Thần Học Của Thánh Phaolô Về Thập Giá

Lm Giuse Phan Tấn Thành, OP

Kính thưa quý vị và các bạn,

Trong bài trước chúng ta có dịp nhận thấy rằng các tác giả Phúc âm không chỉ tường thuật lại cảnh Đức Giêsu bị xử án và bị chết trên Thập giá, nhưng còn tìm cách giải thích ý nghĩa của Thập giá trong chương trình của Thiên Chúa. Hôm nay chúng ta sẽ khảo sát các suy tư của Phaolô và của các tông đồ về Thập giá của đức Kitô. Kế đó, chúng ta sẽ xem các đoạn văn Tân ước nói về Thập giá dành cho những ai muốn làm môn đệ của đức Kitô. Sau cùng, chúng ta sẽ nói sơ qua lòng tôn kính Thập giá trong phụng vụ và đời sống của tín hữu

I. Thánh Phaolô với Thập giá

Nơi các tác phẩm của thánh Phaolô và của các thánh tông đồ, ta thấy Thập giá được trình bày dưới khía cạnh của một việc tuyên xưng, hoặc trong lời giảng hoặc trong phụng vụ. Trong những bài giảng đầu tiên của Phêrô (đựơc ghi lại trong sách Tông đồ công vụ), việc đức Giêsu bị người Do thái nộp cho Philatô xử tử trên Thập giá đã trở thành một biến cố cứu độ: Thiên Chúa đã suy tôn đức Giêsu làm Đức Chúa và vị Cứu tinh (Cv 2,36; 4,10; 10,39; 13,29). Lời tuyên xưng trong lời giảng của các thánh tông đồ cũng trở thành lời tuyên xưng đức tin của các tín hữu, đặc biệt là khi cử hành phụng vụ: "Đức Kitô đã chết vì tội chúng ta, theo lời Kinh thánh" (1Cr 15,3); "Đức Giêsu Kitô đã hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự" (Phil 2,8); nhưng cái chết đó đã trở thành nguyên cớ (chính vì thế) cho sự siêu tôn: Đức Giêsu Kitô là Chúa. Trong thư gửi Colosse 1,19 ta cũng gặp thấy lời tuyên xưng dưới hình thức của thánh ca: "Thiên Chúa đã muốn làm cho tất cả sự viên mãn hiện diện ở nơi Người, cũng như muốn nhờ Người mà làm cho muôn vật được hòa giải với mình. Nhờ máu Người đổ ra trên Thập giá, Thiên Chúa đã đem lại bình an cho mọi loài dưới đất và muôn vật trên trời".

Dĩ nhiên, khi nghe các tông đồ và các tín hữu tuyên dương một tội phạm bị xử tử trên Thập giá, nhiều người đã thấy chói tai và không khỏi đặt câu hỏi: phải chăng các Kitô hữu là bọn người cuồng tín? Thế nhưng, thay vì tránh né nói tới Thập giá để khỏi gây hiểu lầm, thánh Phaolô đã dám đi thẳng vào vấn đề trong thư thứ nhất gửi tín hữu Corintô. Thánh Phaolô tuyên bố rằng lời giảng về Thập giá mang tính chất nghịch lý, bởi vì nó tuyên dương quyền năng thượng trí của Thiên Chúa ở nơi mà người đời coi là điên rồ: "Dân do thái thì đòi phép lạ, dân hy lạp thì tìm lý lẽ cao siêu; còn chúng tôi lại rao giảng một đức Kitô trên Thập giá, một điều vấp phạm cho dân do thái và điều dại dột đối với dân hy lạp. Thế nhưng, đối với ai được gọi, dù là do thái hay hy lạp, thì đó là một vị Cứu tinh với quyền năng và khôn ngoan của Thiên Chúa; bởi lẽ sự dại dột của Chúa thì khôn ngoan hơn con người gấp bội, và sự yếu ớt của Thiên Chúa thì mạnh mẽ hơn con người trăm lần" (1Cr 1,18-25).

Thánh Phaolo còn thêm: "Khi ở với anh em, tôi không biết chuyện gì khác ngoài đức Giêsu Kitô, đức Giêsu Kitô trên  Thập giá" (1 Cr 2,2). Chúng ta đừng nên coi lời lẽ của Phaolô như là một thứ thuật ngữ hùng biện! Việc đức Giêsu chịu chết trên Thập giá thực sự là chuyện ô nhục đồi tệ thực trước mặt người Do thái và người Hy lạp! Đối với Do thái, tử thi đã là vật ô uế rồi, lại còn phơi bày giữa trời nữa thì quả là đồ bị Chúa rủa bỏ (x. Gal 3,13). Thánh Phaolo chấp nhận cái phản ứng hợp lý đó, và dùng nó làm lập luận nghịch lý để trình bày kế hoạch cứu rỗi của Thiên Chúa: chính qua Thập giá của đức Kitô mà chúng ta nhận thức được khuôn mặt đích thực của Thiên Chúa: sự hèn yếu của Ngài thì mạnh mẽ hơn quyền lực của con người trăm ngàn lần (x. 2 Cr 13,4).

Tiếp tục đào sâu ý nghĩa cứu độ từ Thập giá, thánh Phaolô kể ra những hồng ân trọng đại mà Thiên Chúa ban cho nhân loại từ cái hình khổ của đức Kitô, đó là: sự toàn thắng trên các lực lượng của sự dữ và ơn tha thứ tội lỗi. Cái chết của đức Kitô được coi như một hy lễ; ngoài yếu tố Thập giá, tác giả của thư gửi Do thái phân tích thêm yếu tố "máu", biểu hiệu của việc hiến mạng sống vì tình yêu (Dt 9,11-12). Thư gửi Ephêsô tuyên dương Thập giá như dụng cụ mang lại ơn hòa giải cho nhân loại: từ một đối tượng đáng khinh bỉ trước mặt dân Do thái lẫn dân Hy lạp, Thập giá đã được đức Kitô biến thành nơi hòa giải, phá đổ bức tường ngăn cách giữa dân do thái với dân ngoại cũng như sự thù nghịch giữa nhân loại với Thiên Chúa (Ep 2,15-16). Như vậy từ chỗ là biểu tượng của oán thù, nhờ đức Kitô mà Thập giá trở nên nơi thi thố tình yêu và sự hòa giải giữa Thiên Chúa với loài người, và hòa giải giữa loài người với nhau. Thập giá không phải chỉ là một biến cố kết liễu cuộc đời đức Giêsu, nhưng nó mang một giá trị vĩnh cửu: tác giả của sách Khải huyền và của thư thứ nhất Phêrô trình bày thần học của chiên sát tế và vinh hiển trên ngai.

II. Thập giá của môn đệ

Tân ước không những chỉ nói tới Thập giá của đức Kitô mà còn nói tới thập giá của môn đệ muốn đi theo Ngài. Phúc âm để lại hai lời mời gọi môn đệ vác Thập giá để theo thầy. "Ai muốn theo tôi thì hãy từ bỏ mình đi, vác  Thập giá của mình và đi theo tôi. Quả thực, ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất; còn ai mất mạng sống vì danh nghĩa Tin mừng thì sẽ cứu được nó" (Mc 8,34-9,1; xc. Mt 10,38-39; Lc 9,23-27). - "Ai không vác lấy Thập giá của mình và theo tôi thì không xứng đáng với tôi" (Mt 10,38; xc 16,24). Thực ra tuy là hai lời mời gọi nhưng kỳ thực chỉ có một lời kêu gọi, diễn đạt một đàng là dưới hình thức tích cực ("hãy vác Thập giá đi theo tôi) và một đàng là dưới hình thức tiêu cực ("Ai không vác Thập giá đi theo tôi). Lời kêu gọi đó hướng tới hết mọi người (công thức tích cực theo Mt được dành cho các môn đệ, Mc đi nhằm tới đám đông có mặt với các môn đệ, còn Luca thì nói cho tất cả). Việc vác Thập giá là điều kiện cần thiết để "đi theo đức Giêsu"; nó đòi hỏi phải từ bỏ mình, từ bỏ những mối liên hệ gia đình (Mt 10,37), và đưa tới sự mất mạng sống. Trong những lời vừa nói, Thập giá không còn được hiểu theo nghĩa đen của một khổ hình nữa, nhưng đã được đồng hóa với chính bản thân đức Giêsu, kẻ bị chết trên Thập giá như biểu hiệu của sự hiến thân phục vụ tha nhân.

Thánh Phaolô đã hiểu điều kiện làm môn đệ của đức Kitô như là thông dự vào  Thập giá của Ngài: "tôi đã được đóng vào Thập giá cùng với đức Kitô: không còn phải tôi sống nữa song là đức Kitô sống trong tôi" (Gal 2,19). Dĩ nhiên ở đây Phaolô không hiểu theo nghĩa là mình cũng phải lãnh chịu khổ hình bị đóng đinh vào Thập giá giống như đức Giêsu trước đây, nhưng Phaolô đã mở rộng tất cả các chiều kích thần học của Thập giá. Tiên vàn là Phaolô muốn đến lãnh nhận tất cả những hồng ơn cứu chuộc phát sinh từ cái chết và sự phục sinh của đức Kitô ; ơn cứu chuộc ấy được thông cho ta qua bí tích thánh tẩy (x. Rom 6,1-11). Kế đó, hồng ơn đã nhận lãnh cần phát sinh một sinh lực mới nơi người tín hữu: người tín hữu phải đóng đinh tiêu diệt nơi thân xác mình tất cả những đam mê tội lỗi (xc Gal 5,24). Hơn thế nữa, người tín hữu cần phải tìm cách diễn tả sự thông dự vào những đau khổ của đức Kitô (xc 2Cor 4,10) trong cuộc đời của mình, đặc biệt qua những cuộc bách hại gặp phải trên đường truyền giáo. Trong bối cảnh ấy Phaolô nói tới "những người bị bách hại vì Thập giá của đức Kitô" (Gal 6,12), và tuyên bố rằng mình đang mang trên thân thể những dấu thương (stigmata) của đức Kitô (Gal 6,17). Thậm chí Phaolô còn đi tới chỗ quả quyết rằng:"tôi bổ túc trong thân xác hay chết của tôi những chi còn thiếu nơi những gian nan của đức Kitô, nhằm sinh ích cho thân thể của Ngài là Hội thánh" (Col 1,24). Phaolô lấy làm hãnh diện vì Thập giá của Chúa Giêsu Kitô; "nhờ đó thế gian đã bị đóng vào Thập giá đối với tôi và tôi đối với thế gian" (Gal 6,14).

III. Việc tôn kính Thập giá

Từ những dòng suy niệm trên đây, chúng ta thấy rằng Thập giá mang một ý nghĩa sâu đậm đối với Kitô giáo: nói được là nó trở thành biểu tượng của chính đức Kitô. Tuy nhiên, lòng tôn sùng hình ảnh Thập giá xuất hiện khá muộn. Một lý do chính có lẽ là tại vì nó gợi lên cảnh tượng của một nhục hình ghê tởm. Vì thế mà trước khi hoàng đế Constantinô ra lệnh bãi bỏ khổ hình Thập giá trong đế quốc Rôma, người ta ít thấy các biểu tượng tôn kính Thập giá. Trong các hang toại đạo, chúng ta thấy có một biểu tượng na ná dưới hình thức chiếc neo tàu. Trái lại, trong khu vực Palatinô ở Rôma, người ta thấy một bức họa châm biếm vẽ một người bị treo trên Thập giá với đầu con lừa đang khi có một người khác đang tỏ dấu tôn kính, với những dòng chữ chua như sau: "Alexamênô đang thờ lạy chúa nó".

Từ sau khi Constantinô thắng trận nhờ dấu Thập giá, thì Thập giá thay đổi ý nghĩa. Như đã nói, hình phạt Thập giá bị loại khỏi hinh luật. Đối lại, các Kitô hữu đã dùng tài nghệ của mình để trang hoàng Thập giá dưới những dạng thức khác nhau. Họ không chỉ giới hạn vào việc họa lại Thập giá lịch sử trên núi Can vê, nhưng hoặc được trang hoàng với những viên ngọc bích, hoặc diễn tả như cây xum xê hoa trái. Cũng nên biết là vào thời ấy, các Kitô hữu chỉ tôn kính cây Thập giá chứ không có hình tượng của đức Giêsu. Tại sao vậy? Có lẽ vì họ không muốn trở lại cảnh Ngài phải chết nhục nhã đang khi mà họ thâm tín rằng Ngài đã sống lại vinh hiển: bởi thế họ muốn trình bày Thập giá như là nguồn sống, như là biểu hiệu của sự chiến thắng. Nói chung, bên Đông phương, mỗi khi phải trưng bày đức Kitô trên Thập giá thì người ta dùng hai mẫu tự Hy lạp bắt đầu danh xưng (giống như chữ X và P), hoặc là dùng hình con chiên (chiên sát tế nói trong sách Khải huyền) và kể cả đức Kitô phục sinh. Còn bên Tây phương, từ thế kỷ XII dần dần các nghệ sĩ muốn trở về với cảnh tượng lịch sử và tâm lý, họa lại đức Giêsu hấp hối, đầu đội mạo gai và mình mang đầy thương tích.

Trong những thế kỷ đầu, việc tôn kính Thập giá đức Kitô đưa tới linh đạo muốn thông dự vào khổ nạn của Ngài nhất là qua sự tử đạo. Nhưng từ thế kỷ thứ 4, nhất là kể từ khi tục truyền kể là tìm lại được chính Thập giá thực của đức Kitô (năm 326), thì việc tôn kính Thập giá được phát triển trong phụng vụ, đặc biệt vào ngày thứ 6 tuần thánh. Thập giá được ca ngợi như là cây gỗ đã mang lại ơn cứu rỗi cho thế giới. Từ thế kỷ 11, bên Tây phương phát triển lòng tôn kính các sự khổ nạn của Chúa, với việc suy gẫm những chặng đường mà Chúa đã đi qua cũng như những lần đã té ngã. Lúc đầu mỗi địa phương trình bày một hình thức suy niệm (thí dụ 7 lần Chúa ngã) hoặc những chặng dừng chân (có khi lên tới 47 chặng). Hình thức 14 chặng hiện nay đã được ấn định vào đầu thế kỷ 17 tại Tây ban nha. Cạnh việc suy gẫm con đường Thập giá của đức Kitô cũng không thể thiếu hình ảnh của đức Maria cùng chia sẻ những đau khổ với Con mình (bài ca Stabat mater dolorosa).

Lòng tôn sùng Thập giá cũng còn được biểu lộ qua dấu thánh giá mà tín hữu vạch ra trên mình đang khi kêu cầu danh Chúa Ba Ngôi. Tục lệ này đã xuất hiện ít là từ thế kỷ thứ 2. Vào khoảng năm 211, Tertulliano đã kể lại như một thói quen đã thịnh hành: "Chúng tôi làm dấu Thập giá trên trán vào mỗi bước đi và cử động, khi khởi sự và kết thúc việc làm; khi mặc áo, khi chỗi dậy, khi tắm rửa, khi ăn uống, khi thắp đèn vào buổi chiều tối, khi ngồi xuống và trong bất cứ công chuyện gì" De corona militum 3,4)

Cũng nên biết là trong lịch sử có nhiều hình thức làm dấu thánh giá. Từ thế kỷ thứ hai, người tín hữu đã có thói quen vạch dấu thánh giá trên trán bằng ngón tay cái hay ngón hay trỏ. Đến thế kỷ thứ bốn, thì làm dấu thánh giá trên ngực nữa. Còn dấu thánh giá trên môi thì mãi tới thế kỷ thứ 8 mới thấy nói tới. Đó là cái mà chúng ta quen gọi là làm dấu thánh giá kép.

Còn dấu thánh giá đơn vạch từ trán xuống ngực và qua hai vai thì xuất hiện riêng tư từ thế kỷ thứ 5, nhưng chỉ được phổ biến từ thế kỷ thứ 10 trong các đan viện. Hồi thế kỷ thứ 13, ĐGH Innocente III khuyên nên làm dấu thánh giá như vậy với ba ngón tay, từ trán xuống ngực, rồi từ vai phải sang vai trái. Thế nhưng qua thế kỷ sau, thì người ta làm dấu với 5 ngón tay, và đổi ngược thứ tự hai vai, nghĩa là từ trái sang phải. Trong khi bên Tây phương, thì khi làm dấu thánh giá như vậy, người ta quen đọc: Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần; bên Đông phương thì người ta dùng nhiều công thức khác nhau, tỉ như: "Lạy Chúa chí thánh ! Lạy Chúa Chí thánh và Hùng mạnh ! Lạy Chúa Chí thánh, Hùng mạnh và Bất tử, xin thương xót chúng con!"

Các tác giả đã vạch ra ba ý nghĩa chính của cử chỉ làm dấu, đó là: tuyên xưng, kêu cầu và hiến dâng.

a) Nó là sự tuyên xưng rằng chúng ta là Kitô hữu; chúng ta đã để cho đức Kitô ghi ấn trên bản thân chúng ta, cũng như tuyên xưng việc Ngài đã cứu rỗi chúng ta nhờ Thập giá.

b) Dấu Thập giá cũng là lời kêu van, xin Chúa đến giúp chúng ta nhờ sức mạnh cứu rỗi từ Thập giá.

c) Dấu Thập giá có ý nghĩa hiến dâng, bởi vì chúng ta dâng cho Chúa công việc sắp khởi sự, trong tinh thần vâng lời và phục vụ giống như đức Kitô, ngõ hầu làm vinh danh cho Thiên Chúa Ba Ngôi.

 


Trở về Mục Lục Thần Học