VỀ VẺ ĐẸP
1. Eros và vẻ đẹp
Chúng
ta không bàn về vẻ đẹp dưới khía cạnh yếu tính và siêu hình, như : Tự nó, đẹp
là gì? Có liên hệ nào với sự thật và sự thiện? Không, không nói theo khía cạnh
đó, nhưng theo khía cạnh hiện sinh. Nói khác đi, chúng ta suy nghĩ về kinh nghiệm
mỗi người có về cái đẹp. Từ kinh nghiệm này, chúng ta đưa ra ánh sáng một khía
cạnh xác định : không phải nét đẹp của biển cả, của lúc hoàng hôn, của các kính
mầu, nhưng là nét đẹp của thân xác con người, nam cũng như nữ. Chính nét đẹp này
làm phát sinh eros (tình dục), một trong những sức mạnh, nếu không muốn nói là
mạnh nhất, làm rung chuyển thế giới. Vẻ đẹp của biển cả hay cảnh hoàng hôn
không có mầu sắc tình dục, với tất cả những gì nó bao hàm.
Theo
tâm trí, sở thích và chờ đợi của con người hôm nay, vẻ đẹp của thân thể, có y
phục hay không, dường như là một giá trị được tìm kiếm nhiều nhất, là đối tượng
được “tôn thờ” trong những xã hội giầu có, thịnh vượng. Chỉ cần nghĩ tới các buổi
trình diễn thời trang, những cuốn lịch khỏa thân, vai trò của phụ nữ trong thế
giới phim ảnh, ca nhạc kịch nghệ và quảng cáo, showbiz…là có thể nhận ra ngay điều đó. Con người hôm nay hoài nghi
sự thật, chống lại sự thiện, nhưng say mê vẻ đẹp.
2. Sự hàm hồ của vẻ đẹp
Nhà
văn Nga Dostoievski đặt trên môi miệng Thằng Ngốc (Gã Khờ), một nhân vật mà ông
rất thích, lời nói sau đây: “Thế giới sẽ được vẻ đẹp cứu rỗi”. Nhưng vẻ đẹp nào
sẽ cứu rỗi thế giới ? Rõ ràng đối với nhân vật này, đó là mọi vẻ đẹp. Nhưng
chúng ta biết : có một vẻ đẹp có thể cứu rỗi thế giới, mà cũng có một vẻ đẹp có
thể làm thế giới tiêu vong.
Nhà
thần học Evdokimov viết: “Không chỉ mình Thiên Chúa mặc lấy vẻ đẹp, ác thần
cũng bắt chước Ngài, làm cho vẻ đẹp trở thành hàm hồ”. Về điểm này, có sự tiến
triển từ thời Trung cổ sang thời cận đại. Thời Trung cổ, người ta xác tín sự
thiện thì đẹp, sự ác thì xấu. Trong nghệ thuật tạo hình hay thi phú, quỷ thần
luôn có bộ mặt kinh khủng, quái dị. Về sau, đến một lúc nào đó, chúng lại được
mô tả cách khác : đẹp đẽ hơn, hoặc ít nhất dễ coi hơn. Trong thi phú, kể từ thời
thi sĩ người Anh Milton (“Thiên đường đã mất”), quỷ thần mang vẻ đẹp của kẻ bị
đầy ải. Vẻ đẹp không còn là thuộc tính độc hữu của sự thiện nữa.
Một
dấu chỉ cho thấy sự hàm hồ của vẻ đẹp, đó là : song song với việc tôn dương nó,
văn hóa cận đại cũng minh nhiên khước từ nó. Có người nhục mạ vẻ đẹp, đến độ có
thể nói vẻ đẹp đã chết, giống như nói Thiên Chúa đã chết. Do hầu như chỉ có đàn
ông nói về vẻ đẹp, nên khinh chê vẻ đẹp trở thành miệt thị phụ nữ. Thi sĩ Pháp
Rimbaud gọi phụ nữ là “một đống gan ruột !”.
Trong
hội họa, họa sĩ vẽ những con chim kinh dị tìm tòi trên thân xác phụ nữ như trên
một xác thối. Trong những bức tranh trừu tượng, có họa sĩ vẽ những phụ nữ nổi
tiếng giống như những “thây ma của vẻ đẹp”.
Thực
ra, không chỉ có vẻ đẹp phụ nữ, mà vẻ đẹp nói chung bị nhục mạ. Không thiếu những
tác phẩm hội họa hay điêu khắc phản lại thẩm mỹ được sáng tạo, và còn được đưa
vào viện bảo tàng nữa.
Đâu
là lý do của sự hàm hồ này ? Người ta thường cho là do tội lỗi. Nhưng nếu đọc
Kinh thánh, có thể thấy sự hàm hồ này không chỉ là hậu quả của tội, mà còn là
lý do gây ra tội. Bà Evà bị vẻ đẹp của trái cấm cám dỗ, vì bà “thấy trái đó ăn
thì ngon, trông thì đẹp mắt” (St 3,6). Về phương diện thẩm mỹ thì trái đó đúng
là đẹp. Con người không rời xa Thiên Chúa, nếu không bị thụ tạo lôi cuốn. Tội
nào cũng gồm hai yếu tố : tách ra khỏi Thiên Chúa và dính bén với thụ tạo
(aversio a Deo et conversio ad creaturas). Xét theo tâm lý học, yếu tố thứ hai
đi trước yếu tố thứ nhất. Bởi vậy, tội lỗi có lý do đi trước nó.
Sự
hàm hồ của vẻ đẹp có gốc rễ nơi bản tính của con người gồm hai yếu tố : chất thể
và phi chất thể, thân xác và linh hốn. Hai yếu tố này giúp con người vừa hướng
lên cao vừa hướng xuống thấp. Con người sử dụng tự do mà Thiên Chúa ban, để quyết
định xem quay về hướng nào. Chính trong quyết định này mà người ta có thể thấy
con người sử dụng tự do ra sao, và qua đó, phẩm giá con người được định đoạt.
Giữa
xác thịt và thần trí có tranh chấp. Sự tranh chấp này là đặc tính của cuộc sống
con người nơi trần thế, liên quan tới vẻ đẹp. Khi vẻ đẹp thụ tạo không giúp con
người vươn lên Vẻ Đẹp bất thụ tạo, con người sẽ liều mình đắm chìm trong đó, biến
vui thú tạm thời thành mục tiêu. Thánh Augustinô đã tự thú: “Một cách trái
khoáy, con nhào tới những cái đẹp ở trần gian này…con bị đẩy xa Chúa bởi những
gì mà, nếu không có Chúa, sẽ chỉ là hư vô” (Conf. X, 27).
Khi
ấy vẻ đẹp thụ tạo, thay vì là nơi giúp con người thực tập tự do, lại đích thực
là nhà mồ, vì nó làm cho họ trở thành nô lệ. Để hưởng thụ vẻ đẹp này, họ sẵn sàng
làm những gì người nghiện ma túy, chẳng hạn, thường làm : trộm cắp, giết người..
Yêu thich vẻ đẹp, một khi thể hiện cách vô trật tự, sẽ khiến đầu óc ra u mê vì
không làm chủ được tâm trí và ý chí của mình.
Văn
chương cung cấp cho ta những biểu tượng về vẻ đẹp của phụ nữ : có vẻ đẹp cao
quý giúp nâng tâm hồn lên ; có vẻ đẹp khêu gợi đưa tới sự hủy hoại. Có những
khuôn mặt nổi tiếng hầu như ai nấy đề biết : Hêlêna, Juliet, Iseult.. Trong
Kinh thánh cũng có những vẻ đẹp phụ nữ trở thành biểu tượng đối nghịch nhau :
trong Diễm tình ca, vẻ đẹp của cô nàng làm thăng hoa tình yêu của hai người ;
còn vẻ đẹp của BátSêva lại đưa Đavít đến chỗ ngoại tình và phạm tội ác (x. 2Sm
11,2). Chúng ta cũng không quên lời của Đaniel nói với một trong hai ông già kết
án tử hình bà Susanna: “Sắc đẹp đã mê hoặc ông” (x. Đn 13,56).
Theo
Kinh thánh, dừng lại ở thụ tạo là bản chất cốt yếu của việc thờ ngẫu tượng, vì
đặt thụ tạo vào chỗ của Đấng Sáng Tạo. “Hết những ai không chịu nhìn nhận Thiên
Chúa, tự bản chất là những kẻ ngu si. Từ những vật hữu hình tốt đẹp, chúng
không đủ khả năng nhận ra Đấng hiện hữu…Nếu chúng say mê những vẻ đẹp đó mà coi
là thần minh, thì cũng phải biết rằng chúa tể của những vật đó còn đẹp hơn biết
mấy, vì chính Đấng sáng tạo mọi loài là tác giả của muôn vẻ đẹp” (Kn 13,13 ; x.
Rm 1,20-23).
Sự
hạ giá vẻ đẹp tinh thần so với vẻ đẹp thuần túy thân xác có những hậu quả đáng
lưu ý, nhất là nơi phụ nữ. Vẻ đẹp không còn tập trung vào khuôn mặt nữa, nơi biểu
lộ rõ hơn những gì bên trong như tình cảm, tư tưởng, tâm hồn. Giờ đây vẻ đẹp biểu
lộ trên những phần khác của thân thể. Do đó ngày càng ít đi những nét đẹp như
khuôn mặt của La Joconde (tranh của Leonardo da Vinci), và nếu cứ đà này, người
ta sẽ không còn thấy những vẻ đẹp như thế nữa.
Vẻ
đẹp của phụ nữ dần dần mang tính chất cám dỗ nhục dục (sex-appeal). Cùng với việc
phẩm giá bị coi thường, phụ nữ, nhất là phụ nữ đẹp, trở thành đối tượng phục vụ
cho đàn ông, như một đồ vật chứ không như một nhân vị. Trong một cuốn phim do
Pháp sản xuất, người ta bắt gặp cảnh một phụ nữ, buồn vì bị người yêu phản bội,
đã chua chát thốt lên: “Người phụ nữ có giá trị khi còn lôi cuốn được sự ham muốn
của đàn ông”.
3. Đức Kitô đã cứu vẻ
đẹp
Thánh
Phaolô viết: “Muôn loài thụ tạo…lâm vào cảnh hư ảo, không phải vì chúng muốn,
nhưng là vì Thiên Chúa bắt chịu vậy. Tuy nhiên, vẫn còn niềm trông cậy là có
ngày cũng sẽ được giải thoát, không phải lệ thuộc vào cảnh hư nát, mà được cùng
với con cái Thiên Chúa hưởng tự do và vinh quang” (Rm 8,19-21).
Nếu
thay “muôn loài thụ tạo” bằng “vẻ đẹp”, thì điều này cũng không làm thay đổi ý
nghĩa của lời Phaolô nói. “Vẻ đẹp lâm vào cảnh hư ảo…và trông cậy sẽ được giải
thoát”. Để cứu thế giới, chính vẻ đẹp phải được cứu trước. Trên thực tế, vẻ đẹp
đã được Đức Kitô cứu chuộc. Ta thử xem điếu ấy xẩy ra thế nào.
Liên
hệ đến dáng vẻ của Đức Kitô, có hai quả quyết mâu thuẫn nhau. Một đàng, Ngài được
gọi là “vô song tuyệt mỹ giữa thế nhân” (Tv 45/44, 3), là “phản ánh vẻ huy
hoàng của Thiên Chúa” (Dt 1,3) ; đàng khác, người ta lại gán cho Ngài những lời
nói về Người Tôi Trung: “Người chẳng còn dáng vẻ, chẳng còn oai phong đáng
chúng ta ngắm nhìn, dung mạo chẳng còn gì khiến chúng ta ưa thích…Người như kẻ
ai thấy cũng che mặt không nhìn” (Is 53,2-3).
Giải
thích sự mâu thuẫn này cũng dễ thôi. Đức Kitô cứu vẻ đep bằng cách để người ta
tước đi vẻ đẹp của mình, và Ngài làm thế là vì yêu. Thánh Augustinô viết: “Khi
làm người, một cách nào đó Ngài mặc lấy sự dơ bẩn, nghĩa là mang lấy bản tính
phải chết, để đứng vào hàng ngũ con người, trở nên giống con người, để giúp bạn
yêu vẻ đẹp bên trong. Ngài không còn dáng vẻ oai phong, để ban cho chúng ta
dáng vẻ oai phong”.
Muốn
hiểu điều nghịch lý này, phải nại tới nguyên tắc Phaolô đã đưa ra ở đầu thư thứ
nhất gửi tín hữu Corintô: “Thật vậy, thế gian đã không dùng sự khôn ngoan mà nhận
biết Thiên Chúa ở những nơi Thiên Chúa biểu lộ sự khôn ngoan cuả Người. Cho nên
Thiên Chúa đã muốn dùng lời rao giảng điên rồ để cứu những người tin” (1Cr
1,21).
Áp
dụng cho vẻ đẹp, điều này có nghĩa là : vì do vẻ đẹp của thụ tạo, con người đã
không có khả năng vươn lên tới vẻ đẹp của Đấng Tạo Hóa, nên có thể nói Thiên
Chúa đã thay đổi phương pháp, và quyết định mạc khải vẻ đẹp của Ngài qua sự ô
nhục và hình tượng xấu xa của đau khổ và thập giá. Từ đây, muốn đạt tới vẻ đẹp,
phải đi qua mầu nhiệm vượt qua của sự chết và sự sống lại.
Kiểu
mẫu và nguồn mạch của vẻ đẹp được cứu giờ đây là vẻ đẹp “trên khuôn mặt Đức
Kitô” (2Cr 4,6). Vẻ đẹp không còn là cái gì trừu tượng (in abstracto theo định nghĩa của Platô), “vẻ huy hoàng của chân
lý”, nhưng cụ thể là vẻ huy hoàng của Đức Kitô (dù hai chủ thể này trùng hợp
nhau do Đức Kitô cũng là chân lý).
Người
ta có thể tự hỏi : Có gì khác nhau giữa vẻ đẹp được cứu chuộc với những vẻ đẹp
khác, trong khi đây cũng chỉ là vẻ đẹp thân xác ? Khác ở chỗ chính là vẻ đẹp
bên trong, mà thân xác chỉ lả phương tiện diễn tả, chứ không phải là nguồn gốc
của nó. Thân xác con người trở thành “bí tích” của vẻ đẹp, nghĩa là dấu chỉ bày
tỏ vẻ đẹp. Đó không phải là tấm màn mờ đục, được ánh sáng chiếu vào, nhưng là tấm
kính để ánh sáng xuyên qua. Gương mẫu tiêu biểu chính là Đức Kitô trong cuộc Biến
hình.
Đôi
khi người ta có thể thấy khuôn mặt của nhà chiêm niệm nhắc nhớ mầu nhiệm này. Đầu
ông hơi cúi, mắt nhìn xuống đất. Ai bắt gặp lần đầu tiên cũng phải thán phục mà
kêu lên : Ôi, cái nhìn, ánh sáng, vẻ đẹp tuyệt vời! Trong một tác phẩm của
mình, Paul Claudel nói về một cô gái: “Mắt mọi người nhận được ánh sáng, còn cô
ta thì cho”. Có thể áp dụng lời này cho nhà chiêm niệm ấy.
Người
ta có thể thấy được vẻ đẹp này đặc biệt trên khuôn mặt trẻ em (ít ra ở những em
sống trong một môi trường lành mạnh). Vẻ đẹp ấy toát ra từ một tâm hồn ngây
thơ, trong trắng.
4. Làm thế nào dự phần
vào vẻ đẹp được cứu
Như
đã nói, Đức Kitô đã cứu vẻ đẹp bằng yếu tố ngược lại, tức là để cho người ta tước
mất vẻ đẹp của mình. Ngài tuyên bố có một cái gì đó còn cao hơn tình yêu đối với
vẻ đẹp, đó là vẻ đẹp của tình yêu.
Tất
cả những điều đó có ý nghĩa gì đối với chúng ta ? Có đúng là sống trong thế
gian này, chúng ta không được tìm kiếm và hưởng thụ vẻ đẹp thụ tạo, mà trên hết
là vẻ đẹp của thân xác con người, trong khi chờ đợi thân xác ta biến hình trong
ngày sống lại ? Không phải vậy. Theo ý Thiên Chúa, vẻ đẹp thụ tạo là để làm đẹp
cuộc đời này, chứ không phải đời sau, vì đời sau có vẻ đẹp riêng của nó.
Một
bản văn của Công đồng Vatican II, khi nói rằng những hoạt động và giá trị của
con người cần phải được Thập giá và sự Phục sinh của Đức Kitô thanh tẩy, đã kết
luận như sau: “Vì đã được Đức Kitô cứu chuộc và được biến đổi thành thụ tạo mới
trong Chúa Thánh Thần, nên con người có thể và phải yêu mến chính các thụ tạo
do Thiên Chúa dựng nên. Vì nhận được thụ tạo do Chúa ban, nên con người coi
chúng như phát xuất từ tay Chúa và kính trọng chúng. Đang khi cảm tạ Thiên Chúa
là Đấng Ban Ơn vì các thụ tạo ấy, cũng như đang khi sử dụng và thụ hưởng chúng
trong tinh thần nghèo khó và tự do, con người thực sự thi hành quyền làm chủ thế
giới, như một kẻ không có gì hết, nhưng lại sở hữu tất cả (2Cr 6,10)” (Hiến chế
Mục vụ, số 37).
Thánh
Phanxicô Assisi để lại cho chúng ta tấm gương vĩ đại về cách xử sự đối với tạo
thành. Vị thánh nghèo khó là người ca ngợi nhiệt tình nhất vẻ đẹp của các thụ tạo.
Những anh Mặt Trời, những chị Mặt Trăng và các vì sao…anh chị nào cũng đẹp đẽ,
mỹ miều. Điều lạ lùng là khi ngài ca ngợi các thụ tạo tạo đó, lại là lúc ngài
không còn trông thấy chúng nữa, vì mắt ngài hầu như đã bị mù, thậm chí ánh sáng
mặt trời làm cho mắt ngài cảm thấy nhức nhối. Khi đã từ bỏ tất cả, ngài lại có
khả năng hưởng thụ tất cả.
Như
vậy, ta có thể thưởng thức vẻ đẹp thụ tạo, nếu chấp nhận thập giá đã cứu chuộc
nó. Và thập giá của vẻ đẹp không phải là thứ đau khổ nào, mà chính tình yêu, một
tình yêu đòi hỏi trung thành, tôn trọng người khác, vâng phục Thiên Chúa, tuân
theo ý nghĩa của sự vật, tức đòi phải hy sinh, từ bỏ.
Triết
gia Pascal nói rằng trên thế giới có ba cấp độ cao cả : cấp thứ nhất là cấp của
thân xác, sức mạnh và những gì thuộc vật chất ; cấp thứa hai là cấp của trí
khôn, thiên tài, khoa học và nghệ thuật ; cấp thứ ba là cấp của sự thánh thiện,
nhân từ và ân sủng (Kierkegaard cũng có một cách phân chia tương tự theo ba cấp
: cấp thẩm mỹ, cấp triết học và cấp tôn giáo).
Giữa
cấp trước và cấp sau, có sự cách biệt gần như vô hạn về phẩm chất. Giầu hay
nghèo, đẹp mã hay xấu dáng, không liên hệ gì đến thiên tài. Sự cao cả của thiên
tài thuộc bình diện khác, vượt hẳn lên trên. Cũng vậy, mạnh hay yếu, thiên tài
hay mù chữ, không liên hệ gì đến một vị thánh, vì sự cao cả của ngài thuộc bình
diện khác, vượt xa đến mức vô biên.
Những
gì Pascal bàn về sự cao cả nói chung, cũng nên được áp dụng cho vẻ đẹp. Có ba cấp
vẻ đẹp : cấp của vẻ đẹp thể lý hay thân xác ; cấp của vẻ đẹp trí khôn và nghệ
thuật ; cấp của vẻ đẹp thiêng liêng. Giữa cấp trước và cấp sau có một vực thẳm
ngăn cách. Vẻ đẹp ở cấp thứ ba có một danh xưng mà chỉ mình nó nói lên tất cả.
Danh xưng đó là ân sủng. Ân sủng đồng nghĩa với đẹp. Một tâm hồn đầy ân sủng là
một tâm hồn đẹp.
Một
thi sĩ đã viết: “Vẻ đẹp lớn nhất của Thiên Chúa là ân sủng”. Không gì trên thế
giới – cho dù đó là một cảnh tượng thiên nhiên hay một tác phẩm nghệ thuật – có
thể trực tiếp nói với chúng ta về vẻ đẹp của Thiên Chúa bằng ân sủng, vì ân sủng
không chỉ phản chiếu, mà chính là “tham dự” vào vẻ đẹp này. Thánh Têrêxa Avila
có lần được thấy sự huy hoàng của một linh hồn sống trong ân sủng, đã so sánh
nó với viên kim cương phản chiếu ánh sáng nơi mọi góc cạnh. Còn thánh Catarina
Sienna thì nói: “Trên thế gian này, không gì bằng vẻ đẹp của một linh hồn sống
trong ân sủng”.
Vượt
qua từ cấp vẻ đẹp này sang cấp vẻ đẹp cao hơn, đó không phải là chuyện dễ dàng.
Nó đòi khổ chế, đặc biết khổ chế đôi mắt. Feuerbach cho rằng: “Con người là cái
mà nó ăn”. Trong bối cảnh của văn hóa hiện nay, hoàn toàn bị hình ảnh thống trị,
có lẽ phải nói: “Con người là cái mà nó nhìn”.
Thánh
Augustinô không cảm thấy xấu hổ khi nói cho người khác biết cuộc chiến đấu của
ngài trong vấn đề này, không chỉ lúc còn
là thanh niên, nhưng cả khi đã là Giám mục. Sau khi mô tả những gì con người
làm ra (quần áo, vật dụng, tranh ảnh, điều khắc..) phỉnh phờ con mắt giác quan
của ngài, ngài viết tiếp: “Cả con nữa, nói thì nói vậy dù biết rõ, những bước
chân con vẫn còn vướng vào những sợi chỉ giăng mắc của những vẻ đẹp. Trong khi
mà, một cách khốn nạn, con để mình bị đớp lấy, nhưng một cách nhân từ, Ngài rút
con ra khỏi, khi thì con không hề ý thức vì chưa dấn sâu vào cạm bẫy, khi thì bằng
cách làm con đau đớn vì con đã bám víu chặt vào đó” (Conf. X,34).
Không
rõ liệu Augustinô sẽ nói thế nào, nếu như ngài sống vào thời đại hôm nay, sau
những phát minh về điện ảnh, truyền hình, internet
! Đức Giêsu nói: “Nếu mắt phải của anh làm cớ cho anh sa ngã, thì hãy móc mà
ném đi ; vì thà mất một phần thân thể, còn hơn là toàn thân bị ném vào hỏa ngục”
(Mt 5,29). Làm sao mắt lại có thể là cớ cho ta sa ngã, nếu không phải là cái mà
ta nhìn ?
Tuy
vậy, điều quan trọng là mở mắt trước vẻ đẹp chân thực, hơn là nhắm mắt trước vẻ
đẹp giả dối : mở mắt chiêm quan Đức Kitô chịu đóng đinh và sống lại. Thánh
Gioan Climacô cho biết: “Khiết tịnh là người xua đuổi eros bằng một Eros khác”,
nghĩa là sự lôi cuốn tới thụ tạo bằng sự lôi cuốn tới Thiên Chúa.
Khi
cảm thấy bị tổn thương vì những hình ảnh đẹp đẽ “xác thịt”, hãy làm như người
Do thái trong sa mạc : bị rắn độc cắn, họ chạy đến nhìn con rắn đồng mà Môsê đã
cho treo lên, nhờ đó mà được chữa khỏi. Chúng ta cũng vậy. Lúc ấy đừng mất thời
giờ hỏi xem tại sao, thế nào (chần chừ chính là lúc nọc độc lan ra), nhưng hãy
đến ngay với Thánh giá, lấy đức tin mà nhìn. Quyền năng của Đức Kitô sẽ cứu chữa
ta.
Để
tham dự vào mầu nhiệm cứu độ vẻ đẹp, có một cách khác cũng quan trọng không
kém, đó là nhìn đến những người không có nét nào hấp dẫn chúng ta. Thực tế là
những người nghèo khó, đau khổ, bị bỏ rơi, có thể thấy nhan nhản ngày hôm nay.
Mẹ Têrêxa Calcutta, khi ẵm một trẻ em
đau nặng, hoặc khi đưa về nhà một người già sắp chết bị vất ra đường, với tất cả
tấm lòng dịu hiền, là góp phần vào vẻ đẹp được cứu độ. Chúng ta lặp lại : Cứu
thế giới không phải là tình yêu dành cho vẻ đẹp, nhưng là vẻ đẹp của tình yêu.
Thành
phố ngày nay đầy những thẩm mỹ viện và những quảng cáo chăm sóc vẻ đẹp. Có lẽ
không nên quên lời của thánh Augustinô: “Người ta trở nên đẹp khi yêu mến Thiên
Chúa. Một người xấu dáng không trở nên đẹp mã nhờ yêu một phụ nữ đẹp. Nhưng điều
không thể trong lãnh vực thể lý, trở thành có thể trong lãnh vực thiêng liêng”.
Cũng thánh nhân còn viết: “Tội lỗi làm nhơ bẩn linh hồn, nhưng khi yêu mến
Thiên Chúa, linh hồn tìm lại được vẻ đẹp đầu tiên…Tình yêu Thiên Chúa càng lớn
lên trong bạn, vẻ đẹp càng tỏ hiện trong đó, là vì “bác ái là vẻ đẹp của linh hồn”.
Con người là cái mà nó yêu.
5. Làm chứng cho vẻ đẹp
Như
đã nói ở đầu bài, vẻ đẹp không chỉ quan trọng cho đời sống thiêng liêng của ta,
mà còn liên hệ đến việc loan báo : có thể Phúc âm hóa bằng vẻ đẹp như thế nào ?
Về
vấn đề này, ngay từ thời Phaolô đã có hai phương pháp đối nghịch nhau. Phương
pháp thứ nhất liên hệ tới điều thánh Tông đồ nói về sự khôn ngoan, có thể phát
biểu như sau: Trong khi người thời đại này tìm kiếm vẻ đẹp, thì chúng tôi lại
rao giảng một Đức Kitô chịu đóng đinh, không đẹp đẽ mà cũng chẳng huy hoàng (x.
1Cr 1,22-23).
Phương
pháp thứ hai, cũng dựa vào cách Thánh Tông đồ nói về sự khôn ngoan, có thể phát
biểu như sau: Chúng tôi giảng về vẻ đẹp, nhưng không phải vẻ đẹp của thế gian,
mà là vẻ đẹp nhiệm mầu của Thiên Chúa đã được giữ bí mật, vẻ đẹp mà Thiên Chúa
đã tiền định từ trước muôn đời, cho chúng ta được vinh hiển (x. 1Cr 2,6-7).
Trong
lịch sử Giáo hội, người ta đã trung thành áp dụng phương pháp giáo huấn này
(phương pháp sic et non), theo cách nại
tời những giá trị của lẽ khôn ngoan và vẻ đẹp. Kể từ thời Tertullianô, một số
người chọn cách làm chứng không dây dưa với vẻ đẹp thế gian, bị coi là hư hỏng
vì tội lỗi, không lý gì đến ý thức thẩm mỹ, sống khổ hạnh, lột xác, phạt xác,
phá hủy những dấu chỉ của vẻ đẹp bên ngoài nơi thân xác, để hướng tới vẻ đẹp
bên trong. Có người sống như những “người điên của Đức Kitô”. Ngược lại, có những
người khác chọn cách làm chứng bằng vẻ đẹp của Thiên Chúa phản ánh nơi thụ tạo.
Do đó mà nở rộ nghệ thuật Kitô giáo, nét huy hoàng của phụng vụ, kiến trúc, âm
nhạc…
Quan
trọng là cả hai cách làm chứng đều được vun trồng và thực hành trong Giáo hội,
cách này sửa chữa và bổ túc cho cách kia. Nhưng nếu phải ưu tiên chọn một trong
hai, thì cũng như trong mọi lãnh vực khác, cần nhấn mạnh đến đối thoại hơn là đối
đầu. Và cũng cần giới thiệu cho thế giới hình ảnh của vẻ đẹp đích thực, hơn là
tố giác những vẻ đẹp giả dối.
Để
làm chứng về vẻ đẹp đích thực, nên chăng dựa vào hình ảnh Ba Ngôi. Vẻ đẹp của
Ba Ngôi là vẻ đẹp của các mối tương quan. Thế nên chúng ta phải ra công làm đẹp
các mối tương quan của chúng ta, tương quan nam nữ (trong và ngoài hôn nhân),
tương quan bạn bè, tương quan giữa linh mục và giáo dân trong Giáo hội, giữa
các thành viên trong cộng đồng tu sĩ, giữa bề trên và các người thuộc quyền, giữa
người già và người trẻ. Điều làm đẹp mối tương quan chính là tình yêu, chỉ duy
nhất tình yêu mà thôi, như thấy trong kiểu mẫu Ba Ngôi.
Trong
lãnh vực này, những người sống đời thánh hiến có vai trò đặc biệt. Trong thế giới
hôm nay, họ phải làm chứng rằng đời sống tu trì, và đời sống thiêng liêng nói
chung, tiên vàn không phải là từ bỏ, hoặc tệ hơn, khinh chê thế gian, nhưng là
loan báo có tính chất tiên tri về trời mới đất mới, nơi công lý ngự trị (2 Pr
3,13). Và cùng với công lý là vẻ đẹp.
(lấy ý trong Raniero
Cantalamessa, Nói chuyện với giới trẻ về Vẻ đẹp, tại Chartres, 7/12/2008)
Lm
Micae Trần Đình Quảng