế Lumen Gentium quả quyết rằng: Tất cả những gì nói về Dân Thiên Chúa đều có
liên hệ đến giáo dân, tu sĩ và giáo sĩ (GH 30). Vì vậy, theo cách thức riêng của
mình, (suo modo), giáo dân làm
nên nhân tố cốt tử trong cơ cấu vừa nhân loại vừa thần linh của Giáo hội (GH
8), để nhờ đó Giáo hội thực sự là hiện thân của Đức Kitô đang hiện diện một
cách bí tích ở giữa lịch sử trần gian; họ có trách nhiệm gánh vác sứ mạng cứu độ
của Đấng Cứu Thế (GH 9), và họ múc lấy sinh khí cũng từ một nguyên lý chung là
Thánh Linh (GH 7). Còn Đức Kitô là tư tế, là ngôn sứ và là lãnh tụ, thì hoạt động
nơi mỗi chi thể của Ngài.
b) Hàng ngũ giáo dân với công việc tông đồ:
Trong Giáo hội là một cộng đồng tư tế được thánh hiến và có cơ cấu tổ chức (GH
11), mọi tín hữu đều thực sự có quyền bình đẳng về mặt phẩm giá và trong lãnh vực
hoạt động chung để xây dựng Thân Mình Đức Kitô (GH 32). Có nhiều ân huệ khác
nhau, nhưng Thánh Linh thì chỉ có một (GH 32). Chính do quyền riêng của mình mà
giáo dân làm việc tông đồ (TĐ 2), vì tự bản chất, ơn gọi làm kitô hữu cũng là
ơn gọi làm tông đồ (TĐ 3; GH 11,26,32).
c) Giáo dân với chức tư tế: Xét theo luật Do
thái, Đức Kitô là một giáo dân; nhưng thực ra, Ngài là Vị tư tế duy nhất đích
thực. Thần học tín lý đã bàn rất nhiều đến quyền phụng tự tư tế mà không bao giờ
thấy Tân Ước nhắc tới, ít ra không phải là một cách trực tiếp. Thư Do thái viết
rằng mọi loại hy tế, mọi cố gắng của con người trong thời tiền kitô, dùng phụng
tự để hòa giải chính mình với Thiên Chúa, đều đã thất bại. Các tư tế của Cựu Ước
đã được thay thế bằng Con Người Giêsu là Vị thượng tế duy nhất. Vì thế, theo
Tân Ước thì trong Giáo hội của Đức Kitô, không còn có một tư tế nào theo mẫu thức
Do thái cả. Giữa các môn đồ theo Đức Kitô, thì có những tông đồ, những giám mục,
những niên trưởng và những phó tế: đó là những tác vụ mới, khác hẳn với các tư
tế theo ý niệm của thời ấy. Đức Kitô đã muốn thiết đặt những công vụ có tính
cách cộng đoàn kia làm căn bản thiết yếu cho Giáo hội, vì phải có cơ cấu tổ chức
trật tự thì một cộng đoàn mới có thể sinh hoạt được.
Với thủ lãnh hữu hình của mình và trong một
cách thức đặc biệt trọn vẹn, các tông đồ và các giám mục cũng như các linh mục
là những người cộng sự của các giám mục (LM 2,4,12), thông dự vào trong chức tư
tế duy nhất của Đức Kitô. Như vậy, giám mục, linh mục và phó tế làm thành ba bậc
của chức tư tế phẩm trật, hay nói cho đúng hơn: của bí tích truyền chức thánh
(đk 1009).
Dù điều khoản 1024 chỉ dành chức thánh cho
nam giới, thì trên lý thuyết không thấy có gì gây trở ngại trầm trọng cho việc
có thể truyền chức phó tế cho phụ nữ. Trong Thượng hội đồng giám mục thế giới
năm 1987, một số nghị phụ, trong đó có đức hồng y Daneels, tổng giám mục
Malines-Bruxelles, đề nghị cho phụ nữ được chịu chức phó tế.
KẾT LUẬN
Các bước tiến trong khoa giáo hội học hiện đại
cho thấy rằng càng ngày yếu tố thần khí càng được đánh giá cao trong Giáo hội,
và nhờ đó mà thần học đoàn sủng cũng được phục hưng và có ảnh hưởng lớn không
những về mặt lý thuyết tri thức, mà cả về mặt thực tiễn giữa cuộc sống nữa.
Công đồng Vaticanô II đã chính thức công nhận thực tại sinh động không thể thiếu
được của các đoàn sủng ở trong cuộc sống Giáo hội, cũng như đã đặt nền móng cho
quyền tự do xử dụng chúng để phục vụ tha nhân và xây dựng Thân Mình Đức Kitô.
Giáo lý này đã được thể hiện qua bộ giáo luật mới. Tuy nhiên, cũng vẫn thấy còn
nhiều điểm chưa được hoàn bị trong nền pháp chế hiện nay của Giáo hội. Thực ra,
đó là điều dễ hiểu, bởi vì khó lòng mà kiếm cho ra một ý niệm pháp lý khả dĩ diễn
đạt tính chất đoàn sủng cho đầy đủ được!
Phải đào sâu vào tận nền tảng thần học của luật
pháp trong Giáo hội thì mới tránh được những thái độ thô thiển sai lệch, khi
tìm hiểu về các mối tương quan giữa đoàn sủng với giáo luật; chẳng hạn như thái
độ coi luật pháp là đối nghịch với đoàn sủng, hoặc là thái độ thực định tôn
sùng luật lệ và coi các đoàn sủng chỉ là chuyện riêng tư bên lề cuộc sống giáo
hội. Có một thái độ khác cũng thô thiển và ngây ngô không kém, đó là thái độ của
những người không đọc ra được sự kiện này là, giữa đoàn sủng và luật pháp, luôn
có và phải có một mối căng thẳng biện chứng nằm trong nhiệm ý quan phòng của
Thiên Chúa: họ đã quên bẵng đi vai trò thanh luyện rất phong phú của những mối
căng thẳng như thế trong thực tế cuộc sống.
Cơ cấu xã hội có pháp lý của Giáo hội ưng thuận
và đón nhận việc Thánh Linh truyền ban sinh lực và chỉ đạo cho mình, vì chính
cơ cấu theo bản chất phẩm trật ấy cũng là một đoàn sủng và là một dịch vụ nhằm
mục đích tăng cường, phối trí cũng như giải thích các đoàn sủng khác. Ngoài ra,
qua việc dùng giáo luật mà ủy nhiệm hay là chỉ định phận vụ cho giáo dân (xem
Chú thích sơ khởi, Vaticanô II), phẩm trật Giáo hội làm cho quyền lợi của họ được
trở thành chính thức và tồn tại vững bền, và như thế, khiến họ có khả năng
thông phần vào quyền cai quản trong Giáo hội.
Luật pháp có nhiệm vụ phối hợp các quyền tự
do trong trật tự công bằng: theo thần luật, đó là một nhiệm vụ cần thiết. Hai
bí tích rửa tội và thêm sức truyền ban khả năng dạy dỗ và cai quản; còn việc chỉ
định pháp lý thì làm cho khả năng ấy có thể triển khai một cách dễ dàng và có
trật tự.
Vấn đề là các đoàn sủng cần đến một phạm vi tự
do hoạt động mở rộng với những biên dạng ẩn hiện...; còn bộ giáo luật mới thì
dù đã có những bước tiến lớn, nhưng cũng vẫn còn tỏ ra rụt rè, nghèo nàn và ngập
ngừng về điểm này.
Tóm lại, để giải quyết cho ổn thỏa mối căng
thẳng dằng co giữa đoàn sủng và pháp luật, thì cần lưu ý đến các điểm này:
Cần phải biết nhìn nhận vai trò cần thiết và
tích cực của pháp luật đối với đoàn sủng. Chính nhờ pháp luật mà các đoàn sủng
tên tuổi trong lịch sử Giáo hội đã đạt tới được những chiều kích to lớn, trở
thành trường tồn và xác thực, phổ quát và có khả năng thích nghi với yêu cầu thời
đại.
Cần phải gột bỏ não trạng vụ luật pháp và
khuynh hướng tuyệt đối hóa các luật lệ trong Giáo hội, và đồng thời cần phải biết
quan niệm về Giáo hội tức là xây dựng một khoa giáo hội học theo tinh thần công
đồng chung Vaticanô II.
Các nhà giáo luật học cần phải tìm hiểu cho
ngày càng sâu rộng hơn về bản chất thần học của nền pháp chế trong Giáo hội,
cũng như cần phải lưu ý đến tính chất khôn ngoan và đoàn sủng của khoa giáo luật
học, mà họ nghiên cứu và ứng dụng nhằm phục vụ cộng đoàn và mối hiệp thông
trong Giáo hội.
Nếu đã có tính chất đoàn sủng, thì tất nhiên
là giáo luật phải được đón nhận và thực thi trong ánh sáng soi dẫn của Thánh
Linh là tình yêu. Thánh Augutinô nhắc nhở rằng: Tình yêu có, luật khó cũng
thành dễ... (Sermo 91,1; PL 38. 584).
Xin cho tôi kết thúc bài viết với lời kinh
ghi trong bức thư chung của cha Peter Hans Kolvenbach, Bề trên tổng quyền Dòng
Tên, gửi cho các anh em trong Dòng, đề ngày 10 tháng 10 năm 1984:
Vắng Thánh Linh, Thiên Chúa bỗng xa vời, Đức
Giêsu Kitô mất hút vào dĩ vãng, Phúc âm thành chữ chết, Giáo hội: một tổ chức
đơn thuần; Quyền thế thành thống trị, sứ mệnh hóa tuyên truyền; Phụng tự không
gì ngoài gợi lại, Sống đời kitô: làm nô dân cho luân lý. Và ngược lại: Với
Thánh Linh, mọi sinh linh hứng khởi, Cả hoàn vũ mãi khắc khoải chờ Nước Chúa
sinh ra, Đức Kitô sống lại đang đứng đấy, Tin Mừng là sức sống giữa muôn dân,
Giáo hội là thông hiệp trong Ba Ngôi, Sứ mệnh ư? một kỳ Hiện Xuống mới, Còn phụng
vụ? là tưởng niệm, và cũng là mừng trước; Kiếp làm người? cả một cuộc thần hóa
cao siêu!
Luis Vela, S.J.
Tác giả là giáo sư Giáo luật tại Đại học Comillas, Madrid. Nguyên văn bài viết Dialectica eclesial:
Carismas y Derecho canónico đăng trên tạp chí ESTUDIOS ECLESIÁSTICOS (Madrid)
65(1990)19-59.
[Felipe Gómez
Ngô Minh, S.J. chuyển ý, HTTH SỐ 3, NĂM THỨ HAI (1992)]
[1] L. Vela, El laico en el nuevo Código de
Derecho Canónico, EL SILLAR 14 (1984) 71i85. Idem, Christifidelium officia
fundamentalia descripta in Legis Fundamentalis Schematis textu emendato,
Periodica de re morali et can., 61(1972) 605-624. Idem, De la representación a
la presencia Laicado 74(1986) 59-79
[2] Y.M. Congar, Propiedades esenciales de la
Iglesia, tại Mysterium Salutis, VI-I, Madrid 1969, 371-516.
[3] Gioan-Phaolô II, Tông Hiến Sacrae disciplinae leges, trong Bộ Giáo Luật,
do Nguyệt San Trái Tim Đức Mẹ xuất bản, 1987, tr. XXVI.
[5] Otto Semmelroth, La Iglesia como sacramento
radical, trong Mysterium Salutis, IV-I, tr.384-385.
[7] Y.M. Congar, Ministères institués dans Ministeria quaedam et Ad
pascendum, LA MAISON-DIEU 115(1973) 86-96; J. Delorme, Le ministère et les
ministères selon le Nouveau Testament, Paris 1974
[8] L. Sartori, Carismi e ministeri, trong
Dizionario Teologico Interdisciplinare 1, Torino 1977, 510
[9] H. Schlier, Eclesiología del Nuevo Testamento
trong Mysterium Salutis IV-I, 221
[10] O. Huizing, El ordenamiento eclesiástico trong
Myst. Salut. IV-2
[11] Codice di Diritto Canonico, testo ufficiale
latino e versione italiana autorizzata, tại ENCHIRIDION VATICANUM B, Bologna
1984; Sacro Concilio Ecumenico Vaticano II, COSTITUZIONI, DECRETI,
DICHIARAZIONI, Milano 1966; Universidad de Navarra, Código de Derecho Canónico,
ed. anotada, Pamplona 1984; Profesores de Salamanca, Código de Derecho
Canónico, ed.bilingue, Madrid 1983.
[12] Vatican II, L'apostolat des laics, (Unam Sanctam 75), Paris 1970
[13] Xem Guide pratique du Code de Droit Canonique.
Notes Pastorales, éd.Tardy 1985
[14] Universidad de Navarra, o.c. tr. 176-177.
[15] Profesores de Salamanca, o.c. tr. 138-140.
[16] J. Perarnau, Decreto sobre el apostolado de
los laicos, Barcelona 1968, 328.
[17] Concilium Oecumenicum Vaticanum II, Acta
Commissionis Conciliaris De fidé lium Apostolatu, TPV 1964, 61
[18] Conc.Oec.Vat.II, Acta Decreti De apostolatu
laicorum. Textus recognitus et modi a Patribus conciliaribus propositi a
Commissione De fidelium apostolatu examinati, TPV 1965, 117
[20] J. Grotaers, Quattre ans après, trong
L'Apostolat des laics, (Unam Sanctam 75), Paris 1970, 277
[21] K. Rahner, Lo dinámico en la Iglesia,
Barcelona 1963, 89-90
[22] Bộ Giáo Luật, kđ 162, 165, 477.1, 485, 497.3, 502.1, 547, 557.1
[23] H.R. Schlette, Religious Freedom, trong Sacramentum Mundi, 5, New
York-London 1970, 297
[24] Gioan-Phaolô II, Tông Hiến SDL, tr. XXVIII
[26] Universidad de Navarra, o.c. tr. 79
[27] Profesores de Salamanca, o.c. tr. 30
[28] Đức Phaolô VI, Allocutio ad praelatos auditores S.Romanae Rotae
(29-1-1970), AAS 62(1970) 115.
[29] L. Bouyer, La Iglesia de Dios, Madrid 1973,
598
[30] M. Olphe Gailard, Le charisme des fondateurs,
Vie Consacrée 39(1967) 338-352
[31] Xem H. Kung, La Iglesia, Barcelona 1969,
513í516
[32] Y.M. Congar, Propiedades esenciales de la
Iglesia, l.c. tr. 573-574
[33] G. Colombo, Teologia, ermeneutica e teoria,
Teologia, 1 (1976) 5-65
[34] L. Serentha, Prospettive per una visione
organica della Teologia, Dizionario Teologico Interdisciplinare 3, Torino 1977,
650-651.
[35] Mysterium Salutis I-I, Madrid 1969, 37
[36] L. Vela, El Derecho Canónico como disciplina
teológica, Gregorianum 50(1969) 747
[37] A. Rouco Varela - E. Corecco, Sacramento e
diritto, antinomia nella Chiesa?, Riflessioni per una teologia del Diritto
Canonico, Milano 1971
[38] E. Corecco, L'unità tra diritto divino e
canonico nella teologia cattolica, Diziónario Teol. Interd. 3, 147.
[39] V. Ramallo, El Derecho y el misterio de la
Iglesia, Roma 1972, 382-384, 419.
[40] G. Hasenhutl, Les charismes dans la vie de
l'Eglise, L'apostolat des laics (Unam Sanctam 75), Paris 1970, 214.
[41] L. Vela, Teolgía y Filosofía subyacentes en el
nuevo Código, Sal Terrae 7/8(1983) 527-543.
[42] L. Vela, El laico en el nuevo Código de
Derecho Canónico, Sillar 14(1984) 81-83
[43] Severino M. Alonso, La vida consagrada, Madrid
1980, 251-255
[44] H. Kung, Estructuras de la Iglesia, Barcelona
1965, 265-329.