HIỆP
NHẤT QUA KHOẢNG CÁCH, YÊU THƯƠNG TRONG KHÁC BIỆT:
Phác
thảo nền tảng thần học cho khái niệm hoà giải, dựa trên suy tư của H.U.
Balthasar
Hans
Urs von Balthasar (1905-1988)
Tác
giả: Lm Fx. Nguyễn Hai Tính, S.J.
Kính thưa quý độc giả,
Một trong những dấu chỉ của thời đại mà chúng ta đang
sống là ảnh hưởng trầm trọng của đại dịch Covid-19 trên toàn thể
mọi quốc gia và cuộc chiến tranh giữa Nga và Ucraina. Thêm vào đó, thời sự
quốc tế cho thấy những căng thẳng giữa các cường quốc đang dâng
cao cùng với những xung đột giữa họ trong cách thức giải quyết các
vấn đề liên quan đến môi trường, kinh tế, chính trị, quân sự và sắc
tộc. Trong một thế giới với đầy những xung đột và căng thẳng như thế thì
hoà giải là một nhu cầu cấp bách cần được thực hiện.
Chắc chắn hoà giải chỉ là một cách nói tổng hợp trong
một tiến trình dài của đức tin, vốn được xây dựng từ nhiều hành
vi và hoạt động khác nhau, nhưng đồng thời hoà giải mở ra
một cách thức hiện hữu Ki-tô giáo mới, như lời đáp trả của Thiên Chúa
trên những mối tương quan mà con người được đặt vào.
Chúng tôi hân hạnh giới thiệu một số bài viết trong Hợp Tuyển
Thần Học 53 đến quý vị và cầu chúc quý vị nhận được nhiều
soi sáng bổ ích từ những nghiên cứu này.
(dongten.net) 07-6-2022
1. Đôi nét về lịch sử của thần
học hoà giải
Các
tổng hội gần đây của Dòng Tên đã xác định hoà giải là sứ vụ quan trọng của
Dòng trong thời đại này. Điều này có lẽ dễ hiểu khi chúng ta ý thức tình
trạng phân cực thái quá, nhiều khi trong thế đối kháng và loại trừ khốc liệt,
giữa các thế lực khác nhau, cả về chính trị, ví dụ giữa Mỹ và Nga, Iran, Trung
Quốc, về văn hoá, ví dụ giữa văn hoá Tây phương vốn đang khẳng định vị thế toàn
cầu và các văn hoá bản địa, về địa lý như là giữa Đông và Tây hoặc giữa thế
giới Tây Âu và thế giới Ảrập, và cả về chủng tộc, tôn giáo và vô tôn giáo
lẫn những căng thẳng về lịch sử.
Như
vậy, khi nói về hoà giải ngày nay, ta thường nghĩ ngay đến tương quan giữa
người với người. Tuy nhiên, trong phần lớn lịch sử của mình, thần học Ki-tô
giáo đã bàn về hoà giải trong mối tương quan của con người với Thiên Chúa,
qua trung gian Đức Ki-tô, mà cụ thể là tìm hiểu xem cái chết và sự Phục sinh
của Đức Ki-tô đã hoà giải con người với Thiên Chúa như thế nào. Chính vì thế
mà thần học về hoà giải thường hay bàn về các khái niệm như đền tội, đền bù
thoả đáng, xá tội, v.v. Các khái niệm trên nói lên chiều kích thiêng liêng, cá
vị của cứu độ học. Nói cách khác, thần học về hoà giải từ trước đến giờ nhấn
mạnh đến “chiều dọc” hơn là “chiều ngang” của sự hoà giải.
Mãi tới
thế kỷ XIX, một số thần học gia, nổi bật là Albert Ritschl (1822-1889) và
Walter Rauschenbusch (1861-1918), mới gợi ý mở rộng thần học hoà giải theo
hướng luân lý và tác động xã hội[1]. Họ cho rằng thần
học cần phải quan tâm đến các vấn đề xã hội, cũng như cho rằng tín điều và
luân lý phải đi đôi với nhau. Theo đó, thần học về hoà giải cần vượt qua việc
chỉ nhấn mạnh đến chiều kích thiêng liêng và cá vị mà cần bao hàm cả chiều
kích luân lý và xã hội của ơn cứu độ nữa. Từ sau công đồng Vatican II, “chiều
ngang”, tức chiều kích xã hội và luân lý của hoà giải càng được nhiều người
bàn luận rộng rãi hơn.[2] Cho tới nay, nhiều tác giả
cũng đã bàn về điều này, và một thần học hoà giải mang tính xã hội đã dần
được định hình với những nét chấm phá căn bản. Ở đây chúng tôi xin trình bày
sơ lược một số nét căn bản đó trước khi đi vào phần chính của bài viết liên
quan đến việc khảo sát nền tảng thần học của một đặc tính của khái niệm hoà
giải.
Các
nhà thần học gần đây đã ít nhiều thống nhất với nhau về một số nét chính yếu
của thần học về hoà giải; theo đó, hoà giải nhất thiết phải có chiều kích thần linh và
chiều kích xã hội.[3] Theo họ, hoà giải
trước hết phải là công trình của Thiên Chúa, Đấng đi bước trước, hoà giải con
người với chính Ngài và qua đó, hoà giải họ với nhau, qua trung gian Đức
Ki-tô. Chính mầu
nhiệm Thập giá và phục sinh của Đức Ki-tô thánh hoá và
cung cấp ý nghĩa cho những đau khổ của những con người cần hoà giải. Mọi nỗ
lực hoà giải giữa người và người đều phải phát xuất từ và được thúc đẩy bởi
xác tín thần học này. Kế đến, cũng nhất thiết không kém, hoà giải với Thiên
Chúa bao hàm và dẫn đến hoà giải với anh chị em đồng loại.
Sau
đó, các nhà thần học tìm cách xác định nội hàm của khái niệm hoà giải bằng
các câu hỏi thế nào là hoà giải giữa người với người; một mối tương quan cần
có những đặc tính gì thì được coi là đạt được tình trạng hoà giải, v.v. Một
cách tương đối, họ đã thống nhất được là hoà giải bao hàm các khái niệm như chân lý, công bình, tha
thứ, và hoán cải.[4] Điều này có nghĩa là để có hoà
giải, nhất thiết những người liên quan phải thao thức đi tìm chân lý và thừa
nhận chân lý về chính mình cũng như về người khác. Ví dụ, họ cần nhận ra những
đau khổ họ đã gây ra cho người khác, đồng thời họ ý thức cũng như chấp nhận sai
lỗi của mình. Thứ đến, sự hoà giải giả thiết phải có sự công bình, tức là
những ai làm lỗi thì phải bị phạt hoặc đền, người bị hại cần được bù đắp. Tiếp
đến, trước khi có hoà giải giả thiết phải có sự tha thứ lẫn nhau, giữa người
gây hại và người bị hại. Cuối cùng, những người liên quan phải hoán cải, thay
đổi cách nhìn, cách nghĩ, cách cảm nghiệm thì mới có được kinh nghiệm mới của
sự hoà giải.
Một số
tác giả muốn thay hai khái niệm cuối bằng những khái niệm lòng thương xót và hoà bình. Nhưng tựu
trung, họ đều nhất trí rằng những giá trị làm nên hoà giải có thể được chia
thành hai phạm trù: giải phóng và chữa lành. Hai giá trị đầu (chân lý và
công bình) diễn tả chiều kích giải phóng của hoà giải, giải thoát con người
khỏi đau khổ do bất công gây ra; hai giá trị sau, – tha thứ và hoán cải, hoặc
lòng thương xót và hoà bình-, diễn tả chiều kích chữa lành của hoà giải,
hàn gắn những vết thương của những người liên quan. Các thần học gia cho rằng,
cần phải có giải phóng thì mới có chữa lành, và ngược lại, dù với mức độ
nặng nhẹ khác nhau tuỳ bối cảnh.
Cuối
cùng, thần học hoà
giải mang chiều kích cánh chung, tức là hoà giải chỉ thực sự
thành tựu khi Thiên Chúa trở nên mọi sự ở trong mọi người và mọi loài (1Cr
15,28).[5] Điều này có nghĩa rằng
chúng ta cần nỗ lực không ngừng trong việc hoà giải mà không thất vọng vì
những thất bại hay dang dở trong kết quả đạt được. Dấn thân vào các hoạt động
hoà giải với niềm hy vọng, Ki-tô hữu xác tín thành quả viên mãn cuối cùng của
hoà giải chỉ có thể do Thiên Chúa mang lại, vào lúc Ngài muốn.
Tóm
lại, thần học hoà giải ngày nay, ở chiều kích xã hội và luân lý, mang một số
nét căn bản như những điểm chúng tôi đã nhấn mạnh bằng in đậm ở trên: hoà giải
có đặc tính thần học, tức đến từ Thiên Chúa, ngang qua cuộc khổ nạn, cái chết
và sự phục sinh của Đức Ki-tô; hoà giải bao hàm các giá trị của giải phóng
và chữa lành như chân lý, công bình, tha thứ và hoán cải; hoà giải có đặc
tính cánh chung, và vì thế khơi gợi hy vọng cũng như là kết quả của hy vọng.
2. Vấn nạn
Sau khi
đã tìm hiểu sơ lược lịch sử của các bàn luận thần học về sự hoà giải, cũng
như những nét chính yếu của một bàn luận như thế ngày nay, chúng ta cùng đi
vào phần chính của bài viết này. Trong những bài viết ở các số gần đây của
Hợp Tuyển Thần Học từ số 49 đến số 52, chúng tôi bận tâm đến việc đặt nền cho
những bàn luận thần học về các chủ đề khác nhau,[6] và như chúng tôi đã có dịp đề cập ở
bài viết về lòng thương xót, rất cần thiết phải xác định khái niệm khi bắt
đầu một bàn luận thần học về khái niệm đó.[7] Trong cùng một hướng đi như thế, ở bài
viết này, chúng tôi cũng cố gắng phác thảo sơ lược nền tảng thần học cho chính
khái niệm hoà giải, dựa vào các suy tư thần học của Hans Urs von Balthasar.
Như
trên đã nói, Dòng Tên chọn hoà giải như sứ mạng quan trọng để hàn gắn những
xung đột và chia rẽ trong thế giới ngày nay. Vấn nạn đặt ra là tại sao
chúng ta lại nói về hoà giải, chứ không phải các khái niệm tích cực khác như
yêu thương, hiệp nhất, đoàn kết, tha thứ, v.v., như là liều thuốc chữa tình
trạng tiêu cực của chia rẽ, đối kháng và loại trừ? Phải chăng chỉ có hoà
giải mới làm được điều mà yêu thương, hay hiệp nhất, hay đoàn kết, hay những
đức tính khác không thể làm? Chắc hẳn, hoà giải không phải là khái niệm mang
tính loại trừ, nhất là loại trừ các khái niệm khác liệt kê ở trên, nhưng đặt
câu hỏi như thế sẽ giúp ta nhận ra tính đặc thù của khái niệm hoà giải.
3. Nét đặc thù của khái niệm hoà giải
Từ
nguyên trong ngôn ngữ Latinh re-conciliare của
từ hoà giải[8]
bao gồm tiếp đầu ngữ re có
nghĩa “tái”, “lại” và động từ conciliare có
nghĩa “đến với nhau”, “tụ họp nhau”. Như vậy, reconciliare nói lên việc tái thiết lập sự hiệp
nhất của các đối tượng đang tách rời nhau. Mà tái thiết lập hàm ý rằng trước
khi tách rời nhau, các đối tượng đó đã từng hiệp nhất với nhau. Nói cách
khác, ngay trong từ nguyên của mình, hoà
giải đã nói lên sự căng thẳng giữa hiệp nhất và khoảng cách;
hoà giải hàm ý rằng các đối tượng của nó, vốn hiện đang xa cách nhau, nhưng
về cơ bản, hay tự thâm sâu, là thuộc về nhau. Hoà giải chỉ xảy ra giữa các
đối tượng đang xa cách nhau, nhưng đã từng hiệp nhất với nhau; hoặc nói cách
cường điệu hơn, ta chỉ nói về hoà giải khi nói về các đối tượng mà về mặt
nguyên tắc (de iure) hoặc do
bản chất là hiệp nhất với nhau, nhưng thực tế (de facto) lại đang xa cách nhau.
Trong
ngôn ngữ thường ngày cũng vậy, ta chỉ áp dụng hoà giải cho những đối tượng đã
từng hay tự bản chất là thân thiết với nhau nhưng tương quan hiện đang đổ vỡ;
chứ trong trường hợp nối kết hay tụ họp các đối tượng tự bản chất hoàn toàn
xa lạ với nhau, thì ta sẽ dùng khái niệm kết hợp, đoàn kết, hay các khái niệm
tương tự. Điều này rất quan trọng đối với luận đề của bài viết này: hoà
giải là năng động bao
hàm mối tương quan và sự căng thẳng giữa hiệp nhất và khoảng cách, giữa yêu thương và tôn trọng sự khác
biệt; năng động này hiện diện ngay ở nền tảng thần học của hoà
giải, tức nơi chính bản chất nội tại của Thiên Chúa Ba Ngôi và cần phải hiện
diện trong mọi hoạt động mục vụ đặt hoà giải làm trọng tâm.
4. Nền tảng của hoà giải nơi Ba
Ngôi Thiên Chúa
Như
trên đã nói, nét chính yếu đầu tiên của thần học về hoà giải là xác định sự
hoà giải có chiều kích thần linh. Điều này có nghĩa là hoà giải bắt nguồn
từ hành động đi bước trước của Thiên Chúa. Ngài hoà giải con người với Ngài
qua Đức Ki-tô. Đọc thần học của tác giả Balthasar về bản chất tự huỷ của Ba
Ngôi Thiên Chúa, chúng ta thấy còn có thể đẩy xa hơn chiều kích thần linh
này: thực tại gốc của hoà giải nằm ngay trong bản chất của Thiên Chúa, là
nguồn cho hành động đi bước trước của Ngài, hoà giải con người với chính
Ngài. Chính nơi bản chất Thiên Chúa ta thấy chứa đựng sự nghịch lý của hoà
giải; điều này giải thích cho lựa chọn và cách thức mà Thiên Chúa hoà giải
con người với Ngài qua cái chết của Đức Ki-tô trên Thập giá. Bây giờ chúng ta
thử tìm hiểu quan niệm của Balthasar về bản chất nội tại của Thiên Chúa như là
sự tự huỷ, để thấy rằng nét đặc thù của khái niệm hoà giải như vừa được đề cập
ở trên sẽ được tìm thấy ngay trong bản chất nội tại ấy.
Khi suy
tư về mối tương quan giữa Ba Ngôi, Balthasar cho rằng Cha sinh ra Con có nghĩa
là Cha trút tất cả những gì Mình là cho Con, để Con là tất cả những gì Cha
là. Giáo lý truyền thống diễn tả ý tưởng này qua sự ngang bằng, Con cùng một
tính một phép như Cha, và công đồng Nicea gọi là đồng bản thể với Cha. Như
thế, trong hành vi sinh ra Con, vốn là bản chất của Ngôi Cha, Cha yêu Con đến
độ trao hết tất cả cho Con và như thế, tự làm cho Mình ra “trống rỗng”
(kenosis), không còn sở hữu chính Mình nữa, mà bây giờ hoàn toàn và chỉ
hiện hữu nơi Con. Đây chính là nguồn gốc của mọi biến cố tự huỷ của Thiên Chúa
nơi nhiệm cục cứu độ.[9]
Một
cách tương tự, Ngôi Con, với tình yêu khôn tả, đón nhận tình yêu của Cha và
tất cả những gì Cha là qua việc tạo “khoảng trống” để tình yêu của Cha được đổ
đầy.[10] Trong quá trình được
nhiệm sinh này, vốn là bản chất của Ngôi Con, Con cũng hoá ra không (kenosis)
để đón nhận tất cả những gì Cha trao ban (là chính Cha) bằng lời tạ ơn –eucharistia-, đến
nỗi Con hoàn toàn lệ thuộc vào Cha, không bao giờ hiện hữu cho riêng mình,
nhưng chỉ hiện hữu như là hình ảnh hoàn hảo của Cha mà thôi. Con luôn thể
hiện “lời nói Vâng vĩnh cửu đối với sự trao ban thần tính đồng bản thể (…) Đây
là một lời nói Vâng đối với sự tự huỷ nguyên khởi của Cha; ở đây có sự kết
hợp giữa quyền năng và sự bất lực”.[11] Quả
thế, trong khi trao ban tất cả chính Mình cho Con, Cha thể hiện quyền năng tối
thượng vô biên của mình (chỉ có Thiên Chúa mới có thể làm điều đó) bằng
cách hoá ra “bất lực” và “lệ thuộc”, vì từ “bây giờ” thần tính của Cha chỉ có
thể được thể hiện qua Con; cũng như từ bây giờ “định mệnh” của Cha hoàn toàn
lệ thuộc vào Con. Tương tự, khi đón nhận tất cả từ Cha, cách không dè xẻn hay
tính toán, Con thể hiện sự “bất lực” thụ động để rồi sở hữu quyền năng tối
thượng như Cha. Từ “bây giờ”, Con chỉ có thể là Thiên Chúa quyền năng trong
tư cách Đấng được sinh ra và trao ban, không là và không có điều gì tự Mình
hay cho riêng Mình.
Như
vậy, hoạt động Cha nhiệm sinh ra Con vừa thể hiện quyền năng vô biên của Cha
qua sự trao ban và sinh ra Con vừa thể hiện sự “bất lực” tự huỷ qua việc chối
từ giữ thần tính cho riêng mình. Điều này vừa cho thấy sự hiệp nhất mật thiết
(đồng bản thể) vừa cho thấy khoảng cách vô tận (kenosis). Con thực sự là Đấng
tuyệt đối khác Cha, như vậy mới có sự trao ban và tạ ơn giữa Cha
và Con. Thần Khí chính là sự trao ban và đón nhận trọn vẹn trong sự hiệp
nhất và tự huỷ này giữa Cha và Con, là cái “Chúng Ta” của Hai Ngôi vị kia.
Thần Khí chính là sự tự huỷ, là khoảng trống giữa Cha và Con, khoảng trống
có khả năng phát sinh và trao ban nơi Cha, khoảng trống có khả năng đón
nhận trọn vẹn trong sự vâng phục và tạ ơn nơi Con. Đồng thời, vì là Tinh Thần
chung của Cha và Con, Thần Khí cũng là sự bắc cầu, nối kết giữa hai bờ khoảng
trống đó.[12]
Như
vậy, tự trong bản chất nội tại, trước khi trao ban chính Mình cho thế giới thụ
tạo, Ba Ngôi đã là vừa là sự Hiệp Nhất trọn hảo vừa là sự Tự Huỷ tận căn,
là việc tạo khoảng trống để trao ban và đón nhận lẫn nhau giữa các Ngôi Vị
thần linh. Bản chất nội tại này chính là điều kiện khả thể của nhiệm cục cứu
độ và được thể hiện kéo dài trong nhiệm cục đó, đặc biệt nơi biến cố Thập
giá của Đức Ki-tô.[13] “Điều kiện
khả thể” có nghĩa là chính vì bản chất nội tại nơi Thiên Chúa là tự huỷ mà
Thập giá mới có thể xảy ra và chỉ có thể xảy ra chính yếu là vì lý do đó.
“Thể hiện kéo dài” tức là tất cả những gì diễn ra nơi Thập giá đều là một
cách thức thể hiện và sự kéo dài ra trong lịch sử của điều vẫn diễn ra bên
trong Thiên Chúa từ vĩnh cửu, giữa các Ngôi vị thần linh, khi mối tương quan
trao ban và đón nhận đó gặp phải sự chống đối của tội lỗi con người.[14] Nói cách khác, Thiên Chúa là tác nhân chính
của biến cố Thập giá.[15] Chính vì
Cha là Đấng tạo khoảng trống khi sinh ra Con, mà Cha có thể trao ban Con của
mình cho thế giới và nhân loại tội lỗi, vốn có khả năng huỷ diệt Con Thiên
Chúa làm người. Cái chết của Chúa Giê-su trên Thập giá chỉ có thể xảy ra là
vì từ vĩnh cửu Cha đã luôn trao ban chính Mình nơi Con và nay trong lịch sử,
qua Con, trao ban chính Mình cho thế gian; Thập giá có thể xảy ra cũng là vì
từ vĩnh cửu Con luôn đón nhận tất cả từ Cha và nay, trong lịch sử, đón nhận
sự trao ban của Cha cho thế gian qua Thập giá; sự nhiệm sinh trong vĩnh cửu
được “phiên dịch” thành sự vâng phục trong tư cách làm người trong lịch sử.[16]
Điều
này cũng có nghĩa là sự hiệp nhất trọn hảo và khoảng cách vô tận trong bản
chất nội tại của Thiên Chúa được thể hiện cách rõ nét nhất nơi biến cố Thập
giá, hẳn nhiên bao hàm mầu nhiệm Phục sinh, của Đức Ki-tô. Khoảng cách của sự
tự huỷ nội tại được thể hiện rõ nét khi Cha “bỏ rơi” con trong Giờ của Thập giá
(x. Mc 15,34).
Các
điều kiện khả dĩ để Chúa Giê-su có thể bị Cha bỏ rơi đã nằm ngay trong nội tại
Ba Ngôi, trong khoảng cách/sự phân biệt tuyệt đối giữa các Ngôi Vị, Đấng trao
ban Thần Tính và Đấng đón nhận Thần Tính ấy. Và trong khi khoảng cách hay sự
phân biệt giữa hai Ngôi Vị đó được khẳng định cách vĩnh cửu và được duy trì
(“để mở ngỏ”) bởi Ngôi Vị thứ ba phát xuất từ họ, khoảng cách đó được vượt
qua trong Thần Tính vốn là quà tặng tuyệt đối mà họ có chung với nhau.[17]
Hơn
nữa, vì tự do của con người đặt nền trên và thông phần vào tự do tự huỷ của
Thiên Chúa, mà con người thực thi tự do này cả trong lời nói Vâng lẫn trong
lời nói Không với Thiên Chúa, thế nên tội lỗi, hay lời nói Không của nhân
loại chỉ có thể xảy ra là vì nó được đặt nền trên và bắt nguồn từ sự phân
biệt này giữa các Ngôi Vị thần linh. Vì lẽ đó, tội lỗi và hậu quả của nó
chỉ có thể được giải quyết bên trong Thiên Chúa.[18] Con có thể mang lấy tội lỗi nhân loại
là do vị thế của Ngài bên trong Thiên Chúa, như là Đấng khác biệt tuyệt đối
với Cha; và Ngài có thể tẩy trừ tội lỗi đó cũng như hậu quả của nó qua sự
kết hợp mật thiết với Cha trong vâng phục là nhờ sự nối kết của Thần Khí chung
giữa Ngài với Cha.
Trên
đây là một số điểm trong suy tư thần học của tác giả Balthasar mà chúng tôi
nhận thấy có thể làm nền tảng cho luận đề bài viết là hoà giải thực chất
là năng động bao hàm sự tương tác
giữa hiệp nhất và khoảng cách, giữa yêu thương và tôn trọng sự khác biệt.
Rõ ràng, theo như Balthasar mô tả, bản chất của Thiên Chúa là như thế, là sự
hiệp nhất mật thiết đồng thời là khoảng cách vô tận giữa các Ngôi Vị thần
linh, là Tình Yêu giữa các Ngôi Vị khác biệt nhau cách tuyệt đối. Vì thế,
Thiên Chúa có thể được mô tả như là sự Hoà Giải vĩnh cửu. Đây chính là nền
tảng cho một bàn luận thần học về hoà giải theo chiều ngang. Từ nền tảng đó,
trong phần tiếp theo, chúng ta cùng tìm hiểu hàm ý của những suy tư này đối
với sứ mạng hoà giải mà chúng ta ao ước dấn thân ngày nay.
5. Hoạt động mục vụ hoà giải
Với suy
tư thần học này về bản chất của Ba Ngôi như là nền tảng và điều kiện khả dĩ
cho mầu nhiệm Thập giá, chúng ta hiểu rõ hơn tại sao các nhà thần học ngày
nay khẳng định hoà giải trước hết phải có đặc tính thần linh, tức là hành
vi đi bước trước của Thiên Chúa, hoà giải con người với chính Ngài, qua mầu
nhiệm Thập giá của Đức Ki-tô. Thế nhưng, theo Balthasar, việc Thiên Chúa hoà
giải con người với Ngài lại chỉ có thể xảy ra là vì tự bên trong bản chất
nội tại của Thiên Chúa, năng động của hoà giải đã hiện hữu và xảy ra từ vĩnh
cửu. Đó là năng động của sự hiệp nhất trọn vẹn tuyệt đối (đồng bản thể) và
khoảng cách vô tận (kenosis), của sự toàn năng tuyệt đối và sự bất lực vốn
mạnh mẽ hơn mọi thế lực trần gian, của sự tràn đầy Thần tính và sự “phi thần”
vốn là hệ quả của sự trao đi cách trọn vẹn Thần Tính.
Như
vậy, ta có thể nói, theo Balthasar, tình trạng xung khắc giữa người với người
vốn mang tính tội lỗi và là nguyên cớ làm cho Giáo hội nghe rõ hơn lời mời
gọi dấn thân cho sứ mạng hoà giải ngày nay thực ra chỉ có thể xảy ra là vì
bên trong Thiên Chúa đã có khoảng cách và sự “phi thần” vốn không mâu thuẫn
với Tình Yêu thần linh và Thần Tính. Mặt khác, nhờ có sự “bắc cầu” của Thần
Khí ngang qua khoảng cách giữa các Ngôi Vị thần linh, nhờ bản chất Thiên Chúa
được thể hiện rõ hơn ngang qua sự trao ban đến nỗi trở nên “phi thần” mà tình
trạng tội lỗi của thù hận, xung khắc của con người (chính là sự vô thần, đi
ngược lại với bản chất Thiên Chúa vậy) được vượt qua và chữa lành. Nói cách
khác, hoà giải chỉ có thể xảy ra nhờ vào quyền năng Thiên Chúa, Đấng luôn
là sự Hoà Giải vĩnh cửu và vì thế luôn hoà giải mọi vật với chính Mình và
qua đó làm cho họ hoà giải với nhau.
Những
kinh nghiệm cay đắng của các tác nhân hoà giải xã hội về giới hạn và sự bất
lực của các nỗ lực thuần tuý mang tính tâm lý, xã hội, kinh tế, chính trị là
bằng chứng hùng hồn cho đặc tính thần linh này của sứ mạng hoà giải.[19] Điều này có nghĩa là trong bất kỳ sứ
vụ hoà giải nào, bằng bất cứ phương pháp nào, Ki-tô hữu cũng cần bắt đầu,
xuyên suốt và kết thúc tiến trình hoà giải bằng thái độ và phương thế của
đức tin và cầu nguyện. Các bên chủ thể hay đối tượng của hoà giải cần phải đi
vào năng động của Ba Ngôi Thiên Chúa và của Thập giá Đức Ki-tô, tức năng động
của sự trao ban và đón nhận trọn vẹn, của sự hiệp nhất giữa các khoảng cách
và ngay khi có các khoảng cách, của sự yêu thương giữa các khác biệt và bất
chấp các khác biệt.
Một
cách cụ thể, trước hết, các thành viên của tiến trình hoà giải cần ý thức
rằng sự hoà giải giữa họ với nhau đã được Thiên Chúa thực hiện rồi, nơi chính
Ngài, ngang qua cái chết và sự phục sinh của Đức Ki-tô; đồng thời họ cần dấn
thân đi vào thực tại đó. Thiên Chúa đã muốn và đã đi bước trước, khởi động
tiến trình hoà giải họ với nhau bằng cách hoà giải họ với chính Ngài rồi. Họ
có thể cảm nếm phần nào ý muốn và hoạt động thần linh đó qua những khao
khát, dù là mỏng manh và thoáng qua, được hoà giải với nhau, hay chí ít là
những khao khát thoát khỏi nỗi khổ đau của xung đột bất hoà. Năng động hoà
giải đã được Thiên Chúa khởi động rồi, việc họ cần làm là bước ra khỏi sự
giam hãm của thù hận, khỏi năng động cũ của xung đột và gieo mình vào trong
năng động mới của lời Thiên Chúa mời gọi họ hãy tha thứ và hoà giải.
Nếu như
bản chất Thiên Chúa là sự Hoà Giải vĩnh cửu, tức đồng thời vừa là sự hiệp
nhất vừa bao hàm khoảng cách vô tận giữa các Ngôi Vị, thì bản chất của con
người cũng vậy, vì họ vốn là kết quả của năng động Hoà Giải nơi Thiên Chúa
được diễn tả ra trong sáng tạo. Như thế, làm hoà với Thiên Chúa đồng nghĩa
với việc con người trở về với cội nguồn, nền tảng của hoà giải và của chính
hiện hữu mình, hay nói cách khác, là làm hoà với chính mình. Làm hoà với
Thiên Chúa qua việc sám hối, hoán cải, cử hành bí tích giao hoà,v.v. thực
chất là đưa con người về với nền tảng gốc của chính mình, nền tảng mà họ có
chung với mọi thực tại, điều mà họ thực chất là, trước khi bị tha hoá hay bị
tách rời khỏi thực tại do những thù hận, xung đột hay những biểu hiện khác của
tội lỗi. Xung khắc với người khác thực ra chỉ là biểu hiện của sự tha hoá hay
xung khắc nền tảng hơn với thực tại toàn thể, mà ngôn ngữ Ki-tô giáo gọi là
tách lìa khỏi Thiên Chúa. Vì thế, làm hoà với Thiên Chúa, Đấng tỏ mình là sự
Hoà Giải vĩnh cửu nơi Thập giá Đức Ki-tô, là bước đầu tiên và then chốt của
mọi tiến trình hoà giải mang đặc tính Ki-tô giáo. Chỉ khi để Thiên Chúa giải
thoát họ khỏi thế lực của tội và sự dữ, con người mới có thể bứt mình thoát
khỏi những xung năng mù quáng giam hãm họ trong sự thù hận và ngăn cản họ đi
những bước đi cụ thể để làm hoà với nhau.
Thứ
đến, các bên của tiến trình hoà giải cần ý thức và cổ võ sự hiệp nhất nền
tảng nối kết họ với nhau, vốn căn bản hơn bất kỳ những dị biệt hay xung đột
nào đang hiện hữu giữa họ. Khi xung đột xảy ra, ta thường hay nghĩ ngay đến
những dị biệt, những bất bình đẳng giữa các bên liên quan. Tuy nhiên, thần học
về Thiên Chúa Ba Ngôi như là sự Hoà Giải vĩnh cửu gợi ý rằng, ta nên nghĩ về
các bên xung đột, tự bản chất, là có cùng nguồn gốc và thuộc về nhau. Họ
không phải là những kẻ thù đang cần được hoặc phải xích lại gần nhau vì những
lý do thứ yếu ngoại tại (hoàn cảnh, luật pháp, mong đợi của những người khác,
v.v.), mà thực ra đã là và luôn là “anh chị em” với nhau. Họ luôn tồn tại
vì nhau, nhờ nhau và cho nhau; hiện hữu của họ luôn có một nền tảng chung;
việc họ cần phải xích lại gần nhau là một nhu cầu nội tại, gần như thuộc về
bản chất của sự hiện hữu của họ.
Thực tế
cho thấy các xung đột khốc liệt nhất thường xảy ra giữa những người hay nhóm
người có chung một nguồn gốc hay chia sẻ cùng một môi trường sống (gia đình,
hàng xóm, các công ty chia sẻ chung một thị phần, các quốc gia láng giềng hay
cùng một ý thức hệ, v.v.). Nhưng ngay cả khi không tìm được nguồn gốc chung cụ
thể đi nữa, thì tất cả chúng ta đều cần ý thức về nền tảng nhân chủng học và
nhân tính của mình. Chúng ta đều là người, đều phát xuất từ những nguồn gốc
nhân chủng học như nhau, đều chia sẻ chung một môi trường sống trên quả địa cầu
này và trong vũ trụ này, đều có lý trí và ý chí, đều có những quyền lợi
và nghĩa vụ chung với tư cách là người và cuối cùng, đều là con cái Thiên
Chúa.
Ý thức
về và sống nền tảng chung này không nhất thiết phải là kết quả của một nỗ
lực gượng ép; tự trong thâm tâm mỗi người, các thành viên của tiến trình hoà
giải ít nhiều đã ý thức về nền tảng chung này giữa họ với nhau, cũng như đang
thực tế hiện hữu dựa trên nền tảng chung này. Có thể nói, chính trong khi
xung đột với nhau mà họ đã, ít nhất là cách mặc nhiên, ý thức về nền tảng
chung giữa họ với nhau. Nhiều khi đó chính là căn nguyên hay lý do của xung
đột: chính vì biết mình chia sẻ chung một nguồn gốc hay môi trường sống mà họ
mới nảy ra xung đột, mâu thuẫn và thù hận lẫn nhau. Tuy nhiên, một khi đã sám
hối và làm hoà với Thiên Chúa, họ có thể được tự do khỏi xung năng thù hận phi
lý và tự mâu thuẫn này; lúc đó, sự nhắc nhớ về và một lối sống cổ võ nền
tảng chung giữa họ sẽ đóng vai trò tích cực trong việc cổ võ tình thương và
sự tha thứ giữa họ với nhau.
Hệ luận
mục vụ cuối cùng của suy tư thần học về bản chất Thiên Chúa như là sự Hoà
Giải vĩnh cửu là: các bên thành viên của tiến trình hoà giải cần ý thức và
cổ võ duy trì sự khác biệt giữa họ. Trong nhiều trường hợp, xung đột xảy ra là
do, ngay từ đầu, các bên đã không chấp nhận hoặc tôn trọng sự khác biệt của
nhau. Mặt khác, một tiến trình hoà giải mà kết quả là sự “cào bằng” mọi
khác biệt, làm cho các bên liên quan trở nên đồng nhất với nhau về mọi mặt,
trong mọi quyền lợi và nghĩa vụ, thì sự hoà giải nếu đạt được cũng sẽ không
chân thực và không thể tồn tại lâu dài được. Lý tưởng hoá tiến trình hoà
giải cách trừu tượng, cho rằng hoà giải phải dựa trên sự san bằng quyền lợi
cho mọi thành viên dễ đưa tới thất bại và thất vọng. Vì thế, như Ba Ngôi
Thiên Chúa hiệp nhất giữa các khác biệt và hoà giải con người với Ngài qua
năng động đó nơi Thập giá, sự hiệp nhất chân thực giữa các thành viên không
xoá bỏ mà trái lại còn giả định và đòi hỏi cần phải có sự khác biệt giữa họ.
Tôn trọng và cổ võ duy trì sự khác biệt chính đáng giữa các bên là bước then
chốt tiếp theo trong tiến trình hoà giải.
Kết luận
Dường
như có một nghịch lý thường xảy ra trong kinh nghiệm cuộc sống của chúng ta:
ai cũng mong muốn sự hoà giải nhưng không phải lúc nào cũng có thể biến ước
mong đó thành hiện thực. Rất nhiều khi sự hoà giải, vốn là đối tượng đương
nhiên của khát vọng con người, lại trở nên một thứ “xa xỉ phẩm” trong thực tế
cuộc sống của họ. Phải chăng nghịch lý đó tồn tại là vì tự bản chất của hoà
giải là một sự căng thẳng, hay nói đúng hơn, nghịch lý đó là một phần của
thực tại mà bản chất là một sự căng thẳng được diễn tả bằng khái niệm hoà
giải? Ta có thể nói rằng toàn bộ thực tại luôn ở trong một mối căng thẳng
giữa hiệp nhất và khoảng cách, rằng toàn bộ thực tại là một tiến trình hoà
giải tự thân, luôn luôn tiếp diễn? Suy tư thần học của Balthasar về bản chất
nội tại của Thiên Chúa Ba Ngôi dường như trả lời cách xác định cho các câu hỏi
đó và gợi lên cho chúng ta những suy nghĩ nhức nhối về sự giới hạn cũng như
tính liên lỉ, thường hằng của sứ vụ hoà giải mà ta chọn thực thi ngày nay.
[1] Leah
Elizabeth Robinson, The
Influence of Social Context on a Theology of Reconciliation: Cases Studies in
Northern Ireland, PhD. Thesis (Edinburgh: University of Edinburgh,
2011), 31-32.
[2] Có
thể kể tên một số tác giả, phần lớn không phải Công giáo, viết về hoà giải
theo hướng này: Joseph Liechty, Miroslav Volf, Colin Gunton, John Webster,
Alan Torrance, Robert Schreiter, Cecelia Clegg, John W. De Gruchy, John Paul
Lederach, Gregrory Baum, Leah E. Robinson, v.v.
[3] Leah
E. Robinson, The
Influence of Social Context on a Theology of Reconciliation, 42ff.
Robert J. Schreiter, “Peacemaking: Five Principles of a Practical
Theology of Reconciliation”, https://thevalueofsparrows.
com/2014/09/15/peacemaking-five-principles-of-a-practical-theology-of-
reconciliation-by-robert-j-schreiter/ (truy cập ngày 18.09.2019).
[4] Leah E. Robinson, The Influence of Social Context
on a Theology of Reconciliation, 47ff.
[5] Robert J. Schreiter, “Peacemaking:
Five Principles of a Practical Theology of Reconciliation”, (truy cập ngày
18.09.2019).
[6] Chúng tôi nhận thấy một khó khăn của
những bàn luận thần học về các chủ đề mới (như thần học di dân, thần học môi
sinh, thần học về lòng thương xót, thần học về dấn thân xã hội, thần học về
công bình, thần học về hoà giải, thần học về sự đột quỵ, v.v.), là thoạt đầu
những bàn luận đó có thể rất sôi nổi nhưng sau đó không thể được tiếp tục
khai triển và đào sâu. Vấn đề chính yếu nằm ở phương pháp luận, mà quan
trọng nhất là vấn đề đặt nền để các bàn luận về các chủ đề ấy có thể tiến xa,
sâu rộng hơn, hầu có thể hình thành một “mảng” hay “lãnh vực” thần học. Trong
các số HTTH 49, 50, 51, chúng tôi đã thể hiện hướng đi đó, một cách rất nhỏ bé
và khiêm tốn, bằng cách cố gắng định hướng, xác định những nét căn bản của một
bàn luận thần học về Thập giá, về lòng thương xót và về công bình; ở số HTTH
52, chúng tôi đã thể hiện cùng một hướng đi, cũng một cách rất nhỏ bé, nhưng
bằng hình thức khác: cố gắng xây dựng nền tảng thần học, dựa trên một tác giả
nổi tiếng là Hans Urs von Balthasar, cho những luận đề của thần học về sự dấn
thân xã hội. Việc xây dựng nền tảng thần học này được tiến hành bằng cách vận
dụng các phạm trù độc đáo của Balthasar (vốn không dùng các phạm trù triết học,
nhưng khởi đi từ các hình ảnh của Thánh Kinh) để đặt nền và củng cố cho các
luận đề thần học (trong trường hợp bàn về việc dấn thân xã hội thì không có
gì mới, nhưng được soi sáng cách rõ ràng và chắc chắn hơn). Việc làm này
có hiệu ứng kép: vừa góp phần xây dựng nền tảng thần học cho những luận đề thần
học về các chủ đề khác nhau, vừa góp phần khai triển, áp dụng các tư tưởng của
Balthasar, vốn có tiềm năng khai phá dường như vô tận. Đây không chỉ là một
cách giới thiệu tác giả Balthasar cho độc giả Việt Nam, mà còn từng bước “mở
khoá” các suy tư của Balthasar qua việc áp dụng các suy tư ấy vào các chủ đề
khác nhau. Những phạm trù và tư tưởng được vận dụng từ Balthasar không liên hệ
trực tiếp tới các chủ đề đang bàn, tuy nhiên, khi được áp dụng, chúng đã cho
thấy có mối liên hệ kỳ diệu thế nào tới những chủ đề đó. Bài viết này cũng
thể hiện một hướng đi tương tự: vận dụng các phạm trù, tư tưởng của Balthasar
vào việc đặt nền thần học cho khái niệm hoà giải.
[7] Có thể nói, đây là một phần rất
quan trọng và thiết yếu cho bất kỳ bàn luận thần học nào, đó là xác định
và làm rõ khái niệm. Để có một bàn luận thần học về đề tài hoà giải (và
các đề tài tương tự, như lòng thương xót, công bình, mà HTTH từng bàn ở các
số trước), vấn đề đầu tiên được đặt ra là ta hiểu thế nào là hoà giải. Như
chúng tôi đã nói liên quan đến khái niệm lòng thương xót (x. HTTH 50, tr.
95), nếu không xác định rõ khái niệm, sẽ có nguy cơ mỗi người, mỗi bài viết
sẽ bàn về một nội hàm khác nhau (tình trạng “ông nói gà bà nói vịt”) chứ
không cùng nhau bàn luận để hiểu sâu hơn một đề tài nhất quán. Đều mang danh
là bàn về hoà giải, nhưng có thể một tác giả lại bàn về tha thứ, tác giả
khác bàn về yêu thương, người khác lại bàn về hiệp nhất, v.v.
[8] Từ nguyên Hán Việt của từ này bao
gồm hoà ( 和 , có nghĩa “cùng nhau”, “trộn
lẫn với nhau”) và giải (解, có nghĩa “cởi gỡ”, “thông
suốt”, “giải toả”). Có thể nói, từ nguyên của hoà giải trong
gốc Hán Việt có nghĩa là cởi gỡ, giải
toả
những vướng mắc để làm cho các đối tượng liên quan có thể kết hợp, vận hành
nhịp nhàng với nhau. Dịch reconciliare là hoà giải cũng
khá chính xác, tuy nhiên, nghĩa này mới lột tả được phần conciliare mà
chưa lột tả được tiếp đầu ngữ re trong
gốc Latinh.
[9] Hans Urs von Balthasar, Theo-drama: Theological
Dramatic Theory, Vol IV: The Action, trans. Graham Harrison (San
Francisco: Ignatius Press, 1994), 323, 331. Từ đây trở đi, cuốn sách này sẽ
được tham chiếu như là Theo-drama IV.
[10] Theo-drama IV,
324.
[11] Theo-drama IV,
326.
[12] Theo-drama
IV, 324, 333.
[13] Hans Urs von Balthasar, The Glory of the Lord: A
Theological Aesthetics, Vol. VII: Theology: The New Covenant,
trans. Brian McNeil C.R.V., ed. John Riches (Edinburgh: T&T Clark, 1989),
213-214. Từ đây trở đi, cuốn sách này sẽ được tham chiếu như là The Glory of the Lord VII.
[14] Theo-drama
IV, 328.
[15] Theo-drama
IV, 334.
[16] The
Glory of the Lord VII, 213-214.
[17] Nguyên văn Theo-drama IV, 333:
“if Jesus can be forsaken by the Father, the conditions for this “forsaking”
must lie within the Trinity, in the absolute distance/distinction between the
Hypostasis who surrenders the Godhead and the Hypostasis who receives it. And
while the distance/distinction between these two is eternally confirmed and
maintained (“kept open”) by the Hypostasis who proceeds from them, it is
transcended in the Godhead that is the absolute gift they have in common”.
[18] Theo-drama
IV, 333: “Since the world cannot have any other locus but
within the distinction between the Hypostases (there is nothing outside
God: Theo-drama II,
260ff), the problems associated with it – its sinful alienation from God – can
only be solved at this locus”.
[19] Robert J. Schreiter, “Peacemaking:
Five Principles of a Practical Theology of Reconciliation”, (truy cập ngày
18.09.2019).