SUY TƯ VỀ MẦU NHIỆM NHẬP THỂ

THEO LƯỢC ĐỒ THẦN HỌC CỦA CHALCÉDOINE

 

 

 

 

 

MẦU NHIỆM NHẬP THỂ

 

        Chúng ta đã quá quen dùng từ ngữ “nhập thể” để chỉ mầu nhiệm Con Thiên Chúa đồng bản thể với Thiên Chúa, đã làm người và ở giữa lồi người chúng ta.

 

Thực ra từ ngữ “nhập thể” cịn nhiều khuyết điểm, chữ “nhập” gợi ra hình ảnh một vị thần linh nhập vào trong một người hay một thực tại nào đĩ. Đột nhập chứ khơng đồng hĩa, khơng trở nên, nghĩa là vẫn cịn khoảng cách hữu thể. Vả lại “nhập vào” là hành vi cĩ tính cách nhất thời, vì nhập vào rồi sẽ xuất ra. Dù thời gian nhập vào kéo dài bao lâu đi nữa, thời gian ấy vẫn qua đi, và như vậy thì khơng diễn tả đúng mầu nhiệm Con Thiên Chúa làm người, trở nên một con người cụ thể là Giêsu Nazareth.

 

       Đối với niềm tin của chúng ta, giữa Giêsu Nazareth và Con Thiên Chúa khơng cịn một khoảng cách hữu thể nào nữa: Giêsu Nazareth là Con Thiên Chúa, và Con Thiên Chúa đã trở nên Giêsu Nazareth, Giêsu Nazareth là Con và mãi mãi là Con Thiên Chúa, và từ lúc làm người, Con Thiên Chúa khơng bao giờ rũ bỏ nhân tính của mình nữa.

 

Khi chúng ta tuyên xưng một Đức Giêsu Con Một Thiên Chúa, sinh bởi Chúa Cha từ trước muơn đời…Vì chúng ta…đã từ trời xuống thế và đã làm người, chúng ta tuyên xưng hai điều cốt yếu:

 

* Đức Giêsu là Thiên Chúa thật và là người thật.

* Thiên Chúa thật đã trở thành người thật.

 

       Hiểu được Đức Giêsu Kitơ vừa là Thiên Chúa thật vừa là người thật quả là một điều rất khĩ, là điều mà lý trí khơng làm nổi. Bởi lẽ Thiên Chúa thường được quan niệm là Đấng Tuyệt Đối, Vơ Hạn, là Đấng trường sinh bất tử. Cịn con người là tương đối, hữu hạn, là hữu thể thời gian, là vong nhân phải chết.

 

Khĩ khăn càng lớn vì ảnh hưởng của khoa siêu hình học Hy Lạp, khoa Thượng Đế học kinh viện, nhấn mạnh sự đồng nhất và bất biến nơi Thiên Chúa hay Thượng Đế. Thượng Đế khơng thể nào thay đổi, vì thay đổi là bất tồn.

 

Nhận định trên của các nhà thần học hiện đại nĩi chung là đúng, nhưng khơng giải quyết được vấn đề, vì khĩ khăn nội tại trong chính mầu nhiệm, trí tuệ con người khơng tài nào suy thấu: Thiên Chúa là tạo hĩa, con người là thụ tạo. Thiên Chúa làm người cĩ nghĩa là Tạo Hĩa trở nên thụ tạo. Lời tựa Tin Mừng Gioan khẳng định “Ngơi Lời là Thiên Chúa”. Nhờ Người mà mọi sự được tạo thành và khơng cĩ Người thì khơng cĩ gì được tạo thành (Ga1,3). Và cũng theo Tin Mừng Gioan “Ngơi Lời đã trở thành xác phàm và ở giữa chúng ta” (Ga1,14), xác phàm là thụ tạo được Kinh Thánh ví như cỏ rả, một cơn giĩ thoảng đủ làm nĩ biến đi, nơi nĩ mọc khơng cịn lại di tích.

 

Một chủ vị vừa là Tạo Hĩa vừa là thụ tạo. Vừa là Đấng dựng nên vừa là người được dựng nên, là điều khơng thể hiểu đối với lý trí lồi người chúng ta. Chính vì thế mà giáo phụ Tertullien đã thốt ra những lời táo bạo: “Tơi tin vì khơng thể tin được”.

 

Chính Đức Giêsu cũng đã thấy rõ khĩ khăn này nên Người vẫn thường xuyên tuyên bố: “Phúc cho những ai khơng vấp phạm vì Ta”, và khi muốn nhấn mạnh địi hỏi đức tin, Người khẳng định: “Khơng cĩ điều gì là khơng thể được đối với Thiên Chúa”, và khẳng định này là khẳng định hợp lý. Nếu tin Thiên Chúa là Thiên Chúa, thì khơng thể nghĩ rằng điều này hay điều kia khơng ở trong tầm tay của Người.

 

Khẳng định hợp lý này của Đức Giêsu  làm cho điều phi lý trở nên cĩ lý, và điều nghịch lý ở đây khơng cịn là nghịch lý nữa, mà trở thành điều nghịch thường: cứ sự thường khơng thể cĩ như vậy, chưa từng cĩ và khơng bao giờ cĩ như thế. Đĩ là huyền nhiệm, điều mắt khơng hề thấy, tai khơng hề nghe, điều giấu kín từ muơn thuở nơi Thiên Chúa nay tỏ hiện. Kế hoạch hay chương trình khơng thể thực hiện được đối với con người, thì nay đã được Thiên Chúa thể hiện và hồn tất nơi Đức Giêsu Kitơ.

 

Việc Con Thiên Chúa và cũng là Thiên Chúa trở thành  xác phàm, làm một người cụ thể là điều cĩ lý lẽ của nĩ. Theo tồn bộ Tân Ước, lý lẽ duy nhất đĩ là: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi ban Con Một Mình cho thế gian được sống” (Ga3,16). “Thiên Chúa yêu chúng ta đến nỗi phĩ nộp Con của Người cho chúng ta, thì Người khơng cịn tiếc với chúng ta điều gì” (Rm 8,32).

 

Tình yêu là lý lẽ vượt trên muơn ngàn lý lẽ, là lý lẽ siêu lý lẽ. Như Pascal đã nĩi: “Tình yêu cĩ những lý lẽ mà lý trí khơng cĩ”. Trong lịch sử thần học đã cĩ những cố gắng như thánh Anselmơ giải thích lý do tại sao Thiên Chúa làm người. Nhưng những giải thích này vẫn khơ khan vì là những giải thích thuần lý luận của con người, và hơn thế nữa mang nặng tính pháp lý.

 

Ngày nay, nếu cĩ dùng trí tuệ để tìm hiểu thì cũng là để truy tầm cho đến tận cùng cái lý lẽ của “Tình yêu”. Thế nhưng, ai yêu thì kẻ đĩ mới cĩ thể giải thích đúng nhất về tình yêu và con đường của tình yêu. Chính vì thế mà, nĩi theo kiểu  Hàn Mặc Tử: “Hãy để cho Trời giải nghĩa yêu, để cho mạc khải giải thích mạc khải”.

 

Mạc khải giải thích  bằng lời mời gọi: Hãy nhìn vào con người Giêsu để khám phá ra Thiên Chúa! Đừng cĩ những tiền quan niệm về Thiên Chúa, đừng cĩ định kiến về sự tồn năng, tồn tri và vơ hạn của Thiên Chúa. Đừng định nghĩa Thiên Chúa  khơng như người tự giới thiệu. Thiên Chúa là Tình Yêu, và tình yêu khơng định nghĩa được, và tình yêu thường làm những chuyện bất ngờ.Tình yêu càng vĩ đại thì bất ngờ càng lớn lao. Tình yêu vơ cùng thì bất ngờ cũng vơ hạn. Dĩ nhiên đĩ là sự bất ngờ lý thú, bất ngờ mang đến niềm vui và hạnh phúc. Bất ngờ cho những kẻ được yêu, nhưng khơng bất ngờ đối với người yêu. Tình yêu cĩ kế hoạch của tình yêu. Con Thiên Chúa là kế hoạch cứu độ của tình yêu Ba Ngơi.

 

Theo kế hoạch này, Chúa Con làm người  chứ khơng phải Chúa Cha hay Chúa Thánh Thần. Cĩ người cho rằng: vì Chúa Con là Ngơi Lời, và nhân loại cần Ngơi Lời đến với họ để mạc khải cho họ biết Thiên Chúa. Điều này rất đúng, nhưng chúng ta chỉ cĩ thể trả lời như vậy sau khi đã tin Đức Giêsu là Ngơi Lời xuống thế gian với sứ mạng mạc khải tình yêu của Chúa Cha, và như thế là đã để cho mạc khải giải thích mạc khải. Dựa trên điều mạc khải này, ngày nay chúng ta cĩ thể suy tư rất nhiều để biểu lộ lịng yêu mến Thiên Chúa hết tâm hồn, hết sức lực, hết trí khơn.

 

A. Tại sao Ngơi Lời đã làm người?

 

Vì Lời của Thiên Chúa là Lời yêu thương ngỏ với con người, mà lời yêu thương thì phải là lời hiểu được, nghe được, thấy được, sờ được, và cảm nghiệm đươc. Lời yêu thương ấy đã đi đến tận cùng  vai trị ngỏ  lời của mình. Vì yêu thương, Lời của Thiên Chúa đã trở thành lời của con người, mà Lời của Thiên Chúa là một chủ vị được thần học gọi là Ngơi Lời, nên khi đi vào thế giới con người, Lời đã trở thành một nhân vị.

 

B. Làm sao mà chủ vị thần linh trở nên chủ vị nhân linh?

 

Chúng ta cũng trả lời bằng mạc khải: do tác động của Chúa Thánh Thần trên con người Đức Trinh Nữ Maria. Khơng phải là Chúa Thánh Thần làm người hay đầu thai trong lịng Đức Mẹ, nhưng là Ngơi Lời đã đầu thai trong lịng Đức Mẹ  bởi quyền năng Chúa Thánh Thần (Lc 1,35). Sự hình thành của con trẻ Giêsu, vừa là người vừa là Thiên Chúa, nhịp cầu, gạch nối giữa đất với trời, sự hịa hợp trọn vẹn  giữa trời và đất, giữa tạo hĩa  và thụ tạo, là cơng trình của Chúa Thánh Thần, là tác phẩm của tình yêu Thần Linh. Sức mạnh tình yêu của Thiên Chúa cĩ tác dụng kỳ   diệu và lạ lùng: Đức Giêsu sinh ra từ hơn lễ giữa hai tình yêu: Tình yêu thần linh của Thiên Chúa và tình yêu nhân linh của Đức Mẹ. Điều này càng sáng tỏ hơn nếu được đặt trong khung cảnh “quan hệ phu thê” giữa Thiên Chúa với Dân Người trong Cựu Ước. Thiên Chúa mến yêu Dân Người lắm, tình yêu nồng cháy này đã được diễn tả bằng tình yêu nam nữ trong sách Diệu Ca. Hoa quả của tình yêu đĩ là Đức Giêsu Kitơ, “Đấng vừa là con của Thiên Chúa vừa là con của Dân Người. Giêsu Kitơ sinh từ dịng giống Đavít theo xác phàm, là Con Thiên Chúa quyền năng theo Thánh Khí” (Rm 1,3-4).

 

Nĩi theo kiểu Phaolơ, nĩi Đức Giêsu cĩ cả xác phàm, cĩ cả Thần Khí; cĩ nguyên vẹn xác phàm, cĩ trọn vẹn Thần Khí, mà cĩ Thần Khí trọn vẹn là cĩ thần tính trọn vẹn. Trong thư Cơlơsê, Phaolơ đã quả quyết: “Sự viên mãn của thần tính đậu lại trên Ngài” (Cl 1,19).

 

Nĩi theo kiểu tín lý của cơng đồng Chalcédoine (451), nơi Đức Giêsu Kitơ cĩ nhân tính trọn vẹn và trọn vẹn thần tính. Cơng đồng Chalcédoine cịn thêm bốn trạng từ cần ghi nhận để hiểu đúng mầu nhiệm Con Thiên Chúa làm người theo mạc khải: “Chỉ cĩ một Đức Giêsu Kitơ duy nhất, một con người duy nhất trong hai bản tính khơng lẫn lộn, khơng phân chia, khơng thay đổi, khơng tách rời”.

 

1. Không lẫn lộn

 

Thần tính là thần tính, nhân tính là nhân tính. Khơng thể cĩ thần tính pha nhân tính, nhân tính pha thần tính. Đức Giêsu Kitơ - Thần - Nhân, khơng phải là nửa người nửa Chúa, Chúa khơng ra Chúa, người khơng ra người, mà là Thiên Chúa thật và là người thật. Đức Giêsu Kitơ là Thiên Chúa trọn vẹn như Thiên Chúa Cha và cùng với Thiên Chúa Cha; là con người thực sự như chúng ta và cùng với chúng ta. Bất cứ một sự pha trộn nào cũng đều làm hỏng cả thần tính lẫn nhân tính. Vả lại tình yêu khơng bao giờ chấp nhận pha trộn, vì pha trộn sẽ làm hỏng bản chất của tình yêu.Tình yêu thường đồng hĩa mà khơng bao giờ  lẫn lộn.

 

2. Không phân chia

 

Tình yêu làm cho nên một hai thực thể hồn tồn khác biệt, khác biệt mà vẫn là một, là một mà vẫn khác biệt. Đĩ là ý nghĩa của từ ngữ “khơng phân chia”. Chúng ta khơng thể chủ trương cĩ hai người con như lạc giáo Nestorio: Con của Thiên Chúa và con Đức Maria, Đức Giêsu Kitơ khơng là một chủ vị kép, gồm chủ vị thần linh  và chủ vị nhân linh cộng lại.

 

3. Không thay đổi

 

Trong mầu nhiệm làm người, Con Thiên Chúa khơng trở thành một chủ vị khác. Ngơi Lời đã trở nên xác phàm, trở nên một con người cụ thể là Giêsu Nazareth, nhưng khơng trở thành một chủ vị khác.

 

Khơng thể ứng dụng cho Đức Giêsu Kitơ kiểu nĩi của triết gia Fichte: “Tơi đã trở thành khơng phải tơi”. Vẫn một ngơi vị là Ngơi Hai Thiên Chúa mà vẫn một chủ vị con người Giêsu Nazareth, chủ vị thực sự thì khai mở chứ khơng khai trừ: Ngơi Lời khơng khai trừ chủ vị con người Giêsu Nazareth, nhưng “khai mở”, “đảm nhận” chủ vị con người Giêsu Nazareth, đảm nhận cĩ nghĩa là để cho chủ vị ấy nguyên vẹn, đồng thời vẫn là một với mình.

 

Chúng ta khơng thể chấp nhập quan niệm  ngơi vị thần linh nhập vào bản tính con người  và biến đổi bản tính ấy như lửa biến đổi thanh củi thành lửa.

 

Lạc giáo “nhất tính thuyết” chủ trương nhân tính của Đức Giêsu bị mất hút trong thần tính và như vậy Đức Giêsu khơng cịn thực sự là người nữa.

 

4. Không tách rời

 

Đảm nhận khơng chỉ là tiếp đĩn, vì tiếp đĩn thì cịn cĩ ngày giã biệt. Chúng ta khơng thể quan niệm là Con Thiên Chúa  đã đến cư ngụ nơi con người Giêsu Nazareth trong thời gian 30 năm ở đất Palestine để rồi  khi hết đời Giêsu Nazareth, Con Thiên Chúa lại rời bỏ kiếp sống trần gian để trở về Thiên Quốc. Trái lại, dựa trên mạc khải và tín điều, chúng ta phải khẳng định: từ lúc Con Thiên Chúa làm người, khơng cịn cĩ thể tách rời con người Giêsu với Ngơi Hai Thiên Chúa nữa. Mãi mãi Ngơi Hai Thiên Chúa là Giêsu Nazareth, và mãi mãi Giêsu Nazareth là Ngơi Hai Thiên Chúa. Đĩ là ý nghĩa trạng từ “khơng thể tách rời” của tín lý cơng đồng Chalcédoine. Chúng ta khơng thể chấp nhận một thái độ giả vờ của Con Thiên Chúa như “Aûo thân thuyết” (Docétisme) của phái ngộ đạo.

 

Khi suy nghĩ thật kỹ về tín điều cơng đồng Chalcédoine, chúng ta nhận rằng Cơng Đồng đã thành cơng trong việc diễn tả mầu nhiệm Con Thiên Chúa làm người trên bình diện “tĩnh”. Cơng Đồng đã cho thấy rõ Đức Giêsu là Thiên Chúa thật và là người thật như trong Kinh Tin Kính và trong mạc khải Kinh Thánh. Nhưng Cơng Đồng đã khơng làm rõ nét phương diện “động” của mầu nhiệm Nhập Thể.

 

Tin Mừng Gioan đã dùng động từ “trở nên”  để diễn tả mầu nhiệm Nhập Thể. Ngơi Lời đã thành xác phàm: Con Thiên Chúa làm người, một số thần học gia đề nghị dùng chữ “nhân thành” thay mầu nhiệm nhập thể. Chúng ta nên dùng từ ngữ đơn sơ nhất là “làm người”. Chữ “làm người” bao hàm một số tiến trình một sắc thái động, một cuộc sống cụ thể, đồng thời cũng là một lý tưởng, một ơn gọi. Chữ “làm người”: cịn cho thấy sự dấn thân trọn vẹn của Con Thiên Chúa, dấn thân đến mức cuối cùng của kiếp sống con người là phải đau khổ và chết. Khi suy gẫm về ý nghĩa cuộc khổ nạn của Đức Giêsu, cĩ giáo phụ đã thốt lên: “Một trong Ba Ngơi đã chịu khổ hình”.

 

Nếu dừng lại ở các phạm trù của khoa Thượng Đế học kinh viện, hay khoa siêu hình học Hy Lạp, chúng ta sẽ khơng hiểu được điều các giáo phụ nĩi. Theo quan niệm Hy Lạp, thần linh bao giờ cũng bất biến, bất diệt, bất tử. Vậy làm sao trong Ba Ngơi cĩ thể chịu khổ hình? Theo khoa Thượng Đế học cổ điển, phải phủ nhận sự đau khổ của Thượng Đế, nhưng đĩ khơng phải là quan điểm của Kinh Thánh. Nhờ Kinh Thánh, chúng ta hiểu được sự đau khổ vì tình yêu của Thiên Chúa. Chủ đề "đau khổ của Thiên Chúa" là một chủ đề hiện đại trong khoa thần học tín lý. Chúng ta phải trở lại với câu nĩi thời danh của Pascal: “Thiên Chúa của Abraham, Isaac và Giacop khơng phải là Thiên Chúa của các triết gia". Thiên Chúa của chúng ta là Thiên Chúa bao dung, huệ ái, đầy lịng nhân nghĩa tín thành, là Đấng giàu lịng thương xĩt. Lịng thương xĩt đã mang lại biết bao nhiêu đau khổ cho Thiên Chúa, và lịng thương xĩt của Thiên Chúa cuối cùng đươcï biểu lộ trọn vẹn nơi một con người chịu đĩng đinh.

 

Theo Tin Mừng Gioan, cái chết của Đức Giêsu là cao điểm củ tình yêu Nhập Thể: “Khơng cĩ tình yêu nào lớn hơn tình yêu của kẻ thí mạng sống vì bạn hữu" (Ga15,13). Tình yêu của Thiên Chúa đã trở thành tình yêu của con người. Vì yêu thương, Con Thiên Chúa đã phải học làm người. Nơi mầu nhiệm làm người của Con Thiên Chúa, chúng ta cĩ thể chiêm ngưỡng vinh quang của Thiên Chúa ẩn mình trong xác phàm. Thực tại lớn nhất trở thành thực tại mỏng giịn. Hay nĩi theo kiểu của một số giáo phụ: "Vĩnh cửu trở thành thời gian, vơ hạn trở thành hữu hạn, vơ hình trở thành hữu hình, Đấng bất tử trở thành khả tử, cái lớn nhất trở nên nhỏ nhất để cho cái nhỏ nhất trở nên lớn nhất". Đĩ là con đường của tình yêu cứu độ. Thần linh đã trở thành con người để con người trở nên thần linh. Tiến trình này thể hiện tiên vàn nơi con người Đức Giêsu Kitơ, để rồi từ đĩ trở nên con đường cho bất cứ ai muốn cĩ sự sống thần linh. Nơi Đức Giêsu Kitơ, con người và Thiên Chúa khơng đối lập nhau, trái lại càng là người bao nhiêu thì càng là Thiên Chúa bấy nhiêu. Là người tối đa biểu lộ tư cách là Thiên Chúa tối đa. Là Thiên Chúa tối đa trong mầu nhiệm nhân thành là làm người tối đa. Đức Giêsu Kitơ là sự thật về Thiên Chúa và về con người. Vì Ngài là người thật và là Thiên Chúa thật. Vậy cĩ người hỏi Thiên Chúa là ai, chúng ta chỉ vào Đức Giêsu Kitơ. Đồng thời khi cĩ người hỏi con người là ai, chúng ta cũng chỉ vào Đức Giêsu Kitơ.

 

Mầu nhiệm con Thiên Chúa làm người là "sự biến thành", nếu chúng ta nhìn về phía Thiên Chúa và rồi hướng về phía con người, hay nĩi cách khác, chúng ta theo  một "Kitơ-học từ trên". Nếu nhìn từ hai phía cùng một lúc, chúng ta cĩ một sự  "gặp gỡ" . Một sự gặp gỡ kỳ diệu giữa Thiên Chúa và con người, thắm thiết đến nỗi là một thực tại duy nhất nơi Đức Giêsu Kitơ. Kết hợp hai cách nhìn, chúng ta cĩ mầu nhiệm Ngơi Hiệp: Thần tính và nhân tính kết hiệp với nhau trong cùng một ngơi vị Con Thiên Chúa: Đức Giêsu Kitơ là Con Thiên Chúa Cha bất tử và con lồi người khả tử.

 

Cả hai quan niệm tĩnh và động về mầu nhiệm Nhập Thể đều cần thiết để giữ thế quân bình trong Kitơ học, khơng cho phép suy tư thần học đi trật hướng tín điều và mạc khải. Quan niệm tĩnh gìn giữ cho nội dung đức tin được rõ ràng, phân minh để mỗi người chúng ta cĩ thể nĩi: "Tơi biết tơi tin vào ai". Nhưng quan điểm động cần thiết để tránh một cái nhìn đĩng khung về mầu nhiệm làm mất đi sự sống động và cụ thể trong hành trình yêu thương của Thiên Chúa xuyên qua lịch sử cứu độ.

 

Mạc khải Kinh Thánh nhấn mạnh tối đa nhân tính của Đức Giêsu. Thậm chí cịn bảo vệ nhân tính ấy bằng mọi giá. Các thư Gioan vạch mặt chỉ tên hạng người "phản Kitơ", đĩ là những người khơng tuyên xưng Đức Giêsu Kitơ đến trong xác thịt (1Ga 4,2-3; 2Ga 1,7). Các giáo phụ ngay từ những thế kỷ đầu cũng đã mạnh mẽ lên án những người chối nhân tính đích thực của Đức Giêsu Kitơ như các lạc giáo ngộ đạo. Huấn quyền trong giáo hội đã quyết liệt bênh vực nhân tính của Đức Giêsu Kitơ trong các Cơng Đồng Chalcédoine và Constantinople III (680-681) chống lại các lạc giáo "nhất tính thuyết" và "nhất ý thuyết".

 

Tại sao thế?

 

Đĩ là một bài học lịch sử cĩ ý nghĩa thần học sâu xa: phủ nhận nhân tính của Đức Giêsu Kitơ là phủ nhận chương trình cứu độ của Thiên Chúa trong Đức Giêsu Kitơ, phủ nhận tình yêu tuyệt vời của Thiên Chúa. Đa số các giáo phụ đều suy tư dựa trên một nguyên tắc cứu chuộc vững chắc: Điều gì khơng được đảm nhận thì khơng được cứu độ. Nếu Đức Kitơ khơng đảm nhận nhân tính cách trọn vẹn, thì tất cả những gì thuộc lãnh vực nhân loại  khơng được Thiên Chúa tiếp nhận và đưa vào quỹ đạo tình yêu cứu độ của Người. Điều đĩ hồn tồn đi ngược với kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa, trái với tình yêu bao la của Người. Vì yêu thương là đảm nhận trọn vẹn chứ khơng là hủy bỏ, trái lại, khi nhân tính được Thiên Chúa đảm nhận trọn vẹn nơi Đức Giêsu Kitơ đến nỗi làm một với Ngơi Lời, mãi mãi gắn liền với Ngơi Lời, thì tồn thể nhân loại với tất cả giá trị nhân sinh đều được đảm nhận trong nhân tính của Đức Giêsu Kitơ. Nơi Đức Giêsu Kitơ, Thiên Chúa say mê con người va thế giới; lịch sử lồi người cũng được Thiên Chúa đảm nhận nơi sử tính của con người Giêsu. Lịch sử nhân loại khơng cịn xa lạ đối với Thiên Chúa, nhưng rất gần gũi. Thiên Chúa thiết tha với lịch sử, Người muốn dùng lịch sử như mơi trường cứu độ.

 

Khi dùng lịch sử, Thiên Chúa vẫn tơn trọng tự do của con người. Vì tự do là thành phần cốt yếu cấu tạo nên lịch sử. Ở đây chúng ta bước sang khía cạnh thứ hai của tình yêu Thiên Chúa dành cho nhân loại: yêu thương là kính trọng. Thiên Chúa đã dựng nên con người giống hình ảnh của Người, hình ảnh ấy bị hoen ố bởi tội lỗi, nhưng vẫn cịn là hình ảnh, con người cĩ tự do, cĩ trí tuệ, cĩ tình yêu như Thiên Chúa. Thiên Chúa muốn sửa chữa hình ảnh ấy, muốn tái tạo, làm cho hình ảnh ấy đẹp hơn lên và trở nên viên mãn. Thiên Chúa muốn cho chúng ta làm người một cách viên mãn. Tình yêu vơ biên của Thiên Chúa khơng hủy hoại "bản chất người" của con người trong Đức Giêsu Kitơ, tình yêu thần linh muốn biểu lộ qua tình yêu con người chứ khơng muốn mất tình yêu ấy. Thần tính khơng làm tiêu tan nhân tính nơi Đức Giêsu Kitơ.

 

Theo một số nhà thần học hiện đại, mầu nhiệm Nhập Thể  của Đức Giêsu Kitơ cịn xác nhận sự độc lập của lãnh vực trần thế. Trần thế xét là một lãnh vực độc lập cĩ những quy luật riêng, cĩ giá trị lớn trước mặt Thiên Chúa. Những nỗ lực xây dựng trần thế, làm chủ vũ trụ và thiên nhiên, làm đẹp xã hội lồi người chẳng những khơng ra ngồi mà cịn nằm trong logic của mầu nhiệm Nhập Thể.

 

 

 

 

 

+  Phaolô BÙI VĂN ĐỌC

Giám Mục Giáo Phận Mỹ Tho

 

 Trích: Nguồn Vui, GP MỹTho

http://www.tgmmt.org/

 


Trở về Mục Lục Thần Học | Về Trang Nhà