Còn
chăng một tương lai cho THẦN HỌC GIẢI PHÓNG?
Lm. Giuse Hoàng Sỹ Quý, S.J.
Cách đây nửa thế kỷ, Thần học giải phóng
ra đời trong khí thế đằng đằng của trào lưu tả khuynh đang chiếm lĩnh thế giới.
Nay thì phong trào này đã êm lại sau khi hoàn thành sứ mạng của nó, là làm cho
tư bản chủ nghĩa yếu đi trước sự lớn mạnh của các công đoàn. Do đó, lắm người
đã nói đến sự cáo chung của Thần học giải phóng, nhất là vì không mấy ai nhắc
đến nó nữa.
Để coi THGP còn chỗ đứng hay không, phải
xem xã hội đã thay đổi ra sao, có còn ai cần được giải phóng? Nhất là xem hệ
phương pháp trước đây của THGP còn thích hợp hay chăng trước những hoàn cảnh đã
thay đổi?
Bắt đầu, chúng ta hãy ngoái đầu nhìn
lại, xem Thần học giải phóng là gì, xem hoàn cảnh lịch sử-xã hội của địa phương
khai sinh cho nó, xem phạm trù nào nó đã sử dụng để triển khai.
THGP : nguồn gốc và
lịch sử phát triển
Kytô-giáo sinh Trung đông, nhưng trưởng
ở Phương tây. Bắt đầu, nó xuất hiện như một con đường phản biện
(contestataire), chống lại trật tự của thế giới cũ. Vì thế mà đi tới đâu, nó
cũng bị giới cầm quyền xua đuổi, ít là trong giai đoạn đầu tiên.
Dân Israen sống lệ thuộc, từ lâu đã mơ
vọng trở thành một đại cường quốc (Is.2.2-3), nên khi thấy bằng năm cái bánh,
Đức Giêsu nuôi ăn cả vạn người[1],
thì đã rắp tâm tôn Chúa lên làm vua. Thế nhưng Chúa lại bỏ đi (Gio.6.15), vì
“vương quốc Ta không thuộc thế gian này” (Gio.18.36). Cuối cùng, chính Chúa bị
dân Ngài đóng đinh, còn đạo Ngài lập thì bị truy sát đến tận Damas (Tđcv.9.2).
Cả đế quốc La mã cũng làm theo như thế.
Vì Kytô-giáo chống các thần của họ, lại còn công bố một triều đại trong đó
không còn phân chia giai cấp và kỳ thị nam nữ, nên các hoàng đế bảo vệ trật tự
cũ và được bảo vệ bởi trật tự ấy cũng ra tay bách hại “Kytô-phái”[2]
luôn.
Thế nhưng rồi Hòa bình Constantin đã
đến, và thế là sau 300 năm bách hại, KTG được bình an để phát triển, để rồi dần
dà trở thành quốc giáo của đế quốc, của các chính phủ kế tiếp đế quốc bên Châu
Âu. Có điều, đây cũng là lúc quyền đạo quyền đời lẫn lộn, khiến cho đạo dù bành
trướng rộng khắp, mà vẫn suy yếu đi một phần ở chiều sâu.
Vào thời Trung cổ, đời muốn tách ra khỏi
sự lấn sân của đạo. Khởi đầu là khoa học (như với vụ án Galilê), rồi đến các
luồng tư tưởng tự do gộp chung trong tiếng Tân đại chủ nghĩa, và sau cùng là
các chính quyền. Với thức giả KTG, thì đây là điều may : “của Xeda trả về cho
Xêda”, để Hội thánh thoát khỏi sự can thiệp của quyền đời, khi mà thế giới,
trưởng thành rồi, đã có thể tự lo lấy vận mệnh của nó.
Có điều giáo quyền thời ấy chưa hiểu được như thế, nên khi bị đời tấn công, đã
co mình lại trong thái độ tự vệ, khép kín.
*
Phải chờ đến Vatican II để Hội thánh mở
cửa quay về với thế giới, trở về không ở thế đồng nhất (với thế giới) nữa,
nhưng ở thế đối thoại. Và đây là thời điểm thuận lợi cho những luồng thần học
vào đời nổi lên : thần học Hi vọng, thần học Phát triển, rồi thần học Giải
phóng. Thần học hi vọng và phát triển khai sinh bên Châu Âu, còn thần học giải
phóng ra đời bên Châu Mỹ la tinh.
Tại sao lại bên Châu Mỹ la tinh?
Vì tại Châu Mỹ la tinh đang âm ỷ những
bất mãn sâu xa trong một xã hội quá ư phân hóa : không chỉ có chia rẽ giữa giàu
sang với nghèo hèn, mà còn chia rẽ giữa đô thị kỹ nghệ hóa với thôn quê bị bỏ
rơi, chia rẽ giữa nhà cầm quyền độc tài liên minh với tài phiệt và các nhóm
phiến quân khuynh tả, chia rẽ giữa kẻ xâm lăng và thổ dân mà đất đai sinh sống
bị đám da trắng ngốn tỉa dần dần.
Châu Mỹ la tinh gần Bắc Mỹ văn minh, nên
nhờ Bằc Mỹ mà kinh tế phát triển, nhưng cũng do đó lệ thuộc Bắc Mỹ trong chính
sự phát triển ấy, sự phát triển nó càng đào sâu thêm cái hố giàu nghèo phân
cách. Nhờ ánh sáng văn minh đến từ Bắc Mỹ, nhất là nhờ những luồng tư tưởng tự
do mà thanh niên Nam Mỹ du học nhập về từ Tây Âu, mà giới trí thức này nhìn ra
sự bất công nó đang ngự trị trên xứ sở.
Cùng vào giai đoạn ấy, từ nước Nga đã
trở thành Liên bang xô viết, làn gió Mác xít đưa ngọn lửa cách mạng đến khắp
nơi, nhất là từ sau thế chiến II. Luồng tư tưởng đỏ này gặp ở Nam Mỹ mảnh đất
phù hợp nhất cho sự sinh sôi, lớn mạnh của nó. Và nhiều thần học gia Kytô-giáo
đã chộp lấy cơ hội để dùng Duy vật biện chứng mác xít mà phân tích thực trạng
xã hội Châu Mỹ la tinh, đồng thời triển khai một loại tư tưởng nó sẽ phát triển
thành cái gọi là Thần học giải phóng.
*
Vâng, cái tên Thần học giải phóng chưa
có ngay đâu, nhưng những nền móng của nó thì đã được xây nên dần dần từ một số
năm trước.
Tại cuộc họp các thần học gia Mỹ la tinh
năm 1964, Gustavo Gutierrez nghĩ rằng, đã làm thần học thì phải suy tư có phê
phán từ Praxis, tiếng vay mượn từ học thuyết Mác xít. Kế đó, tại
THGP không dừng ở lý thuyết mà phải đi
vào Praxis, thực hành. Ngày càng có nhiều thần học gia làm mục tử hay hoạt động
trong các phong trào như Thanh lao công. Họ cố gây ý thức về quyền con người,
họ bảo vệ những ai bị bóc lột, họ bênh vực những phụ nữ bị ngược đãi. Và người
ta đặt kế hoạch cho một cuộc tranh đấu dài lâu bằng cách huấn luyện những mục
tử và chiến sỹ tương lai. Để được như thế, hằng trăm thần học gia Công giáo,
với sự góp sức của thần học gia Tin lành, bèn soạn và cho in 55 tập sách về
Thần học giải phóng, sáng tác bằng cả tiếng Tây ban nha lẫn Bồ đào nha (với dự
tính dịch sang nhiều ngôn ngữ khác) đề làm cơ sớ cho việc đào tạo cả về thần
học lẫn mục vụ. Cùng lúc, người ta xây dựng nhiều trung tâm thần học và mục vụ,
xuất bản nhiều tạp chí để phổ biến cả lý thuyết lẫn đường lối áp dụng thực
hành.
*
May thay, đứng về phía người nghèo
cũng là chọn lựa chung của Giáo hội Mỹ la tinh : nhiều giám mục và linh mục kêu
gọi canh tân, nhiều tín hữu dần thân phục vụ kẻ khốn cùng, nhiều phong trào ra
đời với mục đích đấu tranh để nâng cao điều kiện sống của dân đen : phong trào
thanh lao công, phong trào thanh nông dân, phong trào sinh viên trẻ,v.v. Các
giáo lý viên tình nguyện cũng tự họp thành những cộng đồng cơ sở để phục vụ các
thôn xóm hẻo lánh.
Riêng THGP thì được một số giám mục ủng
hộ, trong khi đa số giám mục, linh mục khác, tuy vẫn nhất trí với THGP về việc
bảo vệ người nghèo, nhưng vẫn e ngại khi thấy đức tin bị chính trị hóa quá
đáng, cũng như vì hệ phương pháp Mác xít mà THGP vận dụng “một cách thiếu cân nhắc”.
Còn huấn quyền chính thức ?
Các giám mục địa phương tỏ ra đi cùng
chiều cách nào đó với THGP. Hội nghị khoáng đại (các giám mục toàn Châu Mỹ la
tinh) lần II ở
Thế còn huấn quyền trung ương ở Rôma?
Thánh bộ Giáo lý đức tin chính thức công
nhận từ ngữ Thần học giải phóng, nhưng lưu y về vấn đề chấp nhận không phê phán
(uncritically) học thuyết Mác xít, coi nó như nguyên tắc chủ yếu của dấn thân
thần học.[3]
Nền tảng và hệ phương
pháp của THGP
Về phương pháp, THGP gần như vay mượn
tất cả từ học thuyết Mác xít, vừa để phân tích cơ cấu kinh tế-xã hội, vừa để
đấu tranh chính trị thay đổi cơ cấu ấy.
Nếu như chủ nghĩa duy tâm lấy quy luật
của tư tưởng mang áp dụng nguyên si cho thực tại, thì trái lại, Feuerbach trả
về cho thực tại những quy luật ấy. Quy luật trước tiên là biện chứng pháp Hegel
: đề-phản đề-(rồi) tổng đề sinh ra từ hai cái trước tiêu diệt lẫn nhau.
Theo ông, đúng là thực tại vật chất luôn
có hai yếu tố đối nghịch nhau : đối nghịch âm và dương (trong điện), đối nghịch
hút và đẩy, liên tục và bất liên tục. Chính do sự mâu thuần giữa các lực và các
hạt cơ bản mà có biến chuyển, tiến hóa. Và khi sự biến đổi đạt tới trần của nó
về lượng (quantity), thì sẽ có bước nhảy vọt thành thay đổi về chất (quality,
loại).
Quy luật của vật chất ấy, Marx mang áp
dụng cho lịch sử loài người. Sự phát triển ở con người, cá nhân và xã hội, tùy
thuộc vào những điều kiện vật chất và kinh tế. Nói cho đúng ra, tùy thuộc vào
“cách thức sản xuất” của đời sống vật chất. Theo Marx, chính cách thức sản xuất
này điều kiện hóa tiến trình đời sống xã hội, chính trị và trí thức nói chung.
Và đây là Duy vật biện chứng, cũng gọi Biện chứng lịch sử.
Cho nên, để thay đổi xã hội thì phải
thay đổi cách thức sản xuất.
Dưới chế độ tư bản, con người lao động
bị tha hóa. Cái do hắn làm ra, sáng tạo ra, lại bị ông chủ biến thành của mình.
Ông chỉ trả cho công nhân tí chút tiền công, đủ để họ sống và tiếp tục cống
hiến sức lao động. Đúng là ông ta đã bỏ vốn, nhưng cái vốn (tư bản) này do bóc
lột công nhân mà có.
Để đấu tranh thay đổi cơ cấu kinh tế-xã
hội, phải kết hợp cả tư tưởng lẫn hành động, cái hành động nó thành Praxis
trong học thuyết Mác xít.
Praxis không chỉ là thực hành cái đã
thấy trong óc, khi mà chính lý thuyết cũng do dấn thân hành động mà hình thành.
Vâng, nếu đối với Duy tâm, lý thuyết (thượng tầng) là nền tảng, thì với
Feuerbach, nền tảng này lại là kinh nghiệm trong dấn thân hành động. Hồi đầu,
Marx cũng cùng chủ trương như thế với Feuerbach, nhung khi già dặn rồi, ông lại
cho rằng Praxis hay Nghiệm tác kết hợp cả hành động và lý thuyết, hai yếu tố
cần cho nhau và tác động vào nhau. Đây là thứ hành động biến đổi thiên nhiên và
hành động chính trị nó thay đổi lịch sử loài người. Không phải hành động riêng
rẽ của cá nhân, mà hành động chung của tập thể.
*
Đi theo hướng Mác xít, THGP chủ trương
không suy tư bên lề của thực tại xã hội. Không chỉ hướng về người nghèo, thần
học gia phải hội nhập vào cuộc sống của người nghèo. Không phải hội nhập để có
kinh nghiệm trước khi suy tư, nhưng hội nhập để cùng ý thức với đồng bào bị áp
bức, cùng tranh đấu với họ, cùng suy tư với họ. Một praxis như thế sẽ thành ý
thức về cái chân lý thần học phát sinh từ một hoàn cảnh lịch sử nhất định, phát
sinh trong chính hành động đấu tranh xã hội của chúng ta. Vâng, chân lý sinh ra
từ praxis, theo hoàn cảnh và praxis mà đổi mới luôn luôn. Việc của thần học gia
chỉ là diễn ý thức ấy ra thành lời, thế thôi.
Chân lý nói trên không chỉ là chân lý về
con người trong lịch sử, mà còn là chân lý về Thiên Chúa được phát hiện trong
tiến trình lịch sử loài người. Vâng, Thiên Chúa không ở bên lề lịch sử chúng
ta. Và lịch sử loài người cũng là lịch sử cứu độ nó mở về tương lai, một tương
lai cánh chung, eskhaton. Eskhaton không chỉ xuất hiện ở cuối đường, mà đã có
mặt để cuốn hút hiện tại về phía cái đích phải tới. Cho nên, mỗi thực hành giải
phóng bây giờ đều đóng góp cho sự hoàn thành Nước Chúa. Nước Chúa nằm ở cuộc
cách mạng nó lật đổ những thể chế cũ để xây dựng một thế giới khác : ánh sáng
cho kẻ mù lòa, tự do cho người tù tội, giải phóng cho những ai bị áp bức,v.v.
(Is.58.6-7). Cái thế giới tự do, công bằng và hạnh phúc ấy, theo Chúa (trong
Mat.11.3-5; Lc.4.18-19) là dấu hiệu Nước Chúa đến, là nơi chốn cho Thiên Chúa
khải mạc vinh quang của Ngài. Và như thế lịch sử cứu độ kéo theo sự cứu độ của
lịch sử loài người chúng ta.
Vận hội mới cho THGP
Sự bùng phát của phong trào Mác xít giữa
thế kỷ XX gặp đúng sự phân hóa xã hội ở Châu Mỹ la tinh kytô-giáo, nhờ đó khai
sinh cho một THGP rực đỏ. Với hoàn cảnh đã đổi khác hôm nay, liệu THGP có còn
tìm được chỗ đứng của nó hay không?
Hoàn cảnh hôm nay ư? Những chính phủ cực
hữu như Sandinista ở
Thế nhưng mặt khác, người da đỏ Nam Mỹ
vẫn còn bị bỏ quên trong nghèo túng. Còn tại nhiều vùng trên thế giới, vẫn tiếp
tục có áp bức, bóc lột. Và người phụ nữ vẫn bị kỳ thị, coi khinh, bị đánh đòn
công khai dù chỉ uống bia... Riêng tại Ấn Độ, chế độ tập cấp[4]
chưa bị đánh đổ, với dân Dalit (bị gạt ra ngoài tập cấp) bị cô lập hoàn toàn.
Do đó, khá nhiều nhóm dân còn cần đến giải phóng.
Nhất là ngày nay, sự toàn cầu hóa cũng
sản sinh một tân tự do chủ nghĩa (neo-liberalist) toàn cầu nó bóp nghẹt kinh tế
các nước yếu không đủ sức cạnh tranh, do đó mang nợ quá lớn, khiến làm vất vả
đến đâu cũng không đủ trả tiền lời từ nợ, nói chi đến trả chính món nợ. Những
hiệp ước thương mại tự do như NAFTA của Bắc Mỹ càng đẩy hằng triệu người vào
cảnh thất nghiệp, càng khơi rộng hố sâu phân cách giữa một nhúm triệu, tỷ phú
với số đông những kẻ nghèo túng. Rất đông những triệu, tỷ phú này không làm
giàu bằng góp sức cho sản xuất, mà chỉ bằng đầu cơ trục lợi, hay đánh bạc gặp
may trên thị trường ảo của các cổ phiếu chứng khoán thôi.
Như thế, chính hệ thống kinh tế-xã hội
tân tự do hôm nay cần phải đổi. Và thức giả Kytô-giáo cần tiếp tục dấn thân và
suy tư giải phóng. Và đó là làm Thần học giải phóng vậy.
Vần đề chỉ còn là suy tư thế nào, có cần
điều chỉnh các nguyên tắc dựa vào để suy tư hay không?
Nguyên tắc và quy tắc
cho một suy tư THGP hôm nay
Theo chân Marx, THGP đi hẳn vào Praxis,
không lý luận trên mây trên gió. Nhưng cũng không vì thế mà THGP có thể phủ
nhận thần học truyền thống, vì thần học truyền thống luôn dựa vào Tin mừng mà
suy tư, chi sử dụng các phạm trù của Platon và Aristote như công cụ để suy tư
thôi. Nhất là ngày nay, sau khi hiện sinh thuyết ra đời, một số thần học gia
như Karl Rahner còn suy tư từ chính thực tại cuộc sống cụ thể của con người,
khiến về mặt đó, thần học đã trở thành một chú giải hiện tượng luận.
Cả biện chứng pháp Hegel cũng cần được
chỉnh sửa nữa. Những quốc gia xã hội chủ nghĩa như Trung Quốc và Việt
Vậy, chúng ta cứ chống đối tư bản chủ
nghĩa và chủ nghĩa tân tự do, nhưng cứ lấy cái gì tốt của họ mà bù đắp cho
những gì yếu của chúng ta. Nhất là cải tạo những nhà giàu, tư bản, biến họ
thành những Bill Gates, Warren Buffett, Muhammad Yunus… biết bỏ phần lớn tài
sản kiếm được để lập các quỹ từ thiện, vừa giúp người nghèo thoát khỏi cảnh
túng khổ, vừa đầu tư nghiên cứu cách điều trị những căn bệnh thế kỷ như AIDS.
Làm thế nào để cải tạo các tư bản KTG?
Hãy lấy ánh sáng Tin mừng mà tấn công
vào chính máu tham đang ngự trị trong lòng chúng ta, giàu nghèo không phân
biệt. Nguyên tắc của cộng sản chủ nghĩa :”làm việc theo khả năng, hưởng thụ
theo nhu cầu”, nguyên tắc ấy nhắc cho chúng ta nhớ lại những gì sẵn có trong
truyền thống KTG. Theo thánh Tôma, Chúa dạy ta cho người nghèo, không phải một
phần mười tài sản, mà hết thảy những gì là của dư của mình. Vì theo thánh
Giêrônimô hay Chrysostôm, những gì ta có trên mức ta cần, thảy đều là tài sản
người nghèo mà ta giữ giúp. Và thánh Augustinô, Grêgôriô cũng nghĩ y như thế.[6]
Đồng thời quy chế chủ-thợ có từ nhiều
thiên niên cũng nên chuyển phần lớn sang quy chế chủ-chủ. Bằng cách nào? Bằng
cách chuyển phần quan trọng các cổ phần công ty sang cho các giám đốc, chuyên
gia, thợ thuyền, hầu họ có thể tham gia vào quá trình hình thành các quyết định
của xí nghiệp.
[1] Riêng số đàn ông đã là năm ngàn, thế mà trong các cuộc hội
tôn giáo, phụ nữ thường đông gấp mấy đàn ông. Ấy là chưa kể trẻ con.
[2] Người ngoại gọi nhóm theo Đức Kytô là Kytô-phái. Có lẽ do
đó mà phát sinh trong Hội thánh tiếng Kytô-hữu để chỉ môn đồ (Tđcv.6.1), tín đồ
(2.44), anh (chị) em (1.15).
[3] Người ta chỉ nghi ngại về hướng đi quá đỏ của Leonardo
Boff, nhất là vì những chỉ trích đối với thể chế Giáo hội. Boff bị cấm giàng và
xuất bản một thời gian, nhưng sau cấm chế ấy được tháo bỏ.
[4] Tập cấp (castes) là giai cấp cha truyền con nối. Tập cấp
khác nhau không thể lấy nhau, đôi khi không thể tiếp xúc dễ dàng với nhau.
[5] Theo chuyên gia nghiên cứu văn minh Đông Nam Á, bà Eveline
Porée Maspero, triết lý âm dương của Trung Quốc bắt nguồn từ cảm nhận nhị lập
của người Đông Dương (xx. tạp chí Anthropos, số 59, 1964).
[6] Xx. James Brodrick s.j., Robert Bellarmin…, DDB
1963, tr.321-322.
(dongten.net Sunday, 13 February
2011 01:18)