SUY NIỆM THẦN HỌC
VÀ TU ĐỨC
VỀ MẦU NHIỆM BA NGÔI
ĐGM PHAOLÔ BÙI VĂN ĐỌC
I. CHÚA CHA LÀ NGUỔN SUỐI TÌNH YÊU
Thiên Chúa là Tình Yêu, là Nguồn Suối mọi tình yêu.
Thánh Gioan dùng những cách nói rất cụ thể để diễn tả Thiên Chúa là Nguồn
Suối Tình Yêu : - Lòng mến (Tình yêu) phát xuất từ Thiên Chúa ; - Ai yêu
mến thì sinh bởi Thiên Chúa và biết Thiên Chúa ; - Ai không yêu mến thì không
biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là Tình Yêu (1 Ga 4, 7-8).
Nếu xét theo văn mạch, tác giả thư I Gioan nhấn
mạnh nhiều hơn đến lịch sử cứu độ, cũng là lịch sử mạc khải tình yêu của Thiên
Chúa, mà trọng tâm là việc Thiên Chúa sai Con Một Người đến trần gian, để
nhờ Con Một của Người mà chúng ta được sống (c. 9) , làm của lễ đền tội
cho chúng ta (c.10), làm Đấng cứu độ thế gian (c. 14). Cái nhìn của
Gioan về Thiên Chúa Tình Yêu là cái nhìn cứu chuộc học.
Nếu chúng ta đọc kỹ hơn, thì sẽ nhận ra cái gốc của
lịch sử cứu độ, chính là bản chất của Thiên Chúa. Thiên Chúa, tự bản chất là
yêu thương và là nguồn gốc của mọi tình yêu. Và đó là nền tảng của lịch sử
cứu độ. Và chữ Thiên Chúa ở đây chắc chắn phải hiểu là Chúa Cha. Cứ
sự thường, khi nói đến tình yêu nơi Thiên Chúa, người ta nghĩ đến Chúa Thánh
Thần. Nhưng rõ ràng ở đây, tác giả Gioan dùng chữ Tình Yêu để định nghĩa
Thiên Chúa, nói lên bản chất đích thực của Thiên Chúa.
Giáo phụ và Huấn quyền còn nói rõ hơn, khi trình
bày mầu nhiệm Tình Yêu nơi Thiên Chúa : Chúa Cha là Tình Yêu khởi Nguồn (Amor
Originans), là Tình Yêu Sinh Hạ (Amor Generans), là Lòng Mến Phong Nhiêu
(Caritas fecunda).
Để phân biệt với Chúa Con và Chúa Thánh Thần, cũng
tự bản chất là Tình Yêu, nguồn suối mọi tình yêu, và mọi thực tại, Giáo phụ và
Huấn quyền dùng những từ ngữ nhấn mạnh đặc biệt tư cách Nguồn Gốc Tuyệt Đối của
Thiên Chúa Cha :
- Chúa Cha là Khởi Nguyên không có khởi nguyên (Principium
sine principio)
- Chúa Cha là Nguồn khởi nguồn (Origo
Originans).
- Chúa Cha là Nguồn Mạch (Fons fontalis).
Dựa trên Mạc Khải, Huấn Quyền còn lập đi lập lại Chúa
Cha là Nguồn Suối của Thần Tính (Fons Deitatis), là Nguồn Sinh (
Principium Generans).
Chiêm ngắm Chúa Cha dựa vào Gioan , hay dựa vào
Giáo Phụ và Huấn quyền, chúng ta thấy rõ đó là hai cách diễn tả cùng một thực
tại. Cách của Gioan là dùng lịch sử cứu độ để minh họa tình yêu của Chúa Cha,
cách của Huấn Quyền là dùng những từ ngữ rõ, cô đọng, nhưng cả hai đều nhấn
mạnh đặc tính, cương vị Nguồn Gốc của Chúa Cha.
Chúng ta hãy dừng lại và suy nghĩ về chữ Nguồn.
Nguồn là gì ? Bản chất của Nguồn là gì ? Nếu dùng hình ảnh mà diễn tả, thì bản
chất của Nguồn là Tuôn Chảy, Tuôn Ra, Mở Ra, Tuôn Đổ. Bản chất của Nguồn
là không giữ lại chính mình, là cho đi tất cả. Nếu nguồn giữ lại
chính mình, tức khắc trở thành ao tù nước đọng, chứ không còn là nguồn nữa.
Ứng dụng hình ảnh này cho Mầu Nhiệm Chúa Cha
trong Tin Mừng Gioan, chúng ta thấy rất đúng : Chúa Cha yêu mến Chúa Con và cho
Chúa Con tất cả, không giữ lại cho mình gì cả :
- Chúa
Cha cho Chúa Con các công việc để chu toàn (Ga 5, 36).
- Chúa
Cha cho Chúa Con đặc quyền phán xử (Ga 5, 22-27).
- Chúa
Cha cho Chúa Con quyền năng trên mọi tạo vật (Ga 17,2).
- Chúa
Cha ban cho Chúa Con mọi sự trong tay (Ga 3,35 ; 13,3).
- Chúa
Cha cho Chúa Con tất cả, nên mọi sự của Cha là của Con (Ga 16,15 ; 17,10), kể
cả sự sống thần linh (Ga 5,26).
- Chúa
Cha ban cho Chúa Con chính bản thân mình, chính sự sống của mình, nên Con sống
nhờ Cha (Ga 5,26 ; 6,57).
Dùng hình ảnh Nguồn Nước ứng dụng cho Chúa
Cha trong tương quan với Chúa Con, chúng ta có thể suy tư : Chúa Cha sinh ra
Chúa Con và hiện hữu trong Chúa Con như Nguồn Nước sinh ra Nước Nguồn và hiện
hữu trong Nước Nguồn. Như vậy sinh ra là cho đi chính mình, là cho
tất cả, là tự hiến trọn vẹn. Và bản chất của Thiên Chúa, của Chúa
Cha, là Tự Hiến. Trước hết đó là một sự tự hiến nội tại cho nhau, một sự đón
nhận lẫn nhau, mà Nguồn Gốc đầu tiên là Chúa Cha. Tất cả bởi Cha và tất cả trở
về với Cha. Tình Yêu thần linh nơi Chúa Cha giống như Nguồn Nước không giữ lại
chính mình, trái lại còn từ bỏ chính mình, cho đi chính mình, và vì sự từ bỏ
này mà có Chúa Con. Sự từ bỏ nằm trong chính nguồn gốc của tình yêu và sự sống,
nằm trong chính Thiên Chúa, và chính vì thế, là điều hết sức quan trọng đối với
đức tin kitô-giáo của chúng ta.
Trong lịch sử cứu độ, khi Chúa Cha ban Con Một của
Người cho chúng ta, Người tự hiến cho chúng ta trong Con Yêu Yêu Dấu của Người.
Sự tự hiến này thể hiện được trong Chúa Thánh Thần, vì Chúa Thánh Thần là Thần
Khí, là Sự Sống của Chúa Cha và là Sự Sống của Chúa Kitô, Con Một của Cha. Chúa
Thánh Thần vừa là Ngôi Vị, vừa là Hồng Ân.
Có thấu hiểu được tình yêu của Chúa Cha đối với
Chúa Giêsu, chúng ta mới thấy được tất cả các chiều kích của tình yêu mà Chúa
Cha dành cho chúng ta. Và có yêu quý Chúa Giêsu, chúng ta mới cảm nghiệm được
tình yêu của Cha và cảm tạ Cha. Càng khám phá Chúa Giêsu, chúng ta càng yêu
Cha, yêu Cha cùng với Chúa Giêsu và trong Chúa Giêsu.
II. MẦU NHIỆM CHÚA CON
Yêu thương là đón nhận và dâng hiến
Chúa Cha là Thiên Chúa Hằng Sống, là Tình Yêu Hằng
Sống (Vivens Pater, Ga 6,57), là Vị Thiên Chúa cởi mở (le Dieu ouvert). Sự cởi
mở nguyên thủy của Chúa Cha là "trao ban". Yêu thương nơi Chúa
Cha là trao ban sự sống mình. Sự sống được trao ban ấy làm thành sự sống của
Chúa Con.
A. Chúa Con đón nhận sự sống từ Chúa Cha
Sự sống của Chúa Con là sự sống của Cha, "Sự
Sống đón nhận từ Cha", là "Sự Sống bởi Sự Sống", là
Sự Sống được sinh ra. Lẽ Sống của Chúa Con là "đón nhận" Chúa Cha.
Đối với Chúa Con, yêu thương là không ngừng đón nhận Cha, đón nhận Cha cách
trọn vẹn. Chính sự đón nhận này làm nên cuộc sống của Chúa Con, là niềm vui và
hạnh phúc của Chúa Con.
Đặc điểm của Chúa Con là "đón nhận".
Chúa Con đón nhận Tình Yêu và Sự Sống từ nơi Cha (Ga 5,26 ; 6,57), đón nhận Tư
Tưởng và Ý Muốn của Cha (Ga 4,34), đón nhận Giáo Lý và Lời của Cha (Ga 7,16 ;
8,28 ; 12, 49), công việc và chương trình của Cha (Ga 5,19-21 ; 10,25. 32. 37 ;
14,31). Chúa Con không có gì cả, tất cả là của Chúa Cha. Nhưng tất cả những gì
của Cha là của Con (Ga 16,15 ; 17,10), vì Cha đã ban cho Con mọi sự trong tay
(Ga 5,20 ; 13,3).
Cuộc sống của Chúa Con như luôn "qui
hướng" về Cha để lãnh nhận sự sống. Mà sự sống ấy là chính Cha, là Bản
Thân Cha, là Bản Thể của Cha. Vì đón nhận trọn vẹn Bản Thể của Cha, nên Con mới
có cùng bản thể với Cha, là "Ánh Sáng bởi Ánh Sáng", là
"Thiên Chúa thật bởi Thiên Chúa thật, được sinh ra mà không phải tạo
thành" (Kinh Tin Kính Nicéeconstantinople).
Chúa Con đón nhận Chúa Cha trọn vẹn đến nỗi tất cả
Chúa Cha ở trong Chúa Con và Cha với Con là một. Chúa Con sung sướng vì có Chúa
Cha trong mình (Ga 17,21). Người là Đấng "mang Thiên Chúa" (Theophore).
Chúa Con mãi mãi "đón nhận", nên
mãi mãi là Con. Chúa Cha là Tình Yêu Sinh Hạ, Chúa Con là Tình Yêu được sinh
ra. Chúa Con giống Chúa Cha mọi đàng, là Hình Ảnh Trọn Hảo của Cha. Nhưng so
với Chúa Cha, thì Chúa Con là Đấng được sinh ra, không ngừng được sinh ra và
mãi mãi được sinh ra. Chúa Con mãi mãi là Con, sung sướng được làm Con. Sự
khiêm nhường của Chúa Con là mãi mãi sống tư cách làm Con (Filiation divine
éternelle). Hạnh phúc của Chúa Con là "được làm Con của Chúa Cha".
Chúa Con muốn chia sẻ hạnh phúc đó cho chúng ta.
Con đường thơ ấu thiêng liêng của thánh nữ Têrêxa
Hài Đồng Giêsu chứng tỏ chị hiểu sâu xa hạnh phúc của Chúa Giêsu được làm Con
Thiên Chúa.
B. Lãnh nhận tất cả từ nơi Cha, Chúa Con saün sàng
hiến dâng trở lại cho Cha. Sự Dâng Hiến là biểu hiện sâu xa của Tình Yêu. Dâng
Hiến là hành vi yêu thương biểu lộ lòng ngưỡng mộ, sự say mê và tôn sùng. Chúa
Con không ngừng dâng hiến sự sống mình cho Chúa Cha. Từ đời đời, Người dâng
hiến bản thân mình cho Cha. Đó là mầu nhiệm tình yêu dâng hiến sâu thẳm trong
lòng Thiên Chúa Ba Ngôi mà sách Khải huyền diễn tả bằng hình ảnh "Chiên
Con chịu sát tế từ đời đời" (5,9. 12).
Trên bình diện Lịch sử cứu độ, Chúa Giêsu là con
người say mê Thiên Chúa hơn ai hết. Người yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh
hồn, hết sức lực, hết trí khôn. Tình yêu của Người đối với Chúa Cha đã khiến
cho Người có những hành động và lời nói không thể giải thích bằng một luận lý
bình thường. Người ta không hiểu Người, tưởng Người điên : Người là một kẻ
điên vì Tình Yêu Tuyệt Đối (le fou de Dieu, Mc 3,20-21). Thập giá của Người
là một sự điên rồ và là cớ vấp phạm. Nhưng đó là Tình yêu và là Yêu cho đến
cùng (usque ad finem) : yêu cho đến mức "dâng hiến tất cả", không
giữ lại gì cả, dâng hiến sự sống mình, dâng hiến bản thân, dâng hiến
"cái tôi" của mình trong một tình yêu vâng phục tuyệt đối.
Đối với Chúa Giêsu, dâng hiến mạng sống mình cho
Thiên Chúa cũng là trao ban sự sống mình cho nhân loại : người saün sàng trở
thành "Hồng Ân" trong tay Thiên Chúa (vì Chúa Cha muốn ban Con
Một Ngài cho nhân loại). Người phó thác sự sống mình trong tay Cha, để Cha làm
gì tùy ý (Lc 23,46).
Là Hồng Ân của Cha ban cho nhân loại, Người là Hồng
Ân cho đến cùng. Người là Hồng Ân mang lại hạnh phúc, mang lại sự sống cho nhân
loại. Người là Hồng Ân Mạc Khải, là Hồng Ân Cứu Độ. Người thi hành trọn vẹn sứ
vụ Mạc Khải. Người đã hoàn tất ơn Cứu Độ (consummatum est, Ga 19,30). Khi Chúa
Cha ban Con Một Ngài cho chúng ta, Chúa Cha ban Mạc Khải, Chúa Cha ban ơn Cứu
Độ (don du Fils : don de la Révélation, don du Salut) ; Chúa Cha ban Đấng Mạc
Khải, Chúa Cha ban Đấng Cứu Thế. Sự Dâng hiến trọn vẹn của Chúa Giêsu trên thập
giá đã trở thành "Hồng Ân Cứu Độ".
Nơi Chúa Giêsu, tất cả là Hồng Ân, tất cả đều là
Mạc Khải. Theo thánh Augustino, vì Lời đã nhập thể trở thành Giêsu, nên mọi sự
nơi con người Giêsu đều là Lời. Nhưng cao điểm của sự Dâng Hiến cũng là cao
điểm của Hồng Ân và cao điểm của Mạc Khải.
III. TÌNH YÊU BA NGÔI
Yêu nhau là thuộc về nhau
Một khía cạnh quan trọng khác trong tình yêu Ba
Ngôi, mà nhiều khi chúng ta ít để ý : Tình Yêu là một tương quan tùy thuộc ;
yêu nhau là thuộc về nhau. Ba Ngôi Thiên Chúa Yêu nhau và thuộc về nhau trọn
vẹn.
A. Chúa Cha yêu Chúa Con và thuộc về Chúa Con
Ngài là Cha của Chúa Con, "Cha của Đức
Giêsu Kitô" là Danh Xưng rõ ràng và quan trọng nhất của Ngài, là Danh
Xưng nói lên chân tính của Ngài. Đó là Danh Xưng trả lờøi trọn vẹn và đầy đủ
nhất câu hỏi Thiên Chúa là ai ? - Có thể nói : Danh Xưng ấy ràng buộc Chúa Cha
với Đức Giêsu Kitô. Sự ràng buộc này là Lẽ Sống của Ngài. Ngài hạnh phúc trong
cương vị làm Cha (Paternité). Hạnh phúc của Ngài xây dựng trên tình Cha-Con.
Sự ràng buộc của Chúa Cha với Chúa Con là một sự
ràng buộc vừa tự nguyện, vừa tự bản chất. Vì yêu Con mà Cha muốn thuộc về Con,
và tự bản chất Cha là Tình Yêu. Vì yêu mà Cha luôn sinh ra Con, trở thành sự
sống của Con, là Gia Nghiệp của Con. Vì yêu mà Cha ởû trong Con, hạnh phúc khi
ở trong Con. Con là tất cả của Cha, là Thiên Đàng của Cha. Cha cần Con như cần "môi
trườøng sống" (milieu vital).
Trên bình diện Lịch sử cứu độ, đối với Chúa Cha,
không có niềm vui nào lớùn hơn niềm vui nhìn Con mình thực thi chương trình cứu
độ. Chương trình ấy không gì khác hơn là "diễn tiến trong lịch sử loài
ngườøi" của Tình Yêu Thần linh.
Chúa Cha ngưỡng mộ và thán phục Chúa Con, khi nhìn
Chúa Con hạ mình trở thành "Tôi tớ phục vụ" để mạc khải Tình Yêu của
Ngài.
B. Chúa Con thuộc về Chúa Cha
Chúa Kitô là Con Yêu Dấu của Chúa Cha, là Con Một
của Cha, là Hoa Quả Lòng Dạ Cha. Sự sống của Chúa Con hoàn toàn tùy thuộc vào
Chúa Cha (existence reV ue). Chúa Con không ngừng tùy thuộc vào Chúa Cha, vì
không ngừøng được Chúa Cha sinh ra. Cha De La Potterie chú giải câu Tin Mừng Ga
1,18 (Thiên Chúa, không ai thấy bao giờ : Con Một, Đấng ở nơi Cung Lòng Cha,
chính Ngài đã thông tri) : "Chúa Con chỉ hiện hữu trong tư thế hướùng về
Cha, ý thứùc rằng mình lãnh nhận sự sống, hiện hữu, từø Cung Lòng Cha. Gioan mô
tả Chúa Con trong tư thế đón nhận sự sống thần linh từ Chúa Cha" (Jean le
décrit dans lacte éternel de recevoir du Père la vie divine).
Trên bình diện Lịch sử cứu độ, Chúa Giêsu xuất thân
từ nhóm người nghèo của Giavê, và là người nghèo nhất trong nhóm người nghèo.
Ngài thuộc về Thiên Chúa trọn vẹn hơn hết. Tâm hồn, thể xác, trái tim. Đời sống
độc thân cũng là dấu chỉ Ngài thuộc về Thiên Chúa.
Cuộc sống tại thế của Ngài hoàn toàn tùy thuộc vào
Chúa Cha. Ngài là Sứ-giả của Cha, là Tông đồ của Cha, là Đấng Cha sai đến trần
gian để thực thi chương trình cứùu độ của Cha. Ngài hoàn toàn tùy thuộc vào Cha
: lời nói của Ngài không phải là của Ngài mà là của Cha, Đấng đã sai Ngài (Ga
14,24), giáo lý của Ngài là của Cha (Ga 7,16), công việc của Ngài là của Cha
(Ga 5,19-20 ; 10,38 ; 14,10-12).
Cha Mollat, trong tác phẩm "Saint Jean,
Maiâtre spirituel" có những cách nói rất cô đọng về sứ vụ và con người
của Đức Giêsu : "exprimer" le Père (diễn tả Chúa Cha), "dire"
le Père (nói ra Chúa Cha), réaliser lagir du Père (thực hiện hành động của
Cha), faire entendre du Père (làm cho nghe Chúa Cha), révéler son coeur (mạc
khải tấm lòng Cha).
Sự tùy thuộc của Chúa Giêsu vào Chúa Cha là một sự
tùy thuộc toàn diện và tuyệt đối, là một sự tùy thuộc lạ lùng và kỳ diệu, biểu
lộ sự "mật thiết sâu xa, sự kết hiệp hoàn toàn với Chúa Cha. Trái tim
của Ngài, tâm hồn và thân xác của Ngài thuộc trọn về Cha, đến nỗi Ngài có thể
nói : "Ta sống nhờø Cha" (Ga 6,57) hay "Ta sống mà không
phải là Ta, nhưng là Cha sống trong Ta", "Ai thấy Ta là thấy
Cha" (Ga 14,9).
Chúa Giêsu hoàn toàn sống cho Cha và vì Cha, nên
Ngài thường ao ướùc "chết đi" để thuộc trọn về Cha. Chết là "trở
về Cung Lòng Cha", như trở về Nguồn Sống của chính bản thân mình.
C. Chính Chúa Thánh Thần làm cho Chúa Cha thuộc về
Chúa Con và Chúa Con thuộc về Chúa Cha
Chúa Thánh Thần là: "Nụ hôn"
(osculum) gắn chặt Chúa Cha và Chúa Con với nhau, nụ hôn tạo thành sự duy nhất
bất khả phân (không mãnh lực nào có thể tách rời Chúa Cha với Chúa Con ; không
gì êm dịu và mạnh mẽ bằng Chúa Thánh Thần).
Chúa Thánh Thần là Nụ Hôn Tình Yêu và Sự Sống, là
Nụ Hôn tươi trẻ và bất diệt.
Sự hiện hữu của Chúa Thánh Thần là do Chúa Cha và
Chúa Con vì Chúa Thánh Thần là Sức Mạnh Tình Yêu của Cha và Con (không có Cha
thì không có sứùc mạnh tình yêu của Cha, không có Con thì không có sức mạnh
tình yêu của Con). Sứùc mạnh Tình Yêu ấy bởi Cha và Con, nối kết Cha với Con,
và tùy thuộc vào Cha và Con.
Trên bình diện Lịch sử cứu độ, Chúa Thánh Thần tùy
thuộc vào Chúa Giêsu như Chúa Giêsu tùy thuộc vào Chúa Cha (Ga 16,13-15). Công
tác của Chúa Thánh Thần là gắn bó chúng ta với Chúa Giêsu, như Ngườøi đã gắn bó
Chúa Giêsu với Chúa Cha.
"Người (Chúa Thánh Thần) sẽ làm
chứng cho Ta (Chúa Giêsu)" (Ga 15,26)
"Người sẽ làm cho Ta được vinh hiển, sẽ lấy
của Ta mà thông báo cho các ngươi" (Ga 16,14).
IV. THẬP GIÁ VÀ BA NGÔI
Khám phá Tình Yêu của Thiên Chúa nơi Thập Giá Đức
Kitô
Kinh Tin Kính là nội dung đức tin của chúng ta.
"Tóm tắt cô đọng" nhất của nội dung đức tin (lex credendi) là dấu
thánh giá. Dấu Thánh Giá cũng là lời nguyện tắt đẹp nhất (lex orandi). Dấu
Thánh Giá còn là quy luật sống của mỗi người kitô-hữu (lex vivendi).
Nơi dấu Thánh Giá, có hai phần căn bản :
- dấu, cử chỉ làm dấu nhắc đến trọng tâm Lịch sử
cứu độ là Thập Giá Đức Kitô .
- lời kinh "nhân Danh Cha, và Con, và Thánh
Thần. Amen".
Như vậy, chúng ta có một bên là Lịch sử cứu độ, bên
kia là "Mầu Nhiệm Sâu Thẳm", giấu ẩn từ muôn thuở.
Thập Giá gắn liền với Ba Ngôi. Ba Ngôi gắn liền với
Thập Giá : chúng ta chỉ có thể khám phá Ba Ngôi qua mầu nhiệm Thập Giá ; ngược
lại, chỉ có thể hiểu Thập Giá cách sâu xa nếu đặt trên "nền Ba
Ngôi" (K. RAHNER : Trinité immanente, Trinité économique).
A. Tình yêu của Chúa Cha
1. Tình Yêu của Chúa Cha đối với Chúa Con : Chúng
ta tin chắc Chúa Cha yêu Chúa Con, vì Chúa Giêsu là Con đã khẳng định rõ ràng :
"Cha
yêu Con và tỏ cho Con biết mọi điều Người làm" (Ga
5,20).
"Cũng
như Cha có sự sống trong mình, thì Người cũng ban cho Con được có sự sống trong
mình như vậy" (Ga 5,26).
"Đấng
đã sai Ta ở với Ta ; Người đã không bỏ Ta một mình" (Ga
8,29 ; 16,32).
Cha yêu
Con đến nỗi luôn ở trong Con, làm một với Con :
"Cha
ở trong Con và Con ở trong Cha" (Ga 17,21).
"Ta
với Cha là Một" (Ga 10,30).
"Cha
đã ban cho Ngài mọi sự trong tay" (Ga 13,3).
2. Chúa Cha yêu mến chúng ta "đến nỗi đã
thí ban Người Con Một" cho chúng ta (Ga 3,16; Rm 8,32).
Khi Người ban Đức Giêsu Kitô cho chúng ta, Người
ban chính mình Người, vì Đức Giêsu Kitô là "bản thể, bản thân, sự
sống" của Người (auto-donation de Dieu).
Khi ban Con Một Người cho chúng ta, Chúa Cha chấp
nhận là có thể bị từ khước. Con người có quyền nhận hay không nhận ; dĩ nhiên
ai không nhận, thì không có sự sống của Thiên Chúa trong mình, không có sự sống
đời đời, và đó là án phạt.
Khi ban Con Một Người cho chúng ta, Chúa Cha liều
mạng, liều mình bị từ khước. Và Thập Giá chính là sự từ khước. Xét dưới khía
cạnh này, Thập Giá làm cho Chúa Cha phải đau khổ. Chúa Cha đau khổ khi thấy Con
mình bị từ khước và giết chết.
Nhưng không phải mọi người đều từ khước ; có người
đón nhận và nhờ người ấy mà tất cả chúng ta ngày nay có thể đón nhận Chúa,
người ấy là Đức Maria.
B. Tình Yêu của Chúa Con
Con yêu mến Cha đến nỗi hoàn toàn làm theo thánh ý
Cha (Ga 8,29), lấy thánh ý Cha làm lương thực hằng ngày (Ga 4,34).
Con yêu mến Cha, chấp nhận trở thành Hồng Ân trong
tay Cha, chấp nhận liều mình trong tay Cha, chấp nhận bị từ khước.
Trong thực tế, có người đón nhận, có người từ
khước. Trên bình diện con người, sự từ khước ấy bi thảm, đến nỗi Đức Giêsu phải
"rúng động" trong vườn Cây Dầu, Ngài gần như "thất
vọng" trên thập giá (Mc 14,33-34 ; Mc 15,34).
C. Chúa Thánh Thần
Chúa Thánh Thần là Sức Mạnh Tình Yêu khiến Chúa Cha
có thể ban "Con Một" cho loài người ; khiến Chúa Cha có thể chấp nhận
đau khổ.
Chúa Thánh Thần cũng là Sức Mạnh Tình Yêu khiến
Chúa Con chấp nhận trở thành "món quà" trong tay Cha, chấp
nhận hy sinh và saün sàng bị từ khước : "Máu của Đức Kitô, Đấng nhờ
Thần Khí hằng có mà tiến mình làm hy sinh vô tỳ tích dâng lên Thiên Chúa"
(Hr 9,14).
Thập giá là bằng chứng của sự từ khước (tội lỗi. ),
được gọi đúng hơn là "thập ác", dụng cụ hành hình do con người
chế ra. Nhưng chính Sức Mạnh Tình Yêu của Thiên Chúa đã biến dụng cụ hành hình
thành dụng cụ cứu rỗi, biến "giờ tử hình" thành "giờ
cứu rỗi", ngay cả cho những kẻ từ khước Đức Giêsu (Xin Cha tha cho
chúng vì chúng không biết việc chúng làm : Lc 23,34).
Chính Thánh Thần biến thập giá thành Thánh Giá. Từ
nay Thánh Giá Chúa Giêsu trở thành Nguồn Ơn Cứu Độ, vì nhìn vào đó, chúng ta
nhận ra Tình Yêu Hy Sinh của Chúa Cha, Hy Lễ của Chúa Giêsu, Sức Mạnh Tình Yêu
của Chúa Thánh Thần, Sức Mạnh làm cho chết và làm cho sống. Nhìn vào Thánh Giá,
mà cầu xin ơn Chúa Thánh Thần, chúng ta sẽ có sức mạnh của Thánh Giá.
V. ĐỨC MARIA VÀ BA NGÔI THIÊN CHÚA
A. Đứùc Mẹ với Chúa Thánh Thần và Ngôi Lời.
1. Đứùc Mẹ là người có nhiều kinh nghiệm về Chúa
Thánh Thần hơn cả, vì Mẹ là người tiếp xúc với Lờøi Chúa nhiều hơn cả, Mẹ lắng
nghe lời Chúa nhiều hơn cả (Virgo audiens), mà tác giả Lời Chúa là Chúa Thánh
Thần. Nhiều bức họa hình dung Đứùc Mẹ đang cầm quyển sách Kinh Thánh, trên Đức
Mẹ có chim bồ câu ( = Chúa Thánh Thần). Đứùc Mẹ của RAPHAEL : bồng Chúa Giêsu,
cầm sách Kinh Thánh đang mở ra, và Chúa Giêsu thì nghịch sách Kinh Thánh.
2. Đứùc Mẹ được Chúa Thánh Thần chuẩn bị rất kỹ để
đón nhận Hồng Ân của Chúa Cha là Ngôi Con, Ngôi Lời.
Vì Mẹ đã làm quen với Lờøi Chúa, nên tâm hồn của Mẹ
chín mùi để đón nhận Ngôi Lời. Thánh Augustino đã nói : "Đứùc Mẹ cưu
mang Ngôi Lời trong tâm hồn trướùc khi cưu mang Người trong thân xác".
3. Dù chuẩn bị tâm hồn Mẹ kỹ lưỡng, trong biến cố
quyết định của đời Mẹ (biến cố Truyền Tin), Chúa Thánh Thần vẫn phải
thuyết phục Đức Mẹ. Đức Mẹ là con người đạo đức, thánh thiện, khiêm nhường,
nhưng chưa hiểu hết chương trình của Thiên Chúa. Đức Mẹ vẫn thắc mắc về lời
thiên thần. Khi ấy thiên thần Gabriel nhắc tớùi Chúa Thánh Thần (Lc 1,35). Hiểu
điều thiên thần loan báo là công việc của Chúa Thánh Thần, Đức Mẹ liền ưng
thuận (Lc 1,38).
4. Công việc của Chúa Thánh Thần là thực hiện ba
cuộc kết hiệp :
1 - Thần tính với nhân tính nơi
Đức Kitô (Ngôi - Hiệp).
2 - Ngôi Lời với Đức Mẹ (máu
huyết Đức Mẹ trở thành máu huyết Đức Giêsu)
3 - Thánh Giuse với Đức Mẹ (kết
hôn đặc biệt : Thánh Gia)
B. Đứùc Mẹ với Chúa Giêsu và Thiên Chúa
1. Chúa Giêsu là Con của Mẹ : Người Con ấy là Hồng
Ân mà Mẹ đón nhận từ Thiên Chúa ; bào thai trong bụng Mẹ là Hồng Ân (ảnh Đức Mẹ
mang thai).
Đức Mẹ không lúc nào ngơi biết ơn Thiên Chúa. Càng
biết ơn Thiên Chúa, Đức Mẹ càng quý Đức Giêsu.
2. Đức Mẹ quý Đức Giêsu nên Đức Mẹ không ngừng
chiêm ngưỡng Đức Giêsu, sung sướng nhìn Đức Giêsu, nghe Đức Giêsu, ngưỡng mộ
Đức Giêsu.
Đức Mẹ không ngừng quan sát Đức Giêsu cách âu yếm.
Nhờ quan sát, Đứùc Mẹ dần dần nhận ra sứ mạng và chân tính của Đức Giêsu.
3. Chúa Giêsu yêu quý Đứùc Mẹ (Mẹ bồng Chúa). Chính
Đức Giêsu cũng đã góp phần nâng Mẹ lên bình diện Thần Khí (Mẹ không biết Con
phải lo công việc của Cha Con sao (Lc 2,49) ; Giờ của tôi chưa đến (Ga
2,4)).
4. Chúa Giêsu giống Đứùc Mẹ : "Mẹ nào Con
nấy" (nhẫn nhục và can đảm).
- Mẹ hiền lành khiêm tốn như Đức Giêsu.
- Mẹ không ngừng đối thoại với Thiên Chúa trong
thinh lặng.
- Lương thực, lẽ sống, niềm vui của Mẹ là Thánh Ý
Thiên Chúa.
5. Khi Đức Giêsu ra đi giảng đạo, từ giã Đứùc Mẹ.
Đứùc Mẹ không dám đòi theo, nhưng tâm hồn Mẹ vẫn luôn luôn theo dõi bước chân
của Con mình. Chắc chắn Mẹ cầu nguyện cho sứù vụ của Đức Giêsu nhiều lần. Mẹ
rất âm thầm trong khi Đức Giêsu thi hành sứ vụ, thỉnh thoảng mớùi xin gặp Đức
Giêsu.
6. Chúa Giêsu không cho Mẹ tham gia sứ vụ công
khai, nhưng cho Mẹ thông phần khổ nạn. Tâm hồn tan nát, Mẹ biết Con Mẹ bị từ
khước, không ngờ phũ phàng đến thế !
Dưới chân Thánh Giá, Mẹ dâng Con mình cho Thiên
Chúa. Mẹ nhớ lại lần dâng con trong Đền thờ, lần ấy Mẹ còn chuộc lại (Lc
2,22-24). Lần này, Mẹ dâng dứt khoát vĩnh viễn : Mẹ đã đón nhận Chúa Giêsu từ
Chúa Cha như một Hồng Ân, giờ đây Mẹ dâng Con lên Chúa Cha như một Của Lễ (Ga
19,25-27).
VI. GIÁO HỘI LÀ GIA ĐÌNH THIÊN CHÚA
A. Chiều kích Ba Ngôi của Giáo Hội.
Thánh Phaolô gọi Giáo Hội là "Thân Mình
Chúa Kitô" sống bằng Thần Khí Chúa Kitô. "Chỉ có một Thân
Mình, cũng như chỉ có một Thần Khí, vì chỉ có một Chúa, một đức tin, một phép
Rửa, một Thiên Chúa là Cha" (Ep 4,4-6).
Giáo phụ Tertulliano gọi Giáo Hội là Thân Mình của Thiên
Chúa Ba Ngôi (corpus Trinitatis). Ông căn cứ vào đức tin phép Rửa : vì có đức
tin phép Rửa mới có Giáo Hội, đức tin phép Rửa là đức tin Ba Ngôi, nên Giáo Hội
là của Thiên Chúa Ba Ngôi, là Thân Mình của Thiên Chúa Ba Ngôi.
Đức Hồng Y Wyszinski, trong công đồng Vaticanô II
cũng yêu cầu đưa vào định nghĩa Giáo Hội điều cốt yếu là "đức tin phép
Rửa" : nhân Danh Cha và Con và Thánh Thần.
Thần học của Vaticanô II về Giáo Hội có sắc thái
"qui kitô" (Hiến chế tín lý về Giáo Hội, Lumen Gentium), đồng thời có
chiều kích Ba Ngôi rõ nét.
Công đồng trích một câu mấu chốt của Cyprianô :
"Giáo Hội phổ quát xuất hiện như một dân tộc hiệp nhất do sự hiệp nhất
giữa Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần" (GH 4).
Giáo Hội là Dân Thiên Chúa sinh ra từ tình yêu của
Chúa Cha, được Chúa Con thiết lập, gắn liền với Chúa Con, được nuôi dưỡng và
hoàn tất nhờ Chúa Thánh Thần.
B. Giáo Hội là Gia đình Thiên Chúa
(Ý kiến Đức Cha Simon-Hòa HIỀN trong Công đồng)
Công đồng có lưu ý đến từ ngữ này và dùng nó trong
Sắc lệnh chức vụ và đời sống linh mục (Presbyterorum Ordinis), số 6 : "Tùy
phận vụ đã lãnh nhận, các linh mục thi hành chức vụ của Chúa Kitô là Đầu và là
chủ Chăn, các ngài nhân danh Giám mục, tụ họp "Gia đình Thiên Chúa"
như một Cộng đoàn Huynh đệ duy nhất, và nhờ Chúa Kitô, trong Chúa Thánh Thần
các ngài dẫn đưa họ đến cùng Chúa Cha".
Sau Công đồng, các nhà thần học không đào sâu. Đó
là một thiếu sót.
Chúng ta biết một trong ba định nghĩa quan trọng
nhất của Gioan về Thiên Chúa là : "Thiên Chúa là Tình Yêu".
Chữ Hy-lạp là Agapê.
Chính các Giáo phụ Sứ đồ đã dùng chữ này để gọi
Giáo Hội, đặc biệt hơn cả là thánh Ignace dAntioche và Clément de Rome.
Lấy tên của Thiên Chúa đặt cho Giáo Hội, các ngài
coi Giáo Hội như là Gia đình của Thiên Chúa ở trần gian : không là gia đình
huyết nhục, mà là gia đình thiêng liêng, còn khắng khít hơn gia đình huyết
nhục.
Chúng ta có thể gọi đó là "Gia đình
Kitô", vì là gia đình những anh chị em của Chúa Kitô, những người con
cùng một Cha trên trời.
Có thể gọi là "Gia đình Thần Khí"
vì sợi dây ràng buộc mọi người trong gia đình này là Chúa Thánh Thần, sứùc mạnh
Tình Yêu của Cha và Con (Tình Yêu Hiệp Thông), nên gia đình này không thể tan
rã.
C. Căn bản Kinh Thánh và Thần học
- Hr 2,11 : Người không sượïng gọi họ là anh em.
- Hr 3,6 : Đức Kitô (được đặt) như một người Con
trong Nhà của Người, và Nhà của Người tức là chúng ta.
- Ep 2,19 : người đồng hương với các thánh và là
người nhà của Thiên Chúa. (1 Tm 3,15)
- Cl 1,15 : Ngài. là trưởng tử giữa mọi thụ sinh.
- Cl 1,18 : Ngài là đầu của Thân Mình, tức Hội
Thánh.
- Ga 1,12-13 : Còn những ai đón nhận, tứùc là những
ai tin vào danh Người, thì Người cho họ quyền trở nên con Thiên Chúa. Họ được
sinh ra, không phải do khí huyết, cũng chẳng do ướùc muốn của nhục thể, hoặc do
ước muốn của người đàn ông, nhưng do bởi Thiên Chúa.
Phaolô lấy lại chữ "Trưởng Tử" mà
Cựu Ước dùng cho dân Israel. Dân Israel được coi là "Con Đầu Lòng"
so với các dân ngoại là những đứa con khác.
- "Ta sai ngươi đến với Pharaô ; ngươi hãy
đem dân của Ta, con cái Israel ra khỏi Ai Cập" (Xh 3,10).
- "Ta đã gọi con Ta ra khỏi Ai Cập" (x. Hs
11,1).
Khi gọi Đức Kitô là "Con Đầu Lòng",
Phaolô muốn làm nổi bật ý muốn cứùu độ phổ quát của Thiên Chúa.
Thiên Chúa có một Người Con, Người Con Duy Nhất ấy
là Đức Kitô. Người Con ấy đẹp lòng Chúa Cha mọi đàng. Nhưng Tình Thương nhiệm
mầu của Chúa Cha muốn có thêm những người con khác, và Đức Kitô muốn có thêm
nhiều anh em.
Trong mầu nhiệm Tạo Dựng, Thiên Chúa như đã muốn
bày tỏ ý định đó rồi. Người muốn tạo dựng chúng ta theo khuôn mẫu "Con"
của Người, là "sự Khôn Ngoan của Người", là Minh Trí của
Người, là Hình Ảnh của Người. Người Con này là Khuôn Mẫu Đầu tiên, nên được gọi
là Trưởng Tử giữa các loài thọ sinh (Cl 1,15).
Trong mầu nhiệm Cứu Chuộc, Thiên Chúa như muốn tạo
lập một "Dân Mới", dân ấy cũng là "Dân Con".
Người đặt đứng đầu dân con cái ấy "Con Một của Người", "Con
Đầu Lòng của Người". Người Con này xứùng đáng được đặt làm Trưởûng Tử
vì là con người đầu tiên giữa các vong nhân đã phục sinh từ cõi chết. Con người
đầu tiên làm Con Thiên Chúa, Con Cả của Thiên Chúa, phải là một Con Người Phục
Sinh, vì Thiên Chúa là Thiên Chúa Hằng Sống. Và những người con khác cũng sẽ
được phục sinh và làm con một cách trọn vẹn.
Trưởûng Tử Phục Sinh nhờ Thần Khí, thì các người
con khác cũng sẽ phục sinh nhờ Thần Khí : "Nếu Thần Khí của Đấng đã
phục sinh Đức Kitô cư ngụ trong anh em, thì Đấng đã cho Đức Giêsu sống lại từø
cõi chết cũng sẽ tác sinh thân xác chết dở của anh em, nhờ bởi Thần Khí của
Người cư ngụ trong anh em" (Rm 8,11).
Tóm tắt về căn bản thần học :
- Mầu nhiệm Tạo Dựng : Ngôi Lời là khuôn mẫu.
- Mầu nhiệm Nhập Thể : Ngôi Lời trở nên "đồng
bản tính", đồng bản thể với chúng ta.
Mầu nhiệm Tử Nạn-Phục Sinh : Người Anh Cả đã đổ máu
ra chuộc tội đàn em, đã giải phóng đàn em, làm cho đàn em trở nên con cái tự do
của Thiên Chúa (Ep 4,8 : Người đã lên cao dẫn theo một đám tù binh).
D. Thánh Thần và Giáo Hội, Gia đình của Thiên Chúa
Giáo Hội là "Gia đình của Thiên Chúa",
thì phải sống "tinh thần của Thiên Chúa", là "Gia đình Chúa
Kitô", phải sống tinh thần của Chúa Kitô. Tinh thần của Thiên Chúa, tinh
thần của Chúa Kitô là Chúa Thánh Thần.
Phaolô thích chơi chữ, nên ông nói : trong con
ngườøi, không có gì dò thấu cõi thâm sâu của chính con người bằng tinh thần của
con người ; trong Thiên Chúa, không có ai dò thấu những điều thâm sâu nhất
trong Thiên Chúa, ngoài Tinh Thần của Thiên Chúa (Thần Khí Thiên Chúa, Chúa
Thánh Thần. x. 1 Cr 2,10-11).
Chúa Thánh Thần đưa cách sống của Thiên Chúa vào
Gia đình Thiên Chúa. Lối sống ấy, chúng ta có thể tóm tắt bằng ba từø ngữ căn bản,
trở thành ba nét lớn của mầu nhiệm Giáo Hội :
1. Tinh Thần của Thiên Chúa, hay Thánh Thần là Tình
Yêu Hiệp Thông : điều đầu tiên mà Thánh Thần mang đến cho Giáo Hội là Tình Yêu
Hiệp Thông (koinonia, communio). Sự Hiệp Thông mật thiết giữa Chúa Cha và Chúa
Con đến nỗi Cha và Con là Một. Sự Hiệp Thông có thể diễn tả bằng nhiều nét :
- Trước hết, Hiệp Thông là "thông
phần" : Ba Ngôi thông phần cùng một sự sống, sống bằng cùng sự sống
thần linh (Chén hiệp thông).
- Hiệp thông là hướng chiều về nhau cách trọn vẹn.
Hướùng chiều về nhau là dấu chỉ của Tình Yêu. Ba Ngôi yêu nhau, hướùng chiều về
nhau.
- Hiệp thông là một "đối thoại bằng trái
tim" ; trao đổi tình yêâu (existence en dialogue).
- Hiệp thông là gắn bó với nhau, nên một với nhau.
- Hiệp thông sâu xa nhất là nội tại trong nhau,
đồng hóa với nhau.
10. Trong Giáo Hội, trước hết
chúng ta được thông phần cùng một bánh, cùng một chén, cùng một đức tin, cùng
một Thần Khí. Phaolô nói : "Chúng ta giải khát bằng cùng một Thần Khí {
Nước Hằng Sống (1 Cr 12,13)}. Vì thông phần cùng một bánh và chén, chúng ta
phải hiệp nhất với nhau" (1 Cr 10,16-17).
20. Trong Giáo Hội, chúng ta phải biết
ra khỏi mình, quên mình mà hướùng về nhau (nhớ tới nhau, nghĩ tới nhau). Ra
khỏi mình là đánh mất sự sống, và tìm thấy lại.
30. Sống trong Giáo Hội phải là cuộc
sống đối thoại : lắng nghe nhau, trao đổi với nhau (đối thoại tình yêu). Ai
biết lắng nghe Chúa mới biết lắng nghe nhau. Lắng nghe nhau mới lắng nghe Chúa.
Ngưỡng mộ nhau mới biết ngưỡõng mộ Chúa (bướùc đầu của chiêm niệm).
40. Cuộc sống trong Giáo Hội là một cuộc
sống gắn bó mật thiết giữa những người anh chị em con cùng Cha trên trời (giống
như Thiên Đàng : Nhà Cha Ta có nhiều chỗ ở, Ga 14,2). Gắn bó với Đức Kitô, dễ
gắn bó với nhau.
2. Tinh thần của Thiên Chúa là tinh thần cứu thế :
Chén Hiệp Thông trở thành Chén Cứu Độ. Chương trình của Thiên Chúa là chương
trình cứùu độ.
Giáo Hội là Gia đình cứùu thế, vì Anh Cả chúng ta
là Đấng Cứu Thêá, Cha chúng ta là Thiên Chúa cứu độ.
Ban ơn cứùu độ là tha thứù, giải thoát, chia sẻ sự
sống.
Giáo Hội không bao giờ được quên sứù mạng cứu thế
của mình ; quên rằng mình thông phần sứ mạng ấy
của Chúa Kitô (da mihi animas et cetera tolle).
3. Tinh thần phục vụ của Đức Giêsu.
- Phục vụ Thiên Chúa : Mt 20,28 ; Mc 10,45 ; Ga 13,13-15
- Phục vụ anh em : Lc 22,27
Chúa Giêsu đến thế gian để làm gì ? - ĐỂ PHỤC VỤ
Giáo Hội hiện hữu để làm gì ? - ĐỂ PHỤC VỤ
Các đặc điểm của con người phục vụ là saün sàng,
khiêm tốn, nhẹ nhàng, vô vị lợi .
VII. CHIÊM NGẮM ICÔNE BA NGÔI CỦA
RUBLIOV
A. Điều kiện tâm linh để chiêm ngắm Icône
Để chiêm ngắm một bức Icône, đặc biệt là những bức
vẽ Đức Maria, Đức Giêsu, và đặc biệt hơn nữa, những bức hình dung Chúa Ba Ngôi,
chúng ta phải được chuẩn bị có những tâm tình và tư tưởng thích hợp. Bằng
không, chúng ta chỉ dừng lại vẻ đẹp bên ngoài, không đạt được mục tiêu của việc
chiêm ngưỡng : như "thấy Đấng vô hình" (Hr 1,11).
Trước hết, chúng ta phải có quan niệm như các
Kitô-hữu của Giáo Hội Đông phương : "Icône là Tin Mừng dành cho thị
giác". Công đồng Constantinople III năm 860 khẳng định : "Điều
mà sách (Kinh Thánh) nói với chúng ta bằng chữ, Icône cho chúng ta thấy bằng
màu sắc".(Mansi, t. 1s, col.482)
Tâm tình thứ hai dựa trên ý nghĩa của chữ Icône :
bởi tiếng Hy-lạp eikôn có nghĩa là hình ảnh. Vì con người là hình
ảnh của Thiên Chúa, nên một phần nào chúng ta có thể dựa trên những "nét
người" để nhận ra Thiên Chúa, muốn làm được công việc khám phá này,
chúng ta cần phải cầu xin cho ánh sáng của Chúa Kitô bừng lên trong chúng ta
trước đã.
Chính nghệ thuật vẽ Icône không muốn chúng ta dừng
lại ở khía cạnh vật chất quá nhiều, mà chỉ dựa vào vật chất như một điểm tựa
đưa chúng ta "đi lên thế giới thần linh". Bức ảnh không quan
trọng bằng chân lý diễn tả trong đó. Bức Icône nào bắt chúng ta dừng lại nơi
chính nó, thì không đạt được trình độ nghệ thuật vẽ Icône. Tác dụng của nghệ
thuật vẽ Icône là "nâng tâm hồn lên".
Phải làm thế nào để khi chiêm ngắm một bức Icône,
chúng ta như đi vào thế giới "huyền nhiệm", rồi trở về tường
thuật lại cho những ai cũng muốn đi vào thế giới ấy như chúng ta.
B. Andrei Rubliov
Bối cảnh lịch sử và văn hóa
Thế kỷ 14, Moscova đứng đầu cuộc đấu tranh chống
Mông cổ và thống nhất Nước Nga, trở nên một trong những thành phố lớn của Nước
Nga thời bấy giờ.
Văn hóa và nghệ thuật bắt đầu phát triển, thời gian
này xuất hiện một chuỗi các nhà nghệ sĩ phản ánh tinh thần của thời đại đầy lý
tưởng cao thượng và tinh thần yêu nước đến hy sinh bản thân.
Tác phẩm phản ánh trọn vẹn nhất tinh thần thời đại
là tác phẩm của A.Rubliov. Rubliov còn ảnh hưởng một thời gian lâu dài trên nền
hội họa Nga, đặc biệt là trường phái Moscova về công tác "ảnh đạo"
(Icône).
Các tác phẩm của Rubliov vừa biểu lộ "năng lực
ý chí", vừa biểu lộ lòng nhân đạo và bình an nội tâm.
Là học trò của Théophane Le Grec, lúc đầu Rubliov
làm việc cho "Nhà thờ Chánh tòa Truyền tin" tại Moscova. Ba năm sau,
ông làm việc cho "Nhà thờ Mông triệu" ở Vladimir. Từ 1427-1430, ông
trang hoàng cho "Nhà thờ Ba Ngôi" ở (Zagorsk). Ông sống những ngày
cuối cùng trong đan viện Andronicus ở Moscova.
Ba Ngôi trong Cựu ước (The Old Testament Trinity)
là tác phẩm thời danh nhất của Rubliov. Ông vẽ bức tranh này để trang hoàng
"Nhà thờ Ba Ngôi" của đan viện Thánh Serge.
C. NỘI DUNG BỨC ICÔNE "BA NGÔI" CỦA A.
RUBLIOV
Nhìn vào bức họa Ba Ngôi của Rubliov, chúng ta nên
phân biệt ba bình diện để có thể lĩnh hội hết vẻ đẹp và chiều sâu diễn đạt qua
những nét vẽ và bố cục của bức họa.
Bình diện đầu tiên là bối cảnh của bài tường thuật
về Ba vị khách đến viếng thăm Abraham tại gia trang ở cây sồi Mamrê (x. Kn 18,
1-15). Bình diện này được Phụng vụ Chính Thống Giáo nhắc tới khi cử hành thánh
lễ tôn vinh Thiên Chúa Ba Ngôi "Lạy tổ phụ Abraham hồng phúc, ngài đã
thấy các Đấng, ngài đã tiếp đón Thần linh Duy nhất và Ba Ngôi".
Bình diện thứ nhất chỉ được phác họa sơ qua. Họa sĩ
không vẽ Abraham và Sara. Điều đó hoàn toàn hữu ý, họa sĩ muốn người xem nhanh
chóng bước sang bình diện thứ hai là bình diện "chương trình cứu
độ" của Thiên Chúa. Ba vị khách Thần linh dường như họp thành một
"hội đồng vĩnh cửu". Lều của Abraham trở nên một Ngôi đền. Cây sồi
Mamrê trở nên "cây sự sống". Quang cảnh được phác họa bằng
những nét rất nhẹ nhàng : vũ trụ ở đây chỉ còn là dấu chỉ của sự hiện diện thần
linh. Đĩa thịt bê nhường chỗ cho "chén cứu độ", "chén hiệp
thông". Ba vị khách được vẽ như ba thiên thần, nhẹ nhàng, thanh khiết
(thân mình, đôi cánh). Cảnh vật được vẽ thoáng qua, như xa mà gần, như gần mà
xa, làm nổi bật ba gương mặt qui hướng về nhau. Ba vị khách đang đàm đạo thân
thiết. Chủ đề của việc đàm đạo là "Thiên Chúa yêu thương thế gian đến
nỗi ban Con Một mình để cho thế gian được sống (x. Ga 3,16 ).
Từ đây chúng ta có thể bước sang bình diện thứ ba,
bình diện của Tình yêu Ba Ngôi Siêu việt, bình diện mà không ngôn ngữ phàm trần
nào diễn tả nổi, bình diện chỉ có thể có gợi ý bằng một số nét họa mang tác
dụng hướng thượng cái nhìn, con tim và khối óc, đưa dẫn chúng ta đi vào thế
giới thần linh.
Hai bình diện thứ hai và thứ ba lồng trong nhau.
Lịch sử cứu độ luôn bám rễ vào Thiên Chúa Ba Ngôi, phát xuất từ mầu nhiệm và
qui về mầu nhiệm.
Mầu nhiệm tình yêu là mầu nhiệm dâng hiến : Ba Ngôi
dâng hiến chính mình cho nhau. Biểu tượng của sự dâng hiến là "chén".
Chén ấy là chén "lương thực thần linh". Ba vị đều sống bằng "lương
thực thần linh", là tình yêu và sự sống của nhau. Chén chứa đựng "Chiên
con" chịu sát tế từ thuở đời đời. Tình yêu tự hiến của Ba Ngôi là
Nguồn suối tạo dựng.
Ba Vị đang trong trạng thái tĩnh "an
nghỉ", "say sưa ngây ngất". Bình an tuyệt đối là trạng thái xuất
thần. Ba Vị hoàn toàn hướng về nhau, Ba Vị dường như ra khỏi chính mình, rời bỏ
chính mình. Nhưng sự rời bỏ, ra khỏi hay xuất thần ấy là một sự "định
tâm" (sortie en soi-même), nghĩa là không rời bỏ, mà là sự tiếp nhận êm
đềm tình yêu của nhau. Vì an nghỉ là xuất thần, mà xuất thần là định tâm, nên ở
đây chúng ta có một chân lý nghịch thường tuyệt đối, tĩnh mà động, động mà
tĩnh ; tĩnh là động, động là tĩnh.
Chuyển động lôi cuốn cả vũ trụ trong một vận hành
vừa nhẹ nhàng vừa mạnh mẽ. Vũ trụ được hình dung bằng những đường nét sơ lược
chuyển động theo hình cong để rồi dừng lại với Vị thần linh ngồi thẳng. Ngoài
chuyển động theo đường tròn, còn có chuyển động "từ dưới đi lên" theo
đường thẳng : vũ trụ được nâng lên bình diện thần linh.
Ba Vị hoàn toàn giống nhau : giống nhau đến nỗi
chúng ta có thể nhận ra Vị này nơi Vị nọ. Nhưng Ba Vị cũng hoàn toàn khác nhau,
và chúng ta không thể lẫn lộn các Vị với nhau. Sự khác biệt do "thái
độ" của từng Vị đối với những Vị kia. Thái độ được diễn tả rất tinh vi
bằng ánh mắt, bằng thân hình, bằng mái đầu nghiêng nhiều hay ít. Nhìn vào Ba
Vị, chúng ta chỉ thấy Một, mặc dù là Ba. Các cặp cánh dường như nối kết các Vị,
đồng hóa các Vị. Các Vị có cùng một thần tính được diễn tả bằng màu xanh lợt
của bầu trời lồng ở bên trong từng cặp cánh. Gậy của các Vị cũng biểu lộ một
quyền năng duy nhất.
Khoa hình học được sử dụng rất nhẹ nhàng và tinh
vi, hình chữ nhật, hình tam giác, hình tròn. Hình chữ nhật vừa là biểu tượng
của trái đất, vừa là dấu chỉ tứ phương thiên hạ (đông tây nam bắc). Hình chữ
nhật cũng là hình thù của quyển sách. Mặt bàn biểu tượng cho "Quyển Sách
Lời Chúa" đang mở ra. Chén tình yêu nằm trên mặt sách, gắn liền với sách. "Chén
bởi Lời", và "Lời bởi chén". Chén và Lời làm phát
sinh cây sự sống. Chén ấy vừa là chén cho Ba Ngôi, vừa là chén cho trần thế.
Trần thế được ban cũng một thứ lương thực dành cho Thiên Chúa. Sách cũng vậy,
vừa là Lời của Thiên Chúa, vừa là ngôn ngữ của trần gian. Cây sự sống vừa phát
sinh từ cây sự sống và tình yêu Ba Ngôi, vừa mọc lên từ trái đất.
Bàn tay mặt của cả Ba Vị đều tập trung vào trái
đất, nơi tình yêu của các Vị thể hiện ra bên ngoài. Trái đất và cả vũ trụ ở bên
ngoài Thiên Chúa, nhưng đã được tình yêu của Thiên Chúa đưa vào sự hiệp thông
Ba Ngôi, diễn tả bằng những đường nét tròn tượng trưng cho sự viên mãn. Vận
hành đường tròn dừng lại ở Đền thờ, vừa là hình ảnh của Đức Kitô và mầu nhiệm
nhập thể của Người, vừa là thân thể huyền nhiệm của Người, là hiền thê hiệp
nhất nhưng không lẫn lộn với Người. Đền thờ ở trong trạng thái tĩnh là hình ảnh
của Giêrusalem thiên quốc, nơi hoàn tất lịch sử cứu độ.
Vị thế của Chúa Cha ở giữa, thật là uy nghi cao cả.
Màu sắc cũng như đường nét diễn tả Người có vẻ vĩ đại hơn các Vị khác. Nơi
Người, kết hợp hài hòa sự an tĩnh tuyệt đối và thế chủ động rõ ràng. Tất cả đều
được diễn tả bằng đường cong của cánh tay hùng mạnh, rất hài hòa với cái đầu
hơi nghiêng, bắt nguồn cho vận hành của sự sống thần linh.
Quyền năng của Chúa Cha là uy quyền tối cao và vĩ
đại, nhưng cũng là uy quyền của tình yêu, phản ánh trong cái nhìn đầy âu yếm.
Vì Người là tình yêu nên Người chỉ có thể biểu lộ bằng ân sủng và sống trong
hiệp thông tình yêu.
Vị thế của Chúa Con là vị thế lắng nghe : lắng nghe
với tất cả lòng yêu mến, lắng nghe một cách hoàn toàn chăm chú. Để trở thành
Lời tuyệt đối, Người cần phải nghe trọn vẹn. Người ngồi thẳng lưng trong trạng
thái đón nhận và nghiền ngẫm. Nét mặêt Người là nét mặt tin cậy và phó thác.
Người saün sàng thực hiện ý của Cha muốn cho Người mặc lấy bản tính loài người
(diễn tả bằng hai ngón tay).
Những nét vẽ Ngôi Vị Thứ Ba là những nét dịu dàng
nhất : dịu dàng như một người phụ nữ (người mẹ, người vợ). Không thể phủ nhận
là trong Ba Vị, Vị Thứ Ba giống đàn bà hơn cả. Người biểu lộ khía cạnh từ mẫu
của Thiên Chúa. Người như lắng nghe tất cả với tâm tình chia sẻ, thông cảm và
an ủi vỗ về. Vị thế của Người khác với những Vị kia, nghiêng mình nhiều hơn.
Dựa theo bố cục của nét vẽ, phải nhận rằng chuyển động bắt đầu từ Người, hay là
với Người, chúng ta mới thấy rõ chuyển động. Nhìn Người chúng ta có cảm tưởng
một ngọn gió tình yêu bắt đầu di chuyển theo đường tròn, lôi cuốn vũ trụ vào
trong cùng quỹ đạo tình yêu. Bàn tay Người như cánh chim bay là là trên mặt
đất, nhưng cũng có dáng chim mẹ đang ấp ủ con.
Trong nghệ thuật vẽ Icône, màu sắc cũng là một ngôn
ngữ. Nơi bức họa Ba Ngôi của Rubliov, ý nghĩa của màu sắc thật là phong phú. Sự
tương phản và hài hòa giữa các màu được sử dụng cách nhẹ nhàng không gượng ép,
giống như một bản hòa tấu khi trầm khi bổng, lúc mạnh lúc nhẹ. Mầu đậm sử dụng
cho Vị ngồi giữa nổi bật nhờ tương phản với màu trắng của mặt bàn, sắc óng ánh
và dịu dàng của màu áo các Vị ngồi hai bên. Màu đỏ sậm nơi Chúa Cha biểu tượng
cho tình yêu thần linh, "đậm đà", "khôn dò", tựa hồ như
"bóng tối của vực thẳm thần linh" ; khi được mặc khải thì trở nên nhẹ
nhàng như màu hồng nhạt nơi Chúa Con, màu xanh vert lợt nơi Chúa Thánh Thần.
Chén màu vàng cam nổi bật trên bàn màu trắng chứa đựng lương thực thần linh
cũng màu đỏ sẫm. Lương thực ấy cũng là mầu nhiệm khôn dò thấu, trở nên dịu ngọt
và hiểu được, cảm nghiệm được nhờ màu trắng của mặt bàn hình dung quyển sách
Lời Chúa. Màu vàng được dùng rất nhiều là biểu tượng của vương quyền Thần linh,
như đưa chúng ta vào vương quốc của Thiên Chúa, vương quốc của Ba Ngôi, trong
đó Thiên Chúa là tình yêu chủ trì.
Từ bức Icône Ba Ngôi dường như toát ra một lời mời
gọi vừa tha thiết vừa êm dịu : "Hãy nên một như chúng ta là một"
(x. Ga 17,21). Mọi người đều được mời gọi "quây quần" chung
quanh cùng một chén, chia sẻ cùng một lương thực thần linh, để sống cùng "một
sự sống vĩnh phúc" của Thiên Chúa. Bức họa là một sứ điệp "bình
an và hiệp nhất", là một Tin Mừng về "tình yêu tuyệt đối".
VIII. HIỆP NHẤT TRONG TÌNH YÊU BA NGÔI
Dẫn nhập
Hiệp Nhất là ý muốn rõ ràng và tha thiết của Chúa
Kitô. Người luôn khao khát cho các môn đệ và cho Hội Thánh được hiệp nhất, đến
nỗi trong cái nhìn của Người, sự Duy Nhất là bản chất của Hội Thánh, là
đặc tính đầu tiên, cốt yếu và căn bản nhất của Hội Thánh ("Tôi tin có
Hội Thánh duy nhất").
Sự Hiệp Nhất mà Người muốn không chỉ là sự hiệp
nhất bên ngoài, mà là sự Hiệp Nhất ở chiều sâu, là mầu nhiệm Hiệp Thông,
xây dựng trên sự Hiệp Thông Ba Ngôi và phản ánh sự Hiệp Thông ấy.
Sự Hiệp Nhất của Hội Thánh bắt nguồn từ Thiên
Chúa, nhờ tình yêu vĩnh cửu mà Người đổ tràn vào tâm hồn của từng môn đệ,
tình yêu làm cho mọi người trở nên anh chị em, con một Cha trên trời. Tình Yêu
Vĩnh Hằng đó là Chúa Thánh Thần thường xuyên tác động nơi tâm hồn kitô-hữu.
Đâu có Chúa Thánh Thần, đó có sự Hiệp Nhất, vì tất cả chúng ta chỉ có một Thánh
Thần. Và đâu không có sự hiệp nhất, đó không có Thánh Thần.
Thiên Chúa là Nguồn Gốc và là Cùng Đích của
sự Hiệp Nhất trong Hội Thánh. Hội Thánh là dấu chỉ sự Hiệp Nhất cánh
chung của toàn thể nhân loại với nhau trong Thiên Chúa và với Thiên Chúa
(Vaticanô II, hiến chế tín lý về Giáo Hội, GH chương I).
Hội Thánh được các giáo phụ những thế kỷ đầu gọi là
a g a p h , nghĩa là Tình Yêu Hiệp Thông. Danh từ này là Tên đẹp nhất mà
tác giả Gioan đặt cho Thiên Chúa (1 Ga 4,8). Danh từ này được Phaolô dùng để
chỉ con đường tuyệt vời là Đức Ái, mà ngài đã ca tụng trong thư I gửi tín hữu
Côrintô (13).
Nếu so sánh lời cầu nguyện hiệp nhất của Chúa Giêsu
trong Tin Mừng Gioan với bài ca Đức Ái trong thư 1 Côrintô thì một đàng làm nổi
bật chiều đứng, đàng kia làm nổi bật chiều ngang.
Vì những lý do trên mà chúng ta phải suy tư nhiều
về sự hiệp nhất giữa chúng ta, dựa trên chính mẫu mực mà Chúa Giêsu đã đề ra
cho chúng ta để chúng ta noi theo.
A. Chú giải lời nguyện hiệp nhất (Ga
17,20-24)
Trước hết chúng ta tìm hiểu ý muốn của Chúa Giêsu
dựa vào đoạn Tin Mừng Ga 17 được gọi là "lời nguyện hiệp
nhất"
Từ việc cầu nguyện cho nhóm Mười Hai, Chúa Giêsu
bước sang một đối tượng rộng rãi hơn, là tất cả những ai sẽ tin vào lời rao
giảng của họ, nghĩa là mọi kitô-hữu, là toàn thể Hội Thánh.
Xin Chúa Cha gìn giữ các môn đệ.
Điều Chúa Giêsu cầu xin Chúa Cha cho nhóm Mười Hai
là xin cho họ được hiệp nhất với Chúa Cha (câu 11b), giờ đây Người cũng xin cho
toàn thể Hội Thánh như vậy.
Chúa Giêsu thấy trước rằng Hội Thánh càng lan rộng
thì càng có nhiều vấn đề. Sống giữa trần gian, các thành phần của Hội Thánh có
thể bị lây nhiễm tinh thần của thế gian. Như đã cầu xin Chúa Cha gìn giữ
nhóm Mười Hai khỏi sự dữ (câu 15), chắc chắn Người cũng cầu xin cho Hội
Thánh. Người không cầu xin Chúa Cha cất Hội Thánh ra khỏi thế gian. Hội Thánh ở
trong thế gian, nhưng không thuộc về thế gian, như Chúa Giêsu không thuộc về
thế gian.
Từng người trong nhóm Mười Hai đều là những người
thuộc về Chúa Cha, là hồng ân Cha ban cho Chúa Giêsu, và do đó cũng thuộc về
Chúa Giêsu. Khi ở với họ, Chúa Giêsu gìn giữõ họ, canh phòng, không để cho một
người nào trong họ phải hư đi, trừ trường hợp Giuđa (câu 13).
Chúa Giêsu cầu xin Chúa Cha gìn giữ các môn đệ khi
Người về cùng Chúa Cha, không còn ở giữa họ cách hữu hình nữa (câu 11). Mục
đích của sự gìn giữ là để cho họ nên một như Chúa Cha và Chúa Con là một.
Nói khác đi, mục đích của sự gìn giữ ấy là tình yêu
hay lòng mến. Như đã tha thiết yêu cầu các môn đệ : "Hãy ở lại trong
tình yêu" của Người (Ga 15,9), chắc chắn trong lời nguyện hiến tế Chúa
Giêsu muốn Chúa Cha gìn giữ các môn đệ trong tình yêu ấy.
Gìn giữ họ trong tình yêu của Người là gìn giữ họ
trong sự Hiệp Thông giữa Người với Chúa Cha. Gắn bó với Người, họ không bao giờ
tách rời Chúa Cha.
Hiệp nhất với nhau. Lời cầu nguyện này còn có một ý
nghĩa thứ hai là : Chúa Giêsu cầu xin cho các môn đệ yêu nhau theo mẫu mực tình
yêu giữa Người và Chúa Cha.
Tình yêu giữa họ đối với nhau là dấu chỉ tư cách
môn đệ của họ (x. Ga 13,35). Môn đệ phải nên giống Thầy, đồng hình đồng dạng
với Thầy. Như Thầy yêu Chúa Cha thế nào, họ cũng phải yêu Chúa Cha như vậy ;
hơn nữa, họ còn phải yêu nhau. Chúa Giêsu làm gương bằng đời sống, bằng cách cư
xử và tình yêu Người dành cho họ. Người saün sàng thí mạng sống vì họ. Trong
lời nguyện hiến tế, Người cầu xin Chúa Cha hiến thánh chính mình (câu
19). Chữ "hiến thánh" ở đây chắc chắn mang ý nghĩa "hy
tế". Chúa Giêsu saün sàng trở thành "lễ vật"
(victima) : Người là Chiên Vượt Qua, Chiên Con bị sát tế (Kh 5,6.9), để cho
nhân loại được tha tội.
Hiệp Thông Ba Ngôi
Sự Hiệp Nhất mà Chúa Giêsu cầu xin cho Hội Thánh không
là sự hiệp nhất bằng tổ chức mà Phaolô đã dùng hình ảnh "Nhiệm Thể",
trong đó mỗi người đều là chi thể, có chức năng riêng, nhưng hài hòa và đoàn
kết với nhau để xây dựng Nhiệm Thể (1 Cr 12,1-31)
Ở đây, Chúa Giêsu không cần dùng kiểu nói loại suy
dựa trên cơ-thể-học, Người đã có lần nói lên ước muốn đó rồi : tất cả sẽ nên
một đàn chiên có một Chủ chiên (Ga 10,16).
Trong lời nguyện hiến tế, tư tưởng, tâm tình và ý
muốn của Người còn cao hơn một bậc. Người cầu xin cho các kitô-hữu được hiệp
nhất chủ yếu là trong đời sống thần linh. Chúa Giêsu cầu xin cho họ nên một
trong Sự Sống Ba Ngôi (câu 21). Sự Hiệp Thông Ba Ngôi là "hình thái"
cao nhất, là "kiểu mẫu" đẹp nhất của Tình Yêu. Hình Thái này cho phép
Gioan gọi "Thiên Chúa là Tình Yêu". Và ai ở trong tình yêu là
ở trong Thiên Chúa (x. 1 Ga 4,12).
Trong câu 21 và 22, tác giả Gioan xác định rõ hơn
nội dung sự Hiệp Nhất mà Chúa Giêsu cầu xin cho nhóm Mười Hai. Cao Điểm hay Mục
Tiêu Cuối Cùng của Hiệp Nhất là Yêu Thương, gắn bó với nhau đến nỗi trở nên
một thực tại duy nhất. Sự Duy Nhất này xây dựng trên sự Duy Nhất của Thiên
Chúa Ba Ngôi, một sự Duy Nhất của Tình Yêu Tuyệt Đối, sự Duy Nhất kết thành bởi
những quan hệ hỗ tương, mà trọng tâm là Tình Yêu.
Chúa Con yêu thương và gắn bó với Chúa Cha trong
cùng một Thánh Thần Tình Yêu. Thánh Thần được hình dung như "Nụ
Hôn" Vĩnh Hằng giữa Chúa Cha và Chúa Con. Thánh Thần chính là Tình Yêu
Hiệp Thông, nên Tác Động của Người là đưa dẫn các môn đệ đi vào sự Hiệp Thông
Ba Ngôi.
Sự hiện diện của Chúa Ba Ngôi trong tâm hồn
kitô-hữu.
Các môn đệ nên một trong Chúa Kitô và nhờ Chúa
Thánh Thần. Trong dụ ngôn "cây nho" (Ga 15), Chúa Giêsu
mời gọi các môn đệ "lưu lại" nơi Người, gắn bó với Người, như
cành nho với thân nho. Nhờ lưu lại trong Người mà họ trở nên con cái của Chúa Cha.
Họ cũng sẽ ở trong Chúa Cha như Chúa Giêsu ở trong Chúa Cha. Họ lưu lại trong
tình yêu của Chúa Giêsu, thì Người cũng sẽ hiện diện trong họ cách đặc biệt.
Người hiện diện trong tâm hồn họ bằng Thần Khí của Người. Vì Chúa Cha ở trong
Chúa Giêsu và Chúa Giêsu ở trong các môn đệ nhờ Thần Khí, chúng ta có thể khẳng
định rằng trong tâm hồn môn đệ có sự hiện diện của Thiên Chúa Ba Ngôi. Chính
Chúa Giêsu có lần đã nói rất rõ : "Ai mến Ta thì sẽ giữ lời Ta, và Cha
Ta sẽ yêu mến nó, và Chúng Ta sẽ đến với nó và đặt chỗ ở nơi mình nó"
(Ga 14,23).
Hiệp nhất hữu hình và cụ thể.
Sự Hiệp Nhất giữa các kitô-hữu tiên vàn là Sự Hiệp
Thông Thần Linh. Sự Hiệp Nhất Siêu Nhiên nhờ Thần Khí, nhưng không vì vậy mà
hoàn toàn vô hình. Tình yêu của những con người hữu hình bao giờ cũng có những
cách diễn tả hữu hình. Tình yêu giữa các kitô-hữu là dấu chỉ hữu hình của sự
Duy Nhất Thần Linh Vô Hình. Nhờ tình yêu cụ thể và thực tế của các kitô-hữu
đối với nhau, nhân loại sẽ biết họ là môn đồ của Chúa Giêsu (x. Ga 13,35), và
hơn thế nữa, sẽ tin vào sứ vụ thần linh của chính Chúa Giêsu : tin Chúa Giêsu
và Chúa Cha là Một, và Chúa Giêsu được Chúa Cha sai (câu 23). Tình yêu là
dấu hiệu duy nhất khả tín, là con đường duy nhất phát xuất từ Thiên Chúa và
sẽ đưa về cùng Thiên Chúa.
Lý tưởng của mỗi người kitô-hữu là Hiệp Thông với
Chúa Cha và Con của Người là Đức Giêsu-Kitô (1 Ga 1,3). Chính vì thế mà Chúa
Giêsu muốn cho họ ở trong Người, và cùng với Người, ở trong Cha : "ngõ
hầu chúng ở trong Chúng Ta" (Ga 17,21). Nhưng lý tưởng Kitô-giáo hay
sự Hiệp Thông Cánh Chung này chỉ có được khi các kitô-hữu đoàn kết yêu thương
nhau, nên một với nhau trong thực tế.
Hai chiều kích của hiệp thông
Nếu được phép dùng cho mầu nhiệm Hiệp Thông hình
ảnh hai chiều đứng và ngang, thì phải khẳng định rằng nội dung lời cầu
xin của Chúa Giêsu đều mang cả hai chiều kích, đan kết chặt chẽ vớinhau đến
nỗi nếu thiếu chiều này thì sẽ không có chiều kia. Nếu môn đệ không yêu nhau
cách cụ thể và thực tế, họ sẽ không được hiệp thông với Chúa Kitô và Thiên
Chúa. Và ngược lại, nếu không kết hiệp với Chúa Kitô, họ sẽ không thể nào hiệp
nhất với nhau.
Đối với môn đệ, tình yêu hiệp nhất là hậu quả
của lòng tin là kết quả của sự chia sẻ vinh quang mà Chúa Cha đã ban cho
Chúa Giêsu. Vinh Quang là sự Biểu Lộ Thần Tính nơi Đức Giêsu. Khi còn ở trong
thế gian, các kitô-hữu phải tin. Nhưng khi không còn ở trong thế gian nữa thì
họ sẽ được chiêm ngắm.
Chúa Giêsu cũng cầu xin Chúa Cha cho các
kitô-hữu, sau khi hoàn tất cuộc đời trần gian, được ở với Người và chiêm
ngắm Vinh Quang bất diệt của Người (câu 24). Nền tảng của sự hiệp nhất là cùng
một đức tin. Và chúng ta có thể thêm vào - như Phaolô - : "cùng một
phép rửa, cùng một Thiên Chúa là Cha" (x. Ep 4,5-6).
Sự thông phần vinh quang của Đức Kitô kết hiệp các
môn đệ lại với nhau, đồng thời dẫn đưa họ tới sự Hiệp Thông Viên Mãn Cánh
Chung. Trong tiến trình Hiệp Thông ấy, nhân loại dần dần sẽ được hội nhập, vì
nhận ra nguồn gốc đích thực của Tình Yêu và Sứ Vụ của Chúa Kitô : "Thiên
Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban người Con Một của Người" (x.
Ga 3,16).
B. Suy niệm thần học và tu đức
Lời nguyện hiến tế là lời tâm sự dài của Chúa Giêsu
với Chúa Cha trước khi ra đi chịu chết. Trong khi cầu nguyện, Chúa
Giêsu đã dâng hiến sự sống của Người cho Chúa Cha. Người cầu xin Chúa Cha "hiến
thánh chính mình" (câu 19). Người muốn trở nên vừa là Tư Tế, Đấng dâng
lên Cha của lễ đẹp lòng Cha, vừa là Lễ Vật Hy Sinh để đền tội cho nhân loại.
Cả lời nguyện hiến tế của Chúa Giêsu được Tin Mừng
Gioan trình bày phỏng theo cơ cấu kinh nguyện của thầy tư tế Do-thái trong ngày
lễ "xá tội" (kippur) : cầu cho chính mình, cầu cho các tư tế khác,
cầu cho dân Chúa. Chúa Giêsu đã cầu nguyện cho chính mình (Ga 17,1-8), cho các
tông đồ (17,8-19) và cho cả Hội Thánh (17,20-26).
1.
Trong phần cầu nguyện cho bản thân, Chúa Giêsu đã
xin Chúa Cha tôn vinh Người, cho Người trở về cùng Chúa Cha, vì Người đã chu
toàn công việc Cha giao phó (17,4-5). Đối với Người, Chúa Cha là tất cả ; không
gì làm cho Người sung sướng bằng việc trở về với Cha. Cái chết được gọi là
"Giờ" của Người, nghĩa là Cao Điểm Mạc Khải Tình Yêu, là giây
phút kết hiệp, giờ gặp gỡ Cha. Theo quan điểm Tin Mừng Gioan, Chúa Giêsu không
ngừng nghĩ tới cái chết, sung sướng nghĩ tới cái chết, và Người đã ra đi chịu
chết cách tự nguyện, lòng đầy tin tưởng và yêu thương.
Trong phần cầu nguyện cho các môn đệ, Chúa Giêsu
coi cái chết của Người như một sự hy sinh vì tình yêu, vì "không có
tình yêu nào lớn hơn là thí mạng sống mình vì bạn hữu" (Ga 15,13). Sự
hy sinh này không chỉ có chiều ngang, mà bao hàm cả chiều đứng, đó là một Hy Tế
Đền Tội. Chính Người muốn trở thành Tư Tế. Vai trò của Tư Tế là Trung Gian : Tư
Tế là người dâng Lễ Vật, nhưng cũng là Đấng chuyển cầu cho Dân. Chúa Giêsu xin
Chúa Cha hiến thánh Người làm Tư Tế Đời Đời, và Người thi hành chức Tư Tế ấy
một lần duy nhất qua cái chết (x. Dt 10,4-10). Chỉ trong cái chết, Người mới
thể hiện được chức Tư Tế, vì Lễ Tế của Người là Lễ Tế Hiến Dâng sự sống mình
cho Chúa Cha. Đó là Lễ Tế Tình Yêu đối với Cha, cũng là Lễ Tế Tình Yêu đối
với nhân loại.
Chúa Giêsu cầu nguyện cho các môn đệ, vì họ là
những kẻ mà Người đã chọn để tiếp nối sứ vụ của Người (câu 18). Người là Tư Tế
Đời Đời, được cất đi khỏi thế gian, xuyên qua các tầng trời như lời thư gửi tín
hữu Do-thái (4,14). Chức Tư Tế của Người phải được thông phần, được chia sẻ cho
các môn đệ, và trở nên hữu hình trong họ. Người coi chức Tư Tế của mình như là
Nguồn Gốc chức tư tế của các môn đệ (Ga 17,19). Chính Người cầu xin cho các môn
đệ được tác thánh (Ga 17,17) trong Người và nhờ sự hiến thánh của Người. Là môn
đệ của Người, nhưng cũng là tư tế và ngôn sứ tiếp tục công việc của Người, họ
cần sự nâng đỡ và gìn giữ đặc biệt của Chúa Cha. Quan trọng hơn cả là họ phải
biểu lộ và xây dựng được điều Người mong muốn, và trả giá bằng cái chết để thực
hiện : Hòa Giải nhân loại với Thiên Chúa và Hiệp Nhất loài người với nhau.
Cái chết của Chúa Giêsu là một cái chết có khả năng
quy tụ tất cả những người con tản mác của Thiên Chúa về cùng một mối (Ga
11,52). Thánh Thần như Nước Hằng Sống chảy từ cạnh sườn Chúa Giêsu trên thập
giá là Thánh Thần Tình Yêu và Hiệp Nhất. Thánh Thần sẽ liên kết chúng ta với
Chúa Kitô, Đấng đã phục sinh và trở nên Trưởng Tử giữa một đàn em đông đúc (Cl
1,15 ; Rm 8,29), và sẽ làm cho chúng ta có khả năng và can đảm thưa cùng Chúa
Cha : "Abba, lạy Cha !" (Rm 8,15).
2.
Tình Yêu Ba Ngôi và ơn cứu độ.
Dựa trên lời cầu nguyện của Chúa Giêsu cho sự Hiệp
Nhất của Hội Thánh, chúng ta khẳng định rằng sự Hiệp Thông Ba Ngôi là
"nguồn mối", là "mẫu mực" và là "cùng đích" của
sự Hiệp Nhất trong Hội Thánh. Tất cả đều phát xuất từ Tình Yêu Ba Ngôi, và tất
cả đều quy về Tình Yêu Ba Ngôi.
Có thể nói rằng từ Ba Ngôi có một cuộc xuất hành,
đó là sự xuất hành của Chúa Con cũng là Ngôi Lời Thiên Chúa. Trong Tin Mừng
Gioan, Chúa Giêsu không ngừng khẳng định Người là Con được Cha sai đến thế
gian. Và điều Người mong mỏi là có nhiều người nhận biết Chúa Cha và nhận biết
Người là Đấng Cha sai (17,3). Sự Xuất Hành của Ngôi Con là dấu chỉ tình yêu vô
bờ của Chúa Cha. Theo một nghĩa nào đó, Thiên Chúa đã ra khỏi chính mình, đã
rời bỏ chính mình, để đến với nhân loại. Mục tiêu của cuộc xuất hành này là đưa
nhân loại trở về với mình, để cho nhân loại được hạnh phúc đời đời. Người thực
hiện cuộc trở về này là Ngôi Con Nhập Thể, là Đức Kitô, Đấng đã chết và sống
lại. Hành trình trở về này là hành trình Vượt Qua, trong đó Người muốn lôi kéo
cả nhân loại và vũ trụ về với Chúa Cha.
Đức Kitô đã nhờ Thánh Thần mà đến thế gian, thì
cũng nhờ Thánh Thần mà trở về cùng Cha. Và công tác đưa nhân loại về cùng Cha
cũng nhờ Thánh Thần mà hoàn tất. Cùng Đích của nhân loại là được Hạnh Phúc ở
trong lòng sự Hiệp Thông Tình Yêu Ba Ngôi. Đó là nội dung lời cầu nguyện
hiệp nhất của Chúa Giêsu : xin cho các kitô-hữu nên một như Ba Ngôi và trong Ba
Ngôi, xin cho cả nhân loại nên một.
Cùng Đích của Hội Thánh là Hiệp Nhất
Sự Hiệp Nhất Tuyệt Đối của Hội Thánh như Ba Ngôi và
trong Ba Ngôi Thiên Chúa là Cùng Đích, là Hướng Đi của Hội Thánh.
Cùng Đích là mục tiêu cuối cùng phải hướng tới, và
phải làm mọi cách để hướng tới, dù chưa hoàn toàn khi còn lữ thứ. Sự Hiệp Nhất
Tuyệt Đối và Cánh Chung trong Thiên Chúa là Nước Trời, là Thiên Đàng mà Chúa
Kitô mời gọi chúng ta đi vào. Nhưng Nước Trời ấy đã bắt đầu từ ngày Đức Kitô
xuất hiện trong trần gian, và Nước Trời phải lớn lên cho đến ngày đạt tầm vóc
viên mãn. Phải có những người chứng cho Nước Trời. Và những người chứng đặc
biệt hơn cả là những người tận hiến vì Nước Trời (độc thân vì Nước Trời, x. Mt
19,12). Chúng ta tận hiến để làm chứng cho Tình Yêu và sự Hiệp Nhất, nên cuộc
sống của chúng ta phản ánh một phần Tình Yêu và sự Hiệp Nhất ấy.
Nên một trong Thiên Chúa và vì Thiên Chúa
Trước hết, chúng ta phải nên một trong Thiên Chúa
Ba Ngôi. Có ở trong Thiên Chúa, chúng ta mới nên một. Có nên một, chúng ta mới
ở trong Thiên Chúa. Chúng ta không thể nên một, nếu ở ngoài Thiên Chúa, vì
ngoài Thiên Chúa chỉ có tan rã và chết chóc, chỉ có ganh ghét và chia rẽ ; ở
ngoài Thiên Chúa là ở trong thế giới của Satan. Điều kiện tiên quyết để hiệp
nhất với nhau là lòng đạo đức, là tiếp xúc thường xuyên với Thiên Chúa, là kết
hiệp mật thiết với Người. Càng gần Thiên Chúa bao nhiêu, chúng ta càng gần với
tha nhân bấy nhiêu.
Mặt khác, nếu chúng ta muốn ở trong Thiên Chúa,
muốn sống gần Người, chia sẻ Sự Sống và Tình Yêu của Người, chúng ta phải hiệp
nhất với nhau. "Thiên Chúa là Tình Yêu" ; trong Tình Yêu, không thể
có sự chia rẽ. Sự chia rẽ khai trừ chúng ta ra khỏi quỹ đạo Tình Yêu. Trong Tin
Mừng Gioan, Chúa Giêsu đã mời gọi các môn đệ : "Hãy ở lại trong Tình
Yêu của Thầy !" (15,9). Và muốn ở lại trong Tình Yêu của Người, phải
tuân giữ lệnh truyền của Người, là "Hãy yêu thương nhau !"
(15,12).
Nên Một như Thiên Chúa Ba Ngôi là Một.
Tình Yêu Ba Ngôi là mẫu mực cho sự Hiệp Nhất của
chúng ta.
Ba Ngôi luôn hướng về nhau, quay mặt vào
nhau (Roubliov). Từ đời đời, Ngôi Lời đã hướng về Chúa Cha (Ga 1,1 : p r o V t o
n q e o n ), và ngay cả khi làm người sống giữa trần gian, Người cũng luôn
hướng về Cha. Cái nhìn của Người, tư tưởng của Người, trái tim của Người hướng
về Cha, cả cuộc đời của Người hướng về Cha.
Theo gương Chúa Ba Ngôi, muốn yêu nhau và hiệp nhất
với nhau, điều đầu tiên chúng ta phải thực hiện là hướng về nhau. Chúng ta
hướng về nhau trong tâm tình, tư tưởng, lời nói và việc làm. Tâm tình hướng về
nhau là thiện cảm dành cho nhau. Ác cảm khiến chúng ta lìa xa nhau nơi sâu thẳm
nhất là trái tim. Ác cảm phủ nhận, xua đuổi tha nhân ra khỏi lòng mình. Muốn
hiệp nhất, chúng ta phải chiến đấu để vượt qua ác cảm. Cuộc chiến này đòi hỏi
chúng ta rời bỏ bản thân mình để có thể đến với tha nhân.
Hướng về nhau trong tư tưởng là
thường xuyên nghĩ tới nhau. Nghĩ tới niềm vui nỗi buồn của nhau, nghĩ tới các
vấn đề của nhau. Muốn nghĩ nhiều đến tha nhân, phải bớt nghĩ tới mình, phải
thực hiện một cuộc xuất hành, ra khỏi cái tôi, ra khỏi những định kiến, những
tư tưởng bảo thủ, cố chấp của mình. Con người khiêm tốn mới thực hiện được cuộc
xuất hành này.
Hướng về nhau trong lời nói là nói
tốt về nhau, là tập cởi mở với nhau. Không dùng lời nói để hất hủi, khinh
thường hay sỉ nhục nhau. Hướng về nhau trong lời nói là dùng lời nói trang nhã,
tế nhị, dịu dàng và đầy tình yêu để đến với nhau và chào đón nhau.
Hướng về nhau trong hành động là hành
động vì nhau và cho nhau. Khi làm bất cứ việc gì, hãy làm trong tinh thần phục
vụ và yêu thương. Ít làm điều gì cho mình, saün sàng làm điều thiện vì ích lợi
của tha nhân.
Giữa Ba Ngôi Thiên Chúa có sự trao đổi kỳ diệu
vượt quá sức tưởng tượng của loài người. Tương giao giữa Ba Ngôi là tương giao
tình yêu cao vời và sâu thẳm. Sự trao đổi thâm sâu hơn cả là cho nhau tình yêu
và sự sống. Chúa Cha yêu Chúa Con đến nỗi ban sự sống mình cho Chúa Con. Tất cả
những gì thuộc về Chúa Cha, Ngài đều ban cho Chúa Con ; vì thế mà Chúa Con có
tất cả. Tương giao giữa Chúa Con và Chúa Cha là đón nhận và dâng hiến.
Tương giao này được mạc khải trong cuộc sống của Đức Giêsu tại thế. Đức Giêsu
không ngừng tạ ơn Cha, vì Người ý thức sự sống của Người do Cha ; mọi sự của
Người đều bởi Cha (x. Ga 17,7). Người đón nhận tất cả với tấm lòng biết ơn và
hiếu thảo. Tất cả những gì Cha đã ban cho Người, Người dâng hiến lại cho Cha.
Người vâng phục Cha trọn vẹn. Người tôn vinh Cha, ngưỡng mộ Cha, sung sướng đối
thoại với Cha. Tâm hồn của Người hoàn toàn cởi mở đối với Cha. Người tin tưởng
và phó thác vào Cha, không giấu điều gì với Cha. Khi tiếp xúc với Cha, Đức
Giêsu đầy hoan lạc trong Thánh Thần Tình Yêu (x. Lc 10,21t).
Tương giao giữa Chúa Cha và Chúa Con là mẫu mực cho
tương giao giữa kitô-hữu với nhau. Muốn hiệp nhất với nhau, chúng ta phải không
ngừng trao đổi, tiếp xúc, chia sẻ và thông cảm với nhau. Sự trao đổi không
dừng lại bình diện tư tưởng, nhưng phải là trao đổi tình yêu, là trao ban và
đón nhận. Chúng ta phải biết ngưỡng mộ, khích lệ nhau, dâng hiến cho nhau những
món quà thiêng liêng, mà món quà quý nhất là tấm lòng, là tình yêu mà chúng ta
dành cho nhau. Hãy saün sàng hy sinh để phục vụ nhau, nâng đỡ những yếu hèn của
nhau ! Chúa Thánh Thần được mệnh danh là "Nụ Hôn" giữa Chúa Cha và
Chúa Con sẽ giúp chúng ta "hôn nhau" bằng cái hôn bình an và thánh
thiện.
Tình Yêu giữa Ba Ngôi Thiên Chúa là Tình Yêu Tuyệt
Đối và Sâu Thẳm, là Tình Yêu kết hiệp. Ba Ngôi yêu nhau và kết hiệp với
nhau mật thiết đến nỗi trở nên Một Thiên Chúa Duy Nhất. Ba Ngôi chia sẻ cùng
một sự sống, cùng một tình yêu, cùng một thần tính. Sự chia sẻ trọn vẹn không
làm giảm đi sự sống nơi bản vị mình, mà còn làm Viên Mãn Sự Sống ấy nơi các
Ngôi Vị khác. Cả Ba đều yêu nhau cách trọn vẹn đến nỗi trở thành Một Tình Yêu
Viên Mãn Duy Nhất. Tình Yêu Viên Mãn kết hiệp, chứ không làm tan biến sự khác
biệt giữa các Ngôi Vị. Chúa Cha vẫn là Cha, Chúa Con vẫn là Con, Chúa Thánh
Thần vẫn là Thánh Thần, nhưng cả Ba là Một. Sự mật thiết giữa Ba Ngôi là mẫu
mực cho tình yêu mật thiết giữa những người kitô-hữu.
Yêu nhau, chúng ta hãy gắn bó với nhau, kết hiệp
với nhau mật thiết đến nỗi nên một với nhau. Chúng ta tuy nhiều, nhưng là
một trong tình yêu và nhờ tình yêu. Nhưng cũng vì tình yêu mà chúng ta vẫn là
nhiều nhân vị khác nhau. Nhân vị của chúng ta không tan biến trong tình yêu, mà
càng triển nở nhờ tình yêu. Chúa Thánh Thần, Tình Yêu liên kết giữa Chúa Cha và
Chúa Con, sẽ liên kết chúng ta và làm cho chúng ta trở thành một trong Đức
Giêsu-Kitô, Chúa chúng ta.
Nhiều và Một không tương phản nhau trong lô-gích
của tình yêu. Thiếu tình yêu, chúng sẽ chống chọi nhau ; và nhiều không thể nào
trở thành một, nhưng vẫn là nhiều thực tại đặt kế cận nhau. Nếu có sự duy nhất,
thì chỉ là một sự duy nhất giả tạo, lỏng lẻo, rời rạc, có nguy cơ rã tan bất cứ
lúc nào.
Sự kết hiệp mật thiết giữa Ba Ngôi Thiên Chúa làm
cho Ba Ngôi ở trong nhau, tồn tại trong nhau, sống trong nhau. Trong
Chúa Cha, lúc nào cũng có Chúa Con và có tình yêu giữa Cha và Con là Chúa Thánh
Thần. Trong Chúa Con, lúc nào cũng có Cha và Thánh Thần. Trong Chúa Thánh Thần,
lúc nào cũng có Chúa Cha và Chúa Con. Ngay khi còn tại thế, Chúa Giêsu thường
khẳng định : "Cha ở trong Con và Con ở trong Cha" (Ga 17,21).
Vì Chúa Cha ở trong Chúa Giêsu, nên Chúa Giêsu luôn sung sướng, hạnh phúc. Giây
phút êm đềm nhất đối với Chúa Giêsu là được chuyện vãn với Cha, được chiêm
ngưỡng Cha nội tại trong tâm hồn mình : con người của Chúa Giêsu đầy tràn
Thiên Chúa. Vì đầy tràn Thiên Chúa và là một với Thiên Chúa, nên Người mới có
thể mạc khải trọn vẹn Thiên Chúa : "Ai thấy Ta là thấy Cha"
(Ga 14,9). Vì Chúa Cha ở trong tâm hồn Chúa Giêsu, nên ý muốn của Chúa Cha đồng
hóa với ý muốn của Chúa Giêsu. Cha muốn gì, Con muốn nấy ; Cha nói điều gì, Con
nói điều ấy ; Cha làm điều gì, Con làm điều đó. Tâm hồn Chúa Giêsu cũng đầy
tràn Thánh Thần, nên Người luôn hoạt động trong Thánh Thần, và lòng Người lúc
nào cũng tràn ngập tình yêu và ơn tha thứ.
Yêu Chúa, tâm hồn chúng ta có chỗ cho Chúa. Yêu tha
nhân, tâm hồn chúng ta phải có chỗ cho tha nhân. Tình yêu dành cho tha nhân làm
cho họ hiện diện trong chúng ta, trong tâm hồn, nơi trái tim, trong tư tưởng và
đầu óc của chúng ta. Chúng ta không nên lẫn lộn "tình yêu tương tại"
với sự ám ảnh của những tình cảm lệch lạc hay bệnh hoạn. Nhưng tâm hồn chúng ta
phải có chỗ cho nhiều người. Tâm hồn ta phải giống như "nhà của Cha có
nhiều chỗ ở". Hãy sung sướng vì sự hiện diện của bao nhiêu người khác
trong tâm hồn chúng ta ! Hãy quảng đại đón nhận thêm những người mà trước đây
chúng ta không ưa thích ! Nếu tâm hồn chúng ta có chỗ cho nhiều người thì Chúa
Ba Ngôi cũng thích đến ở trong chúng ta, vì trong đó, Người gặp được tất cả
những kẻ mà Người thương mến. Chúng ta sẽ thờ lạy Ba Ngôi trong tâm hồn chúng
ta ; tâm hồn chúng ta sẽ hòa nhịp với nhiều người và với tất cả các tạo vật.