LỊCH SỬ TÍN ĐIỀU BA NGÔI
ĐGM Phaolô Bùi Văn
Đọc
I. BA NGÔI THIÊN CHÚA TRONG PHỤNG VỤ NHỮNG THẾ KỶ
ĐẦU
Niềm tin của Dân Thiên Chúa khai sinh trong môi
trường phụng vụ. Vậy muốn biết rõ nội dung của niềm tin, cần phải trở về với
phụng vụ của Giáo Hội trong những thế kỷ đầu :
Theo đa số các nhà chú giải Kinh Thánh hiện đại,
mệnh lệnh truyền giáo phổ quát của Đức Kitô phục sinh trong Phúc âm Mt 28,19-20
là một công thức rửa tội phát xuất từ môi trường phụng vụ : "Các ngươi
hãy đi thâu nạp môn đệ khắp muôn dân, thanh tẩy chúng nhân Danh Cha và Con và
Thánh Thần".
Quả thực, công thức này có ở trong những bản văn
phụng vụ rất cựu trào :
"Sau khi dạy dỗ tất cả những điều cần thiết,
hãy rửa tội trong dòng nước chảy, nhân Danh Chúa Cha và Chúa Con và Chúa Thánh
Thần. Nếu không có dòng nước chảy, hãy làm phép rửa trong thứ nước khác. Nếu
không thể rửa trong nước lạnh, hãy dùng nước nóng. Nếu không có dòng nước hãy
dội nước trên đầu ba lần nhân Danh Chúa Cha và Chúa Con và Chúa Thánh Thần. (R4.
Didachè c.7)
40 năm sau, bản văn của thánh Justinô mô tả phép
Rửa tội tỉ mỉ hơn, nhưng vẫn có cùng một cấu trúc nòng cốt :
"Ai được chịu phép Rửa tội, được dẫn đến nơi
có nước, và ở đó họ được tái sinh cũng như chúng ta đã được tái sinh. Họ được
rửa trong nước nhân Danh Thiên Chúa và là Chúa mọi loài, nhân Danh Đức Giêsu
Kitô, Đấng Cứu độ chúng ta, và nhân Danh Chúa Thánh Thần" (I
Apologia 61,3 ; R 126).
30 năm sau Justinô, giáo phụ Irênê trình bày và
giải thích nghi thức Rửa tội, cũng theo cùng một cơ cấu, mặc dù có kèm thêm
những lời diễn giảng đầy đủ và phong phú hơn :
"Đây là điều mà đức tin khẳng định, như các
trưởng lão, môn đệ của các Tông đồ, đã truyền lại cho chúng ta : trước tiên
niềm tin ấy bắt chúng ta phải nhớ là chúng ta đã chịu phép Rửa để được tha tội,
nhân Danh Thiên Chúa Cha, nhân Danh Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa đã nhập thể,
đã chết và đã phục sinh, và trong Thánh Thần Thiên Chúa.
Khi chúng ta đã được tái sinh bởi phép Rửa nhân
Danh Ba Ngôi Vị ấy, chúng ta nhận được trong lúc tái sinh, những kho tàng có
nơi Thiên Chúa, nhờ Chúa Con với Chúa Thánh Thần. Những ai chịu phép Rửa nhận
lãnh Thánh Thần Thiên Chúa ; Thánh Thần dâng hiến họ cho Ngôi Lời hay Chúa Con
và Chúa Con dâng họ cho Chúa Cha để Chúa Cha ban cho họ Ơn hằng sống. Nếu không
có Thánh Thần, không thể nhìn thấy Ngôi Lời Thiên Chúa ; không có Chúa Con,
không thể đến cùng Chúa Cha. Tri thức Cha, chính là Con và chỉ biết được Con
nhờ Thánh Thần, tùy như sở thích tốt lành của Chúa Cha cho những ai Chúa Cha
muốn và theo thể thức Chúa Cha muốn" (Démonstration de la
prédication apostolique c.3)
Trong giai đoạn tranh luận gắt gao về tín điều
Thiên Chúa Ba Ngôi, công thức và nghi lễ Rửa tội trở thành lý lẽ vững chắc
chống lại các bè rối :
"Nếu những người theo Ariô có lý, nếu Con và
Thánh Thần chỉ là tạo vật, chúng ta đã được thánh hiến trong phép Rửa tội cho
một Đấng Tạo hóa và hai tạo vật, chúng ta dấn thân đức tin của chúng ta, dâng
lời cầu nguyện của chúng ta cho Thiên Chúa và hai tạo vật" (Athanasiô,
Orat. Cont. ar, II, 41 ; Grêgôriô Nazian or. 37,18 ; Grêgôriô Nysse, Orat.
Catech. 39).
Lý lẽ này vững chắc nhất, vì công thức và nghi lễ
Rửa tội không phát sinh từ một tranh luận nào, nhưng có trước mọi tranh luận ;
và ngay cả các bè rối cũng dùng. Những người theo lạc thuyết của Marcion thường
rửa tội với công thức sau đây mà thánh Irênê đã ghi lại :
"Họ rửa tội, nhân Danh Vị Cha Vô Hình của vũ
trụ, nhân Danh Công Lý, Mẹ của các hữu thể, và nhân Danh Đấng đã ngự xuống trên
Đức Giêsu" (Adversus Haereses 1,21)
1. Tuyên tín trong phép Rửa
Trong bí tích thanh tẩy, có một yếu tố rất quan trọng
về phương diện đức tin, đó là lời tuyên tín.
Ở đây, xin ghi lại một vài đoạn tuyên tín phép Rửa
trích từ các tác phẩm có giá trị truyền thống và lịch sử trong Giáo Hội :
"Khi được hỏi : ngươi có tin Thiên Chúa là Cha
Toàn Năng không ? ngươi trả lời : tôi tin, và ngươi được nhận xuống, nghĩa là
được mai táng. Rồi ngươi lại được hỏi : ngươi có tin Đức Giêsu Kitô và Thập Giá
của Người không ? ngươi trả lời : tôi tin, ngươi lại được nhận xuống lần nữa,
và ngươi được cùng mai táng với Chúa Kitô, và ai chết với Chúa Kitô, sẽ được
sống lại với Người. Được hỏi lần thứ ba : ngươi có tin Chúa Thánh Thần không ?
ngươi đáp : có, và ngươi được nhận xuống lần thứ ba ; như thế mọi tội lỗi ngươi
đã phạm đều được tha vì ba lần tuyên xưng này" (De
Sacramentis II,7 ; Pl, XVI, 429).
"Anh có tin hết lòng Thiên Chúa là Cha Toàn
Năng và là Đấng tạo dựng muôn vật hữu hình và vô hình không ? Palmatius trả lời
: tôi tin - Anh có tin Đức Giêsu Kitô Con Thiên Chúa không ? Palmatius đáp :
tôi tin - Anh có tin Người là Đấng được sinh ra bởi quyền năng Thánh Thần và
trong lòng Đức Trinh Nữ không ? Thưa có - Anh có tin Chúa Thánh Thần, Hội Thánh
công giáo, phép tha tội và sự sống lại không ? Palmatius òa lên khóc và nói :
thưa ngài, tôi tin" (Martyrium sancti Callixti papae et sociorum ejus,
cité par Hahn, Bibliotek der Symbole, p. 34, n. 30).
Nghi thức Rửa tội và việc tuyên xưng đức tin là hai
yếu tố không thể tách rời trong phép Rửa ; cả hai phần đều nói lên niềm tin
chắc chắn nhất của Giáo Hội những thế kỷ đầu vào Thiên Chúa Ba Ngôi.
2. Biến chuyển của lời tuyên tín phép Rửa
Ngay từ thuở ban đầu, Giáo Hội đòi hỏi những ai sắp
chịu phép Rửa tội phải tuyên xưng đức tin :
"Philip nói : Nếu Ngài tin hết lòng, thì được
phép. Ông ấy đáp : Tôi tin Đức Giêsu Kitô là Con Thiên Chúa. Rồi ông ra lệnh
cho xe dừng lại, và cả hai cùng xuống nước, Philip và viên hoạn quan. Và Philip
đã ban phép thanh tẩy cho ông" (Cv 8,37-38).
"Nếu ngươi tuyên xưng nơi miệng ngươi : Giêsu
là Chúa ! Và nếu ngươi tin trong lòng ngươi : Thiên Chúa đã cho Người sống lại
từ cõi chết ! ngươi sẽ được cứu" (Rm 10,8).
Trong một số các lời tuyên tín mà Tân Ước trích
dẫn, cấu trúc "Ba Ngôi" chưa rõ nét. Chỉ bắt đầu với
Clêmentê thành Rôma, cấu trúc này mới được rõ ràng :
"Chúc tụng Thiên Chúa, Chúc tụng Chúa Giêsu
Kitô và Thánh Linh, đối tượng đức tin và niềm hy vọng của những người được
tuyển chọn" (1 Cr 58,2).
Một số nhà chuyên môn về lịch sử tín điều cho rằng
"công thức Kitô" (formule christologique) có trước "công thức Ba
Ngôi" (formule trinitaire). Nhưng cũng có người chủ trương rằng : ngay từ
đầu, đã có hai loại công thức tuyên tín : một đàng tuyên xưng Thiên Chúa là Cha
toàn năng, Con Duy Nhất của Ngài, và Thánh Thần Thiên Chúa ; đàng kia tuyên
xưng các mầu nhiệm Kitô như "nhập thể, tử nạn, phục sinh.", dần dần
hai cách tuyên xưng ấy dung hòa với nhau và Ki-tô-học được lồng trong mầu nhiệm
Thiên Chúa Ba Ngôi.
Với thánh Justinô, hai loại công thức này mới gặp
gỡ nhau, chưa dung hợp hoàn toàn. Trong các công thức Ba Ngôi, điều khoản thứ
hai được nối dài hơn, và nhờ đó, đã có một Ki-tô-học tiềm tàng : ".
nhân Danh Đức Giêsu Kitô, đã chịu đóng đinh dưới thời Pontiô Pilatô."
(1 Apol. 61). Ngược lại, các công thức Kitô cũng bắt đầu mang sắc thái Ba Ngôi
: ". chúng ta nói rằng Ngôi Lời, Trưởng Tử của Thiên Chúa, Đức Giêsu
Kitô, Vị Thầy của chúng ta, đã được sinh ra mà không cần hành vi nhục thể, đã
chịu đóng đinh, đã chịu chết." (1 Apol. 21).
Với
thánh Irênê, sự dung hợp hoàn hảo và tự nhiên hơn :
"
Người ta cầu khản Danh Thiên Chúa Cha trtên những ai muốn được tái sinh. và
Danh Đức Giêsu Kitô chịu đóng đinh dưới thời Pontiô Philatô. và Danh Chúa Thánh
Thần , đấng đã tiên báo, nhờ các ngôn sứ, cuộc đời của Đức Giêsu Kitô ." (
Adv. Haereses I, 10,1 )
Trong
cuộc chiến của Irênê chống lại các lạc thuyết, lời tuyên tín Phép Rửa được coi như
" quy luật đức tin không thay đổi " :
"
đây là giáo huấn đức tin, nền tảng của tòa nha và căn bản của ơn cứu độ chúng
ta :
- Điều thứ nhất : Thiên Chúa là
Cha, không được tạo thành, không được sinh ra, là Đấng Vô Hình, là Thiên Chúa
Duy Nhất.
- Điều thứ hai : Ngôi Lời Thiên
Chúa, Con Thiên Chúa, Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta, đã hiện ra với các ngôn sứ
dưới nhiều hình dạng được các sấm ngôn mô tả. Ngài đã làm người, sinh bởi con
người, đã trở thành hữu hình và sờ mó được. để phá tan sự chết và tỏ bày sự
sống lại. ; để đưa tới sự hiệp thông giữa Thiên Chúa và loài người.
- Điều thứ ba : Thánh Thần
Thiên Chúa, Đấng đã phán qua các ngôn sứ, đã dạy dỗ cha ông chúng ta những mầu
nhiệm thần thiêng, và đã dẫn đưa những người công chính đi trên con đường ngay thẳng.
; Ngài được đổ xuống trên nhân loại, khi thời sung mãn đến, lúc Thiên Chúa đổi
mới con người trên khắp mặt đất" (Démonstration, c. 6).
Bản văn trên của Irênê không ghi lại từng chữ Tuyên
tín phép Rửa, nhưng chú giải vắn tắt và gồm ba phần rõ rệt :
- Phần thứ I về Chúa Cha,
- Phần thứ II về Chúa Con,
- Phần thứ III về Chúa Thánh Thần.
Do đó có thể dễ dàng nhận ra cơ cấu của "Lời
Tuyên tín phép Rửa". Lời tuyên tín này khai triển công thức rửa tội mà
Giáo Hội vẫn dùng cho đến ngày hôm nay ; quả thực đó là quy luật đức tin :
"Hỡi bạn, đó là lời rao giảng chân lý và là
quy luật cứu độ, đó là con đường dẫn tới sự sống mà các ngôn sứ đã loan báo,
Đức Kitô đã thiết lập, các Tông đồ đã truyền lại, và Giáo Hội cống hiến cho con
cái mình khắp nơi" (Démonstration, c. 98).
Các lạc thuyết thường đi ngược lại một trong ba
điều khoản đó của đức tin :
"Lạc giáo đã xa lìa chân lý trong ba điều
khoản chính yếu của phép Rửa tội. Hoặc họ coi thường Chúa Cha, hoặc họ không
chấp nhận Chúa Con khi chống lại nhiệm cục nhập thể và cứu độ, hoặc họ không
nhận có Thánh Thần, nghĩa là coi thường lời ngôn sứ" (Démonstration,
c. 100).
Giáo huấn của Irênê không phải là những lý luận
thần học của riêng ông, nhưng là giáo lý tông truyền, là tín điều vững chắc
chống lại các bè rối :
"Giáo Hội, dù rải rác khắp nơi trên thế giới
đến tận cùng trái đất, đã nhận lãnh từ các Tông đồ niềm tin vào một Thiên Chúa
Duy Nhất, Đấng tạo thành trời đất, biển khơi và mọi tạo vật : một Đức Giêsu
Kitô Con Thiên Chúa, đã nhập thể để cứu độ chúng ta ; một Thánh Thần đã loan
báo, nhờ các ngôn sứ, chương trình cứu độ và các biến cố Giáng Sinh, Khổ Nạn,
Phục Sinh, Lên Trời và Quang Lâm của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Từ trời,
Đức Kitô sẽ xuất hiện bên hữu Chúa Cha, để tái tạo mọi sự và làm cho xác thể loài
người sống lại, để mọi đầu gối phải bái quỳ, trên trời, dưới đất và trong hỏa
ngục.
Đó là giáo lý mà Giáo Hội đã lãnh nhận, đó là đức
tin phổ quát ; và dù Giáo Hội rải rác khắp năm châu, Giáo Hội vẫn cố gắng gìn
giữ kỹ lưỡng như ở trong cùng một nhà ; Giáo Hội nhất trí tin như vậy, ví dường
như có cùng một linh hồn, một con tim. Đồng một lòng Giáo Hội rao giảng, dạy dỗ
và lưu truyền đức tin đó, như một miệng lưỡi duy nhất. Dĩ nhiên các ngôn sứ
trên thế giới có khác nhau, nhưng sức mạnh và truyền thống là một và đồng nhất.
Giống như mặt trời, khắp nơi cũng là một, sự rao
giảng chân lý chói sáng mọi nơi và soi sáng mọi người muốn nhận biết chân
lý" (Adversus Haereses I, 10,2).
Đối diện với lạc giáo chia rẽ thành năm bè bảy mối,
Giáo Hội chỉ cần nhắc lại một quy luật duy nhất. Đó là quy luật chân lý nhận
lãnh trong phép Rửa.
Người bảo đảm cho quy luật ấy, chính là Con Thiên
Chúa, Nguồn gốc của mọi truyền thống ; là các Tông đồ và các giám mục liên tiếp
kế vị các ngài.
Chứng từ của Hyppolite trong tác phẩm "TRUYỀN
THỐNG TÔNG ĐỔ" (Traditio Apostolica) cũng quan trọng không kém chứng từ
của Irênê và cần ghi lại để làm nổi bật niềm tin của Giáo Hội trong những thế
kỷ đầu :
". Chủ sự đặt tay trên đầu thụ nhân và làm
phép Rửa lần thứ nhất. Sau đó người nói : ngươi có tin Đức Giêsu Kitô, Con
Thiên Chúa, sinh bởi Thánh Thần và Trinh Nữ Maria, chịu đóng đinh thời Pontio
Pilatô, chịu chết và chịu táng xác, ngày thứ ba sống lại từ cõi chết, lên trời,
ngự bên hữu Chúa Cha, sẽ trở lại phán xét kẻ sống và người chết không ? Thụ
nhân trả lời : tôi tin ; và lại được rửa lần thứ hai. Chủ sự hỏi lần nữa :
ngươi có tin Thánh Thần, Giáo Hội và xác thể ngày sau sống lại không ? Thụ nhân
đáp : tôi tin ; và như thế lại được rửa lần thứ ba" (Le
symbole romain au IIè siècle. Revue bénédictime, 1927).
Đoạn trích dẫn chứng từ của Hyppolite thiếu mất
phần đầu, nhưng cũng có thể sắp đặt lại, và nhờ đó, chúng ta có được cấu trúc
chính yếu của "Kinh Tuyên tín Tông đồ" (Symbole des apôtres) :
"Ngươi
có tin Thiên Chúa là Cha Toàn năng không ?
Ngươi có
tin Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa,
sinh bởi
Thánh Thần và từ cung lòng Trinh Nữ Maria,
chịu
đóng đinh thời Pontiô Pilatô, chịu chết và chịu táng xác,
ngày thứ
ba sống lại từ trong kẻ chết,
lên trời
ngự bên hữu Chúa Cha
và sẽ
trở lại phán xét kẻ sống và kẻ chết ?
Ngươi có
tin Chúa Thánh Thần,
Giáo Hội
thánh thiện và sự phục sinh thân xác không ?"
Tertullien coi lời tuyên tín phép Rửa và nghi thức
Rửa tội như hai yếu tố gắn liền nhau, tạo thành một toàn bộ mà ông gọi là "Bí
tích Đức Tin" (Sacramentum fidei). Lời tuyên tín đôi khi cũng được gọi
là "Bí Tích" (sacramentum), hoặc để nhắc lại liên hệ với phép
Rửa, hoặc để tuyên thệ giống như lời thề thánh hiến người ki-tô-hữu gia nhập
vào đạo binh của Chúa Kitô.
Tertullien dùng ngôn từ rất mạnh mẽ để làm nổi bật
tầm quan trọng của "quy luật đức tin" : "Adversus regulam nihil
scire omnia scire est" (không biết điều gì ngược lại quy luật đức tin là
biết tất cả - De praescr. 14).
Tóm lại, so với vai trò của Kinh Tin Kính
Nicée-Contanstinople trong thời gian tranh luận vào thế kỷ IV, chỗ đứng của lời
Tuyên tín phép Rửa trong Giáo Hội sơ khai còn quan trọng hơn. Không những đối
với từng ki-tô-hữu, mà còn đối với toàn thể Giáo Hội, lời Tuyên tín phép Rửa là
kho tàng quý giá nhất, là diễn từ chính xác nhất về mầu nhiệm đức tin, và do đó
đã trở thành quy luật, tiêu chuẩn để phê phán cá nhân ki-tô-hữu hay các cộng
đoàn địa phương : ai không ở trong quy luật ấy, thì không còn ở trong đức tin
của Giáo Hội Chúa Kitô.
Nhiều giáo phụ đã làm chứng về sự hiện hữu của lời
Tuyên tín phép Rửa vào những thế kỷ đầu của Giáo Hội, nhưng không ai ghi chép
trọn vẹn. Mãi đến thế kỷ IV mới được chép lại nguyên văn bởi "Rufin thành
Aquila", bằng tiếng Latinh, và "Marcel dAncyre" bằng tiếng
Hylạp.
Ngay từ thuở ban đầu, Giáo Hội luôn luôn nối kết "Thánh
Thể" với "phép Rửa". Phaolô, trong thư I gửi giáo
đoàn Côrintô, đã làm việc này một cách rất tự nhiên và sâu sắc. Biến cố Xuất
hành và đời sống của Dân Chúa trong sa mạc là khởi điểm cho những suy tư của
ông :
"Và tôi không muốn để anh em không hay không
biết sự này, hỡi anh em : là cha ông chúng ta, hết thảy đã ở dưới áng mây, hết
thảy đã ngang qua Biển, hết thảy đã thanh tẩy mình trong Môsê, dưới áng mây,
trong lòng biển ; hết thảy đã được ăn cùng một lương thực thần thiêng ; hết
thảy đã được uống cùng một của uống thần thiêng, quả họ đã uống từ Tảng đá thần
thiêng đi theo họ, - Tảng đá ấy là Đức Kitô - song nơi phần đông trong họ,
Thiên Chúa đã chẳng được hài lòng. Vì họ đã bị phơi thây trong sa mạc". (1 Cr
10,1-5)
Bí tích Thánh Thể là Trung tâm điểm của đời sống
phượng tự Kitô-giáo. Nhờ việc cử hành Thánh Thể, người tín hữu được nối kết
chặt chẽ với Chúa Kitô, là Thầy, là Chúa và là Đấng Cứu độ, được chia phần sự
sống với Người.
Nếu châm ngôn "lex orandi, lex
credendi" (quy tắc cầu nguyện cũng là quy tắc đức tin) áp dụng chính
xác cho phép Rửa tội, thì trong Phụng vụ Thánh Thể, giá trị của châm ngôn này
càng rõ ràng và nổi bật hơn. Phụng vụ Thánh Thể biểu lộ niềm tin của người
ki-tô-hữu ở mức độ cao nhất và đầy đủ nhất.
Những người cử hành phụng vụ Thánh Thể là những
người đã chịu phép Rửa ; điều họ cử hành cũng lặp lại niềm Tin phép Rửa. Nhưng
họ được đưa dẫn sâu xa hơn vào điều họ đã tin, được tham dự trọn vẹn hơn vào
các mầu nhiệm của đời sống đức tin ki-tô-giáo.
Đức tin tuyên xưng trong phụng vụ Thánh Thể khai
triển và phát huy niềm tin đã nhận lãnh trong bí tích Rửa tội. Nếu các công
thức tuyên tín trong phép Rửa tội bày tỏ Niềm tin chắc chắc và phổ quát của
Giáo Hội, thì các công thức trong phụng vụ Thánh Thể càng biểu lộ rõ ràng và
đầy đủ hơn nội dung đức tin ki-tô-giáo.
Nếu đã nhấn mạnh khía cạnh " Tông
truyền" của đức tin trong phép Rửa tội, thì càng phải nhấn mạnh đặc
tính này của phụng vụ Thánh Thể. Đoạn tường thuật việc thành lập phép Thánh Thể
trong thư I gửi tín hữu Côrintô đã được Phaolô nhấn mạnh là phát xuất từ Truyền
thống mà chính ông đã nhận lãnh :
"Vì chưng, chính tôi đã chịu lấy nơi Chúa điều
tôi truyền lại cho anh em, là : Chúa Giêsu trong đêm Ngài bị nộp, Ngài đã cầm
lấy Bánh, và tạ ơn xong, Ngài đã bẻ ra và nói : Này là Mình Ta, vì các
ngươi, hãy làm sự này mà nhớ đến Ta. Cũng vậy, về Chén, sau khi đã dùng bữa
tối xong, Ngài nói : Chén này là Giao ước mới trong Máu Ta, các ngươi hãy
làm sự này mỗi khi uống, mà nhớ đến Ta. Vì mỗi lần anh em ăn bánh ấy và
uống chén ấy, anh em loan báo sự chết của Chúa, cho tới lúc Ngài đến. Cho nên
kẻ ăn Bánh hay uống Chén của Chúa cách bất xứng, tất sẽ mắc tội đối với Mình và
Máu Chúa". (1 Cr 11,23-27)
Nếu phân tích lịch sử của Lời tuyên tín phép Rửa
dẫn đưa chúng ta tới "Kinh Tin Kính Tông đồ", thì tìm hiểu phụng vụ
Thánh Thể cũng giúp ích rất nhiều để tìm lại Niềm Tin của Giáo Hội trong những
thế kỷ đầu.
Cũng như trong phần phụng vụ
phép Rửa, chứng từ của sách Didachè về phụng vụ Thánh Thể là một chứng từ quý
giá vì rất cổ xưa.
Chương IX và X là những chương
phong phú nhất. Vì giá trị của chúng, chúng tôi xin trích dẫn cả hai chương :
"Khi cử hành lễ Tạ ơn
(Eucharistie), hãy cảm tạ thế này :
Trước hết, hãy dâng lời cảm tạ
trên chén :
Lạy Cha, chúng con cảm tạ Cha,
vì Vườn Nho Thánh thiện của
Đavít, tôi tớ Cha
mà Cha đã cho chúng con biết nhờ
Đức Giêsu Tôi tớ Cha.
Chúc tụng Cha đến muôn đời.
Sau đó, hãy dâng lời cảm tạ trên
bánh đã bẻ ra :
Lạy Cha, chúng con cảm tạ Cha,
vì sự Sống và Tri thức
mà Cha đã cho chúng con nhờ Đức
Giêsu Tôi tớ Cha.
Chúc tụng Cha đến muôn đời.
Như chiếc bánh đã bẻ ra, được
làm bằng những hạt lúa miến từ các núi đồi, và được kết hợp lại để trở thành
một. Cũng thế, xin Cha hãy quy tụ Giáo Hội từ các miền xa xăm trên địa cầu, vào
trong Vương quốc của Cha.
Vinh hiển và uy quyền thuộc về
Cha mãi mãi đến muôn đời, nhờ Đức Giêsu Kitô.
Chỉ có những người đã chịu phép
Rửa nhân Danh Chúa Kitô mới được ăn bánh và uống chén, bởi vì chính Chúa đã căn
dặn : đừng vất những của thánh cho chó" (Didachè IX, 1-5)
"Khi đã dùng xong, hãy tạ
ơn như sau :
Lạy Cha chí thánh, chúng con cảm
tạ Cha
vì Danh chí thánh của Cha
mà Cha đặt để trong tâm hồn
chúng con
và vì sự hiểu biết, đức tin và
sự bất tử
mà Cha đã ban cho chúng con nhờ
Đức Giêsu Tôi tớ của Cha.
Chúc tụng Cha đến muôn đời.
Chính Cha là Đấng Toàn Năng
đã tạo dựng vũ trụ
vì Vinh quang của Danh Cha.
Cha đã cho loài người hưởng dùng
của ăn và thức uống để họ cảm tạ Cha.
Đối với chúng con, Cha đã thương
ban của ăn thức uống thiêng liêng và sự sống đời đời, nhờ Đức Giêsu Tôi tớ của
Cha.
Chúng con cảm tạ Cha trên hết
mọi sự, vì Cha là Đấng Quyền năng.
Lạy Chúa, xin hãy nhớ đến Giáo
Hội Chúa, hãy giải thoát Giáo Hội khỏi mọi sự dữ và hãy kiện toàn Giáo Hội
trong đức ái, xin hãy qui tụ Giáo Hội từ bốn phương vào Vương quốc Ngài đã dọn
saün, vì Quyền Năng và Vinh Quang thuộc về Chúa muôn đời.
Xin Hồng ân Người hãy đến và thế
gian này hãy qua đi.
Hoan hô Thiên Chúa của Đavít.
Ai đã trong sạch thì hãy đến
Ai chưa sạch hãy ăn năn đền tội.
Lạy Chúa, xin hãy đến.
Amen" (Didachè X, 1-6)
Có nhiều ý kiến khác nhau về ý
nghĩa của Lời Tạ Ơn (Eucharistia) được ghi lại trong các đoạn trích dẫn ở trên.
Có người cho rằng đó chính là phụng vụ Thánh Thể, vì có nhắc tới bánh và rượïu,
đến phép Rửa là điều kiện cần thiết để tham gia bàn Tiệc Thánh Thể. Hơn nữa
cung điệu của Lời Kinh gần giống như Kinh Tiền tụng, và Lời Kinh còn kết thúc
bằng viễn tượng cánh chung.
Nhưng cũng có người nghĩ là
không phải. Trong thế giới Do-thái thời Chúa Kitô, cũng có những bữa ăn thánh
thiện, trong đó người ta cảm tạ Thiên Chúa và đọc lời chúc tụng trên bánh và
rượu. Các bữa ăn đó vẫn tồn tại trong thời gian đầu của Giáo Hội. Hơn thế nữa,
sách Didachè sẽ nói tới phụng vụ Thánh Thể trong chương XIV.
Vì hai lý do này không vững chắc
đủ, đa số các nhà chuyên môn theo ý kiến đầu. Nhưng cũng không ai dám xác định
đó là một Kinh nguyện Thánh Thể như sẽ có sau này vào thế kỷ III.
Điều quan trọng cần lưu ý là chỗ
đứng nổi bật của Chúa Cha trong Lời Kinh cảm tạ.
Lời nguyện luôn luôn hướng về Chúa
Cha, vì mọi sự đều là Hồng ân của Chúa Cha. Cha là Thiên Chúa, là Đấng Tạo dựng
vũ trụ. Người ban cho chúng ta sự Sống, Tri thức ; Người cho chúng ta thuộc về
Giáo Hội.
Vai trò Trung Gian của Đức
Giêsu, Tôi tớ của Chúa Cha cũng được lặp lại nhiều lần. Tước hiệu này là một
trong những tước hiệu Giáo Hội sơ khai rất ưa thích.
Chương XIV sách Didachè đề cập
trực tiếp đến phụng vụ Thánh Thể ngày Chúa Nhật, nhưng vắn tắt hơn và không
khai triển các ý tưởng nòng cốt về mầu nhiệm Thiên Chúa :
"Anh chị em hãy tụ họp lại
vào ngày của Chúa, hãy bẻ bánh và tạ ơn, sau khi thú nhận tội lỗi, để lễ tế của
các ngươi được tinh tuyền. Ai trong anh chị em còn bất bình với một người bạn,
không nên tham gia với anh chị em cho tới khi cả hai được giải hòa, để khỏi làm
ô uế lễ tế của anh chị em.
Chính Lời của Chúa đã căn dặn :
mọi thời và mọi nơi ai ai cũng phải dâng cho Ta một lễ tế tinh tuyền, vì Ta là
Vua vĩ đại, và Danh Ta thật đáng kính sợ giữa chư dân" (Didachè,
XIV, 1-3).
Xét dưới khía cạnh mô tả hay
tường thuật, chứng từ của Justinô quan trọng hơn sách Didachè.
Chúng ta có thể thấy cơ cấu
chính yếu của phụng vụ Thánh Thể trong những thế kỷ đầu nhờ bài tường thuật khá
tỉ mỉ và khách quan của Justinô. Trong tác phẩm "Hộ Giáo" I,
Justinô cố gắng trình bày và giải thích cho người ngoại đạo nghi thức phượng tự
quan trong nhất của Kitô-giáo :
"Ngày mà người ta gọi là
ngày của mặt trời, mọi người ở thành thị và thôn quê, tụ họp nhau lại trong
cùng một nơi. Người ta đọc lại ký sự của các Tông đồ và tác phẩm của các Ngôn
sứ, bao lâu thời giờ cho phép. Sau khi đọc xong, vị chủ tế lên tiếng dặn dò và
khuyến khích người nghe thực hành những giáo huấn tốt đẹp ấy. Sau đó, chúng tôi
đứng dậy và cùng cầu nguyện lớn tiếng. Và khi cầu nguyện xong, người ta đưa
bánh, rượu và nước tới. Chủ sự ngước mắt lên trời, dâng những lời cầu nguyện và
cảm tạ, theo như sức lực của người cho phép, và toàn dân đáp lại bằng tiếng
tung hô : Amen ! Sau đó, người ta phân phát của ăn đã được hiến thánh cho mọi
người, và nhờ các phó tế đưa tới cho những người vắng mặt"
(Apologia I, c. 67).
Bài tường thuật của Justinô ghi
lại những nét chính yếu của phụng vụ Thánh lễ lúc ban đầu : phụng vụ Lời Chúa,
Bải giảng, Lời nguyện giáo dân, phần dâng lễ, Kinh "Cảm tạ"
(Eucharistia), phần rước lễ.
Justinô nối kết chặt chẽ Lễ Tạ
ơn với đức tin phép Rửa :
"Chúng tôi gọi thức ăn ấy
là "Của lễ Tạ ơn", và không ai có quyền tham gia ngoài những kẻ tin
vào Sự Thật của giáo thuyết chúng tôi, những kẻ đã chịu phép Rửa tha tội và tái
sinh, và sống theo giới răn Chúa Kitô" (Apologia I, c. 65)
Những lời Kinh không được
Justinô ghi lại đầy đủ như trong sách Didachè. Nhưng qua các phần mô tả của
Justinô, chúng ta có thể nhận ra nội dung của lời Kinh, và niềm tin mà lời Kinh
ấy diễn tả :
"Mỗi khi dâng lễ, chúng tôi
chúc tụng Đấng Tạo dựng vũ trụ nhờ Con của Người là Đức Giêsu Kitô và nhờ Thánh
Thần" (Apologia I, c.67)
Justinô còn giải thích ý nghĩa
của ngày Chúa Nhật :
"Chúng tôi họp nhau lại vào
ngày mặt trời, bởi vì đó là ngày thứ nhất, ngày mà Thiên Chúa lôi kéo vật chất
ra khỏi bóng tối, tạo dựng nên vũ trụ. Và đó cũng là ngày mà Đấng Cứu độ chúng
ta sống lại từ cõi chết. Hôm trước ngày Thổ tinh, Người đã chịu đóng đinh,
nhưng hôm sau ngày ấy nghĩa là ngày mặt trời, Người đã hiện ra với các Tông đồ
và môn đệ." (Apologia I, c. 67).
Trong lời giải thích, Justinô
nối kết một cách khéo léo Tạo dựng và Cứu độ, công trình của Chúa Cha và Chúa
Con. Vì Cha của vũ trụ, cũng là Cha của Đức Giêsu Kitô, Ngôi Lời nhập thể.
Mầu nhiệm Phục sinh được cử hành
trong phụng vụ Thánh lễ ngày Chúa Nhật được coi như Đích điểm và Hoàn tất công
trình Tạo dựng.
Nói tóm lại, trong lời tường
thuật của thánh Justinô về phụng vụ Thánh lễ, chúng ta thấy được cả cộng đồng
Dân Chúa hướng về Chúa Cha để dâng lời cảm tạ, vì Chúa Cha đã tạo dựng con người,
ban cho Hồng Ân tinh thần và vật chất. Trong khi cử hành Thánh lễ Tạ ơn, Cộng
đồng Dân Chúa tưởng niệm cuộc Tử Nạn - Phục Sinh của Chúa Kitô.
Vai trò Trung gian của Đức Kitô
cũng được đề cập đến nhưng chưa rõ ràng. Chỗ đứng của Chúa Thánh Thần còn rất khiêm
tốn.
Chứng từ của sách Didachè và của
thánh Justinô không được đầy đủ, nếu xét riêng rẽ. Nếu nhập chung lại, hai
chứng từ bổ sung cho nhau. Một đàng gợi lên những âm vang của các lời nguyện
khi cử hành lễ Tạ ơn, đàng kia tường thuật cách sắp xếp và tổ chức lễ Tạ Ơn.
Nhưng chưa có chứng từ nào ghi lại trọn vẹn cơ cấu và nội dung của phần quan
trọng và trung tâm nhất trong lễ Tạ Ơn, mà hôm nay chúng ta gọi là KINH NGUYỆN
THÁNH THỂ.
Trong những thế kỷ đầu, chủ tế
thường "cầu nguyện tự phát" khi cử hành Thánh lễ, do đó khó có
bản văn phụng vụ nào được ghi nhớ và gìn giữ trọn vẹn.
Phải đợi đến thế kỷ III, chúng
ta mới có bằng chứng đầy đủ, đó là Kinh nguyện Thánh Thể trong "TRUYỀN
THỐNG TÔNG ĐỔ" của Hyppolite.
Kinh nguyện Thánh Thể của
Hyppolite tuy vắn gọn, nhưng đã có một cơ cấu khá rõ rệt về hình thức cũng như
nội dung.
Về phương diện nội dung, cơ cấu
Kitô - Ba Ngôi nổi bật. Kinh nguyện gán cho Chúa Cha việc sai phái Chúa Con,
công cuộc cứu thế cho Chúa Con, sự thánh hóa và hiệp nhất Giáo Hội cho Chúa
Thánh Thần.
Giống như phượng tự của người
Do-thái, phụng vụ Thánh Thể luôn luôn mang chiều kích cứu độ. Nhưng điểm khác
biệt là Phụng vụ Ki-tô-giáo quy chiếu về Chúa Kitô là Trung tâm điểm của lịch
sử cứu độ. Chính vì thế mà Kinh nguyện Thánh Thể thường xuyên nhắc đến các mầu
nhiệm và biến cố liên hệ tới Đức Giêsu Kitô như bữa Tiệc Ly, cuộc Khổ nạn, cái
chết và sự phục sinh của Ngài :
"Lạy Thiên Chúa, chúng con
cảm tạ Cha, nhờ Đức Giêsu Kitô, Con yêu dấu của Cha, mà trong những ngày sau
cùng, Cha đã sai đến làm Đấng Cứu độ chúng con, và làm sứ thần thực hiện thánh
ý của Cha. Người là Ngôi Lời không tách biệt khỏi Cha, và nhờ Người mà Cha làm
nên mọi sự. Người là Đấng làm đẹp lòng Cha mọi đàng. Từ trời, Cha đã sai Người
xuống trong lòng Trinh Nữ. Người đã nhập thể, sinh bởi Thánh Thần và bởi Trinh
Nữ.
Để chu toàn Thánh ý Cha và để
gây dựng cho Cha một dân tộc thánh thiện, Người đã giang tay chịu khổ hình, hầu
giải thoát mọi khổ nạn những kẻ tin vào Người. Người đã tự nguyện chịu đau khổ,
hầu phá hủy sự chết, đập tan xiềng xích địa ngục, chiếu sáng cho những người
công chính và tỏ bày sự sống lại.
Người cầm lấy bánh, tạ ơn và
phán : "Các con hãy cầm lấy mà ăn, này là Mình Ta, sẽ bị nộp vì các
con". Cùng một thể thức ấy, Người cầm lấy chén và phán : "Này
là Máu Ta, sẽ đổ ra cho các con, hãy làm việc này mà nhớ đến Ta".
Khi kính nhớ Con Chúa chịu chết
và sống lại, chúng con dâng lên Cha bánh và chén này để tạ ơn Cha, vì Cha đã
thương cho chúng con được xứng đáng hầu cận trước Nhan Cha và phụng sự Cha.
Chúng con nài xin Cha sai Thánh Thần xuống trên lễ vật của Hội Thánh. Xin Cha
hợp nhất tất cả những người đang thông công, xin ban cho họ tràn đầy Thánh Thần
để củng cố niềm tin của họ trong chân lý. Chúng con muốn chúc tụng và ngợi khen
Cha, nhờ Con yêu dấu của Cha là Đức Giêsu Kitô. Nhờ Người, chúc tụng và vinh
quang đều dâng về Thiên Chúa : Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần trong Hội
Thánh của Ngài, bây giờ và mãi mãi thiên thu vạn đại. Amen". (Traditio
Apostolica)
Trong những thế kỷ đầu của Giáo Hội, ngoài Giáo đô
Rôma, Giáo Hội Đông phương có nhiều thủ phủ quan trọng khác có ảnh hưởng rất
lớn trong sinh hoạt của Giáo Hội : Constantinople là thủ phủ vùng Tiểu Á,
Antiôkia là thủ phủ vùng Syria và Mêsôpôtamia, Alexandria là thủ phủ vùng
Ai-Cập, Giêrusalem là thủ phủ vùng Palestina.
Từ các thủ phủ này, xuất hiện các thứ phụng vụ khác
nhau về sau được sắp xếp làm hai loại chính : mẫu Syrien và mẫu Alexandrien.
Chúng ta không thể trích dẫn ra ở đây tất cả các
Kinh nguyện Thánh Thể Đông phương thuộc các thế kỷ IV và V, nhưng sẽ lần lượt
phân tích một vài đoạn của các Kinh nguyện Thánh Thể quan trọng để hiểu rõ hơn
sinh hoạt phụng vụ của Giáo Hội trong giai đoạn lịch sử này. Điều quan trọng
đối với chúng ta là tìm hiểu niềm tin của Dân Chúa vào mầu nhiệm Thiên Chúa Ba
Ngôi được biểu lộ trong sinh hoạt phụng vụ.
Kinh nguyện Thánh Thể của Giám mục Sérapion, là một
trong những kinh nguyện Tạ ơn đẹp nhất của phụng vụ thế kỷ IV.
Toàn bộ Kinh nguyện hướng về Thiên Chúa Cha như mọi
Kinh nguyện Thánh Thể khác, nhưng có phần dành riêng để ca ngợi, chúc tụng
Thiên Chúa Cha (phần ấy, hôm nay chúng ta gọi là Kinh Tiền Tụng) :
"Lạy Cha, ca ngợi, chúc tụng Cha, thật là xứng
đáng và cần thiết, Cha là Đấng không được tạo thành, là Cha của Chúa Con Duy
nhất, Đức Giêsu Kitô.
Cha là Nguồn Sống, là Ánh Sáng, là Khởi Nguyên của
mọi Hồng Ân và Chân Lý. Cha là bạn của nhân loại. Bạn của người nghèo. Cha
thương xót mọi người và lôi cuốn mọi người về cùng Cha.
Cha vượt trên mọi Quyền năng, Sức mạnh, Danh hiệu.
đời này và đời sau."
Kinh nguyện có sắc thái Ba Ngôi nhiều hơn là Kitô.
Phần dành cho Đức Kitô là lịch sử cứu độ tương đối vắn tắt. Phần "Tưởng
niệm" (Anamnèse) chỉ nhắc thoáng qua cái chết của Đức Giêsu :
"Vì thế, lạy Cha, trong khi tưởng niệm cái
chết của Người, chúng con dâng lên Cha bánh này và cầu xin : nhờ Hy tế này, lạy
Thiên Chúa Chân lý, xin hãy đoái nhìn đến chúng con".
Cơ cấu Ba Ngôi rõ ràng ngay cả trên bình diện từ
ngữ : "Lạy Thiên Chúa là Đấng không được tạo thành, chúng con đã kêu
cầu Thiên Chúa, nhờ Chúa Con Duy nhất, trong Chúa Thánh Thần".
Khi khảo sát Kinh Nguyện Thánh Thể trong "HIẾN
CHẾ TÔNG TRUYỀN" (Constitutions Apostoliques) thuộc thế kỷ IV, chúng ta
nhận ra cơ cấu "Ba Ngôi" không những nổi bật trong ngôn từ sử dụng,
mà còn rõ ràng trong cách sắp xếp phân đoạn : Tạo Dựng và Cứu Độ liên hệ mật
thiết. Tạo dựng hướng tới Cứu độ, và cả hai đều được nhắc nhở đầy đủ. Công
trình tạo dựng được tường thuật tỉ mỉ để gợi lên tâm tình ngưỡng mộ, cảm tạ và
biết ơn đối với Thiên Chúa. Các yếu tố thiên nhiên như đại dương và sông ngòi,
tinh tú trên trời, lửa và nước, ánh sáng và bóng tối đều biểu lộ tình thương
bao la của Thiên Chúa.
Lịch sử cứu độ cũng được ghi lại đầy đủ, từ biến cố
Ađam phạm tội đến cái chết và sự phục sinh vinh hiển của Đức Kitô.
Qua đoạn tường thuật về lịch sử cứu độ của Kinh
Nguyện Thánh Thể, chúng ta thấy rõ sự gần gũi giữa phụng vụ và Kinh Thánh, vì
mục tiêu là hiện tại hóa Lịch sử cứu độ, đưa con người đi vào dòng lịch sử
thánh, để con người được tham gia sự sống của Thiên Chúa và làm vinh quang cho
Thiên Chúa.
Vai trò trung gian của Đức Giêsu Kitô được nhắc đi
nhắc lại nhiều lần trong cùng một đoạn, bằng cùng một từ ngữ (per), sau này sẽ
trở thành một từ ngữ cốt yếu (mot-clé) và không thay đổi, dùng trong các Kinh
nguyện Thánh Thể và trong câu kết của các lời nguyện (đặc thái của Kinh nguyện
Kitô-giáo, phân biệt với Kinh nguyện Do-thái-giáo và các tôn giáo). Nhờ từ ngữ
vắn gọn này, mà người ki-tô-hữu luôn luôn nhớ rằng họ chỉ có một Đấng trung
gian cứu độ duy nhất là Đức Kitô :
"Lạy Cha là Thiên Chúa vĩnh cửu, Ngài đã tạo
dựng mọi sự nhờ Đức Kitô, nhờ Người, Cha săn sóc mọi loài với sự
quan phòng âu yếm. Nhờ Người, Cha đã ban ơn hiện hữu. Nhờ Người,
Cha ban cho hạnh phúc. Cha là Thiên Chúa và là Cha của Chúa Con Duy Nhất. Nhờ
Người, trước hết Cha đã dựng nên các thiên thần Kêrubim và Sêraphim, các
đạo binh Thiên quốc, các Quyền thần và Quản thần, các thần thánh và ngai tòa,
các Tổng lãnh và thiên thần. Sau đó, nhờ Người, Cha đã dựng nên thế giới
hữu hình và những gì chứa đựng trong đó".
Cũng có một phần đặc biệt dành riêng cho Chúa Thánh
Thần, mà sau này phụng vụ gọi là Epiclèse. Ngay cả trong phần này, lời nguyện
không hướng về Chúa Thánh Thần, mà vẫn hướng về Chúa Cha, để xin Cha ban
"Thánh Thần". Chúa Cha vẫn là Khởi Nguyên và là Nguồn Suối, mặc dù
Chúa Thánh Thần là tác giả hiển thánh bánh và rượu, là Đấng thanh tẩy là hiệp
nhất Giáo Hội :
"Xin Cha hãy sai Thánh Thần là Đấng làm chứng
cho những đau khổ của Chúa Giêsu xuống trên Hy lễ này, để Người hiển thánh bánh
này trở thành Thân Thể Đức Kitô, và chén này trở nên Máu Đức Kitô.
Xin cho tất cả những người đang thông công được
củng cố lòng đạo đức, được tha thứ tội lỗi, được giải thoát khỏi quỷ dữ, được
tràn đầy Chúa Thánh Thần và trở nên xứng đáng với Đức Kitô, được sự sống vĩnh
cửu và hòa giải với Cha, là Chúa Toàn Năng".
Kinh nguyện Kitô-giáo "thoát
thai" từ trong lòng dân tộc Israel. Dân Thiên Chúa trong Cựu Ước là
một dân tư tế, một dân tộc biết cầu nguyện. Kỳ diệu thay những lời kinh đầy ứ
tâm tình tôn giáo, trải dài hàng bao nhiêu thế kỷ ! Quả thực, Dân Thiên Chúa
luôn luôn tìm cơ hội để ca ngợi, cảm tạ và xin ơn Người.
Trong Kinh Thánh Cựu Ước,
chỗ đứng của kinh nguyện rất đặc biệt. Đó là một kho tàng thiêng liêng vô cùng
phong phú và sinh động. Những gì sâu thẳm nhất trong tâm hồn các tổ phụ, các
ngôn sứ và toàn thể dân tộc đều bộc lộ qua kinh nguyện.
Trong những thế kỷ đầu, Giáo Hội
Kitô-giáo dùng ngôn từ Kinh Thánh để cầu nguyện. Là dân Israel-mới, Giáo Hội đã
học hỏi và hát những bài Thánh Vịnh.
Các kinh nguyện cổ xưa nhất của
Giáo Hội ghi lại trong Tân Ước như kinh Magnificat, Benedictus, và ngay cả kinh
Lạy Cha., đầy dẫy những hoài niệm Cựu Ước.
Không những chỉ có Kinh Thánh,
mà ngay cả những công thức phụng vụ Do-thái cũng ảnh hưởng tới những bài ca và
lời nguyện của Giáo Hội.
Kinh nguyện vĩ đại của thánh
Clêmentê thành Rôma nhắc lại nhiều nét của 18 lời chúc tụng Do-thái :
"Chúa triệt hạ lòng kiêu
căng hỗn xược,
Chúa phá vỡ mưu đồ của chư dân,
Chúa nâng cao người phận nhỏ,
Chúa lật đổ kẻ uy quyền,
Chúa làm giầu ai nghèo khó,
Chúa cất đi và ban sự sống,
Chúa thấu suốt tâm hồn nhân
loại,
Chúa canh giữ hành động con
người,
Chúa trợ giúp cơn nguy khốn,
Chúa cứu độ người thất vọng,
Chúa dựng và gìn giữ mọi thiên
thần,
Chúa cho dân cư địa cầu được
đông số.
Giữa chư nước, Chúa lựa chọn
những ai kính mến Ngài,
nhờ Đức Giêsu-Kitô, Con Yêu Dấu
của Ngài.
Nhờ Người, Chúa đã dạy dỗ, thánh
hóa và cho họ được rạng rỡ.
Lạy Thiên Chúa Toàn Năng, chúng
con cầu xin Chúa :
xin hãy đến trợ giúp và bênh vực
chúng con,
xin cứu thoát người bị áp bức,
xót thương kẻ bé mọn,
nâng dậy người sa ngã.
Xin tỏ hiện cho người thiếu
thốn,
chữa lành kẻ yếu đau,
đưa người lầm lạc trong Dân Chúa
trở về.
Xin ban thức ăn cho người đói
khát,
ban tự do cho kẻ tù đày,
củng cố những con người yếu
đuối,
ủy lạo con người non dạ.
Xin cho mọi dân tộc đều nhận
biết :
chỉ có một mình Ngài là Thiên
Chúa ;
nhận biết Đức Giêsu-Kitô là Con
của Ngài,
nhận ra chúng con là Dân của
Ngài,
là thành phần thuộc chuồng chiên
của Ngài." (Ad Corinthios ch. 59.62)
Tuy nhiên, Kinh Nguyện Kitô-giáo
không phải là kinh nguyện Do-thái, vì có một điểm khác biệt cơ bản : kinh
nguyện hướng về Thiên Chúa nhờ sự bầu cử của Chúa Giêsu Kitô. Đức Giêsu
Kitô là Trung Gian : nhờ Người, chúng ta được cứu độ. Đức Giêsu là Thượng Tế :
nhờ Người, lời cầu nguyện của chúng ta được dâng lên Thiên Chúa.
Để có thể hướng lên cùng Thiên
Chúa, người kitô-hữu luôn luôn đến cùng Chúa Giêsu. Lời Kinh vẫn là lời kinh
của người Do-thái, nhưng niềm tin hoàn toàn mới mẻ.
Xét về phương diện chất liệu,
Kinh Nguyện Kitô-giáo những thế kỷ đầu thường được cấu tạo bằng nhiều yếu tố :
trước hết là một nền tảng rút từ Cựu Ước và các truyền thống Do-thái ; sau đó
là một số yếu tố mới lấy từ Tân Ước, nhưng đặc biệt hơn cả là một ý hướng mới
mẻ. Kitô-hữu còn sử dụng và biến đổi những lời chúc tụng dùng cho các vua chúa
hay thần minh :
"Caesar, in te salus, in te
vita ; in te omnia, per te omnia !" (Lạy Ngài César, hạnh phúc ở nơi
Ngài, sự sống ở nơi Ngài ; mọi sự trong Ngài và mọi sự nhờ Ngài !)
"Jupiter, optime, tibi
gratias !
Apollo venerabilis, tibi gratias
!
Maxime Auguste, tibi gratias
!"
(lạy Ngài Jupiter, rất tốt lành,
tạ ơn Ngài !
lạy Ngài Apollô đáng kính, tạ ơn
Ngài !
lạy Ngài Augustô vĩ đại, tạ ơn
Ngài !)
"Quod imperium suscepisti,
gratias agimus !" (chúng tôi cảm tạ Ngài, vì Ngài đã nhận lãnh quyền cao)
Cảm hứng tự phát của cá nhân
cũng đóng một vai trò quan trọng.
Đức tin nồng cháy bừng lên từ
tâm hồn các kitô-hữu và phát ra từ môi miệng trở thành những lời kinh mới mẻ.
Trong trường hợp các Tử Đạo, đức
tin thúc đẩy họ đương đầu với quan án và lý hình. Đức tin bộc lộ thành lời cầu
nguyện sốt sắng và đầy ứ tâm tình :
"Lạy Thiên Chúa, xin cảm tạ
Ngài ! Con nay 56 tuổi đời. Con đã gìn giữ tâm hồn trinh trắng, con đã tin theo
Phúc Âm, con đã rao giảng đức tin và chân lý.
Lạy Thiên Chúa là Chúa cả trời
đất,
lạy Đức Giêsu-Kitô, con xin dâng
cho Chúa đầu con làm lễ tế.
Chúa là Đấng Hằng Sống muôn
đời" (Félix de Thibinca).
Đức tin nồng nàn nhưng sáng suốt
của Giáo Hội những thế kỷ đầu phải thường xuyên chống chọi với các lạc giáo có
tác dụng hủy hoại từ bên trong. Lời kinh của các giáo phụ đầy chất thần học,
nhưng không kém phần sốt sắng. Sự cầu nguyện giúp các giáo phụ thấu hiểu những
điều mà suy luận không giúp ích gì :
"Tình yêu tiến tới và bước
vào nơi mà khoa học không làm gì được" (Guillaume de St.
Thierry).
"Lạy Thiên Chúa vượt trên
hết mọi loài,
Làm sao gọi Ngài bằng một Danh
Xưng khác ?
Bài ca nào có thể chúc tụng Chúa
?
Không lời nào mô tả được Ngài !
Tinh thần nào thấu hiểu được
Ngài ?
Không trí tuệ nào quan niệm được
Ngài.
Chỉ một mình Ngài là khôn tả,
Mọi điều nói ra phát xuất từ
Ngài.
Chỉ một mình là khôn dò thấu,
Mọi điều suy nghĩ bắt nguồn nơi
Ngài.
Muôn vật đều chúc tụng Chúa,
Thọ tạo biết nói và loài không
biết nói,
mọi hữu thể ngợi khen Ngài,
hữu thể tư duy và không có tư
duy." (Grêgôriô thành Nazian)
Nhịp điệu thông thường của đời
sống hằng ngày cũng là cơ hội để người kitô-hữu dâng lên Thiên Chúa những lời
cầu nguyện chân thành :
"Satan, hãy xéo đi, hãy rời
khỏi nhà này ; ở đây không có chỗ và có phần cho mi ; ở đây có Phêrô, ở đây có
Phaolô, ở đây có Tin Mừng ; ở đây ta muốn, sau khi làm việc thờ phượng, được
ngủ nghỉ bình an, nhân danh Chúa Cha và Chúa Con và Chúa Thánh Thần ."
"Nhân Danh Đức Giêsu-Kitô
Chúa chúng con, xin hãy sai Thánh Thần Chúa đến trong con, xin đặt để trong con
sự khôn ngoan của Thần Linh Chúa, xin gìn giữ linh hồn và thân xác con, mọi chi
thể và sự sống của thân xác, khỏi mọi sự dữ, khỏi cạm bẫy của ma quỷ và mọi cám
dỗ của tội lỗi ; xin dạy con biết tạ ơn Chúa, lạy Chúa Cha, Chúa Con và Chúa
Thánh Thần"
Những dịp đặc biệt như mùa gặt,
hoặc lúc lên đường đi xa, người kitô-hữu cùng cầu nguyện sốt sắng :
"Lạy Chúa là Thiên Chúa, là
Đấng yêu thương loài người, xin hãy chúc lành cho hoa màu ruộng đất mà Chúa đã
ban cho chúng con, xin chúc lành cho các tôi tớ Chúa tụ họp vì vụ mùa này ; xin
ban ơn cứu độ cho những ai có hoa màu, để họ thực hành bác ái đối với người
nghèo, khi họ đã được Chúa ban cho sung túc ; xin hãy đón nhận lòng tôn sùng
của tất cả chúng con, vì mọi vinh quang đều thuộc về Chúa Cha, Chúa Con và Chúa
Thánh Thần . "
Kinh Nguyện Kitô-giáo những thế
kỷ đầu thường hướng về Thiên Chúa Cha, nhờ sự cầu bầu của Đức Giêsu-Kitô, Con
Thiên Chúa.
Cộng đồng Giáo Hội dùng rất
nhiều tên đặt cho Chúa Cha : Chúa, Chủ, Tạo Hóa, Đấng Toàn năng. Những từ ngữ
này chứng tỏ tâm tình "tôn thờ", vẫn đậm nét trong đời sống
của Giáo Hội. Nhưng khi dùng những Danh xưng trên áp dụng cho Chúa Cha,
ki-tô-hữu không quên mình là con. Họ luôn nương tựa vào sự cầu bầu của Chúa
Kitô. Gắn bó với Chúa Kitô nhắc cho họ những tương quan mới mẻ, đầy ân tình với
Cha trên trời. Trong các kinh nguyện ngoài phụng vụ, tâm tình phụ tử bộc lộ rất
tự nhiên và đậm đà.
Kinh nguyện phổ quát lồng trong
thư của Clément thành Rôma gởi tín hữu Corintô là chứng từ rất quý báu về ngôn
ngữ và cung điệu của các lời nguyện trong những thế kỷ đầu. Những từ ngữ mà
Kinh nguyện này dùng chứng tỏ có một thần học phôi thai về Thiên Chúa bắt đầu
hình thành : Thiên Chúa là Đấng Tối Cao, là Thiên Chúa Thánh Thiện, là Đấng
Tạo Hóa, là Chúa Tể, là Thiên Chúa của mọi xác phàm. Những ai quen thuộc
với Cựu Ước có thể thấy rằng hầu hết các thánh thi trong Cựu Ước đều có âm vang
trong Kinh nguyện này. Dù vậy, Kinh nguyện vẫn là một "bài ca mới
mẻ", vì "Con Thiên Chúa", Đức Giêsu Kitô, "Đấng Thượng tế
vĩ đại" thường xuyên được nhắc tới và luôn luôn gắn liền với Thiên Chúa
Cha.
Ở đây chúng ta trích dẫn một
đoạn làm tiêu biểu :
"Lạy Thiên Chúa, chính Ngài
đã tạo dựng nên trái đất ; Ngài là Đấng trung thành từ đời nọ sang đời kia.
Ngài là Đấng Công Thẳng trong phán quyết. Kỳ diệu thay sức mạnh và sự uy nghi
của Ngài ! Ngài là Đấng Tạo Hóa rất khôn ngoan. Ngài khôn khéo củng cố những
điều Ngài tạo dựng.
Thiên Chúa là Đấng Nhân từ và
Chạnh thương : xin Chúa hãy tha thứ các lỗi lầm và bất công của chúng con. Xin
hãy tha thứ những sa ngã và lầm lạc của chúng con. Xin chớ chấp tội những tôi
tớ nam nữ của Chúa. Nhưng xin thanh tẩy chúng con nhờ chân lý của Ngài và hướng
dẫn bước đường chúng con đi. Xin cho chúng con có tâm hồn thánh thiện và làm
những điều tốt lành và đẹp lòng Chúa.
Lạy Chúa Tể càn khôn, xin chiếu
sáng trên chúng con Dung Nhan của Chúa, xin cho chúng con được hưởng nhờ những
hồng ân của Chúa. Xin che chở chúng con với cánh tay uy hùng của Chúa. Xin giải
thoát chúng con khỏi mọi tội lỗi, cứu chúng con khỏi những người thù ghét chúng
con một cách bất công. Xin ban sự hòa thuận và bình an cho chúng con và mọi
người trên trái đất như Ngài đã ban cho cha ông chúng con, khi họ cầu xin Ngài
một cách thánh thiện trong đức tin và chân lý" (Ad Corinthios, c, 60).
Nếu đặt lời kinh này của thánh
Clément trong bối cảnh lịch sử, chúng ta càng cảm động hơn, khi nhận ra tâm
tình khiêm tốn, tin tưởng và bình an của Giáo chủ thành Rôma và của cả Giáo
Hội, trong một thời kỳ đen tối và gay cấn. Kinh nguyện phản ánh sự vươn lên của
tâm hồn ki-tô-hữu, bất chấp sự đau khổ trần gian. Họ hướng lên Vị Thiên Chúa
cao cả và chí thánh, Nguồi Suối của mọi thực tại. Họ tôn thờ và chiêm ngưỡng sự
vĩ đại cao cả của Thiên Chúa trong công trình tạo dựng và cai trị thế giới. Họ
nhớ tới lòng nhân từ chăm sóc của Thiên Chúa đối với cha ông, và nhất là tiếng
gọi hướng đến những người được tuyển chọn để dẫn đưa từ bóng tối đến ánh sáng,
từ vô tri đến nhận biết Danh Ngài, nhờ Đức Giêsu Kitô, Con yêu dấu của Ngài.
Trong các thư của thánh Ignatiô
thành Antiôkia, không có công thức cầu nguyện nào, nhưng đầy dẫy những ước vọng
thánh thiện của một tâm hồn luôn hướng về Thiên Chúa Cha và Chúa Giêsu Kitô :
"Anh em ngợi khen Đức Giêsu
Kitô nhờ sự hòa thuận và duy nhất trong đức ái. Ước gì mọi người trong anh em
đều bước vào ca đoàn này. Với một giọng hát duy nhất, anh em sẽ ca tụng Thiên
Chúa Cha, nhờ Đức Giêsu Kitô, và Người sẽ nhậm lời anh em" (Ad Ephesios
4,1-2).
"Nhờ đức ái, hãy tụ họp tất
cả thành một ca đoàn, và hãy dâng lên Thiên Chúa Cha một bài ca thánh, trong
Đức Giêsu Kitô" (Ad Romanos 2,2).
Ngôn từ của Ignatiô khác với
ngôn từ của Clément thành Rôma. Ignatiô ít gọi Thiên Chúa Cha là Chủ Tể, là Tạo
Hóa, hay Đấng Toàn Năng, nhưng thích gọi Người bằng Danh xưng là Cha, nhờ Đức
Giêsu Kitô, Con của Người. Tư tưởng và ngôn từ của Ignatiô ít chịu ảnh hưởng
của môi trường Dothái-giáo đương thời.
Thần học của thánh Pôlycarpô tử
đạo rất gần với thần học của Ignatiô. Nhưng đặc biệt, Kinh nguyện vĩ đại và nổi
tiếng mà ông để lại cho Giáo Hội đầy dẫy hoài niệm và âm vang của những lời
kinh phụng vụ :
"Lạy Chúa là Thiên Chúa
Toàn Năng, là Cha của Đức Giêsu Kitô, Con Yêu Dấu và đáng chúc tụng. Chính Đức
Giêsu Kitô đã dạy chúng con nhận biết Cha, là Thiên Chúa các đạo binh thiên
thần, các quyền năng, tất cả các tạo vật và tất cả giống nòi những người công
chính luôn sống trước nhan Cha.
Con xin chúc tụng Cha, vì Cha đã
xét thấy con xứng đáng với ngày này và giờ này, xứng đáng thông phần, cùng với
các tử đạo, chén đắng của Đức Kitô, để được phục sinh hồn và xác trong sự sống
bất hoại của Chúa Thánh Thần.
Ước gì, cùng với họ, con được
Cha thương nhận làm của lễ quý giá và đẹp lòng Cha. Phần số mà Cha chuẩn bị và
cho con thấy trước, hôm nay Cha thực hiện, vì Cha là Thiên Chúa chân thật không
nói dối bao giờ !
Vì hồng ân này và vì mọi thứ
khác, con ngợi khen Cha, con chúc tụng Cha, nhờ Đấng Thượng tế vĩnh cửu trên
trời, là Đức Giêsu Kitô, Con yêu dấu của Cha. Chính nhờ Người mà mọi chúc tụng
và vinh quang đều quy về Cha, cùng với Người và Chúa Thánh Thần muôn đời.
Amen" (Le Martyre de Polycarpe. XIV, 1).
Đây là một chứng từ quý báu
nhất, vì nhiều lý do : là môn đệ của thánh Gioan Tông Đồ, Pôlycarpô truyền lại
cho chúng ta truyền thống các Tông đồ ; là Giám mục, ông dạy chúng ta giáo huấn
của Hội Thánh ; là Tử đạo, ông tuyên xưng một niềm tin sâu xa và cảm động. Đức
tin mà chúng ta gặp thấy trong lời nguyện vắn tắt nhưng trang trọng này là đức
tin công giáo, là đức tin của những người dạy đạo, và là đức tin của các tân
tòng tuyên xưng khi chịu phép Rửa. Nhưng đây không phải là một công thức vô hồn
cần học thuộc lòng một cách máy móc, mà là những lời lẽ sống động nhất của một
tâm hồn tin tưởng và tự hiến mình vì tình yêu.
Pôlycarpô tôn thờ Chúa Cha như
Đấng Tạo Hóa Toàn Năng của thế giới, và là Thiên Chúa của những người được
tuyển chọn, mà sự quan phòng rất cụ thể và cảm nghiệm được. Đức Giêsu Kitô
không tách rời khỏi Chúa Cha, là Con yêu dấu và đáng chúc tụng của Chúa Cha, là
Đấng Mạc khải Chúa Cha, là Thượng tế vĩnh cửu trên trời. Chúa Thánh Thần là
nguyên lý sự sống vĩnh cửu của tâm hồn và thể xác, Người là Thánh Thần ban sự
sống như về sau Giáo Hội vẫn tuyên xưng.
Lời cầu của Dân Chúa thường hướng lên Thiên Chúa
Cha, Nguồi Suối mọi ân sủng. Giáo Hội tôn thờ Chúa Cha, cảm tạ và xin ơn Người,
nhờ Đức Giêsu Kitô là Con yêu dấu của Người.
Đức Kitô thường xuất hiện với vai trò Trung Gian,
nhưng có khi được gọi là Đấng Cứu độ, là Thầy và là Chúa.
Việc tôn thờ Đức Kitô như Thiên
Chúa là một đặc điểm cốt yếu phân biệt Kitô-giáo với Dothái-giáo và các tôn
giáo khác. Sự kiện này cũng được các người ngoài Kitô-giáo nhắc tới.
Trong bản báo cáo cho hoàng đế
Trajan, Pline le Jeune tóm lược bản điều tra của ông về phượng tự Kitô-giáo như
sau :
"Những người Kitô-giáo có
thói quen tụ họp nhau lại vào ngày cố định, trước khi mặt trời mọc. Họ hát ca
đối đáp để tôn vinh Đấng Kitô giống như Thiên Chúa".
Chứng từ của Celse là một chứng
từ gián tiếp, vì mục tiêu của ông là chỉ trích Kitô-giáo. Nhưng chính vì sự ác
cảm và gay gắt của ông, đồng thời với sự sắc bén về phương diện tri thức, mà
chứng từ của ông càng quan trọng hơn. Ông muốn đánh vào điểm trọng tâm nhất của
Kitô-giáo :
"Nếu họ chỉ tôn thờ Thiên
Chúa Duy Nhất, thì họ sẽ có những lý chứng chắc chắn chống lại địch thù của họ
; nhưng họ tôn thờ quá đáng một con người đã sống trong thời gian mới đây, dù
vậy, họ vẫn không nghĩ rằng làm như thế là xúc phạm đến Thiên Chúa, vì là tôn
thờ một trong các tôi tớ của Người.
Nếu ai muốn cho họ hiểu rằng con
người đó không phải là Con Thiên Chúa, và chỉ nên tôn thờ Vị Cha duy nhất của
nhân loại, họ sẽ không đồng ý, trừ phi là phải tôn thờ con người ấy nữa, con
người mà họ coi là Đấng Khởi Xướng cho sự phản kháng của họ. Và họ đã gọi ông
là Con Thiên Chúa, không phải vì họ muốn tôn thờ Thiên Chúa cho xứng đáng,
nhưng vì họ muốn đề cao con người ấy".
Origène trả lời vấn nạn bằng
cách trích dẫn câu Phúc âm của Gioan : "Ta và Cha là một". Ông
lý luận rằng việc tôn thờ Đức Giêsu Kitô, đối với Giáo Hội, không chia cắt sự
tôn thờ Thiên Chúa ra làm hai, nhưng chỉ là một phượng tự duy nhất : tôn thờ
Thiên Chúa Duy Nhất, là Cha, Con và Thánh Thần.
Ngoài sự phi bác của những người
trí thức trong xã hội thời bấy giờ, dân chúng cũng chế diễu người theo đạo Kitô
bằng những lời lẽ bình dân và thô tục. Thế kỷ III của Công nguyên để lại một di
tích lịch sử giúp chúng ta biết được não trạng của dân ngoại thời bấy giờ đối
với Kitô-giáo : một ảnh vẽ trên tường hình dung một nhân vật mình người đầu lừa
bị treo trên thập giá, gần đó có vẽ thêm một người đang phủ phục và có ghi chú
: "Alexamenos tôn thờ Thiên Chúa của hắn".
Tóm lại, dư luận của người ngoại
đạo đối với Kitô-giáo trong những thế kỷ đầu làm nổi bật những điều cốt yếu của
Kitô-giáo nhìn từ bên trong lẫn bên ngoài :
Trước hết, người Kitô-hữu khẳng
định tôn giáo của họ là độc thần chống lại các tôn giáo đa thần. Và đây cũng là
điều khoản đầu tiên mà các giáo phụ hộ giáo cố gắng minh chứng.
Nhưng việc tôn thờ Đấng Kitô
cũng là yếu tố nòng cốt của tôn giáo mới này. Bất chấp những lời phi bác và sỉ
nhục của kẻ thù, không người ki-tô-hữu nào chối bỏ điều đó. Ngoài Đức Kitô,
không một con người nào khác được tôn thờ như Ngài.
Quả thực, ngay từ những thế kỷ
đầu tiên, Giáo Hội tôn thờ Đức Kitô, ngợi khen, tung hô và cầu nguyện với Ngài.
Những chứng từ cổ xưa nhất
thường là những công thức rất ngắn ngủi còn ghi lại trên các di tích lịch sử :
"Bình an của Chúa Kitô ở
cùng anh em"
"Trong bình an của Chúa
Kitô"
"Lạy Đức Kitô, xin hãy cứu
giúp"
"Ước gì anh em được sống
trong Chúa Kitô"
"Chúa Kitô hiển thắng"
Ngoài những công thức ngắn ngủi
trên, Cộng đồng Dân Chúa còn đặt ra những thánh thi có nguồn gốc rất lâu đời.
Ngay trong Tân Ước, đã có sự hiện diện của các thánh thi Kitô, đặc biệt là
trong các thư Phaolô và trong sách Khải huyền (Kh 1,5-6 ; 4,11 ; 15,3-4 ;
19,1-7).
Thói quen dùng thánh vịnh làm
lời ca để chúc tụng Chúa Kitô đã có ngay từ thế kỷ đầu trong Giáo Hội. Thánh
Ignatiô thành Antiôkia làm chứng về điều này trong các thư của ông, và Pline le
Jeune cũng có nói đến.
Khởi đầu là việc sử dụng các
thánh vịnh theo chiều hướng Kitô. Chứng từ của Justinô trong tác phẩm "Đối
thoại với Tryphon" thật là quý báu. Lối giải thích và sử dụng thánh
vịnh của Justinô không phải là của riêng ông, mà là của cả Giáo Hội :
"Hãy cho tôi trích dẫn cả
thánh vịnh 22 để cho ông hiểu được lòng đạo đức của Đức Giêsu đối với Cha của
Ngài. Ngài quy mọi sự về Chúa Cha, xin Chúa Cha cho thoát khỏi cái chết. Ngài
cũng nói đến những kẻ âm mưu chống lại Ngài, và chứng minh rằng Ngài đã làm
người thực, cảm nghiệm được sự đau đớn" (Dialogue avec Tryphon,
98).
Thánh vịnh 99 ca ngợi Giavê
Thiên Chúa là Vua công chính và thánh thiện được đem áp dụng cho Chúa Kitô tiền
hữu (Dialogue avec Tryphon, 64).
Thánh vịnh 45 cũng được dùng để
ca ngợi vẻ đẹp và uy quyền của Đức Kitô (Dialogue avec Tryphon, 38).
Thánh vịnh 24 (đề cập đến việc
đưa lều chứng vào trong Đền thờ) được áp dụng để ca tụng Đức Kitô vinh hiển
(Dialogue avec Tryphon, 36).
Ngoài việc sử dụng gia tài Cựu
Ước để lại, khả năng sáng tạo của Cộng đồng Dân Chúa đặc biệt hướng về Chúa
Kitô, vì niềm tin sâu xa và tình yêu nồng thắm dành cho Ngài. Các thánh thi
thường được hình thành trong các buổi "Agapê" lúc mà hứng thơ của các
ki-tô-hữu dào dạt.
Một số thánh thi mai một và
không có âm hưởng lâu dài, nhưng chắc chắn có những bài thánh thi khác có giá
trị rất cao, mà cũng thất lạc. Di sản để lại rất ít, vừa đủ để làm chứng cho
niềm tin của Giáo Hội những thế kỷ đầu.
Trước hết, Giáo Hội Đông phương
có bài thánh thi "ÁNH SÁNG VUI MỪNG" (Fôs ilaron) rất nổi tiếng, cả
về nội dung lẫn hình thức :
"Hỡi Đức Giêsu Kitô thánh
thiện và đáng chúc phúc,
Ánh sáng vui mừng do vinh quang
chí thánh của Thiên Chúa là Cha bất tử.
Khi chiều xuống và sao hôm xuất
hiện,
Chúng con ca ngợi Chúa Cha, Chúa
Con và Chúa Thánh Thần.
Lạy Con Thiên Chúa là Đấng ban
sự sống,
Ngài xứng đáng được chúc phúc
mọi lúc bằng giọng ca đạo đức.
Chính vì đó mà thế giới tôn vinh
Ngài" (S. Basile, De Spiritu Sancto, 29,33)
"Thánh thi buổi sáng" được
phổ biến trong cả Giáo Hội Latinh lẫn Giáo Hội Hylạp, được đưa vào phần đầu của
phụng vụ Thánh lễ và sửa chữa nhiều lần để cuối cùng mặc lấy hình thức trọn hảo
và uy nghi của bản KINH VINH DANH hiện thời.
Thánh Clément thành Alexandria
có ghi lại một bài thánh thi rất đẹp trong tác phẩm "PROTREPTIQUE" :
"Lạy Chúa Giêsu, xin hãy ca
hát
và hãy nói cho tôi về Thiên Chúa
là Cha của Ngài,
lời nói của Ngài sẽ cứu độ tôi,
bài ca của Ngài sẽ giáo dục tôi,
cho tới hôm nay, tôi lang thang
mò mẫm đi tìm Thiên Chúa.
Nhưng nhờ Ngài dẫn dắt, lạy
Chúa,
nhờ Ngài, tôi tìm thấy Thiên
Chúa.
Từ Ngài, tôi đã đón nhận Chúa
Cha, và trở thành đồng thừa tự,
bởi Ngài đã không tỏ ra xấu hổ
vì đứa em của Ngài" (Propreptique II, 113,4-5).
Những bài thánh ca được để lại
dưới nhan đề là "ODES DE SALOMON" (những đoản ca của Salômon) khám
phá vào đầu thế kỷ XX và được các nhà chuyên môn định vị vào thời gian đầu thế
kỷ II của Công nguyên là những bài ca tuyệt diệu, đầy sức sống thiêng liêng và
thần bí, với những tâm tình đạo đứùc nồng cháy và thanh thoát :
"Ngài yêu tôi,
và tôi đã không thể yêu Ngài,
nếu Ngài đã không yêu tôi trước.
Ai có thể hiểu được tình yêu,
nếu không phải là kẻ đang yêu ?
Tôi đã yêu Ngài, và hồn tôi mến
Ngài.
Nơi Ngài ngự, đó có tôi, tôi
không là người lạ mặt,
không có hận thù bên Chúa Tối
Cao và NhânTừ,
Tôi hòa lẫn với Ngài, như người
yêu gặp được kẻ mình yêu.
Vì yêu Ngài là Con, tôi sẽ trở
thành con.
Ai ở gần Đấng không chết, sẽ trở
thành bất tử.
Và ai thích sự sống sẽ trở nên
hằng sống" (III, 2-12).
Lời lẽ trong các bài ca của
Salômon rất thay đổi, trình diễn nhiều điệu hát khác nhau : lúc thì điệu hát
của tâm hồn ki-tô-hữu, lúc là bài ca của Toàn Thể Giáo Hội, lúc khác là tiếng
nói của Ngôi Lời Thiên Chúa :
"Ta đã gieo vãi hoa trái
của Ta trong các tâm hồn
và Ta đã biến chúng thành của Ta
chúng nhận lãnh phép lành của Ta
và được sống.
Chúng tề tựu quanh Ta và được
cứu độ,
Vì chúng là chi thể của Ta và Ta
là Đầu của chúng.
Vinh Danh Ngài, lạy Chúa Giêsu,
là Đầu của chúng tôi.
Ngôi Lời Thiên Chúa ở với chúng
ta để chỉ đường cho chúng ta.
Đấng Cứu độ giải thoát linh hồn
chúng ta
Ngài đã hạ mình và đã được vinh
thăng.
Con Thiên Chúa Tối Cao đã xuất
hiện trong vinh quang của Chúa Cha"
Cả Giáo Hội đều yêu mến Chúa Kitô và tôn vinh Chúa
Kitô, nhưng đặc biệt hơn cả là các thánh tử đạo đã lấy máu đào làm chứng cho
tình yêu đối với Chúa Kitô. Các lời nguyện họ dâng lên Chúa Kitô đã được viết
bằng máu. Qua các lời nguyện, đôi khi rất đơn sơ và vắn tắt, chúng ta có cảm
tưởng những giọt máu của các tử đạo hòa tan với dòng máu của Chúa Kitô và tưới
gội trên tâm hồn các tín hữu, trên "Thửa vườn của Thiên Chúa".
Lời kinh của họ chứa chan sự sống, đầy tràn Thánh Thần có sức tái tạo không ngừng
đối với Giáo Hội và nhân loại.
Giữa vị tử đạo và Chúa Kitô, có một liên hệ đặc
biệt và mật thiết, vì Đức Kitô là Đấng Tử đạo đầu tiên, là chứng nhân đầu tiên
và đích thực nhất cho Thiên Chúa. Khi một ki-tô-hữu phải chết vì Thiên Chúa và
vì Chúa Kitô, họ cảm nghiệm sự gần gũi thân mật và mới mẻ giữa họ với Chúa
Kitô.
Trong kinh nguyện của các Tử đạo, chúng ta gặp rất
nhiều tâm tình khác nhau, tâm tình của những con người như chúng ta trước vấn
đề tình yêu và sự chết. Các tâm tình ấy được biểu lộ một cách thấm thía, nhưng
bao giờ cũng chan hòa sự an bình và tin tưởng.
Chứng từ của thánh Ignatiô thành Antiôkia, tuy
không phải là một lời nguyện, nhưng là một chứng từ cảm động và quý giá hơn hết
mà Giáo Hội cần phải nhắc đi nhắc lại, mỗi lần nghĩ tới các vị Tử đạo hay nghĩ
đến tình yêu phải có của người ki-tô-hữu đối với Chúa Kitô :
"Đừng tạo vật nào, dù hữu hình hay vô hình,
tìm cách ngăn cản, không cho tôi chiếm hữu Đức Giêsu Kitô ! Lửa thiêu, thập tự,
thú dữ, xé thịt, phanh thây, đập xương, nghiền tán thân thể, tất cả các hình
khổ do ma quỷ dữ tợn bày ra, tôi xin chịu, miễn là tôi có được Đức Giêsu Kitô !
. Tôi tìm kiếm Ngài, là Đấng đã chịu chết vì chúng tôi. Tôi mơ ước Ngài, là
Đấng đã sống lại vì chúng tôi ! Tôi bắt đầu cảm nghiệm những đau đớn của thời thai
nghén ; Hãy buông tha cho tôi, hỡi anh em, đừng ngăn cản tôi sống, đừng muốn
cho tôi chết. Đừng nộp cho thế gian và sự quyến rũ của vật chất kẻ muốn thuộc
về Thiên Chúa. Hãy để cho tôi thấy ánh sáng tinh tuyền, vì nơi đó, tôi sẽ là
người đích thực. Hãy để cho tôi bắt chước cuộc khổ nạn của Chúa tôi. Nếu ai có
trong mình cuộc Khổ nạn của Chúa Kitô, người ấy sẽ hiểu những ước muốn của tôi,
người ấy sẽ thông cảm với sự khắc khoải đang thúc bách tôi" (Ad
Romanos, 5-6).
Tâm tình của Ignatiô phản ảnh tâm tình của hầu hết
các Tử đạo ước ao được bắt chước Chúa Kitô, được chiếm hữu Chúa, chấp nhận chịu
mọi khổ hình vì tình yêu đối với Ngài.
Đức Kitô chịu khổ nạn không chỉ là gương mẫu xa
vời, mà các Tử đạo cố gắng họa lại, nhưng là nguyên lý sự sống bên trong có sức
lôi cuốn tới vinh quang Thiên Chúa, vượt qua khổ hình sự chết.
Một phần lớn kinh nguyện của các Tử đạo hướng về
Chúa Kitô, vì Chúa Kitô là Vị Thiên Chúa gần gũi nhất, và là con người cùng
dòng máu với con người. Chúa Kitô chia sẻ sự đau khổ của họ, yêu thương và dẫn
đưa họ về cùng Thiên Chúa.
Ngoài chứng từ của Ignatiô, còn rất nhiều chứng từ
khác được ghi trong hạnh các thánh Tử đạo. Sau đây là lời nguyện rất cảm động
của vị chân phước Donatien cầu xin cho bạn mình là chân phước Rogatien :
"Lạy Chúa Giêsu Kitô, Ngài lắng nghe tất cả
những ước muốn tốt lành. Chúng con chỉ cần ước muốn là đủ, vì thực hiện không
tùy thuộc chúng con. Chúa đã cho phép chúng con lựa chọn, nhưng dành riêng cho
Chúa việc thi hành. Đối với Rogatien, ước gì đức tin tinh tuyền thay thế phép
Rửa bằng nước. Nếu ngày mai đây, theo lệnh quan, chúng con phải chết, xin cho
máu đổ ra trở nên Bí tích và biến thành Dầu xức cho bạn con".
Cũng có những lời nguyện cảm tạ Đức Giêsu Kitô đã
đoái thương cho được biết Ngài và được tham gia cuộc Khổ Nạn và Phục Sinh của
Ngài ; hoặc là những lời van xin khẩn thiết sự phù giúp của Ngài :
"Lạy Chúa Giêsu Kitô, chúng con cảm tạ Ngài
không bao giờ đủ, vì Ngài đã lôi kéo chúng con, những kẻ tội lỗi và bất xứng,
ra khỏi sự lầm lạc của ngoại giáo, đã dẫn đưa chúng con, vì Danh Ngài, đến cuộc
Khổ nạn vĩ đại và cao vời này, và cho chúng con tham gia vinh quang của các
thánh. Chúc tụng và ngợi khen Ngài. Trong tay Ngài, chúng con phó thác linh hồn
chúng con" (Lucien et Marcien, 205).
"Lạy Đức Kitô, con cảm tạ Ngài : xin hãy gìn
giữ con, con chịu khổ vì Ngài. Con thờ lạy Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh
Thần. Con thờ lạy Ba Ngôi cực thánh. Ngoài Ba Ngôi, không có Thiên Chúa nào
khác. Lạy Đức Kitô, con cảm tạ Ngài, xin đến cứu giúp con, lạy Chúa Kitô ! Con
chịu khổ vì Ngài, lạy Đức Kitô !" (Euplus, 304).
Sự gắn bó với Chúa Kitô không tách rời tâm hồn các
Tử đạo ra khỏi tương quan với Thiên Chúa như một số người nghĩ. Ai có Chúa Kitô
trong mình, thì sẽ nghe tiếng nói của Thánh Thần thúc giục mau đến cùng Chúa
Cha. Và ai chịu đau khổ vì Chúa Kitô, sẽ được tham gia hạnh phúc vĩnh cửu của
Thiên Chúa Hằng Sống. Đó là niềm tin của các thánh Tử đạo và là niềm tin của cả
Giáo Hội. Niềm tin vào sự duy nhất giữa Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần,
trước khi trở thành công thức tín điều, đã tiềm tàng, nhưng không kém rõ ràng
và chắc chắn trong tâm hồn các tín hữu, mà tử đạo là một dịp tuyên xưng.
Có những chứng từ rất chắc chắn do lịch sử để lại,
như trường hợp lời thẩm vấn thánh Pionius và các bạn tử đạo :
"Polémon hỏi Pionius : Anh tôn thờ Thiên
Chúa nào ?
Pionius trả lời : Thiên Chúa Toàn Năng, Đấng tạo
dựng trời đất và tất cả chúng ta, Đấng ban cho chúng ta mọi sự sung túc, Đấng
mà chúng tôi biết được nhờ Ngôi Lời của Ngài là Đức Kitô.
Polémon
nói : Hãy tế lễ tôn thờ cả hoàng đế nữa !
Pionius
trả lời : Tôi không tế lễ tôn thờ một con người, vì tôi là ki-tô-hữu.
Polémon
hỏi Sabine : Nàng tôn thờ ai ?
Sabine
trả lời : Thiên Chúa Toàn Năng.
Polémon
hỏi Asclépiade : Anh thờ ai ?
Asclépiade
trả lời : Đức Giêsu Kitô.
Polémon nói
: Ông ấy là một Thiên Chúa khác à ?
Asclépiade
đáp : Không ! Ngài là một với Đấng mà những người này đã tuyên xưng"
(Actes de Pionius, 8-9 ; 250).
Trong Giáo Hội những thế kỷ đầu, các thánh Tử đạo
không chỉ là những giới ưu tú, nhưng thuộc mọi thành phần, và ở khắp mọi nơi
trong đế quốc Lamã, vì thế chứng từ của họ vô cùng quý báu. Chứng từ ấy không
chỉ là niềm tin được ghi thành chữ viết, nhưng là niềm tin sống động của cả
Cộng đồng Dân Chúa. Sự bắt bớ không phải chỉ đe dọa ở một nơi, đối với một giới
cố định, nhưng đe dọa toàn thể Giáo Hội và sự sống thường nhật của mọi người
ki-tô-hữu. Theo Origène mô tả, đời sống của Giáo Hội lúc ban đầu đầy những nét
hào hùng, hăng say và tin tưởng trong một bầu không khí duy nhất bao trùm tất
cả các sinh hoạt, dù là sinh hoạt phụng vụ, sinh hoạt huấn giáo, hay các sinh
hoạt tương trợ :
"Lúc bấy giờ, ki-tô-hữu quả thực là tín đồ, vì
vừa sinh ra trong Giáo Hội, họ đã bắt đầu tuẫn giáo. Khi đưa xác các tử đạo từ
nghĩa địa trở về, chúng tôi gia nhập các cộng đồng tế lễ, và toàn thể Giáo Hội
đứng đó, thực là kiên vững. Các dự tòng được dạy dỗ trong lúc tử đạo, lúc các
ki-tô-hữu chịu chết để tuyên xưng chân lý đến giọt máu cuối cùng. Họ vững vàng
lướt thắng các thử thách, gắn bó với Thiên Chúa và không sợ hãi. Chính lúc bấy
giờ, chúng tôi ý thức rằng mình đang chứng kiến những điềm thiêng dấu lạ. Chính
lúc bấy giờ, các tín hữu, dù là thiểu số vẫn trung thành tiến tới, theo con
đường hẹp, và gai góc đưa đến sự sống" (PG. XIII, 288-289).
Thánh Thần là Hồng ân của Thiên Chúa. Đời sống kinh
nguyện phản ánh khía cạnh này nhiều hơn hết. Trong những thế kỷ đầu, chỉ có một
số lời nguyện rất ít, trong đó Chúa Thánh Thần được kêu cầu như Chúa Con và
Chúa Cha :
"Chúng ta phải cầu nguyện với Chúa chúng ta,
là Chúa Thánh Thần, xin Ngài đoái thương cất đi mọi áng mây và bóng tối che
khuất cái nhìn của con tim chúng ta và các vết nhơ tội lỗi, để chúng ta có thể
thấu hiểu lề luật của Ngài bằng trí tuệ thiêng liêng và kỳ diệu" (In Lev.
Hom. 1,1 ; 12,406).
Nhưng thường xuyên hơn, người ki-tô-hữu cầu xin
Chúa Cha ban cho họ Ơn Thánh Thần. Origène mô tả đời sống ki-tô-hữu như một lễ
Hiện xuống liên tục. Vào thế kỷ II, lời cầu xin ơn Thánh Thần được đưa vào kinh
Lạy Cha. Thay vì câu "Nước Cha trị đến", một số nơi trong Giáo
Hội thế vào bằng câu "Xin cho Thánh Thần của Ngài đến trong chúng con
và thanh tẩy chúng con".
Thánh Thần xuất hiện nhiều hơn trong các lời kinh
phụng vụ, và đặc biệt là trong các Kinh nguyện Thánh Thể. Sự cầu nguyện hướng
tới Chúa Thánh Thần chỉ trở thành thông dụng sau này, khi có những người chối
bỏ thiên tính của Người.
Mãi tới thời Trung cổ mới có những bài ca kính Chúa
Thánh Thần.
Tất cả các chân lý thuộc mầu
nhiệm Chúa Kitô và mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi đều đã được mạc khải trong Kinh
Thánh Tân Ước. Nhưng Tân Ước không phải là một hệ thống các tín điều, mà chỉ là
"Nguồn đầu tiên và quan trọng nhất" của Đức tin Công giáo.
Trên bình diện lịch sử tư tưởng,
thời gian hình thành Tân Ước chưa phải là thời gian va chạm mạnh. Sự xung đột
dần dần xuất hiện, khi Kitô-giáo bắt đầu lan rộng và Nhập Thể vào nền văn hóa
La - Hy.
Nhờ các va chạm, Giáo Hội bắt
đầu minh định rõ ràng hơn nội dung đức tin : không thêm gì vào nguồn mạc khải,
nhưng giải thích đúng đắn nguồn mạc khải. Trong việc minh định này, Giáo Hội
dựa trên Thánh Truyền sống động, luôn là một, nhưng luôn mới mẻ.
Là một, vì những điều chính yếu
đã có từ lúc ban đầu, vẫn được trung thành lưu truyền từ đời nọ sang đời kia
với sự trợ giúp của Chúa Thánh Thần.
Luôn mới mẻ, vì Giáo Hội chạm
trán không ngừng với các lý thuyết khác nhau, đòi hỏi phải làm nổi bật và đào
sâu hơn các khía cạnh của nội dung đức tin.
Các lạc giáo xuất hiện trong bối
cảnh một nền văn hóa hỗn tạp, pha trộn nhiều lý thuyết khác nhau về vũ trụ và
nhân sinh, gồm nhiều tập tục tôn giáo phát xuất từ nhiều nơi khác nhau. Lối
sống thực tế cũng không đơn giản và an bình như thường nghĩ, nhưng còn nhiều
mặt hỗn độn, nhiều vấn đề sôi động hoặc âm ỉ trên bình diện xã hội và chính
trị.
Khi nói tới Đế quốc Lamã trong
những thế kỷ đầu, có người nghĩ ngay đến một cách đánh giá cổ điển và nổi danh
: "Lamã chiến thắng về quân sự, Hylạp chiến thắng về văn hóa". Nhận
định này có phần đúng, vì các tư tưởng chủ yếu trong nền văn hóa La - Hy thời
bấy giờ hầu hết phát xuất từ môi trường Hylạp. Dù vậy, không thể bỏ quên sự góp
mặt của Dothái-giáo và các tôn giáo huyền bí Đông phương. Ngoài ra còn có một
kho tàng kinh nghiệm của dân Rôma về quân sự và luật pháp, về tổ chức và hành
chính.
Việc hiểu biết thế giới La - Hy
và thế giới Đông phương cổ càng ngày càng rộng rãi và đích xác hơn. Và nhờ biết
rõ môi trường, người ta hiểu đúng đắn hơn lịch sử tư tưởng Kitô-giáo.
Năm thế kỷ đầu của Công nguyên
là thời kỳ rất quan trọng của Giáo Hội về mặt tổ chức cũng như tư tưởng. Trong
thời gian này, Giáo Hội trải qua những tranh luận lớn nhất, nhờ đó đã lần lượt
xác định nội dung đức tin và đưa ra những định thức tín điều cơ bản của giáo lý
Công giáo.
Đây cũng là thời gian Giáo Hội
có nhiều Giáo phụ nổi danh và vĩ đại, và là thời kỳ các Đại công đồng quan
trọng hơn hết trong lịch sử đức tin Công giáo.
Chúng ta chỉ đề cập đến các lạc
thuyết và tranh luận liên hệ tới mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi. Các vấn đề tranh
luận và các cố gắng giải quyết sẽ giúp chúng ta hiểu rõ hơn ý nghĩa của các
chân lý đức tin.
Trên bình diện lịch sử tư tưởng
thần học, Ngộ đạo thuyết là lạc thuyết đầu tiên và quan trọng nhất mà Giáo Hội
phải đương đầu ngay từ thời các Tông đồ, đặc biệt là trong thời kỳ kế tiếp, vào
khoảng thế kỷ II ; đặc điểm của lạc thuyết này là "pha trộn"
Kitô-giáo với một số ý tưởng ngoại lai phát xuất từ thế giới Hylạp và Đông
phương. Ngộ đạo thuyết không phải là một lý thuyết duy nhất, rõ ràng, có thể
tìm hiểu và trình bày dễ dàng, nhưng là một phong trào mạo nhận có sứ mạng
truyền lại "bí mật cứu rỗi" do chính Chúa Giêsu và các Tông đồ
"mạc khải".
Tuy bề ngoài có nhiều điểm
Kitô-giáo, rút ra từ Kitô-giáo, các lý thuyết Ngộ đạo có bản chất rất khác
biệt, cả trên bình diện hình thức lẫn nội dung.
Các phái Ngộ đạo chủ trương rằng
đức tin của các tín hữu tầm thường chưa phải là điều kiện đủ để được cứu độ.
Phải bổ túc bằng một loại tri thức làm cho người có đạo trở thành "giác
ngộ", "thiêng liêng" hay "thần linh".
Trên bình diện nội dung giáo lý,
Ngộ đạo thuyết chạm vào cốt tủy của Kitô-giáo, vấn đề tình yêu của Thiên Chúa
đối với nhân loại và thế giới. Kitô-giáo bị đả thương ở một điểm tế nhị và khúc
mắc nhất, cũng là vấn đề muôn thuở của con người : quyền lực sự dữ thống trị muôn
loài. "Đức Giêsu có chiến thắng sự dữ không ? Có thể tin vào Đức Giêsu,
Con Thiên Chúa, đồng thời chấp nhận thực tại sự dữ ở bên trong và bên ngoài
chúng ta không ?"
Với những khám phá mới mẻ của
các khoa khảo cổ và sử học, Ngộ đạo thuyết không còn được coi như một học
thuyết kỳ quái đầy những tư tưởng phi lý. Các nhà phân tâm học, khoa học huyền
bí, hiện tượng luận, các tiểu thuyết gia hiện sinh, các nhà văn siêu thực. muốn
đưa con người ngày nay trở lại với tiềm thức, khám phá lại những hình ảnh hoặc
biểu tượng thường xuất hiện trong đời sống tiềm thức.
Với đà tiến của khoa lịch sử tôn
giáo, lãnh vực của Ngộ đạo thuyết càng ngày càng rộng rãi hơn : các học giả
ngày nay đều coi "Ngộ đạo" như một hiện tượng phổ quát mà các tôn
giáo lớn đều có, trải qua các thời đại.
Các nhà chú giải, sử gia và
triết gia, mỗi ngày thêm quan tâm đến các lý thuyết Ngộ đạo vì nhận thấy có
"quan hệ bà con" giữa các chủ đề tư tưởng Ngộ đạo và các chủ đề tư
tưởng hiện đại.
Quả thực, nếu đi sâu vào tâm
thức của con người hiện đại, sẽ thấy rằng vấn đề gay cấn nhất hiện nay vẫn là
vấn đề sự dữ. Thái độ hữu thần hoặc vô thần không đương nhiên giải quyết hay
xóa bỏ vấn đề sự dữ.
Con người nghĩ không thể xóa bỏ,
nhưng chỉ có thể lướt thắng sự dữ. Và kinh nghiệm cho thấy "chiến thắng
sự dữ" không phải là một chuyện đơn giản. Người vô thần có những khó
khăn của họ trước vấn đề sự dữ, nhưng người hữu thần cũng có những khó khăn
riêng.
Đối với người hữu thần, vấn đề
là làm thế nào dung hòa Thiên Chúa Tình yêu với các điều dữ xảy ra đè nặng trên
con người ? Sự dữ bởi đâu ? Do ai ? Để bảo vệ niềm tin vào Thiên Chúa Tình yêu,
phải chăng nên gạt bỏ mọi trách nhiệm của Người ? Thiên Chúa ở "bên
kia" sự dữ, muốn tin Thiên Chúa, không nên để Người dây mình vào thế giới
sự dữ.
Có thể lý luận cách khác : dù
toàn năng và tốt lành, Thiên Chúa vẫn không thể ngăn cản sự dữ xảy ra. Con
người phải chấp nhận có một yếu tố tất định ngoài tầm tay của Thiên Chúa ; sự
toàn năng của Thiên Chúa có giới hạn.
Lập luận trên sẽ đưa tới hậu quả
là chấp nhận có hai nguyên lý hữu thể : nguyên lý sự thiện và nguyên lý sự dữ.
Thiên Chúa tốt lành là Nguồn Suối Sự Thiện. Nhưng ngoài Người ra, còn có nguyên
lý sự dữ. Vì sự dữ thống trị trong thế giới tạo vật, phải kết luận rằng thế
giới này không do Thiên Chúa tốt lành, nhưng do một Đấng Tạo hóa khác với
Người.
Đứng trước mâu thuẫn hiển nhiên
là có hai nguyên lý tuyệt đối, có người muốn giảm bớt cường độ mâu thuẫn và đặt
nguyên nhân sự dữ bên dưới nguyên lý sự thiện : sự dữ do một vị thần sa đọa từ
thiên giới.
Nói một cách thông thái và hợp
lý hơn, sự dữ gắn liền với tiến trình tạo dựng. Nó là một thực tại tất yếu đi
đôi với tạo dựng, là hậu quả gián tiếp, không thể tránh được của hành vi tạo
dựng. Với giả thuyết này, sự dữ không còn là cớ vấp phạm : Thiên Chúa và con
người đều không phải là nguyên nhân.
Nguồn gốc đầu tiên của con người
là Thiên Chúa tốt lành, sự dữ không thuộc về con người và bản chất con người là
trong trắng. Quãng cách giữa con người và Thiên Chúa không phải là tội lỗi,
nhưng là các tạo vật hữu hình. Để được kết hợp với Thiên Chúa, con người chỉ
cần nhớ lại đời sống vĩnh cửu của mình. Ơn cứu độ không ở ngoài con người hoặc
do ai khác đưa tới, nhưng ở bên trong. Không cần hy vọng và tin tưởng, mà chỉ
cần hiểu biết và giác ngộ.
Như đã phân tích, các lý thuyết
Ngộ đạo không hoàn toàn phi lý. Chấp nhận tính tất yếu của sự dữ là một cách
giải thoát không đòi hỏi phấn đấu. Ý thức giác ngộ đưa con người xa rời thế
giới sự dữ và trở về hạnh phúc nguyên thủy trong "cõi viên mãn thần
linh".
"Ngộ đạo" không
phải là lý thuyết nhất thời chóng qua, nhưng là một não trạng, một cách thức
suy nghĩ xuất hiện nhiều lần trong lịch sử tư tưởng, dưới nhiều hình thái khác
nhau, từ sắc thái kỳ bí trong những thế kỷ đầu của Công nguyên, đến hình thức
suy lý chặt chẽ như các hệ thống triết học của Spinoza và Hégel, và sau cùng là
các thứ triết học hiện sinh.
Vì Thiên Chúa siêu việt ở xa,
con người không ngạc nhiên khi nhìn thấy sự dữ thi nhau xuất hiện, đau khổ và
tranh chấp tiếp tục lan tràn.
Nếu không là vô thần, cũng không
phải là hữu thần theo nghĩa Kitô-giáo (chấp nhận rằng Thiên Chúa cho phép sự dữ
xảy ra vì tự do của con người), thì không còn thái độ nào hợp lý và hấp dẫn đối
với trí tuệ hơn là chủ trương "Ngộ đạo".
Khi công nhận có một số chủ đề
tư tưởng hiện đại rất gần với các lý thuyết Ngộ đạo, chúng ta sẽ hiểu Ngộ đạo
thuyết không phải là một sai lạc tầm thường, mà là một thái độ cơ bản của tinh
thần con người trước vấn đề ý nghĩa cuộc sống, là một lập trường cạnh tranh và
đương đầu với Kitô-giáo. Jean Guitton gọi thái độ hay lập trường này là "Khuynh
hướng phân ly" : tinh thần con người không chấp nhận được sự pha trộn
giữa cỏ lùng và lúa miến, nhưng khao khát chiếm hữu "thực tại tinh
tuyền", vội vã đi tìm và muốn có ngay.
Nếu đưa vào Kitô-giáo, não trạng
này có khuynh hướng chối bỏ yếu tố lịch sử và thời gian, tách rời Đức Kitô vĩnh
cửu và hằng sống ra khỏi con người Giêsu thành Nazarét, và vì thế hủy hoại tận
gốc rễ mầu nhiệm Nhập Thể.
1-Dẫn nhập
Một trong các Giáo phụ được công đồng Vatican II
trích dẫn nhiều nhất là Irênê thành Lyon. Lý do quan trọng hơn cả là tính cách
vừa hiện đại, vừa chính thống của tư tưởng thần học của ông.
Ai hiểu biết chút ít về Irênê, đều nhận rằng những
điều ông nói, nhiều người đã nói trước ông, như Justinô tử đạo, Thêôphilô thành
Antiôkia v.v... Ông chưa xây dựng được một hệ thống thần học chặt chẽ như các
Giáo phụ Đông phương và Tây phương sau này. Nhưng tư tưởng thần học của ông đã
có một tầm quan trọng rất lớn, có ảnh hưởng và sức hấp dẫn phi thường.
Trường hợp của ông là một trường hợp đặc biệt làm
cho các nhà thần học hiện đại suy nghĩ : tư tưởng mới mẻ nhất sinh ra từ lập
trường chính thống nhất. Nhìn vào con người của Irênê và thần học của ông, ai
cũng thấy được tầm quan trọng của "Đức tin chân truyền" : nếu có đức
tin chân truyền sẽ có Thánh Thần luôn đổi mới mọi sự.
Trường hợp của Irênê còn gián tiếp làm nổi bật tầm
quan trọng của các lạc giáo : đối diện và đương đầu với với những sai lầm lớn,
chân lý dần dần được sáng tỏ. Gặp kỳ phùng địch thủ, Dân Chúa có dịp triển khai
các ngón võ. Càng đối phó với các lạc giáo nguy hiểm, Giáo Hội càng biểu lộ sức
sống kỳ diệu và phong phú.
Cũng có người nghĩ ngược lại : càng sử dụng bút
chiến, Giáo Hội càng làm mất đi những yếu tố chân lý. Nhưng không thể áp dụng
lập luận này cho Irênê, vì ông đã không bỏ mất một yếu tố chân lý nào ông gặp
được. Ông vừa là hiệp sĩ đức tin, vừa là sứ giả hòa bình. Sử gia Eusebius,
trong tác phẩm "LỊCH SỬ GIÁO HỘI", đã gọi ông là "con người
thiết lập hòa bình" đúng với cái tên của ông.
Hai tác phẩm chính của ông là "Adversus
Haereses" phi bác các lý thuyết ngộ đạo, và "Demonstratio
Praedicationis Apostolicae" trình bày và minh chứng vắn tắt nội dung
đức tin Công giáo.
Irênê là thần học gia đầu tiên nêu gương về hướng
đi phải có của thần học : không lý luận dài dòng, không tưởng tượng viễn vông,
nhưng dựa trên nền tảng vững chắc là Lời Chúa. Chỉ có Lời Kinh Thánh là mạc
khải chân thật và chắc chắn (sola illa vera et firma). Dựa trên mạc khải chân
chính sẽ có đức tin chân chính và vững chắc. Nhờ đức tin chân chính, sẽ có tri
thức đúng đắn và đích thực về Thiên Chúa (firma et vera de Deo scientia).
Ông không chấp nhận một lý thuyết nào khác về Thiên
Chúa ngoài nội dung của Mạc khải lịch sử : chỉ có thể đến với Thiên Chúa trên
con đường Người đã đến với chúng ta. Không có gì làm sỉ nhục Thiên Chúa bằng
khinh dể Mạc khải của Người, để đi tìm một Thiên Chúa "ẩn giấu" theo
ý riêng. Người đã tự biểu lộ cho chúng ta thế nào, phải tin tưởng tôn thờ Người
như vậy.
Nhờ tựa trên Mạc khải và Lịch sử Cứu độ, thần học
của Irênê rất sinh động và mới mẻ ; ông nhìn ngắm Thiên Chúa qua các hành vi
của Người : tạo dựng, Mạc khải và cứu độ. Tìm hiểu thần học của ông theo con
đường này là cách thức nghiên cứu đúng đắn nhất.
Theo sát Lịch sử Cứu độ là tôn trọng diễn tiến Mạc
khải từ Tạo dựng đến Cứu độ. Phải tin rằng chỉ có một Thiên Chúa Duy Nhất được
mạc khải trong Cựu Ước cũng như Tân Ướùc (khác với chủ trương của Marcion), là
Đấng Tạo hóa và là Đấng Cứu độ trong Đức Giêsu Kitô.
Chỉ có thể hiểu thần học về mầu
nhiệm Thiên Chúa của Irênê, nếu đặt nó trong bối cảnh tranh luận với các lý
thuyết ngộ đạo. Những ý tưởng ông đưa ra, vừa có mục tiêu bài bác lý thuyết,
vừa có mục đích giới thiệu mầu nhiệm. Hay nói cho đúng hơn, ông giới thiệu nội
dung đức tin chân truyền để chống lại lạc giáo.
Khởi sự từ công trình Tạo dựng
của Thiên Chúa, lập trường của ông hoàn toàn chống lại lập trường của các lý
thuyết ngộ đạo. Ông không chấp nhận chủ trương nhị nguyên, và cố gắng minh
chứng chỉ có một Thiên Chúa Duy Nhất tạo thành mọi sự nhờ Ngôi Lời :
"Chúng tôi nắm giữ quy luật
chân lý : chỉ có một Thiên Chúa Toàn Năng, đã dựng nên mọi sự từ hư vô nhờ Ngôi
Lời của Người. Chúa Cha đã làm ra tất cả mọi sự nhờ Ngài, chứ không phải nhờ
các thiên thần hay các quyền năng. Thiên Chúa của vũ trụ không cần gì hết nhưng
đã tạo dựng tất cả, cai quản mọi loài và làm cho muôn vật hiện hữu, nhờ Ngôi
Lời và Thánh Thần của Người" (Adversus Haereses I, 22,1).
Irênê loại bỏ các trung gian
giữa Thiên Chúa và loài người để chống lại những kẻ chủ trương có một thế giới
thần linh gồm nhiều cấp bậc thần thánh. Theo ông, họ làm như vậy, dường như để
giảm bớt quãng cách giữa Thiên Chúa và loài người, tưởng rằng có thể tôn trọng
sự siêu việt của Thiên Chúa, đồng thời cho thấy nguồn gốc cao cả, siêu việt của
con người :
"Không phải các thiên thần
đã dựng nên loài người, vì thiên thần không thể tạo nên hình ảnh Thiên Chúa.
Không ai làm được điều đó, ngoại trừ Ngôi Lời Thiên Chúa ; Ngài không là một
quyền năng tách rời khỏi Thiên Chúa là Cha của vũ trụ. Thiên Chúa không cần các
thiên thần để thi hành điều Người đã quyết định, như thể Ngài không có tay.
Ngài luôn có bên mình Ngôi Lời và Minh Trí, Chúa Con và Thánh Thần, nhờ đó Ngài
đã tự ý dựng nên mọi sự. Ngài đã phán với các vị : Chúng Ta hãy dựng nên con
người theo hình ảnh và giống với Chúng Ta" (Adversus
Haereses IV, 20,1)
Để nhấn mạnh tính duy nhất của
Thiên Chúa Tạo Dựng, Irênê gọi Ngôi Lời và Thánh Thần là "Bàn
tay của Thiên Chúa". Cách nói này nhắc lại hình ảnh của Kinh Thánh Cựu
Ước : "Tay Người đã nặn và tạo nên tôi" (Yb 10,8 ; Tv 119,73).
Irênê rất thích thành ngữ này, vì nó diễn tả liên hệ mật thiết giữa Thiên Chúa
với Ngôi Lời và Minh Trí của Người. Nhưng thành ngữ có màu sắc vô chủ vị, vì
thế ông thường trích thêm câu Kinh Thánh thuộc chương đầu Sáng thế sử : "Chúng
Ta hãy dựng nên con người theo hình ảnh và giống với Chúng Ta", được
giải thích theo chiều hướng "Ba Ngôi Vị".
Thiên Chúa Tạo Dựng là Thiên
Chúa Duy Nhất Ba Ngôi, sáng kiến là của Thiên Chúa Cha, Nguồn Suối của mọi hữu
thể, Chúa Con thi hành sáng kiến ấy và Chúa Thánh Thần hoàn tất.
Để tránh sự hiểu lầm Chúa Con và
Thánh Thần là những "thừa tác viên phụ thuộc", Irênê khẳng định :
Chúa Cha dựng nên mọi sự nhờ chính mình Người, nghĩa là nhờ Lời và Minh Trí.
Thiên Chúa không cần thừa tác viên, vì người có trong mình "tác vụ
phong phú và khôn tả" (copiosum et innerrabile ministerium).
Cơ cấu Ba Ngôi không những được
biểu lộ trong hành vi tạo dựng, mà cả trong mọi công trình khác của Thiên Chúa
:
"Thiên Chúa Cha luôn luôn
là Đấng sáng kiến và ra lệnh, Chúa Con thi hành và Thánh Thần hoàn tất, nhờ đó
con người được sinh ra, lớn lên, và dần dần trở nên hoàn hảo". (Adversus
Haereses IV, 38,3)
Vai trò mạc khải của Ngôi Lời Thiên Chúa là một
trong những nét nổi bật trong thần học của Irênê : Đức Kitô là vinh quang của
Thiên Chúa Cha, là hình ảnh, là dấu in bản thể Thiên Chúa. Ai thấy Chúa Con là
thấy Chúa Cha :
"Không ai có thể biết Chúa Cha, nếu Ngôi Lời,
nghĩa là Chúa Con, không mạc khải cho. Và không ai biết Chúa Con nếu Chúa Cha
không muốn cho biết. Và ý muốn ấy của Chúa Cha, Chúa Con thi hành. Chúa Cha sai
đi, Chúa Con được sai và đến thế gian. Chúa Cha vô hình và khôn dò, nhưng Ngôi
Lời biết Ngài. Chúa Cha khôn tả, nhưng Lời Ngài thuật lại cho chúng ta. Đàng
khác, chỉ có Chúa Cha biết Ngôi Lời của Ngài . Ấy vậy Chúa Con mạc khải Chúa
Cha bằng cách mạc khải chính mình. Và Chúa Cha đã mạc khải Chúa Con, để nhờ
Chúa Con mà Ngài được biểu lộ. Thiên Chúa Cha đã tự mạc khải cho mọi người, vì
Ngài đã làm cho Ngôi Lời trở nên hữu hình đối với mọi người. Nhờ tỏ hiện với
mọi người, Ngôi Lời chỉ cho mọi người Chúa Cha và Chúa Con. Thiên Chúa phán xét
mọi người, vì mọi người đều thấy, nhưng không phải mọi người đều tin" (Adversus
Haereses IV, 6,3-5).
Biến cố Nhập Thể là mạc khải trọn vẹn, nhưng không
là mạc khải duy nhất : từ nguyên thủy, Chúa Con đã mạc khải Chúa Cha trong công
trình tạo dựng ; Chúa Con còn mạc khải Chúa Cha qua lề luật và tiên tri ; sau
cùng và đặc biệt hơn hết bằng chính bản thân mình.
Trong việc mạc khải, có thể phân biệt các vai trò
khác nhau của Chúa Cha và Chúa Con : Chúa Cha mạc khải Chúa Con bằng chính ý
muốn của mình, nghĩa là bằng cách sai Chúa Con, làm cho Chúa Con trở thành hữu
hình và sờ mó được. Còn Chúa Con mạc khải Chúa Cha, bằng cách tự biểu lộ chính
mình và trở nên thầy dạy chúng ta. Chúa Con là chứng nhân trung thành nói cho
chúng ta điều Ngài biết, là Vị Thầy Duy nhất dạy dỗ chúng ta (Adversus Haereses
IV, 6).
Không những lập luận xuôi chiều, thánh Irênê còn đi
ngược chiều để đột nhập vào cõi đời đời :
"Không những trước Ađam, mà ngay cả trước mọi
công trình tạo dựng, Ngôi Lời vẫn làm vinh danh Chúa Cha, Người ở trong Chúa
Cha và được Chúa Cha tôn vinh.
Ngôi Lời đồng hiện hữu với Chúa Cha từ muôn thuở và
mãi mãi. Từ nguyên thủy, Ngài đã mạc khải Chúa Cha cho các tổng lãnh thiên
thần, các quyền thần và quản thần, và cho tất cả những ai Chúa Cha muốn" (Adversus
Haereses IV, 6).
Nhưng đặc biệt hơn cả là mạc khải Chúa Cha cho loài
người :
"Ngài chỉ Thiên Chúa cho loài người, và giới
thiệu con người với Thiên Chúa ; Ngài bảo toàn sự vô hình của Chúa Cha, để con
người khỏi coi thường Thiên Chúa và luôn luôn cố gắng đến gần Thiên Chúa. Nhưng
đàng khác, Ngài làm cho loài người nhìn thấy Thiên Chúa bằng nhiều cách, để con
người khỏi xa rời Thiên Chúa và đánh mất sự sống. Vì chưng, vinh quang của
Thiên Chúa là con người sống động ; và sự sống của con người là nhìn thấy Thiên
Chúa" (Adversus Haereses IV, 20,7).
Để chống lại Marcion và bênh vực sự liên tục giữa
Cựu và Tân Ước, Irênê giải thích tất cả các cuộc "thần hiển trong Cựu
Ước" theo chiều hướng Ngôi Lời mạc khải : từ ban đầu, Ngôi Lời đã đến cứu
chữa nhân loại. Mọi cuộc thần hiển đều chuẩn bị và hướng tới "Nhập
Thể".
Cũng như một số Giáo phụ khác, các lời giải thích
của Irênê có khi rất đơn sơ và gượng ép. Nhưng hướng suy tư thần học của ông
rất đúng : Mạc khải hướng tới Nhập Thể, Thiên Chúa đến gần con người để cuối
cùng ở với con người (Emmanuel). Nhập Thể là chóp đỉnh của Mạc khải : Cựu Ước
chỉ là hình bóng, Tân Ước mới là thực tại ; Cựu Ước là lời hứa, Tân Ước là hoàn
tất. Mầu nhiệm Chúa Kitô là trọng tâm của lịch sử cứu độ.
Nhưng so với sự sống vĩnh cửu mà Thiên Chúa dành để
cho nhân loại, biến cố Nhập Thể chỉ đóng vai trò chuẩn bị : tập cho con người
đón nhận Thiên Chúa, để Thiên Chúa cư ngụ trong con người.
Đối với nhân loại, sự hiện diện hữu hình của Ngôi
Lời giống như việc nuôi dưỡng con trẻ bằng sữa, chuẩn bị cho chúng dùng thức ăn
đặc của người trưởng thành.
Thánh Thần cũng đóng vai trò mạc khải, Ngài mạc
khải Chúa Con, như Chúa Con mạc khải Chúa Cha. Toàn bộ Kinh Thánh đều nói về
Ngôi Lời Thiên Chúa, vì thế Đấng Linh Hứng để Kinh Thánh được viết ra, là Đấng
mạc khải Ngôi Lời. Đối tượng chính yếu của các lời Ngôn sứ là Đức Kitô, Con
Thiên Chúa. Vậy đối tượng chủ yếu của mạc khải do Chúa Thánh Thần là Chúa Kitô
:
"Thánh Thần bày tỏ Ngôi Lời ; chính vì thế,
các Ngôn sứ báo trước Con Thiên Chúa ; Đấng giải thích lời Ngôn sứ, chính là
Thánh Thần ; Ngài dẫn dắt và nâng con người lên cùng Thiên Chúa" (Demonstratio.
5).
"Không có Thánh Thần, không ai có thể nhìn
thấy Ngôi Lời Thiên Chúa ; và không có Chúa Con, không ai đến được với Chúa
Cha. Tri thức Cha, chính là Con, và chúng ta hiểu biết được Chúa Con nhờ Thánh
Thần" (Demonstratio. 7).
Vì đã phạm tội, Ađam đã ra khỏi bàn tay của Thiên
Chúa. Nhưng bàn tay ấy tìm lại con người, tạo nên Ađam thứ hai, là con người
sống động, hoàn hảo và thiêng liêng. Thiên Chúa xây dựng lại đền thờ mà tội lỗi
đã phá đổ, và trang hoàng đền thờ đẹp hơn trước. Nhờ tác động của Thánh Thần,
nhân loại từ từ tiến tới và đi lên cùng Thiên Chúa.
Đặc điểm của nhân loại đã được cứu chuộc là
"giống Thiên Chúa". Ađam thứ nhất đã làm mất đặc tính này vì tội lỗi
; khi Nhập Thể làm người, Con Thiên Chúa đã ban lại, Ngài bày tỏ cho chúng ta
hình ảnh trọn vẹn của Thiên Chúa, và in vào chúng ta "sự giống Chúa".
Ấn tích sâu sắc và bền bỉ này Ngài đặt vào tâm hồn khi ban Thánh Thần cho chúng
ta :
"Con người xuất hiện đầu tiên không phải là
hữu thể thiêng liêng, nhưng là con người sinh vật, sau đó mới đến con người
thần thiêng. Con người phải có thân xác trước đã, rồi tới linh hồn, và sau cùng
mới có sự sống thần thiêng. Ađam thứ nhất được Chúa dựng nên chỉ là hồn sống ;
Ađam thứ hai mới là thần thiêng. Kẻ được làm thành sinh hồn, đã đánh mất sự
sống, vì tội lỗi và sự dữ. Nhưng khi trở về đàng lành, sẽ nhận lãnh Thánh Thần
ban sự sống" (Adversus Haereses V, 12,1).
Thánh Thần là Hồng ân Chúa Cha ban cho Chúa Con làm
người, và Chúa Con đổ tràn trên nhân loại ; nhờ Thánh Thần, tâm hồn chúng ta
trở nên phong phú và duy nhất như bánh miến và Thân Thể Chúa Kitô.
Biến đổi thân xác nên thần thiêng, là mục tiêu
Thiên Chúa đã có từ lúc tạo dựng con người : Ngài đã muốn dựng nên con người
theo hình ảnh và giống như Ngài. Con người hoàn hảo là con người thần thiêng,
mang trong mình Thánh Thần, và nhờ Thánh Thần, trở nên giống Thiên Chúa :
"Nếu Thánh Thần không kết hợp với linh hồn,
thì con người vẫn còn bất toàn, vẫn là sinh vật và xác thịt, mặc dù có hình ảnh
Thiên Chúa, nhưng chưa giống Thiên Chúa" (Adversus
Haereses V, 6,1).
Thánh Thần cũng được biểu lộ qua các đặc sủng.
Trong Giáo Hội, nhiều người được ơn tiên tri, và nhờ quyền năng của Thánh Thần,
họ nói nhiều thứ tiếng, khi cần thiết và ích lợi, họ bày tỏ các bí mật về con
người và các huyền nhiệm về Thiên Chúa.
Đặc sủng như những giọt mưa từ trời đổ xuống biến
các hạt lúa miến thành một khối duy nhất, một tấm bánh duy nhất, một thân thể
duy nhất :
"Chính trong Giáo Hội, Thiên Chúa đã thiết lập
các Tông đồ, ngôn sứ, tiến sĩ và mọi sinh hoạt của Thánh Thần. Ai không đến với
Giáo Hội, sẽ không được tham gia. Đâu có Giáo Hội, đó có Thánh Thần ; đâu có
Thánh Thần, đó có Giáo Hội và ân sủng ; và Thánh Thần là chân lý" (Adversus
Haereses III, 24,1).
Ân sủng và sự sống trong Giáo Hội chưa phải là công
trình đã hoàn tất của Thiên Chúa, vì hiện nay, chúng ta chỉ được tham gia một
phần Thánh Thần Thiên Chúa, để chuẩn bị cho đời sống vĩnh cửu. Điều mà Phaolô
gọi là "bảo chứng" chỉ là một phần vinh quang mà Thiên Chúa hứa ban
cho chúng ta. Thánh Thần ở trong chúng ta khiến chúng ta rên rỉ và kêu lên cùng
Thiên Chúa : Abba, lạy Cha !
Không phải chỉ linh hồn được biến đổi, nhưng toàn
diện con người. Thân xác, được phục sinh bởi sức mạnh Thánh Thần, sẽ được vào
Vương quốc của Thiên Chúa. Bây giờ mới đích thực là sự sống đã chiến thắng sự
chết. Sự sống toàn diện và vĩnh cửu, biến đổi con người toàn diện, làm cho con
người trở nên bất diệt và giống Thiên Chúa. Đó là bài ca chiến thắng tôn vinh
Thiên Chúa.
TƯƠNG QUAN GIỮA CHÚA CHA, CHÚA
CON VÀ CHÚA THÁNH THẦN
Irênê khẳng định Chúa Con "nhiệm
sinh" bởi Chúa Cha, nhưng không muốn lý luận hoặc diễn tả mầu nhiệm
cực trọng này. Ông chống lại các lý luận tưởng tượng của bè "Ngộ
đạo" :
"Chúng bảo rằng Lời và Sự
Sống phát xuất từ "Tuệ Trí". Chúng quan niệm Nguồn gốc của Ngôi Lời
như nguồn gốc của lời lẽ con người, chúng áp dụng cho Thiên Chúa những gán ghép
táo bạo và nghĩ rằng đã khám phá một điều vĩ đại. Thực ra, ai cũng biết nguồn
gốc của lời nói con người. Nhưng, không thể suy tưởng như thế đối với Thiên
Chúa Tối Cao, Người vừa là Tuệ Trí, vừa là Lời, nơi Người, không gì có trước,
và cũng chẳng có gì sau, không có gì đến từ bên ngoài, tất cả đều ngang bằng,
giống nhau và duy nhất. Lời của Thiên Chúa là chính Thiên Chúa. Nếu Ngôi Lời
sinh ra theo kiểu loài người, thì có khác gì lời lẽ con người ?" (Adversus
Haereses II, 13,8).
Irênê kịch liệt đả phá việc áp
dụng sinh hoạt tâm lý của con người cho Thiên Chúa. Ông trực tiếp công kích
những lý thuyết ngộ đạo, và gián tiếp chỉ trích chủ trương của một số Giáo phụ
phân biệt "Lời nội tại" và "Lời phán ra". Ông nhấn mạnh sự
đơn nhất siêu việt của Thiên Chúa :
"Khi quan niệm, Thiên Chúa
thực hiện điều Ngài muốn ; nơi Ngài, quan niệm là muốn ; Ngài trọn vẹn là tư
tưởng, là ý muốn, là tuệ trí, trọn vẹn là ánh sáng, Ngài nhìn thấy tất cả, nghe
biết tất cả, Ngài trọn vẹn là nguồn suối mọi sự lành" (Adversus
Haereses I, 12,2).
"Thiên Chúa là Tuệ Trí, là
Lời ; điều Ngài suy tưởng, Ngài phán ra ; và điều Ngài nói ra, Ngài quan niệm.
Tư tưởng của Ngài là Lời của Ngài, và Lời của Ngài là Tuệ Trí của Ngài, và
chính Thiên Chúa Cha là Trí Tuệ bao hàm tất cả. Ai nói đến trí tuệ của Thiên
Chúa mà gán cho trí tuệ đó một sự hiện hữu riêng biệt, thì bảo rằng Thiên Chúa
không đơn thuần, vì đường Thiên Chúa là một thực tại và Trí Tuệ Tối cao là một
thực tại khác" (Adversus Haereses II, 28,5).
Irênê lý luận chống những kẻ "lý
luận", nhưng điều quan trọng hơn cả, là tựa vào Kinh Thánh, tin tưởng
ở Kinh Thánh và không muốn suy nghĩ viễn vông ra ngoài Kinh Thánh :
"Nếu ai hỏi : trước khi tạo
dựng thế giới, Thiên Chúa làm gì ? - Chúng tôi trả lời : giải đáp thuộc về
Thiên Chúa. Kinh Thánh dạy rằng thế giới là một công trình hoàn hảo của Thiên
Chúa, và đã khởi sự hiện hữu trong thời gian ; không có đoạn Kinh Thánh nào nói
đến điều Thiên Chúa làm trước khi có thời gian. Vậy thì giải đáp thuộc về Thiên
Chúa, và không được phép tưởng tượng ra những "hình thái phát xuất táo
bạo", điên rồ và phạm thượng, với sự tự hào là đã khám phá ra nguồn
gốc của vật chất, và lên án Thiên Chúa, Tác giả của vũ trụ" (Adversus
haereses II, 28,3).
"Ngôi Lời là Con Thiên
Chúa, là Con Duy Nhất của Thiên Chúa, và điều này không khởi sự từ việc Nhập
Thể trong lòng Trinh Nữ : tư cách làm con thuộc về Ngôi Lời tiền hữu, và vĩnh
cửu như Ngôi Lời. Tư cách này không tách Chúa Con ra khỏi Chúa Cha ; Chúa Con
sinh ra từ Chúa Cha và nội tại trong Chúa Cha, cũng như Chúa Cha ở trong
Ngài". (Adversus Haereses III, 6,2).
Kết quả của sự tương tại là
tương tri trọn vẹn : Chúa Con biết Chúa Cha như biết chính mình :
"Chúa Cha vô hạn được đo
lường bởi Chúa Con ; Chúa Con là kích thước của Chúa Cha, vì Chúa Con thấu
triệt Chúa Cha" (Adversus haereses IV, 4,2).
Sự tương tri hoàn hảo là nền
tảng cho mạc khải. Chúa Con là Đấng duy nhất có thể mạc khải Chúa Cha, vì Ngài
biết Chúa Cha trọn vẹn và là hình ảnh sống động của Chúa Cha. Ngài là chứng
nhân trung thành và trọn hảo. Vì Ngài biết tất cả những gì thuộc về Cha, chỉ
một mình Ngài có thể cho chúng ta biết.
Chúa Con, tự bản chất cũng vô
hình như Chúa Cha, đã trở thành hữu hình trong biến cố Nhập Thể.
Chúa Con thấu hiểu được sự vô
hạn của Chúa Cha, và cũng vô hạn như Chúa Cha. Chỉ có một thần tính duy nhất
trong Chúa Cha và Chúa Con, được giấu kín nơi Chúa Cha và bày tỏ trong Chúa
Con.
Đối với Irênê, cũng giống như
đối với các Giáo phụ trước ông và đương thời ông, thần học về Chúa Thánh Thần
chưa được đầy đủ như thần học về Chúa Kitô. Lý do là những tranh luận vào thế
kỷ II xoay quanh các vấn đề "duy nhất tính" của Thiên Chúa,
vấn đề Đức Kitô tiền hữu và thần tính của Đức Kitô. Ngôi vị Chúa Thánh Thần ít
được đề cập tới. Nỗ lực của Irênê là chống lại các lý thuyết Ngộ đạo, chứng
minh Tạo Hóa là Thiên Chúa Tối Cao.
Lý do thứ hai là Mạc khải ít có
nét rõ ràng về Ngôi vị tính và Thần tính của Thánh Linh. Thánh Thần chỉ được
biểu lộ qua các hành vi của Người hoặc khi Đức Kitô đề cập đến. Trong Gioan và
Phaolô, thần học về Chúa Kitô đầy đủ và phong phú hơn thần học về Chúa Thánh
Thần.
So với toàn bộ thần học của
Irênê, Thánh Linh học chiếm một chỗ không đáng kể, nhưng so với các Giáo phụ
trước ông và đương thời ông, đã có một bước tiến.
Thánh Thần phát xuất từ Chúa Cha
như Chúa Con bởi Chúa Cha, nhưng Thánh Thần không được sinh ra như Chúa Con.
Thánh Thần tùy thuộc Chúa Con,
là Hồng ân của Chúa Con đổ tràn trên các tín hữu. Đến từ Chúa Cha và Chúa Con,
Người như "con dấu thần linh" in vào tâm hồn các tín hữu hình
ảnh của Chúa Cha và Chúa Con. Người là Dầu mà Chúa Cha đã dùng để xức cho Chúa
Con. Người cũng là tác động Xức dầu của Chúa Cha (Adversus haereses III, 18,3).
Các Danh Xưng gán cho Thánh
Thần, thường diễn tả tác động của Người nhiều hơn là bản tính ; Người là Đấng
Bảo Trợ, là Nước Hằng Sống, là Sương Trời, là Bảo Chứng phần rỗi, là Thang bắc
lên tới Chúa, là Bàn tay và là Ngón tay của Thiên Chúa (Adversus haereses III,
17,3 ; 24,1, .).
Khác với các Giáo phụ và Truyền
thống sau này của Giáo Hội, Irênê đồng hóa Chúa Thánh Thần với "Khôn
Ngoan" của Thiên Chúa. Ông muốn cho thần học về Thánh Linh dựa trên
một nền tảng Kinh Thánh rộng rãi.
Vai trò Thánh Thần trong biến cố
Nhập Thể của Đức Kitô, cũng không rõ ràng và chắc chắn. Giống như một số lớn
Giáo phụ đương thời, ông chú giải câu Phúc âm Luca 1,35 nhiều cách : khi thì
đồng hóa "Quyền Năng Đấng Tối Cao" với Ngôi Lời, lúc khác lại
đồng hóa với Chúa Thánh Thần. Biến cố Nhập Thể có khi được quan niệm là do tác
động của Thánh Thần và Ngôi Lời, có khi được khẳng định suông là do tác động
của Chúa Thánh Thần.
Trong tác phẩm "CHỐNG LẠC
GIÁO", có lúc Irênê so sánh biến cố Nhập Thể với việc tạo dựng con người
đầu tiên : trong cả hai biến cố, Thiên Chúa đã dùng hai bàn tay của Người là
Ngôi Lời và Thánh Thần. (Adversus haereses V, 1,3).
Tính Ngôi vị của Thánh Thần sáng
tỏ hơn trong một vài cách nói như "Thánh Thần tiên báo",
"Thánh Thần dạy dỗ", "Thánh Thần hướng dẫn", "Thánh
Thần làm vinh danh" Thiên Chúa Cha.
Nói tóm lại, Thánh Thần, lúc thì
được coi như là Hồng ân của Thiên Chúa, lúc khác lại được coi như một Ngôi vị
Thiên Chúa. Đặc tính hàm hồ của các hình ảnh về Chúa Thánh Thần vẫn tồn tại lâu
dài về sau.
Trong lãnh vực mầu nhiệm Thiên Chúa, chúng ta không
thể khai triển hết các khía cạnh và đề cập đến tất cả các đặc tính, ưu điểm và
khuyết điểm, nhưng chỉ có thể đưa ra một số nét chính yếu.
Đặc điểm đầu tiên và quan trọng hơn hết của con
người và tư tưởng của Irênê là "nối kết". Ông nối kết thực tế với lý
tưởng, tự nhiên với ân sủng, Cựu Ước với Tân Ước, Ađam với Chúa Kitô, thế gian
với Giáo Hội. Tất cả đều xây dựng trên sự Duy Nhất giữa Chúa Cha, Chúa Con và
Chúa Thánh Thần.
Đặc điểm này làm cho tư tưởng của ông đượm vẻ thanh
bình và ấm áp. Dù phát sinh trong một bối cảnh tranh luận, tư tưởng của ông vẫn
trong sáng, nhẹ nhàng. Ông chiến đấu hết mình cho đức tin chân chính, nhưng vẫn
thanh thoát nhàn hạ, nhờ tin tưởng vào sức mạnh của chân lý, giá trị của Mạc
khải và tác động của Thánh Thần trong Giáo Hội.
Ông chưa có những công thức rõ ràng, vắn gọn như
Công đồng Nixê sau này, nhưng lời văn rất cô đọng và đầy sức sống. Các ý niệm
và hình ảnh ông dùng phần nhiều rút ra từ Kinh Thánh, do đó chứa đựng sức sống
mãnh liệt và nhiệt độ nóng bỏng của Lời Kinh Thánh.
Đặc điểm thứ hai là "quy tâm",
nghĩa là xoay quanh một số tư tưởng lớn. Đó là thế mạnh của ông, trong khi tư
tưởng của địch thù tản mác và thiếu thống nhất.
Ba ý tưởng "chủ lực" trong thần
học của ông là : Duy Nhất, Nhiệm Cục và Thâu Kết.
Cả trên bình diện hình thức lẫn nội dung, có thể
coi ý tưởng "Duy Nhất" như "xương sống" của
toàn bộ cấu trúc thần học của Irênê. Ông lặp đi lặp lại thường xuyên các từ ngữ
: Duy Nhất, Đồng Nhất, là một, cùng một, chỉ có một.
Tính Duy Nhất tiên vàn áp dụng cho Thiên Chúa : chỉ
có một Thiên Chúa (Unus Deus), sau đó áp dụng cho Chúa Kitô (Unus Christus),
rồi lan sang các đối tượng khác : chỉ có một đức tin, một ơn cứu độ, một truyền
thống, một lời rao giảng, một Tin Mừng, một nhân loại, một Thân Thể Đức Kitô.
Thực ra, không phải một mình Irênê có ý tưởng này :
sách Kinh Thánh, Truyền thống Dothái và Kitô-giáo đã có trước ông. Nhưng ông đã
dùng nó như một cột trụ trong Tòa Nhà thần học của ông.
Sự Duy Nhất của Chúa Kitô được đề cập không phải là
sự Duy Nhất Ba Ngôi (Chúa Cha - Chúa Con - Chúa Thánh Thần), nhưng là một sự
duy nhất cụ thể của một Đức Giêsu Kitô cụ thể : chỉ có một Đức Giêsu Kitô là
Ngôi Lời Nhập Thể. Không ai được phân chia mầu nhiệm Giêsu Kitô làm nhiều.
Không ai được nhân đôi hay nhân ba một con người cụ thể, là Giêsu thành
Nazarét, cũng là Đức Kitô Con Thiên Chúa. Tư tưởng này đã được nhắc tới nhiều
lần trước Irênê (Gioan, Phaolô, Ignatiô thành Antiôkia), nhưng chưa được khai
triển. Vì thế, có thể coi Irênê như Ngài khởi xướng.
"Chỉ có một Giáo Hội" cũng là
một chủ đề lớn trong thần học của Irênê. Có người cho rằng ông là thần học gia "đại
kết" đầu tiên trong lịch sử Giáo Hội. Chỉ có một Giáo Hội duy nhất, vì
chỉ có một đức tin duy nhất, sống động bắt nguồn từ Truyền thống các Tông đồ.
Và đức tin chân truyền duy nhất là : chỉ có một Thiên Chúa, chỉ có một Đức
Kitô.
Ý tưởng duy nhất cũng nổi bật trong Cứu-chuộc-học
của Irênê : Đức Kitô đến để tái lập sự duy nhất và hiệp thông giữa con người
với Thiên Chúa. (Adversus haereses IV, 43,1).
Ý niệm chủ yếu thứ hai nối dài ý tưởng "Duy
Nhất" là ý niệm "Nhiệm cục" hay
"kế hoạch phổ quát" của Thiên Chúa. Kế hoạch của Thiên Chúa bao
trùm tất cả tạo vật, thế giới và nhân loại ; phổ quát trong không gian và thời
gian, nối liền tạo dựng với cứu độ, Cựu Ước với Tân Ước. Thiên Chúa chỉ có một
chương trình duy nhất được thực hiện từ đầu đến cuối lịch sử.
Nhờ ý niệm "Nhiệm cục phổ quát", Irênê có
một cái nhìn tổng hợp về thế giới và lịch sử ; ông là thần học gia đầu tiên về
lịch sử.
Nhiệm cục phổ quát chia làm nhiều giai đoạn, mà
điểm then chốt là biến cố Nhập Thể. Mọi giai đoạn đều bắt nguồn và hướng tới
Nhiệm cục phổ quát (Adversus haereses III,12,3). Thiên Chúa Duy Nhất thực hiện
bởi Con Duy Nhất Nhiệm cục cứu độ duy nhất và phổ quát (Ep 1,10 ; 3,9).
Irênê phân tích Nhiệm cục cứu độ phổ quát dưới
nhiều khía cạnh : phần nói về Ngôn sứ bàn đến nhiệm cục trong Cựu Ước (Adversus
haereses IV, 20,8-12 ; 21 ; 25 ; 33,10-15) ; phần thuyết "thâu kết"
đề cập đến tương quan giữa nhiệm cục Nhập Thể và nhiệm cục Tạo dựng ; phần về
tự do nhắm tới "nhiệm cục hiện tại của con người" và ơn cứu độ
(Adversus haereses IV, 37-39) ; phần về phản Kitô nói đến "nhiệm cục cánh
chung".
Ý niệm "thâu kết" gắn liền với ý
tưởng "nhiệm cục phổ quát" : Nơi nhiệm cục phổ quát, chỉ có
một Đức Giêsu Kitô Duy Nhất là Chúa chúng ta ; Ngài đến và thâu hồi tất cả
trong chính mình (Adversus haereses III, 16,6). Nói cách khác, Thiên Chúa hoàn
tất nhiệm cục cứu độ phổ quát, khi Người thâu hồi mọi sự dưới một Đầu Mối Duy
Nhất là Đức Giêsu Kitô.
Ngoài ba ý tưởng chủ lực trên, còn có ý niệm
"tiến bộ".
Có người cho đó cũng là một ý tưởng cốt yếu của
thần học Irênê. Vì nhấn mạnh tính duy nhất giữa tạo dựng và cứu độ, ông vạch
một con đường thẳng đi từ Ađam thứ nhất đến Ađam mới, và coi Ngôi Lời Nhập Thể,
ở chặng cuối con đường, như chóp đỉnh và cùng đích của nhân loại.
Con người không trở thành Thiên Chúa ngay từ lúc
ban đầu nhưng chỉ có thể đến gần Thiên Chúa sau một quá trình dài hạn.
Sử dụng đúng đắn tự do của mình, con người sẽ đi
trên con đường dẫn tới Thiên Chúa, bước từ tiến bộ này sang tiến bộ khác. Nhiệm
cục cứu độ phổ quát, không nhằm trở lại tình trạng ban đầu, nhưng hướng tới kết
thúc mới mẻ, vượt xa điểm khởi hành. Đức Kitô hoàn tất chương trình cứu độ khi
ban Thánh Thần, nhờ đó con người được nâng lên cấp bậc cao hơn.
Ý niệm "tiến bộ" theo đường thẳng chừa
rất ít chỗ cho ý niệm tội, và không ăn khớp với một số ý niệm cơ bản khác. Vì
thế, có người cho rằng nó là một ý niệm vay mượn, không hòa hợp với toàn bộ tư
tưởng của Irênê. Thực ra, rất khó khẳng định dứt khoát, vì Irênê lặp lại tư
tưởng này nhiều lần ở nhiều chỗ ; vả lại ý niệm "tiến bộ" đi đôi với
ý niệm "giáo dục tiệm tiến", và Mạc khải quả là một công trình giáo
dục kỳ diệu của Thiên Chúa.
Chống lại khuynh hướng chia cắt của lý thuyết Ngộ
đạo không phải là chuyện đơn giản.
Những người như giáo phụ Irênê, tựa trên truyền
thống rất vững chắc, đồng thời có tinh thần cởi mở và là người đạo đức thánh
thiện mới có thể đương đầu hữu hiệu, mà vẫn bảo toàn mặc khải Kitô giáo về Ba
Ngôi Thiên Chúa.
Ngoài lập trường của giáo phụ Irênê, có những lý
luận cực đoan, những chủ trương bảo vệ độc thần giáo bằng mọi giá.
Các chủ trương này không rườm rà, phức tạp như
Ngộ-đạo-thuyết, nhưng rất bình dân và giản dị.
Khác với các lạc giáo tự cho mình là mới mẻ, phong
trào Nhất chủ lấy chiêu bài bảo thủ, bênh vực truyền thống và đức tin chống lại
những người chủ trương "nhiệm cục Ba Ngôi".
Nhiều tài liệu lịch sử nói đến phong trào này như
tác phẩm vô danh "Adversus Omnes Haereses", tác phẩm "Contra
Haeresim Noeti" của Hyppolyte, đặc biệt hơn cả là "Adversus
Praxean" của Tertullien.
1-Nội dung các lý thuyết Nhất
chủ
Nhân vật đầu tiên thuộc phái Nhất chủ mà chúng ta
biết được qua tài liệu của các Giáo phụ là Noetus hoạt động ở Smyrne từ năm 180
đến 200. Chúng ta biết ông và giáo thuyết của ông qua tác phẩm "Contra
Hearesim Noeti" của Hyppolyte.
Noetus chủ trương chỉ nhận biết có một Thiên Chúa
là Chúa Cha. Chính Chúa Cha đã sinh ra, chịu khổ hình và chịu chết. Vậy nếu Đức
Kitô là Thiên Chúa, Ngài cũng là Chúa Cha ; nếu không, Ngài không phải là Thiên
Chúa. Đức Kitô đau khổ, chính là Thiên Chúa đau khổ, bởi vì Ngài và Thiên Chúa
là một. Noetus tố cáo những ai phân biệt Chúa Cha và Chúa Con là chủ trương có
hai Thiên Chúa.
Mặc dù tự nhận mình bảo vệ truyền thống, thực ra
Noetus đã đi ngược lại truyền thống khi ông đồng hóa hoàn toàn Chúa Cha với
Chúa Con. Vì thế các "trưởng lão trong Giáo Hội" đã chống lại ông :
"Chúng tôi cũng tôn thờ một Thiên Chúa duy
nhất, nhưng chúng tôi biết cách tôn thờ Ngài đúng đắn. Chúng tôi tin một Đức
Kitô, chúng tôi nhận biết chỉ có một Đức Kitô Con Thiên Chúa, đã chịu khổ hình,
đã chết và phục sinh, đã lên trời và ngự bên hữõu Đức Chúa Cha, sẽ trở lại phán
xét kẻ sống và kẻ chết. Chúng tôi học biết những điều này từ Kinh Thánh" (Epiphane,
Haereses, 57,1).
Ở Rôma có một nhân vật khác tên là Praxea mà
Tertullien đã đề cập trong tác phẩm thời danh "Adversus Praxean".
Praxea hoạt động dưới thời Giáo hoàng Victor. Theo Tertullien, ông có ảnh hưởng
trên cả Đức Thánh Cha, ít nữa là trong lập trường chống lại phái Montan. Không
thể nói rằng Đức-Giáo-Hoàng đã theo các ý kiến thần học của Praxea về mầu nhiệm
Thiên Chúa Ba Ngôi, vì ngay cả Tertullien cũng không nhắc tới điểm này. Điều
chắc chắn là Praxea có ảnh hưởng rất lớn trên quần chúng. Cứ theo lời
Tertullien, đám đông không ngừng lập lại câu Slogan : "Chúng tôi bênh
vực Nhất chủ ". Nhưng khi lập đi lập lại lời này, họ hiểu rất sai và
diễn tả cũng sai. (Adversus Praxean, 3).
Điều lôi cuốn giáo dân trong "Nhất chủ
thuyết" là đặc tính đơn sơ. "CHÆ CÓ MỘT THIÊN CHÚA", chỉ có một
Đấng làm chủ. Người tín hữu bình dân không muốn phức tạp. Theo Tertullien, họ
rất sợ danh từ "nhiệm cục". Khẳng định duy nhất tính của Thiên
Chúa và thần tính của Chúa Kitô đã là đủ đối với đám đông quần chúng, họ không
muốn nghe thêm.
Những điểm chính yếu trong giáo thuyết của Praxea
là :
- Chúa
Cha và Chúa Con chỉ là một thực tại (Adversus Praxean, 5) ;
- Ngôi
Lời không có hiện hữu riêng biệt ; chỉ là một Danh xưng khác gán cho Chúa Cha
(Adversus Praxean, 7) ;
- Chính
Chúa Cha đã nhập thể trong lòng Trinh Nữ Maria, đã sinh ra, và khi sinh ra, trở
thành Con (Adversus Praxean, 10) ;
- Chúa
Cha đã chịu khổ, đã chịu chết (Adversus Praxean, 1-2) ;
- Chúa
Cha đã phục sinh. Ngài có những ưu phẩm khác nhau và đôi khi ngược nhau, tùy
lúc và tùy trạng thái xuất hiện : hữu hình và vô hình, khả tri và bất khả tri,
phải chết và bất tử, được sinh ra và không được sinh ra (Adversus Praxean,
14-15 ).
Các điểm cốt yếu của giáo thuyết Praxea rất xa với
giáo lý truyền thống. Vì thế dần dà ông sửa đổi cho nhẹ bớt những khác biệt,
nhất là khi phải trình bày Đức Giêsu Kitô là ai. Nơi Đức Giêsu Kitô , ông phân
biệt hai yếu tố : con người Giêsu là Con, Đức Kitô (yếu tố thần linh) là Cha ;
do đó Con chịu khổ hình, và Cha cũng chịu khổ. (Adversus Praxean, 29).
Lý thuyết của Praxea và các đồ đệ của ông còn được
gọi là "Khôå-phụ-thuyết" (Patripassianisme).
Các lý thuyết "Nhất chủ" thường ít
khi được trình bày rõ ràng và tỉ mỉ, vì thế lúc ban đầu giáo quyền chưa nhận ra
sự sai lạc, nhưng khi đưa tới hệ luận là Khổ-phụ-thuyết, sự sai lạc trở nên rõ
ràng, và ít người chấp nhận.
Các hình thái cổ sơ của phong trào Nhất chủ mất ảnh
hưởng và tàn lụi khi Sabellius bị Giáo hoàng Callixtô lên án.
Nhưng có lý thuyết khác tinh vi hơn thế vào chỗ lý
thuyết Nhất chủ. Lịch sử thần học đã lấy tên của Sabellius đặt cho thuyết này,
hoặc gọi bằng một tên khác là Hình-thái-thuyết (Modalisme).
Hình-thái-thuyết là một biến thiên tinh vi của Nhất
chủ thuyết. Origène đã đề cập tới những người chủ trương Hình-thái-thuyết, tuy
không nói rõ ai : "Có những người không phân biệt Chúa Cha và Chúa Con,
nhưng coi đó là một thực tại có nhiều diện khác nhau". Chống lại hạng
người này, Origène khẳng định Chúa Con khác Chúa Cha.
Các tài liệu lịch sử không để lại tên tuổi những
người chủ trương Hình-thái-thuyết. Họ chỉ xưng mình thuộc phái Sabelliô.
Thực ra họ sửa đổi và bổ xung tư tưởng của Sabelliô
rất nhiều. Họ khẳng định rằng Chúa Con, chứ không phải Chúa Cha đã chịu khổ
hình. Họ còn cho Thánh Thần một chỗ đứng để tín điều Ba Ngôi được đầy đủ.
Thiên Chúa là "Nhất thể" đơn thuần
và không phân chia, là một chủ vị duy nhất, có tên là Uiopatôr (Con + Cha). Khi
tạo dựng vũ trụ, Người mệnh danh là Lời... Đối với thế giới tạo vật, Nhất thể
tự biểu lộ, trong Cựu Ước như Đấng làm Chủ Lề luật và đó là Chúa Cha ; trong
Tân Ước như Đấng Cứu Thế nhờ hành vi nhập thể, đó là Chúa Con ; như Đấng thánh
hoá, đó là Thánh Thần. Cha, Con và Thánh Thần không phải là Ba Ngôi Vị phân
biệt, nhưng chỉ là ba trạng thái kế tiếp nhau, ba khía cạnh, ba hình thái, ba
Danh xưng của cùng một hữu thể. Hình thái này qua đi nhường chỗ cho hình thái
khác. Chúa Cha hết là Cha, khi Chúa Con xuất hiện ; Chúa Con chấm dứt khi Thánh
Thần hiện xuống. Trong "Thiên Chúa là Nhất thể thần linh" có một vận
hành biện chứng (xuất phát - thu hồi). Chúa Cha không còn chỗ đứng đặc biệt so
với Chúa Con và Chúa Thánh Thần.
Vấn đề của các Giáo phụ tiền
Nicê là chống lại lý thuyết Nhất chủ mà vẫn bảo toàn độc thần giáo. Nhiều
trưởng lão chống phong trào Nhất Chủ, nổi danh hơn cả là Hippolyte và
Tertullien.
Viết tác phẩm "ADVERSUS
PRAXEAN" khoảng năm 213, vào cuối thời của ông, lúc ông đã theo phái
Montano (Thiên-niên). Ông chỉ trích rất gay gắt lý thuyết Nhất chủ :
"Ma quỷ làm sai lạc chân lý
bằng nhiều cách. Đôi khi nó giả vờ bênh vực để phá chân lý. Nó chủ trương chỉ
có một THIÊN CHÚA DUY NHẤT là Đấng Tạo Hóa Quyền Năng, và đưa tới lạc giáo từ
chữ DUY NHẤT. Nó bảo rằng Chúa Cha đầu thai trong lòng Trinh nữ, sinh ra từ
Trinh nữ và chịu khổ hình : Chúa Cha là Đức Giêsu Kitô" (Adversus
Praxean I, 227,3).
"Praxea đến Rôma để thực
hiện hai mục tiêu của ma quỷ : xóa bỏ lời tiên tri để thay vào đó lạc giáo ;
xua đuổi Thánh Thần và đóng đinh Chúa Cha" (Adversus
Praxean I,227,3).
Để chống lạc giáo, Tertullien nỗ
lực hình thành một thần học về Thiên Chúa Ba Ngôi. Ông đưa từ ngữ Ngôi Vị
(persona) vào thần học : "Trong Thiên Chúa có Ba Ngôi Vị, Ngôi I là
chính Thiên Chúa, Ngôi II là Lời của Người, Ngôi III là Thánh Thần trong
Lời" (Adversus Praxean XII).
Chúa Cha là nguồn gốc của hai
Ngôi Vị kia, do đó Chúa Cha cao cả hơn : "Chúa Cha là toàn diện bản thể,
Chúa Con do Chúa Cha và là một phần của Chúa Cha"(Adversus Praxean XXVI).
Từ nguyên thủy, có một mình
Thiên Chúa, nhưng Người không tuyệt đối đơn độc, người có Trí Tuệ trong mình,
được gọi là Logos hay Sermo. Trí tuệ là nền tảng và là bản chất của Lời ; Lời
là Trí Tuệ hoạt động.
Thiên Chúa có trong chính mình
Lời Nội Tại. Người chưa phán ra Lời ấy khi chưa tạo dựng trời đất.
Lời Phán Ra tiếp nối Lời Nội
Tại, và là dụng cụ Thiên Chúa dùng trong việc tạo dựng.
Trước khi được phán ra, Lời "ẩn
giấu" trong lòng Chúa Cha, hình thành trong lòng Chúa Cha. Khi Thiên
Chúa phán, Lời sinh ra trọn vẹn và xuất hiện như là Con. Do đó, trước tạo dựng,
Ngôi Lời chưa là con.
Chúa Con là Ngôi Vị khác Chúa
Cha, vì được sinh ra. Người hiện hữu thực sự, là Thiên Chúa bởi Thiên Chúa, Ánh
sáng bởi Ánh sáng. Người vĩnh cửu, vì hiện hữu từ đời đời trong Chúa Cha như
Trí Tuệ nội tại, mặc dù Người trở thành Con qua biến cố tạo dựng. Thiên Chúa là
Thiên Chúa từ đời đời, nhưng không là Cha từ đời đời.
Tertullien khẳng định Thánh Thần
là Thiên Chúa (Adversus Praxean XIII ; XX), bởi bản thể Chúa Cha (III ; IV), là
một Thiên Chúa cùng với Chúa Cha và Chúa Con (III). Người bởi Chúa Cha qua Chúa
Con mà ra (IV). Do đó Người là Ngôi Ba.
Tư tưởng của Tertullien không
luôn luôn rõ ràng ; có khi ông không phân biệt Thánh Thần và Chúa Con : Ngôi Ba
là Thánh Thần trong Lời (Adversus Praxean XII) ; Thánh Thần Thiên Chúa chính là
Lời (Adversus Praxean XXVI). Có chỗ ông nghĩ rằng Thánh Thần nhập thể (Adversus
Praxean XXVII).
Tertullien nhấn mạnh tới sự duy
nhất của Thiên Chúa, nhưng điều này không ngăn trở "Nhiệm Cục", là
sự sắp đặt thông ban "duy nhất tính" và làm phát sinh Ba Ngôi.
Nhiệm cục không phân chia sự duy nhất, nhưng sắp đặt thành Ba Ngôi Vị khác nhau
(Adversus Praxean XIII). Cả Ba Ngôi Vị đều là Thiên Chúa. Ba Ngôi không
phải là Một Vị (unus), nhưng là Một (unum) : Duy nhất
về bản thể chứ không duy nhất về số lượng (Adversus Praxean XXV).
Tuy còn thiếu sót, thần học của
Tertullien đã có nhiều tiến bộ. Ông đề ra công thức "Una substantia, tres
personae" trở thành cơ bản cho Giáo Hội Latinh. Thần học của ông đã có ảnh
hưởng nhiều trên các Giáo phụ Latinh và Hylạp.
Để chống lại lý thuyết Nhất Chủ
(Contra Haeresim Noeti) Hippolyte hình thành một thần học phôi thai về tương
quan giữa Ngôi Lời và Thiên Chúa.
Ông phân biệt sự hiện hữu của
Ngôi Lời làm ba giai đoạn :
- Giai đoạn một là từ đời đời,
Ngôi Lời hiện hữu trong Thiên Chúa, là tư tưởng của Thiên Chúa, không phân biệt
với Thiên Chúa.
- Giai đoạn hai là lúc tạo dựng,
Thiên Chúa phán ra Lời, và Lời bắt đầu có một sự hiện hữu riêng biệt. Lời là
thực tại duy nhất mà Thiên Chúa không làm ra từ hư vô, nhưng sinh ra từ chính
hữu thể của Ngài. (Philosophoumena X, 33)
Khi sinh ra, Ngôi Lời tạo dựng
trời đất theo ý muốn của Chúa Cha và theo kiểu mẫu của chính mình. Thế giới
được dựng nên từ hư vô không phải là Thiên Chúa. Nhưng Ngôi Lời phát xuất từ
Thiên Chúa, là chính Thiên Chúa.
Ngôi Lời sinh ra do ý muốn của
Thiên Chúa. Thiên Chúa phán ra Lời khi Ngài muốn và như Ngài muốn.
- Giai đoạn ba là biến cố nhập
thể, nhờ đó Ngôi Lời mang tước hiệu làm Con một cách đặc biệt hơn.
Học thuyết ba giai đoạn này là
kết quả của một nền thần học còn thô sơ của một số Giáo phụ hộ giáo (Yustinô,
Tatien, Anathegoras, Theophile). Nó không chứng minh được sự ngang bằng giữa Ba
Ngôi Vị Thiên Chúa. Ngược lại còn tiềm tàng chứa đựng Hạ-phục-thuyết sẽ xuất
hiện sau này.
Origène, tuy không rõ ràng chống
lại học thuyết của một nhân vật nào như trường hợp của Tertullien và Hippolyte,
nhưng cũng có biết các lý thuyết Nhất-chủ và Hình-Thái-thuyết. Thần học của
ông, tuy rất phong phú, vẫn còn phản ánh những khó khăn của thời đại tiền -
Nicê.
Ông đề cao tính siêu việt của
Thiên Chúa : Người là Chân Lý vượt trên mọi chân lý ; Khôn Ngoan vượt trên mọi
khôn ngoan ; Ánh Sáng vượt trên mọi ánh sáng. Người là Đấng Hằng Sống vượt trên
mọi sự sống ; là Trí Tuệ vượt trên mọi trí tuệ ; là Bản Thể vượt trên mọi bản
thể.
Không ai biết được Người, ngoài
Ngôi Lời cũng là Chúa Con và những kẻ Chúa Con mạc khải cho.
Người là Đấng Duy Nhất Đơn
Thuần. Nhưng Người cũng là ba Ngôi Vị phân biệt.
Ngôi Lời, phân biệt với Chúa
Cha, không được tạo thành, nhưng được sinh ra từ đời đời. Dưới mắt người đời,
Ngôi Lời đã làm người. Nhưng trước mắt Thiên Chúa, Ngôi Lời không trở thành.
Người luôn luôn ở với Chúa Cha. Người hiện hữu trong Cội Nguồn là Chúa Cha, và
không bao giờ tách biệt khỏi Chúa Cha.
Thiên Chúa không khởi sự làm
Cha, nhưng từ đời đời Người là Cha của Chúa Con. Từ muôn thuở, Người sinh hạ
Chúa Con. Chúa Con không là một phần của Chúa Cha, tách rời khỏi Chúa Cha.
Người là Hình Ảnh phản chiếu ánh sáng của Chúa Cha. Cũng như Ánh sáng luôn chói
rạng, Chúa Cha không ngừng sinh ra Chúa Con.
Chúa Con không tách rời khỏi
Chúa Cha, mặc dù phân biệt với Chúa Cha. Không vì ân sủng, nhưng vì được tham
gia vào yếu tính, mà Ngôi Lời là Con.
Ngôi Ba là Thánh Thần. Niềm tin
vào Thánh Thần là đặc thái của Kitô-giáo. Thánh Thần cũng vĩnh cửu. Trong lề
luật Cựu Ước và trong Tin Mừng đã có Người. Người đã có, hiện có và sẽ có cùng
Chúa Cha và Chúa Con. Người có từ đời đời, nhưng Người đổi mới mọi sự.
Thánh Thần của Chúa Cha và Thánh
Thần của Chúa Con là một.
Giữa Chúa Cha, Chúa Con và Thánh
Thần không có khác biệt về bản tính.
Có đôi lúc Origène nghĩ rằng
Thánh Thần được hình thành do Chúa Cha và Chúa Con. Dường như ông bị lúng túng
khi muốn định vị Thánh thần.
Chúa Con có mọi ưu phẩm : sự
sống, sự thật, khôn ngoan. Nhưng Chúa Cha có ưu phẩm vượt trên Chúa Con :
"Đức Kitô là sự sống" nhưng Đấng lớn hơn Đức Kitô vượt trên sự sống.
"Là Cha của Chân lý, Thiên
Chúa vĩ đại và cao vời hơn Chân Lý ; là Cha của Khôn Ngoan, Người vượt trên
Khôn ngoan" (In Yn II, 23, 151...).
Đức Kitô là "sự
thật" đối với chúng ta, nhưng đối với Chúa Cha là Chân Lý Tự Tại, Ngài
không phải là Chân lý theo nghĩa tuyệt đối.
"So với Chúa Cha, Người chỉ
là hình ảnh của Lòng Nhân Từ, nhưng so với tạo vật, Người là Kiểu Mẫu".
"Người vượt trên mọi tạo
vật, nhưng Người không thể sánh với Chúa Cha" (De
Princ. I, II, 12).
"Chúa Cha biết chính mình
đầy đủ, rõ ràng và hoàn hảo hơn Chúa Con biết Chúa Cha" (De
Princ. IV, IV, 8).
Nói tóm lại, tư tưởng của
Origène về Thiên Chúa Ba Ngôi, tuy phong phú, nhưng chưa được rõ ràng và đồng
nhất. Có người cho rằng một phần tác phẩm của ông đã bị người sao chép và dịch
thuật sửa lại (Rufino). Điều này có thể xảy ra, và việc khẳng định tùy thuộc
vào khoa phê bình văn bản.
Điều chắc chắn là các Giáo phụ
Epiphane và Jêrôme đã lên án ông chủ trương Hạ-phục-thuyết.
Nhưng có điều chắc chắn thứ hai
là Origène không bao giờ xa rời đức tin của Giáo Hội. Bằng chứng là trong tác
phẩm P e r i a r c v n , ông đã liệt kê những chân lý đức tin, đồng thời
cũng viết ra những điều có thể bàn cãi. Không thể trách ông là không có đức tin
chính thống, vì lúc ấy chưa có Đại Công Đồng xác định giáo lý đức tin. Vả lại,
phải chấp nhận tư tưởng Giáo phụ có giai đoạn chưa rõ ràng chắc chắên.
Khó khăn của Origène là khó khăn
của mọi Giáo phụ, nhưng đặc biệt là các Giáo phụ thời ông : làm thế nào để niềm
tin vừa là Ba Ngôi vừa là độc thần ?
Trong trường hợp của ông, dường
như có một sự xung khắc giữa "đức tin đơn sơ" và "thần học thông
thái". Trong các bài giảng, niềm tin của ông vào Chúa Kitô thật là sâu sắc
và tinh tuyền. Nhưng khi phải sử dụng triết học để giải thích nội dung đức tin,
ông rơi vào khuynh hướng Hạ-phục-thuyết. Chính việc dùng các đoạn Kinh Thánh để
xây dựng thần học cũng có thể đưa tới khuynh hướng này.
Đó cũng là trường hợp của
Tertullien và Hyppolyte, nhưng ở một cường độ thấp hơn.
Niềm tin chân thành và lòng
khiêm tốn khiến các Giáo phụ không đi quá đà và tự hào nắm được chân lý. Trái
lại, não trạng duy lý và tính kiêu ngạo đã đưa nhiều người tới lạc giáo gây
chia rẽ và xáo trộn trong Giáo Hội.
Hệ luận cuối cùng của
Hạ-phục-thuyết là lạc thuyết Ariô. Nhưng cũng có một chút khác biệt : các
khuynh hướng Hạ-phục-thuyết trực tiếp liên hệ tới Mầu nhiệm Ba Ngôi, và gián
tiếp đụng vào mầu nhiệm Chúa Kitô ; lạc thuyết Ariô trực tiếp liên hệ đến mầu
nhiệm Chúa Kitô, và gián tiếp đụng đến mầu nhiệm Ba Ngôi.
1. Tính hiện đại của lạc thuyết Ariô
Ngày nay người ta nói nhiều đến sự "thức dậy
của bè Ariô". Quả thực, vấn đề của Ariô được đặt lại dưới nhiều hình thái
khác nhau.
Có người cho rằng Thiên Chúa, xét là Đấng Tuyệt Đối
đã chết trong ngôn ngữ loài người, nhưng con người và sứ điệp của Đức Giêsu vẫn
sống mãi trong tâm thức của nhân loại. Ngài vẫn ảnh hưởng trên lịch sử và không
ngừng mời gọi con người sống giới răn yêu thương.
Người khác coi Đức Giêsu như "Thần
Tượng", Siêu Nhân, Lý Tưởng phải đạt tới, như Mẫu Mực phải tuân theo.
Người khác nữa coi Đức Giêsu là chóp đỉnh của lịch
sử, bông hoa của vũ trụ, triều thiên của nhân loại.
Con người hôm nay, với não trạng "trần
tục", khó tin ở một "NGƯỜI - CHÚA", nửa giống con người, nửa
giống Thiên Chúa ; là con người và là Thiên Chúa. Nhiều người khó chấp nhận
thực tại bên ngoài hay bên trên con người. Họ có thể yêu Đức Giêsu, nếu Ngài
không ở bên trên hoặc ở bên ngoài, nhưng ở bên trong, ở giữa...
Trong lịch sử tư tưởng hiện đại, một số khuynh
hướng triết học và thần học nỗ lực định vị Đức Giêsu trong thế giới con người.
Ngài là người giữa loài người.
Thế giới hôm nay cũng chứng kiến những khát vọng
vươn lên tuyệt đỉnh, vượt qua không ngừng. Các nỗ lực và ước vọng của nhân loại
thường được tô màu thiêng thánh : Tổ quốc thiêng liêng, Cách mạng thần thánh,
Khoa học siêu phàm, Tình yêu tuyệt đối... Do đó có người coi Đức Giêsu như "Biểu
Tượng" của những gì đẹp nhất trong con người. Ngài kết tụ nơi mình
những giá trị thiêng liêng, thần thánh. Ngài là Đấng đáng yêu nhất. Thế giới và
lịch sử không có lối thoát nào khác ngoài Người. Đức Giêsu trở thành một "Huyền
thoại", một nguyên mẫu cần thiết cho nhân loại.
Trong các chiều hướng tư tưởng mới mẻ, có nhiều yếu
tố chân lý phải lưu tâm. Không thể đơn thuần và tiên thiên gạt bỏ. Những ai có
biết chút ít lịch sử thần học, không khỏi liên tưởng đến những vấn đề do Ariô
đã đặt ra cách đây hơn 16 thế kỷ : Đức Giêsu có phải là Thiên Chúa đích thực
không ? Thiên Chúa là Đấng không có khởi nguyên và không được sinh ra cơ mà ?
Nếu là Thiên Chúa vô hình và vĩnh cửu, làm sao Đức Giêsu gần gũi với con người
?
Dĩ nhiên các phạm trù tư tưởng ngày nay khác với
hôm qua. Cách đặt vấn đề cũng khác. Nhưng có lẽ vấn đề chỉ là một.
Người thời nay không thích các phạm trù hữu thể
học, nên có cảm tưởng vấn đề của họ hoàn toàn mới mẻ so với vấn đề của Ariô đã
quá cổ xưa. Thực ra, chỉ là một vấn đề : Người ta bảo Con Người là ai ?
Vấn đề của Ariô cũng là vấn đề được đặt ra trong
Kinh Thánh, vấn đề của người Dothái, vấn đề của các Tông đồ : Nếu tin chỉ có
một Thiên Chúa Giavê, làm sao chấp nhận ông Giêsu là Thiên Chúa ? Có thể đồng ý
Người là Ngôn sứ của Thiên Chúa, Tôi tớ của Thiên Chúa, Con Thiên Chúa theo
nghĩa "Đấng được Thiên Chúa tuyển chọn" ; nhưng tôn sùng Người
là Thiên Chúa đi ngược niềm tin độc thần tuyệt đối.
Người hôm nay đã trải qua một quá trình lịch sử lâu
dài và tích lũy nhiều kinh nghiệm quý báu, nên có cảm tưởng mình thực tế hơn,
còn các tranh luận của Ariô quá xa vời, không ăn nhập gì với đời sống hiện tại.
Thực ra cơ bản vẫn là một : Đức Giêsu thuộc thế giới thần linh, Ngài có liên hệ
gì tới thế giới con người ?
Ngài là ai ? Câu hỏi vắn tắt này vẫn
là câu hỏi nhân loại hôm nay và của mỗi một người chúng ta. Nhiều người thích
trả lời một cách cụ thể, sống động, hiện sinh : "Đối với tôi, Ngài là..."
Nhưng không thể dừng lại ở bình diện tâm tình, hiện
sinh mà phải vượt qua và đi đến bình diện hữu thể, cho dù không thích phạm trù
hữu thể : Ngài là ai ? Đó là một câu hỏi đi tìm chân tính. Không
thể lấy cớ dừng lại ở những lời Kinh Thánh để từ khước trả lời.
Câu hỏi và những cố gắng giải đáp đã có trước Ariô.
Nhưng chưa bao giờ đặt ra một cách gay gắt trên bình diện hữu thể.
Trước ông, bình diện hiện sinh quan trọng hơn. Và
phải công nhận rằng Kinh Thánh chú ý nhiều hơn tới bình diện này. Nhưng với
thời gian, không thể tránh được sự thay đổi bình diện. Và một khi câu hỏi đã
đặt ra trên bình diện hữu thể không thể quay ngược lại nữa. Nếu có trở lại để
cho hiểu biết của chúng ta về Thiên Chúa sống động hơn, hiện sinh hơn, vẫn phải
hiểu ngầm bình diện hữu thể.
Câu hỏi của Ariô được đặt ra
trong bối cảnh tư tưởng độc thần. Chỉ có Một Thiên Chúa Duy Nhất là Cha, Đấng
không được sinh ra và không được tạo thành, vậy thì Đức Kitô là ai ?
Nếu Đức Kitô là Thiên Chúa như
Thiên Chúa Cha, không còn niềm tin độc thần nữa, mà điều khoản quan trọng nhất
của đức tin Công giáo là : Chỉ có Một Thiên Chúa, chỉ có một Đấng không được
sinh ra, chỉ có một Đấng vĩnh cửu, chỉ có một Đấng không có khởi đầu, chỉ có
một Thiên Chúa đích thực, chỉ có một Đấng bất tử... (Athanase ; De synodis, 16
).
Điều khoản này tựa trên lời Kinh
Thánh và biểu lộ đức tin của toàn thể Dân Chúa : "Israel, hãy nghe đây,
Giavê Chúa các ngươi là Thiên Chúa Duy Nhất". (Đnl 6,4)
Có thể trình bày điều khoản này
dưới hình thái phủ định : " Không có ai bằng Thiên Chúa, không có ai
giống Thiên Chúa, không có ai vinh quang như Thiên Chúa".
Vậy Đức Kitô là ai ?
Câu trả lời độc thần phải là :
"Thiên Chúa là Đấng không được sinh ra, đối chiếu với kẻ tự bản chất đã
được sinh ra ; Thiên Chúa là Đấng không có Nguồn gốc, so với kẻ có một nguồn
gốc ; Thiên Chúa là Đấng vĩnh cửu, so với kẻ sinh ra trong thời gian".
Giải đáp của Ariô muốn bảo toàn
nguyên vẹn đức tin độc thần.
Ariô không chấp nhận ý tưởng
"Nhiệm sinh vĩnh cửu". Ông nêu ra ba lý do :
- Nếu từ đời đời, Thiên Chúa
sinh ra Chúa Con, thì sự sinh ra này chia cắt và biến đổi bản thể thần linh ;
mà Thiên Chúa là Đấng bất biến, đơn thuần, vô hình và bất khả phân chia...
- Đàng khác, nếu Chúa Con đồng
hiện hữu với Chúa Cha, sẽ có hai "Nguyên Lý Tuyệt Đối" ; và Chúa Con
là Đấng vừa không được sinh ra vừa luôn được sinh ra.
- Cuối cùng, nếu Chúa Con phát
sinh từ Chúa Cha, Ngài sẽ là một thần linh theo kiểu các lý thuyết ngộ đạo chủ
trương.
Nói tóm lại, theo Ariô, sự nhiệm
sinh trong Thiên Chúa sẽ hủy hoại chính Thiên Chúa.
a-Chúa Con không vĩnh cửu
Hai công thức khởi đầu của lạc thuyết Ariô đã trở
thành rất quen thuộc đối với Giáo Hội : "Đã có lúc Ngôi Lời không hiện
hữu" ; "Trước khi được sinh ra, Chúa Con chưa hiện hữu".
Thiên Chúa khác với con người. Các ưu phẩm của Ngài
là những ưu phẩm phủ định : Đấng Bất Biến, Bất Tử, phi thời gian hay Vĩnh Cửu.
Phải tách rời Thiên Chúa ra khỏi thế giới chóng qua, hay thay đổi của loài
người.
Khẳng định rằng Đức Kitô không vĩnh cửu có nghĩa là
xếp loại Ngài vào thế giới tạo vật. Ý tưởng này biểu lộ rõ ràng trong một vài
đoạn của một tác phẩm có tên là "THALIA".
"Thiên Chúa không phải là Cha từ đời đời, có
một lúc Thiên Chúa chỉ ở một mình và chưa phải là Cha. Sau đó Người mới trở
thành Cha. Chúa Con không hiện hữu từ đời đời. Đã có lúc Ngài không hiện hữu.
Ngài không hiện hữu trước khi sinh ra, nhưng Ngài có khởi đầu, nghĩa là được
tạo dựng". (Oratio contra Arianos 5)
Vì gặp nhiều khó khăn khi công bố lý thuyết của
mình, có lúc Ariô thay đổi hoặc thêm vào một số từ ngữ để được chấp nhận là
chính thống :
"Vì là nguyên nhân của mọi loài, Thiên Chúa
không có Khởi Nguyên và tuyệt đối một mình. Chúa Con, được sinh ra bởi Chúa Cha
ngoài thời gian. Ngài đã được tạo dựng và hình thành trước các thế kỷ. Ngài
không hiện hữu trước khi được sinh ra, nhưng được sinh ra ở ngoài thời gian,
trước mọi sự, Ngài đã bắt đầu hiện hữu nhờ Chúa Cha. Ngài không vĩnh cửu, không
đồng vĩnh cửu, không đồng bất sinh với Chúa Cha. Ngài không hiện hữu đồng thời
với Thiên Chúa, khác với một số người chủ trương rằng Ngài và Chúa Cha là những
hữu thể tương quan như hai nguyên lý cội nguồn. Vì là Khởi Nguyên độc nhất của
mọi loài, Thiên Chúa có trước mọi sự. Do đó Người có trước Chúa Con". (Athanase,
De synodis 16 )
b-Thiên Chúa dựng nên
Chúa Con từ hư vô và do ý muốn của chính mình
Ý tưởng này biểu lộ trong lá thư tâm sự của Ariô
gửi cho Eusêbiô, giám mục thành Nicômêđia :
"Chúng tôi bị bắt bớ vì đã nói rằng Ngôi Lời
được rút ra từ hư vô. Chúng tôi đã nói như vậy về Chúa Con, vì Ngài không phải
là một thành phần của Thiên Chúa và Ngài không phát sinh từ một thực tại đã
có". (S. Epiphane, Panarion Haer LXIX, 6)
"Vì Thánh Ý của Chúa Cha, mà Chúa Con đã được
tạo dựng trước thời gian và các niên kỷ, đã lãnh nhận từ Chúa Cha sự sống và
vinh quang". (S. Athanase Synodis 16 )
Thiên Chúa đã dựng nên Ngôi Lời, hay là Minh Trí
hoặc Chúa Con, và nhờ Chúa Con, Người tạo dựng vũ trụ và tất cả chúng ta.
Theo Athanasiô, Ariô chủ trương có hai Minh Trí :
- Thứ nhất là Minh Trí của Thiên Chúa đồng hiện hữu
với Thiên Chúa.
- Thứ hai là Chúa Con được dựng nên trong Minh Trí,
và được gọi là Minh Trí hay là Lời, vì được tham gia vào Minh Trí. Ngài là khôn
ngoan đã hiện hữu vì sự Khôn ngoan, nghĩa là do Thánh Ý của Thiên Chúa vô cùng
khôn ngoan.
Trong tác phẩm THALIA, Ariô nói
rõ : Ngôi Lời không phải là Thiên Chúa đích thực, mặc dù được gọi là Thiên
Chúa". Ngài là Chúa nhờ ân sủng của Thiên Chúa.
Tất cả những gì không phải là
Thiên Chúa đều có bản tính khác Thiên Chúa ; Ngôi Lời không phải là Thiên Chúa,
nên hoàn toàn khác biệt với Chúa Cha về bản tính và ưu phẩm. Ngài thuộc về thế
giới tạo vật.
Đấng Nguyên Thủy Vô Nguyên đã làm
cho Ngôi Lời nên Nguyên Nhân các tạo vật ; sau khi đã dựng nên Ngài, Thiên Chúa
đã tuyển chọn Ngài làm Con. Do đó Chúa Con không có gì là thiên tính trong bản
thể của chính mình. Xét về bản tính, Chúa Cha xa lạ với Chúa Con, vì Người là
Đấng không có Khởi Nguyên.
Bản tính của Ngôi Lời giống như chúng ta là
"đổi thay". Người tốt lành bao lâu Người muốn qua các hành vi tự do.
Như chúng ta, Người có thể thay đổi khi Người muốn ; bởi vì bản chất của Người
là "đổi thay". Thiên Chúa tiên liệu là Người sẽ tốt lành, nên đã ban
cho Người vinh quang, trước khi Người xứng đáng lãnh nhận qua các hành vi nhân
đức trong kiếp sống nhân loại.
Khác với Chúa Cha, Chúa Con là Đấng bất toàn. Ngài
không thấy và không biết trọn vẹn Chúa Cha. Ngài chỉ thấy và biết Chúa Cha theo
mức độ của mình. Đối với Ngài, Chúa Cha vẫn là Đấng Khôn Tả.
Ngoài bốn ý tưởng sai lạc chủ yếu, Ariô còn chủ
trương rằng Đức Giêsu Kitô không có linh hồn nhân loại, và chính Ngôi Lời, khi
nhập thể, đóng vai trò này. Tư tưởng này báo trước lạc thuyết Appollinaire chủ
trương Ngôi Lời là phần Tuệ Trí của Đức Giêsu Kitô.
Một sai lầm nữa của Ariô là chối thiên tính của
Thánh Thần. Cha, Con và Thánh Thần hoàn toàn khác biệt nhau, xét về bản tính,
quyền năng và vinh quang. Thánh Thần còn thấp kém hơn Chúa Con và tùy thuộc vào
Chúa Con.
Công đồng Nicê họp năm 325, do
hoàng đế Constantinô triệu tập, là Đại Công Đồng đầu tiên và rất quan trọng
trong lịch sử Giáo Hội.
Việc chuẩn bị Công đồng, tranh
luận trong Công đồng và thời gian hậu Công đồng là một vấn đề phức tạp không
thể trình bày tỉ mỉ. Chúng ta chỉ có thể nói tới đức tin của Công Đồng Nicê,
một mặt chống lại lạc giáo Ariô, mặt khác xác định rõ hơn nội dung tín điều
Thiên Chúa Ba Ngôi. Tín điều Nicê là một tín điều Kitô và cũng là một tín điều
Ba Ngôi (là tín điều Ba Ngôi vì là tín điều Kitô). Đó là một trường hợp tiêu
biểu cho thấy hai mầu nhiệm Kitô và Ba Ngôi liên hệ mật thiết không thể tách
rời.
Lúc đầu các nghị phụ muốn dùng
từ ngữ Kinh Thánh để tuyên xưng đức tin của Giáo Hội : Lời Thiên Chúa bởi Thiên
Chúa, là Con Thiên Chúa, là Hình ảnh của Thiên Chúa Cha...
Eusêbiô thành Kaisaria đề nghị
lời tuyên tín phép Rửa được dùng trong Giáo Hội của ông, các nghị phụ chấp
nhận, nhưng sửa đổi rất nhiều, đặc biệt là những điều khoản liên hệ đến Chúa
Con, Công đồng tuyên xưng một cách minh nhiên rõ ràng : Đức Kitô là Con Thiên
Chúa, sinh bởi Thiên Chúa Cha, nghĩa là sinh từ bản thể Chúa Cha, là Thiên Chúa
bởi Thiên Chúa, được sinh ra mà không phải tạo thành, đồng bản tính với Đức
Chúa Cha.
Từ ngữ gây tranh luận nhiều và
sôi nổi là chữ "O m o o u d i o s", vì chữ này đã có lần bị một công đồng địa
phương lên án lạc đạo (Antiokia 268), vì không công nhận tính thực hữu của Ngôi
Con. Nhưng từ này được Giáo Hội Latinh ủng hộ đặc biệt vì nó giúp chống lại chủ
trương đa thần (ba Chúa). Hoàng đế Constantinô cũng đồng ý sử dụng. Sau khi đã
thống nhất về chữ "Đồng Bản Thể", Công đồng hoàn thành Bản
Tuyên Tín và lên án các sai lầm của lạc thuyết Ariô :
"Ai nói rằng đã có lúc Ngôi
Lời không hiện hữu, trước khi sinh ra, Người không hiện hữu, và Người đã được
tạo thành từ hư vô hoặc từ một bản thể khác, phải vạ tuyệt thông".
"Ai nói rằng Con Thiên Chúa
được dựng nên làø hữu thể bất toàn, biến dịch, cũng phải vạ tuyệt thông của Giáo
Hội Công giáo".
Trừ hai vị, tất cả các nghị phụ
có mặt tại Công đồng đều ký vào bản Tuyên tín. Tuy không chấm dứt được mọi
tranh luận và xâu xé trong nội bộ Giáo Hội thời bấy giờ, Công Đồng Nicê đã đánh
dấu một bước tiến quan trọng, đặc biệt là trong lĩnh vực tín lý. Nội dung Đức
tin được xác định rõ ràng dứt khoát, và từ đó không ai có thể tự xưng mình là
Kitô-hữu, nếu tự ý ra ngoài các điều đã xác định.
Với Công đồng Nicê, Giáo Hội đã
vượt trên lập trường bảo thủ từ khước những chữ không có trong Kinh Thánh, đồng
thời quyết liệt chống lại lập trường Duy lý của Ariô giải thích mầu nhiệm bằng
những biện chứng của lý trí, và giản lược Thiên Chúa vào khuôn khổ đầu óc con
người.
Từ ngữ "Đồng Bản
Thể" giúp Công đồng tránh được hai thái độ cực đoan. Nó trình bày chân
lý trong Kinh Thánh dưới dạng "tín lý". Dạng này cần thiết vì
những sai lầm xuất hiện khiến Giáo Hội phải khẳng định niềm tin của mình. Chân
lý mạc khải vẫn là một, nhưng được hiểu rõ ràng và chính xác hơn trên một bình
diện khác nối dài bình diện hiện sinh.
Ngày nay, vì con người không mấy
thích bình diện hữu thể, từ ngữ "đồng bản thể" ít được dùng.
Nhưng không ai được ra ngoài nội dung của từ ngữ. "Đồng Bản Thể"
trở thành từ ngữ giới hạn : chúng ta có quyền trình bày cách khác, nhưng không
được hiểu khác. Đức tin Công giáo không chấp nhận tình trạng mơ hồ, nhưng tuyên
xưng thẳng thắn rằng Đức Kitô là Thiên Chúa. Không phải vì thế mà có ba Chúa.
Vẫn chỉ có Một Thiên Chúa Duy Nhất và Đức Kitô là một với Người.
Từ ngữ "Đồng Bản
Thể" còn là giới hạn theo một nghĩa thứ hai là đặt con người trước một
huyền nhiệm khôn dò thấu : Đức Kitô là một với Thiên Chúa Cha, nhưng không là
Thiên Chúa Cha. Chúng ta tin chỉ có Một Thiên Chúa, nhưng đồng thời Đức Kitô
cũng là Thiên Chúa.
Bản Tuyên tín của Công đồng rất dứt
khoát và rõ ràng, dù vậy cũng còn nhiều thiếu sót : Công đồng không nói tới
việc Chúa Cha sinh ra Chúa Con từ đời đời, cũng không nói tương quan giữa tính
duy nhất và Ba Ngôi Vị trong Thiên Chúa.
Ở đây chúng tôi ghi lại cả hai
bản tuyên tín của Giám mục Eusêbiô thành Kaisaria và của Công đồng Nicê để độc
giả đối chiếu :
Tuyên Tín của Giám
Mục Eusêbiô
* "Chúng tôi tin
một Thiên Chúa duy nhất là Cha toàn năng, Đấng tạo thành mọi sự hữu hình và vô
hình.
** Một Đức Giêsu Kitô
Ngôi Lời của Thiên Chúa, ánh sáng bởi ánh sáng, sự sống từ sự sống, là Con duy
nhất, trưởng tử giữa các loài tạo vật, sinh bởi Chúa Cha từ trước muôn đời. Nhờ
Người muôn vật được tạo thành. Để cứu rỗi chúng tôi Người đã trở nên xác phàm
và ở giữa chúng tôi, Người đã chịu khổ hình và sống lại ngày thứ ba. Người lên
trời và
Tuyên tín của Công
đồng Nicê
* Chúng tôi tin một
Thiên Chúa là Cha Toàn năng tạo dựng muôn vật hữu hình và vô hình.
** Một Chúa Giêsu Kitô
Con Thiên Chúa, Đấng duy nhất sinh bởi Chúa Cha, nghĩa là từ bản thể Chúa Cha, là
Thiên Chúa bởi Thiên Chúa, ánh sáng bởi ánh sáng, Thiên Chúa thật bởi Thiên
Chúa thật. Người được sinh ra mà không phải tạo thành, đồng bản thể với Đức
Chúa Cha. Nhờ Người muôn vật được tạo thành
sẽ trở lại trong vinh
quang để phán xét kẻ sống và kẻ chết.
*** Chúng tôi tin một
Thánh thần. Chúng tôi tin mỗi vị đều hiện hữu thực sự. Cha đích thực là Cha.
Con đích thực là Con. Thánh Thần đích thực là Thánh Thần. Như chính Chúa đã nói
khi sai các Tông đồ rao giảng : " Hãy đi và giảng dạy chư dân..."
trên trời dưới đất. Vì
chúng tôi và để cứu rỗi chúng tôi, Người đã từ trời xuống thế, đã nhập thể làm
người, đã chịu khổ hình, đã sống lại ngày thứ ba, đã lên trời và trở lại phán
xét kẻ sống và kẻ chết.
*** Chúng tôi tin
Thánh Thần".
Nếu so sánh hai Bản Tuyên Tín,
phải công nhận bản của giám mục Eusêbiô thành Kaisaria gần với từ ngữ Kinh
Thánh hơn.
Nhưng nếu xét về nội dung, thì
không đầy đủ và rõ ràng như Bản Tuyên Tín của Công đồng Nicê. Công đồng đã phải
thêm vào một số từ ngữ để xác định lập trường chống lạc giáo Ariô. Công đồng :
- Thay chữ "Lời Thiên
Chúa" bằng chữ "Con Thiên Chúa"
- Thêm vào sau chữ "sinh
ra từ Chúa Cha" chữ "từ bản thể Chúa Cha, là Thiên Chúa bởi
Thiên Chúa"
- Giải thích từ ngữ "sinh
ra" bằng từ ngữ "không được tạo thành"
- Đưa vào chữ "đồng bản
thể với Đức Chúa Cha".
Đối với các kitô-hữu trong 3 thế kỷ đầu công
nguyên, Thánh Thần là Thần Linh, là Quyền Năng sáng tạo và cứu độ, là Ánh Sáng
mạc khải, hướng dẫn cộng đoàn, và cũng là Hồng Ân thời Messia được đổ tràn vào
tâm hồn các tín hữu.
Thánh Thần là Thần Khí Chúa Kitô, vì Đức Kitô là
Đấng được xức dầu Thần Khí, đầy tràn Thần Khí, và là Đấng Trung Gian ban phát
Thần Khí của Chúa Cha cho tất cả những ai tin vào Ngài.
Theo nhiều học giả, trong giai đoạn này, chưa có ý
thức minh nhiên về Ngôi Vị Thánh Thần giống như Ngôi Vị Chúa Cha và Ngôi Vị
Chúa Con. Ngài là Hồng Ân của Thiên Chúa và là Quyền Năng cứu độ của Thiên
Chúa, có quan hệ mật thiết với nhũng gì xảy ra cho Đức Giêsu Con Thiên Chúa.
Dựa trên ngôn ngữ của Kinh Thánh, Thánh Atanasio và
Hilario không bao giờ gọi Thánh Thần là Thiên Chúa (Theos). Chính trong khi bàn
luận về Thần Tính của Chúa Thánh Thần, ý thức và sự minh nhiên hóa càng ngày
càng rõ ràng hơn nội dung đức tin Chúa Thánh Thần đồng bản thể với Chúa Cha
và Chúa Con, chống lại lạc giáo Macédoniens chối thần tính của Chúa
Thánh Thần. Nội dung đức tin này được xác quyết và định tín tại Công Đồng
Constantinople I năm 381.
Các thư của Atanasio gởi Sérapion và tác phẩm De
Spiritu Sancto (về Chúa Thánh Thần) của Basilio giúp chúng ta hiểu
một cách đại cương các vấn nạn mà nhóm Macédoniens đặt ra. Nhóm này tin sự duy
nhất và đồng bản thể giữa Chúa Cha và Chúa Con, nhưng chối thần tính của Chúa
Thánh Thần. Thánh Thần là một trong những thần linh phục vụ, chỉ khác
biệt với các thiên thần về cấp bậc. Như vậy Ba Ngôi không thực sự là Ba Ngôi
ngang bằng nhau. Thánh Atanasio coi quan niệm này là lạc giáo, và khẳng định
Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần cùng hoạt động tạo dựng cũng như cứu độ,
vì có cùng một bản thể thần linh.
Chúa Thánh Thần thánh hóa, làm cho chúng ta thông
phần thần tính của Thiên Chúa (thần hóa). Sự hiện diện của Ngài làm cho thân
thể người kitô-hữu trở nên Đền Thờ của Thiên Chúa (1 Cr 3,16-17). Đối với
Atanasio, chính nguyên lý cứu chuộc học giúp nhận ra đức tin chính thống. Công
việc thần hóa của Chúa Thánh Thần là bằng chứng chắc chắn về thần tính
của Ngài.
Qui luật cầu nguyện là qui luật đức tin. Chính vì
thế những kẻ rối đạo không tôn thờ Chúa Thánh Thần cùng với Chúa Cha và Chúa
Con. Còn đối với thánh Basilio thì không còn nghi ngờ gì nữa về cả 3 Danh Xưng
trong công thức rửa tội (Mt 28,19) chỉ Ba Đấng ngang hàng. Công thức rửa tội
diễn tả chính xác niềm tin của Giáo Hội Công Giáo. Để làm nổi bật sự đồng
bản thể của Chúa Thánh Thần với Chúa Cha và Chúa Con, vì Chúa Thánh Thần là
đối tượng cùng được tôn thờ với Chúa Cha và Chúa Con, Basilio thay vào câu chúc
tụng Vinh Danh Chúa Cha nhờ Chúa Con trong Chúa Thánh Thần, câu chúc
tụng mới là Vinh Danh Chúa Cha cùng với Chúa Con và cùng với Chúa Thánh
Thần.
Đó là con đường dẫn tới Công Đồng Constantinople I
khẳng định Chúa Thánh Thần chia sẻ cùng bản tính thần linh với Chúa Cha và Chúa
Con. Công đồng không dùng ngôn ngữ Công Đồng Nixê để diễn tả Chúa Con đồng bản
thể với Chúa Cha. Công đồng chọn cách diễn tả sống động hơn và có đặc tính
phụng vụ nhiều hơn. Công đồng tránh dùng chữ homoousios, và không nhấn mạnh
chút nào việc Chúa Thánh Thần phát xuất từ bản thể Chúa Cha.
Công đồng khẳng định cách tích cực Thánh Thần là Chúa
(Kurios) và là Đấng Ban Sự Sống. Được gọi là Chúa, Ngài thuộc về thế giới
thần linh, không là tạo vật ; Ngài hoàn toàn siêu việt đối với vũ trụ. Là Đấng
ban sự sống, Ngài có vai trò tạo dựng, Ngài có sự sống từ đời đời ; Ngài không
chỉ là Hồng Ân sự sống, mà còn là Đấng ban sự sống cho loài
người. Để nói lên nguồn gốc của Ngài bởi Chúa Cha và phân biệt Ngài với Chúa
Con, Công Đồng dùng chữ phát xuất (ekporèse), vì Chúa Thánh Thần không
được sinh ra như Chúa Con được Chúa Cha sinh ra. Vì có tương quan nguồn gốc đặc
biệt với Chúa Cha và Chúa Con, Ngài xứng đáng cùng được phụng thờ với Chúa Cha
và Chúa Con.
Để chống lại khuynh hướng ngộ đạo thuyết, Công Đồng
nhấn mạnh tác động của Chúa Thánh Thần trong lịch sử, hoạt động của Ngài trong
các biến cố lịch sử của Dân Israel. Để nối kết Cựu Ước với Tân Ướùc, Công Đồng
dùng thành ngữ Ngài đã phán dạy qua các tiên tri.