SỰ THIẾT YẾU CỦA TỰ DO NGHIÊN CỨU
Trần Văn Đoàn
Quốc Lập Đài Loan
Đại Học
.
Bài
viết sau đây nguyên là một tham luận dịp Hội Nghị Quốc Gia về Liên Kết Hợp Tác
Để Phát Triển Giáo Dục Đại Học Việt Nam, Thành Phố Hồ Chí Minh, Việt Nam,
10.10.2002. Bài từng được đăng trên mạng lộ (Web) của Đai Học Khoa Học Xã Hội
Nhân Văn Tph Hồ Chí Minh (2003). Vì một lý do ngoài ý muốn, bài đã không xuất
hiện nguyên vẹn. Gần đây, theo lời yêu cầu của một số bằng hữu, chúng tôi cập
nhật lại vài chỗ, và cho quảng bá trên mạng lộ của cựu học viên Simon Hòa Đà
Lạt (www.simonhoadalat.com). Đặïc biệt do lời mời của Nữ sỹ Phạm thị Hoài,
chúng tôi mạo muội gửi tới bạn đọc trên Talawas. Mong được các vị thức giả và
đồng nghiệp chỉ giáo. Nơi đây, tác giả xin cảm tạ Giáo sư Tiến sỹ Ngô Văn Lệ,
Hiệu trưởng, Tiến sỹ Trần Đình Lâm, Trưởng Phòng Liên Lạc Quốc Tế, ĐHKHXHNV,
Tph. Hồ Chí Minh đã có lời mời, và nhã ý quảng bá trên mạng lộ của Đại Học.
Người viết cũng xin cảm ơn những khuyến khích ủng hộ từ nhiều học gỉa bằng hữu
trong và ngoài nước, đặc biệt Giáo sư Viện sỹ Phạm Minh Hạc, cựu bộ trưởng giáo
dục, Viện trưởng Viện Con Người, Viện Khoa Học Xã Hội Việt Nam, và Giáo sư Viện
sỹ Trần Ngọc Thêm, ĐHKHXHNV, Tph. Hồ Chí Minh
Kính thưa quý quý Học giả, qúy Giáo sư,
và các vị Hữu trách trong nền Giáo dục Đại học nước nhà,
Tôi cảm thấy rất
hân hạnh được ĐH Khoa Học Xã Hội Nhân Văn, Đại học Quốc Gia Tph Hồ Chí Minh,
mời tham dự và phát biểu tham luận liên quan tới nền giáo dục đại học nước ta.
Đây là một vinh dự, nhưng cũng là một trách nhiệm. Là một sĩ phu, ai cũng phải
có trách nhiệm với đất nước, với nhân dân, với tổ tiên và nhất là với tương lai
của dân tộc. Viết bài tham luận này, chúng tôi chỉ có một ước mơ
nhỏ, hy vọng nước Việt chúng ta có thể bay lên, không được như rồng tiên thì ít
nhất cũng phải như cánh chim đại bàng; không bay thẳng vào quỹ đạo địa cầu thì
ít ra cũng phải bay lượn trong bầu trời Đông Nam Á.
Tham luận này
không trực tiếp bàn về sự liên kết hợp tác, và như vậy có vẻ lạc đề. Vốn thiết
nghĩ, quý vị là những người trong cuộc thông suốt nhiều về vấn đề này, nên
những người đứng bên lề như tôi mạn phép được bàn về một vấn đề khác. Đó là một
vấn đề mà đa số các nhà giáo dục Tây phương coi như là cái cốt lõi của nền giáo
dục đại học, cũng như là một tiền đề cho việc liên kết hợp tác đại học. Đó
chính là sự tự do nghiên cứu.
1.
Toàn Cầu Hóa: Nguy Cơ hay Cơ Hội?
Sự thách đố của
toàn cầu hóa cũng như sức mạnh của viễn thông trong cái thế giới điện toán ngày
nay ép buộc chúng ta phải theo một cuộc sống mới với những ngôn ngữ mới. Cái nghịch lý
là: không ai có thể tự đóng cửa khép kín, sống riêng biệt, nhưng bất cứ ai cũng
có thể đơn độc hơn.[1] Trong
cái “thôn địa cầu” này (global village), con người tuy tự do, tiến bộ hơn,
nhưng cũng dễ dàng bị tha hóa, trói buộc, yếu đuối và ít tự chủ hơn. Con người
tuy thỏa mãn được một cách dễ dảng những ước muốn thầm kín, nhưng họ cũng rất
có thể lại bị chính những ước muốn này trói buộc, làm họ càng khổ sở, càng
thiếu sót. Trong một thế giới như vậy, chỉ có ai mạnh, người đó mới có thể
không bị thế giới này trói buộc. Ngược lại, họ lại có thể thống trị được chính
cái thế giới này.
Nhưng người mạnh
ngày nay không còn là loại người có sức lực của một người hùng Trần Bình Trọng,
một võ sĩ Hạng Võ, một lực sĩ Kinh Kha, mà là người đầy trí tuệ, có thể kinh bang
tế thế như nhà đại chiến lược Nguyễn Trãi. Hơn thế nữa, người mạnh
không phải là người sở hữu đất đai nhà cửa hay tư bản, nhưng là người có thể khám phá
ra những cái mới lạ, những vấn đề mới, những giải pháp mới, và nhất là con
đường mới mà nhân loại sẽ phải theo như nhà thông thái Nguyễn Trường Tộ. Người
mạnh cũng không còn là chính phủ, hay những người nắm giữ quyền thế, tức nhà nước.[2]
Có lẽ đúng hơn phải nói, người mạnh là người nắm được cái nguồn của tri thức,
nắm được
quy luật của thế giới, của vũ trụ. Chính vì thế mà người Việt chúng
ta càng cần phải trọng dụng những nhân tài như Nguyễn Trãi, Nguyễn Trường Tộ.
Chúng ta càng cần phải có những Newton, Einstein, Edison cũng như Bill Gates.
Cả ngàn, cả vạn ông tiến sĩ dù có được khắc trên bia đá ở Văn Miếu đi nữa,
nhưng nếu chỉ biết “sôi kinh nấu sử” mà thôi, hoặc nếu chỉ biết chũa gọt câu
văn đến mức độ “Văn như Siêu Quát vô tiền Hán”, hay nếu chỉ mong được “võng anh
đi trước, võng nàng theo sau”, thì cùng lắm vẫn chỉ là “ngàn năm bia đá vẫn còn
trơ trơ.” Sự thực là, họ chưa chắc có thể làm nuớc Việt mạnh hơn, hay hơn, đẹp
hơn, giầu hơn. Cả ngàn ông trạng như Trạng Trình cũng không hẳn giúp ta cạnh
tranh được với Tầu, với Tây, đừng nói với Nhật và nhất là với Mỹ. Và cả ngàn,
cả vạn người như nhân vật (có tính chất huyền thoại) Trạng Quỳnh, mà chúng ta
tưởng tượng hay phóng đại, vẽ vây vẽ cánh, tô mầu tô sắc,[3]
cũng chỉ làm ta tạm thời quên được cái nhục nhược tiểu, bị đè nén, bị khinh
thị. Để rồi khi tỉnh dậy, ta càng đau xót mà thôi! Chỉ có những người như nhà
đại chiến lược Nguyễn Trãi, như nhà bác học Nguyễn Trường Tộ, và nhất là như
các đại khoa học và triết gia[4]
mới chính là những người đã khiến con người mạnh hơn, nhân bản hơn;
khiến xã hội tiến bộ hơn; khiến quốc gia hưng thịnh hơn; và lẽ dĩ nhiên khiến
loài người càng xứng đáng là con người.
Để giúp thế hệ
Việt sau đủ khả năng sống mạnh (tức dân giầu nước mạnh, như nhà
nước từng đeo đuổi), và trở lên mạnh trong một thế giới hậu hiện đại
(postmodern world), hậu kỹ nghệ (postindustrial), viễn thông…
đầy nghịch lý như vậy, nền giáo dục nước nhà cần phải cập nhật, sửa đổi, và nếu
cần thiết, cần thay đổi một cách toàn diện, từ lối suy tư thường nhật tới
quan niệm về khoa học, từ cách thế làm việc tới phương thế trao đổi, từ phương
pháp quản lý tới đường lối giao thương, từ ngôn ngữ quen thuộc cho tới ngôn ngữ
chuyên môn, từ cách cư xử truyền thống tới lối tiếp cận với các nền văn minh và
văn hóa khác.[5] Và quả
thật vậy, ta thấy là tất cả mọi ý hệ phát sinh từ thời cận đại, hay những đại
lý thuyết (grand theories) như chủ thuyết duy khoa học, duy lý, duy vật, dân
chủ, xã hội, vân vân, đều đương bị thế hệ hậu hiện đại nghi ngờ, thách đố và
làm băng hoại.[6] Theo
những kẻ tin vào hậu hiện đại, những đại lý thuyết này không còn đủ hiệu lực để
giải quyết những vấn đề toàn cầu hóa, và càng không đủ động lực để thúc đẩy con
người đi tìm những tri thức mới lạ.[7]
Nói cách khác, nền giáo dục cách chung và đại học cách riêng phải đối diện với
những khó khăn mang tính cách đa diện, những khó khăn vốn có sẵn trong thế giới
hiện đại, tức là những khó khăn mà thế giới cận đại với nền khoa học, tri thức
đã gây ra. Nó càng phải nhìn xa hơn, tím ra những khó khăn mới đương phát hiện
và có thể phát sinh trong tương lai.[8]
Thêm vào đó, trong một thế giới như thế giới hiện nay, giáo dục càng cần phải
để ý tớiù sự đối nghịch giữa các nền văn hóa (văn minh),[9]
giữa những giá trị cổ truyền và giá trị mới phát sinh,[10]
và tất nhiên giữa thế giới giầu và thế giới nghèo.[11]
Bởi lẽ, tri thức không thể tách biệt khỏi cuộc sống của con người, mà con người
ngày nay là một con người đã bị toàn cầu hóa. Một người sống ở Hà Nội rất gần
gũi với một người tại Nữu Ước, gần hơn cả những người hàng xóm láng diềng trong
những dẫy chung cư đầy người. Một người làm việc tại Đài Bắc như tôi cũng có
thể gặp một khó khăn y hệt như một giáo sư đương dạy học tại thành phố Hồ Chí
Minh này vậy.[12] Cuộc
tấn công của mặt trận Al Qaeda vào hai tòa nhà mậu dịch thế giới tại Nữu Ước
không chỉ rung động thành phố này. Nó làm náo động nước Mỹ. Nó là đầu mối cho
sự sụp đổ của chính phủ Taliban ở A Phú Hãn. Nó là một trong những cái cớ chính
yếu khiến Mỹ báo thù, lật đổ chính quyền của Saddham Hassan. Nói tóm lại, nó
ảnh hưởng tới toàn thế giới, từ Đông sang Tây, từ Bắc chí Nam. Tương tự, sự khủng
hoảng thị trường chứng khoán Nasdaq ở Nữu Ước, Dax ở Frankfurt, Nikkei ở Đông
Kinh, hay Hangseng ở Hồng Kông… không chỉ khiến giới kinh tài lo âu, mà còn làm
tất cả nền kinh tế thế giới lẩy bẩy. Nói tóm lại, bất cứ một khủng hoảng nào,
cho dù xem ra có vẻ nhỏ nhặt, thí dụ như việc tăng giá dầu thô (vào năm 1973
của khối liên minh dầu lửa OPEC, và gần đây) cũng đều ảnh hưởng một cách toàn
diện tới cuộc sống, sinh hoạt của chúng ta, từ thương mại tới giao thông, từ
kinh tế tới quốc phòng, từ pháp luật tới tôn giáo, từ giáo dục tới nghệ thuật,
vân vân.
Trong phạm vi
bài viết này, chúng tôi xin hạn chế trong một lãnh vực rất nhỏ, đó là sự thiết yếu
của công việc nghiên cứu, cũng như tính chất tự do nghiên cứu trong môi trường đại
học. Bởi lẽ, những kẻ mạnh là những người có tri thức, có sáng tạo,
biết khống chế ngoại thế, biết tổ chức, biết kinh doanh, vân vân. Nhưng để có
tri thức, sáng tạo họ cần phải có những đại học hay cơ quan nghiên cứu đi tiên
phong trong mọi lãnh vực.[13]
Hay nói cách khác, họ phải nhìn ra cái gì mà chúng ta chưa nhìn ra, khám phá ra
những vấn đề mà chúng ta vẫn còn ngây thơ bình chân như vại coi là lẽ tất
nhiên, phát minh ra những phương thế giải quyết vấn đề một cách hay hơn, an
toàn hơn và sản xuất ra những mại phẩm giúp con người sống lâu hơn, đẹp hơn,
khỏe hơn…. Nước Mỹ, nước Anh, nước Nhật, nước Đức, nước Pháp … dẫn
đầu thế giới, bởi lẽ họ phát minh nhiều nhất, họ khám phá ra nhiều cái mới
nhất, nhiều cái hay nhất, và nhất là họ sản xuất mọi vật dụng, thực phẩm, máy
móc… có thể thỏa mãn chúng ta hơn cả. Họ được như vậy, bởi vì họ có được những
đại học giỏi nhất, thời danh nhất, và có ảnh hưởng nhất.[14]
Mà những đại học này thành công chính vì họ chủ trương tự do nghiên cứu, coi nó
như là một
mục đích thiêng liêng bất khả xâm phạm của sinh hoạt tri thức.
2.
Bài Học Đại Học Bá Linh và Các Đại Học Thời Danh.
Vào quãng năm
1807-1810, tử tước Wilhelm von Humboldt (1767-1835, một triết gia và ngữ học
gia, nguyên bộ trưởng Giáo dục Phổ) được giao phó trách nhiệm thiết lập một đại
học mới tại Bá Linh (Berlin) (ĐH Bá Linh chính thức thành lập năm 1811). Để có
thể cạnh tranh với hai đại học thời danh lúc bấy giờ, ĐH Sorbonne tức ĐH Ba Lê
(Paris) của Pháp quốc và ĐH Oxford của Anh quốc, Humboldt cần phải có một lối
nhìn mới, táo bạo và thực tiễn. Humboldt nhờ tới hai nhà đại tư tưởng của Phổ
lúc bấy giớ: Friedrich Ernst Daniel Schleiermacher (1768-1834, Giáo sư Thần
học) và Johann Gottlieb Fichte (1762-1814, Giáo sư Triết học), giúp vạch ra một
đề cương cho đại học Bá Linh. Fichte, nhà triết gia duy lý và duy tâm, một phần
bị ảnh hưởng của Napoléon Bonaparte[15]
coi nền giáo dục đại học như là một công cụ phục vụ nhà nước, một phần do tinh
thần ái quốc cao độ của ông,[16]
chủ trương cho rằng, mục đích chính của đại học nhắm duy trì và phát huy tinh thần
(das Geist) tức sự sống (das Leben) của dân tộc Đức.[17]
Thần học gia Schleiermacher đi mạnh và cực đoan hơn. Để tránh cái lỗi lầm quá
khứ (các vụ án Galileo, Brudano…), ông chủ trương, sứ mệnh đại học không có chi
khác hơn là chính công việc nghiên cứu khoa học.[18]
Chọn lọc từ hai ý kiến trên, Humboldt nhận định khoa học phải tuân phục quy
luật của khoa học, và những tổ chức khoa học phải “dựa vào chính mình để sống
và tiếp tục tự canh tân, và không bị bất cứ một nền ý thức hệ nào trói buộc hay
đè ép.” Nói cách khác, đại học phải tự sống đó là tự lập, tự cường, tự trị, tự canh tân.
Trong tờ báo cáo Humboldt gửi quốc vương, ta đọc thấy câu châm ngôn khoa học vị
khoa học mà ông tiếp nhận từ Schleiermacher. Tuy nhiên, ta cũng thấy
là Humboldt nhấn mạnh tới sự liên quan bất khả phân ly giữa quốc gia và khoa
học. Khoa học nhắm tới việc “đào luyện tinh thần và đạo đức của một quốc gia.”
Ôâng đặc biệt lưu ý, giáo dục (Bildung) không phải là một nền giáo dục học theo,
nhưng là một sự đào tạo tư cách và hành động (Charakter und Aktion). Nói tóm
tại, nền giáo dục đại học bao gồm ba yếu tính, theo nguyên lời của Humboldt:
(1) “rằng tất cả mọi (tri thức) đều theo một nguyên lý căn nguyên” phù hợp với
sinh hoạt khoa học; (2) “rằng tất cả mọi kiến thức khoa học luôn liên quan tới
một lý
tưởng” điều hành chỉ đạo hoạt động đạo đức xã hội, và sau cùng (3)
“rằng ta phải thống nhất nguyên lý này với lý tưởng như vậy vào trong một Ý niệm
(Idea).” Chỉ như vậy, mới có thể đảm bảo sự việc nghiên cứu khoa học, truy tầm
căn nguyên của sự vật, luôn phù hợp với sự tìm kiếm mục đích cao quý của cuộc
sống đạo đức và chính trị. Và chính ba yếu tính trên tạo thành “cá tính tri
thức của dân tộc Đức.”[19]
Nơi đây, trong
phạm vi bài tham luận, chúng tôi xin được phép miễn trình bày những khó khăn,
mâu thuẫn trong nền triết lý giáo dục của Humboldt, và chỉ xin trình bày một
vài ưu điểm thấy nơi chính sách giáo dục của ông.[20]
Điểm chính yếu mà Humboldt và Schleiermacher đóng góp vào nền giáo dục đại học
tân tiến, đó chính là chủ trương tôn trọng công việc nghiên cứu khoa học, coi nó như
là mục đích của đại học. Điểm thứ tới, đó là điều kiện căn bản để
nghiên cứu, đó chính là tự do: tự do trong việc chọn lựa chủ đề
nghiên cứu, tự do trong việc chọn phương pháp nghiên cứu, tự do theo đuổi lý
tưởng, và nhất là tự do trong việc phát huy nghiên cứu trong môi trường đại
học. Lẽ tất nhiên, công việc nghiên cứu khoa học luôn phù hợp với công việc
nâng cao dân trí, phát triển tri thức, hoàn thiện xã hội (đạo đức). Nói cách
khác, nghiên cứu khoa học luôn mang tính cách thực dụng.[21]
Chủ trương lấy
công việc nghiên cứu khoa học làm mục đích chính này đã khiến ĐH Bá Linh phát
triển một cách vượt bực. Trong một khoảng thời gian chưa đầy 50 năm, ĐH Bá Linh
đã làm một cuộc cách mạng đại học, mạnh bạo và gây ra một ảnh hưởng sâu rộng
trong nền giáo dục, không kém nền cách mạng Pháp (1789) trong phạm vi chính
trị. Vào thập niên 1930s, ĐH Bá Linh đã có thể tự hào là đầu óc của thiên hạ.
ĐH có những triết gia vĩ đại như Hegel, Fichte, Schelling; những nhà bác học
thời danh như Max Planck, Albert Einstein, Werner Heisenberg, Niels Bohr (hai
nhà vật lý này sau dậy tại Kopenhagen và Goettingen), những nhà thần học nổi
tiếng như Schleiermacher. Và ta cũng không thể quên được thiên tài Karl Marx,
linh hồn của chủ nghĩa xã hội. Marx từng dùi mài kinh sách tại đây vào những
năm 1838-1841. Chính những vĩ nhân này đã đưa nước Đức lên tới bực thang cao
chót vót làm thế giới khâm phục và hãi sợ dân tộc Đức.[22]
Cũng chính ĐH Bá Linh này đã lôi kéo các đại học khác của Đức cạnh tranh trong
công việc phát triển trí năng và phát minh khoa học. Và cũng chính ĐH Bá Linh
này đã cho thấy là mọi sinh hoạt chính trị, kinh tế, kỹ nghệ, chiến tranh, tinh
thần… đều liên quan mật thiết với tri thức.
[23]
ĐH Bá Linh đã chứng minh được sự chính xác của câu nói “Tri thức là Sức Mạnh”
(hay tri thức là quyền lực, knowledge is power) mà Bacon đã từng đao to búa lớn
vào đầu thế kỷ thứ 17.
Nhận thức được
tầm quan trọng của nghiên cứu, của tấm gương Bá Linh, các đại học của Mỹ bắt
đầu cải tổ, nới rộng mục đích của đại học sang khía cạnh nghiên cứu. Vào đầu
thế kỷ thứ 20, các đại học thuộc phái Trường Xuân (Ivy League)[24]
bắt đầu chú trọng tới vấn đề nghiên cứu. Họ đầu tư một số vốn rất khả quan vào
nghiên cứu. Họ mời những giáo sư, khoa học gia, chuyên gia nổi tiếng từ Aâu
châu qua. Họ tuyển chọn và cấp học bổng cho những sinh viên xuất sắc, và nhất
là họ cộng tác mật thiết với các đại kỹ nghệ cũng như giới kinh doanh của Mỹ.
Sau thế chiến thứ nhất, họ đã lôi kéo được những triết gia thời danh như
Bertrand Russell, North Whitehead, những khoa học gia vĩ đại như Albert
Einstein, Enrico Fermi, những đại thần học gia như Paul Tillich… tới dậy học
hay nghiên cứu cho họ. Từ một đại học tầm thường thành lập năm 1636, ĐH
Harvard, sau khi áp dụng chính sách nghiên cứu, đã vọt lên hàng đầu nước Mỹ
ngay trước thế chiến thứ 2, và ngày nay, được công nhận như là một trong mười
đại học thời danh nhất của thế giới. Lẽ tất nhiên là các đại học khác như
Princeton, Columbia, Chicago, Cornell, Yale… cũng có những thành quả gần như
vậy (Đại Học Princeton, nơi Einstein từng dạy học, dẫn đầu các đại học Mỹ liên
tiếp trong ba năm nay). Họ mua chuộc nhân tài trên khắp thế giới, không phân
biệt chủng tộc, màu da, tôn giáo hay chính trị. Họ rộng rãi cung cấp mọi phương
tiện thiết yếu cho công cuộc nghiên cứu.[25]
Những nhà bác học Á châu đầu tiên đạt được giải Nobel (vật lý) như Dương Chấn
Ninh, Lý Chính Đạo (Tầu)… đều học tại Mỹ (Princeton, Columbia) và tiếp tục làm
việc cho họ. Ngày nay, các đại học số một tại Mỹ (cách chung) được cả thế giới
coi như là những đại học ưu tú đáng tin cậy. Trung bình mỗi năm các đại học này
chiếm được tới 2/3 tổng số của giải thưởng Nobel về đủ mọi mặt. Chỉ riêng một
đại học Chicago đã từng đoạt được 63 giải Nobel trong lịch sử của giải.[26]
Trong ngành kinh tế, đại học này đã chiếm được 14 giải Nobel trong gần 20 năm
gần đây. Ngoài thành tựu khoa học, các đại học Mỹ đã sản sinh ra giới lãnh đạo
của Mỹ và có lẽ của toàn thế giới.[27]
Khá nhiều tổng thống Mỹ, và rất nhiều giới lãnh đạo trên thế giới từng xuất
thân từ Harvard, Yale, Cornell, Columbia, Georgetown... Cựu tổng thống Bill
Clinton (cùng với bà Arroyo, tổng thống Phi Luật Tân, cựu thống đốc Đài Loan,
ông Tống Sở Lẫm, vân vân) từng tốt nghiệp ĐH Georgetown. Clinton cũng từng theo
học tại ĐH Yale, và tu nghiệp tại ĐH Oxford. Hai cha con tổng thống Bush, cũng
như bà thượng nghị sĩ Hilary Clinton đều là cựu sinh viên của Yale, trong khi
cố tổng thống Kennedy, cựu phó tổng thồng A. Gore, W. Mondale, vân vân, đều là
cựu sinh viên Harvard. Danh sách cựu sinh viên của các đại học trên thường
chiếm phần lớn trong các bộ từ điển danh nhân thế giới (Who is Who).
3.
Bài Học Á Châu
Trở lại Á châu,
lịch sử đại học chỉ là một lịch sử tương đối ngắn ngủi. So với cả ngàn năm của
Tây phương,[28] các
đại học Á châu chỉ là những chú bé con đang tập tững bước đi. ĐH Bắc Kinh, ĐH
Đông Kinh, tuy xấp sỉ quãng trên 100 tuổi, vẫn được coi như là những đại học cũ
nhất của Á châu.[29] Tại
Việt Nam, hai Đại Học Hà Nội và Sài Gòn, theo đúng nghĩa đại học, thì cũng chỉ có
một lịch sử ngắn ngủi với quãng trên dưới 60 năm, kể từ thập niên 1950s, một
vài năm sau cuộc Cách Mạng Tháng Tám. Sự sinh sau đẻ muộn của nền đại học Á
châu khiến đại lục lớn và cũ nhất của nhân loại lẹt bẹt trong lãnh vực khoa
học. Ta biết, từ thế kỷ 16 trở đi, khi Âu châu phát triển nền triết học, khoa
học hiện đại, thì Á châu (trừ Nhật thời Minh Trị) với chính sách “bế quan tỏa
cảng” và đặc biệt với nền giáo dục ý thức hệ “nhất sĩ nhì nông tam công tứ
thương” đã thụt lúi một cách thảm hại. Mà giới sĩ phu chỉ là những con mọt
sách, mà những sách chỉ ghi chép lại những giáo điều (kinh), những câu truyện
(truyện) hay những thi phú vô thưởng vô phạt.
Điểm đáng nói là
tuy có đại học, nhưng ngay cho tới gần đây, các trường tại Á châu vẫn chưa
chú trọng tới nghiên cứu. Đại học chỉ là những “cơ quan” nhà nước, do nhà nước
điều hành và phục vụ nhà nước (chứ không phải đất nước).
Các đại học nổi tiếng như ĐH Hồng Kông, ĐH Bắc Kinh, ĐH Đông Kinh, ĐH Kinh Đô,
ĐHQG Tân Gia Ba, ĐHQG Đài Loan, ĐHQG Hán Thành vốn chỉ là những lò đào tạo nhà
chuyên môn, giới công chức, cũng như giai cấp lãnh đạo cho chính phủ.[30]
Chính vì vậy mà tuy nổi tiếng, các đại học này vẫn thua xa các đại học lớn của
Anh, Mỹ và Aâu châu. Nói cách chung, chúng chưa xứng với tầm mức đại học.
Chỉ rất gần đây, khi người Á châu ý thức được tầm quan trọng của
nghiên cứu, và nhất là áp dụng chính sách tự do trong nền giáo dục đại học, họ
mới bắt đầu có những đại học thực sự, theo đúng nghĩa đại học. Những năm gần
đây, một số đại học như ĐH Đông Kinh, ĐH Kinh Đô đã có thể cạnh tranh với những
đại học lớn của Mỹ,[31]
những đại học như ĐHQG Đài Loan, ĐHQG Hán Thành, ĐHQG Tân Gia Ba, ĐH Hồng Kông…
đã có một chỗ đứng vững vàng, vượt khỏi những đại học của Uùc Châu (Australia)
và Tân Tây Lan (New Zealand),[32]
và không thua kém đại học giỏi của Aâu châu. Các đại học Á châu bắt đầu thu hút
được các học giả, chuyên gia cũng như sinh viên ưu tú trên thế giới,[33]
và gần đây hơn cả, đã được thế giới chú trọng và kính nể.[34]
4.
Thế Nào Là Tự Do Nghiên Cứu
Nói như thế,
chúng ta đã có thể nhận ra một cách dễ dàng vai trò quan trọng của đại học cũng nhự sự thiết yếu
của nghiên cứu khoa học. Thế nhưng quý vị giáo sư nước nhà có lẽ sẽ
cho rằng, một quan điểm như vậy đâu có chi mới lạ. Nơi các nước theo xã hội chủ
nghĩa, ta đều thấy có những Trung Tâm hay Viện Khoa Học Quốc Gia với
những viện nghiên cứu khoa học, với một quy mô rộng lớn, và được nhà nước rất
trọng dụng. Quả đúng như vậy. Những kết quả nghiên cứu khoa học (nhất là về chế
tạo vũ khí, khoa học không gian) của các viện khoa học trên cũng đâu thua kém
các nước tư bản.
Thoáng nhìn thì
như vậy. Nhưng nếu đi sâu vào cách tổ chức, cũng như cách thế làm việc, ta thấy
có rất nhiều khác biệt. Sự khác biệt rõ ràng và có tính chất quyết định nhất,
đó là tính
chất tự do trong công việc nghiên cứu và tính chất tương đối
độc lập trong việc chọn đề tài, chọn nhân tài, chọn người hay cơ
quan cộng tác, cũng như lương, bổng, lộc. Nếu trong các đại học Aâu Mỹ, học
giả, giáo sư, sinh viên có thể tự do chọn đề tài nghiên cứu, tùy theo sở
thích, thì các viện nghiên cứu của các nước xã hội thường nghiên cứu
theo đơn
đặt hàng của nhà nước. Nếu các đại học Aâu Mỹ có thể cộng tác với
các hãng kỹ nghệ, sản xuất, hay giao dịch thì các viện nghiên cứu trong các
nước xã hội chỉ có thể làm việc với những khách hàng mà nhà nước chỉ định (tức nhà
nước, hay cơ quan của nhà nước). Chính vì thế mà, các viện nghiên cứu tại Nga,
Tầu đã phát triển khá tốt trong các lãnh vực quốc phòng, vũ khí, hay cơ khí,
nhưng lại quá chậm chạp trong mọi lãnh vực khác, nhất là thương mại, và những
nhu cầu nhân sinh. Một khi nhà nước không đủ tài chánh để cung cấp cho các Viện
Khoa Học, hay một khi nhà nước thay đổi chính sách, hay vì bộ máy hành chánh
rùa bò của nhà nước (như trường hợp của Liên Sô vào thập niên 1980s), các viện
nghiên cứu sẽ mai một, bởi lẽ họ không có thể tự kiếm ra được tài chánh trợ cấp
cho công việc nghiên cứu của mình. Và nhất là, họ không thể cạnh tranh, đi vào
những lãnh vực tiên tiến, và lẽ dĩ nhiên không thể sản xuất mại phẩm hợp với
khẩu vị thị trường hiện nay. Họ cũng không bán (hoặc không được phép bán) ra
được những sản phẩm của họ (đa số là vũ khí)ï.[35]
Ngược lại, các đại học Aâu Mỹ luôn cộng tác với các hãng kỹ nghệ, buôn bán, sản
xuất, cũng như với cả chính phủ. Các hãng kỹ nghệ, buôn, sản xuất… sẽ đầu tư
10% tới 20% lợi nhuận vào công việc nghiên cứu.[36]
Họ sẽ quảng bá, sản xuất và bán các sản phẩm do đại học nghiên cứu. Và như vậy
việc nghiên cứu luôn có động lực, và luôn phải hướng tới những khám phá mới,
kết quả mới… để có thể sống còn. Chính điểm này khiến các đại học Aâu Mỹ cạnh
tranh, cũng như hấp dẫn sinh viên và ban giáo sư.[37]
Điểm này đã được
các chính phủ Trung Quốc, Nga và các nước Đông Aâu nhận ra khi họ giải tỏa hay
giảm bớt tầm quan trọng của các Trung Tâm Khoa Học và tăng trợ cấp cho các đại
học, cũng như tôn trọng quyền tự do nghiên cứu. Từ năm 1990 ĐH Bắc Kinh được tự
do kinh doanh. Từ năm 1995 ĐH lại thêm quyền tự do thiết lập cơ sở sản xuất
điện toán, và nhất là quyết định lương bổng.[38]
Để quý vị có thễ
dễ dàng nhận ra điều mà chúng tôi hiểu như là tự do nghiên cứu, người viết xin
tóm lại như sau. Mỗi đại học:
n Tự do trong việc chọn lựa đề tài, đối tượng nghiên
cứu theo khả năng và sở thích, cũng như nhu cầu của xã hội, và của cả cá nhân.
n Tự do trong việc chọn phương pháp. Ta không nên ép
buộc đại học phải theo đường lối nào, phương pháp gì, kiểu cách này hay nọ.
n Mỗi đại học tự lập trong vấn đề tài chánh. Nhà nước
giúp ngân
quỹ, tài trợ, nhưng không can thiệp vào vấn đề điều hành, chọn lựa
nhân viên, ban giảng huấn, cũng như nghiên cứu. Các ĐH tư nổi tiếng của Anh
(như Oxford, Cambridge, University of London) đều được chính phủ trợ cấp, nhưng
không can thiệp vào nội bộ đại học. Các đại học Mỹ, cả công lẫn tư đều được
hoặc chính phủ liên bang, hoặc chính phủ tiểu bang trợ cấp.
n Mỗi đại học được tự do đối ngoại, cộng tác với giới
kỹ nghệ, thương gia hay với các cơ quan nghiên cứu quốc tế. Đại học có thể hợp
tác ới các đại học ở ngoại quốc trong việc giảng dậy, nghiên cứu, huấn luyện,
đào tạo… ĐHQG Đài Loan cộng tác với trên 100 đại học trên thế giới. Các giáo sư
của ĐH Chicago, UC Berkeley, Stanford… thường tới dậy tại ĐHQG Đài Loan; các
sinh viên của họ cũng được gửi tới để học tại đại học sau này.
n Mỗi đại học có quyền chọn lựa, thăng cấp hay loại
bỏ ban giảng huấn, nghiên cứu và sinh viên nếu không đủ chuẩn mực khoa học (và chỉ
theo chuẩn mực khoa học mà thôi). ĐH tự quyết định mức lương bổng, học bổng cho
mỗi người khác nhau, chứ không theo chính sách bình quân. Người xuất sắc lương
cao, sinh viên giỏi có học bổng, hay học bổng lớn. Tại các đại học Mỹ, mỗi giáo
sư khi ký giao kèo đều có thể “mặc cả” đồng lương của mình với đại học.
n Thành lập ủy ban giám định theo tiêu chuẩn khoa học,
giám định ban giảng huấn, nhân viên nghiên cứu, cũng như nghiên cứu sinh. Theo
một số đại học như Harvard, ĐHQG Đài Loan, ĐH Đông Kinh thì các chuẩn mực có
thể bao gồm: (1) Thành quả (xuất bản, giải thưởng khoa học, hoạt động hàn lâm,
đỡ đầu luận án, hội thảo quốc tế khoa học)(70%), (2) Giảng dậy, mức độ yêu
thích của sinh viên (sinh viên đánh giá cao, sinh viên theo lớp đông, giúp đỡ
sinh viên…) (20%), và (3) tham dự vào sinh hoạt của đại học (giữ các chức vụ
hành chánh, hay phụ trách các hoạt động của đại học…) (10%). Tổng cộng: (1)
Thành quả: 70 + (2) Giảng dậy: 20 + Hoạt động: 10 = 100. 70 điểm đủ. 80 điểm
ban khen. 90 điểm giải thưởng, tăng lương. Nếu không đạt tới tiêu chuẩn 70, sẽ
bị cảnh cáo, không được trợ cấp, hay bị hạn chế; liên tiếp 2 năm cảnh cáo sẽ bị
bãi chức (hay không được ký hiệp đồng tiếp tục).
n Bộ Giáo Dục nên tránh can thiệp vào việc bổ nhiệm,
thăng chức. Đây là công việc nội bộ của mỗi đại học. Một giáo sư của một đại
học kém, nếu được mời sang dậy một đại học khá hơn, rất có thể chỉ với tư cách
như phó giáo sư, hay giáo sư trợ lý mà thôi. Đây là một phương thế cạnh tranh,
rất cần thiết cho việc nghiên cứu, phát minh, sáng tạo. Nếu giáo sư ở đại học
nào cũng giống nhau, thì làm sao có thể phân biệt được người hay, người kém?
n Nên để cho mỗi đại học tự chọn giới điều hành, từ
cấp chủ nhiệm trở lên tới hiệu trưởng. Thí dụ tại ĐHQG Đài Loan, Hội đồng của Mọi
nhân viên giảng huấn trong Khoa (Hệ, Sở) bầu Chủ nhiệm; trong Viện bầu Viện
trưởng, và Hội đồng Đại diện của ban Giảng Huấn bầu Hiệu trưởng… Bộ, hay nhà
nước chỉ có quyền phê chuẩn nhưng không có quyền chỉ định.
n Mỗi đại học tự do trong việc cấp phát văn bằng,
thành lập cơ sở nghiên cứu. Bằng cấp của đại học kém ít khi được các kỹ nghệ,
hãng hay cơ sở chính phủ và các cơ quan tư nhân chấp nhận.[39]
Do đó có sự cạnh tranh giữa các đại học, cũng như việc các đại học kém bị đào
thải.[40]
n Quan trọng nhất, là đại học được tự do mời, chấp
nhận, hay tuyển chọn ban giảng huấn từ bất cứ nước nào, sắc tộc nào, đảng phái
nào hay tôn giáo nào. Chỉ có một tiêu chuẩn quyết định, đó là tài năng của
họ thấy qua công trình nghiên cứu. Ai giỏi, người đó được mời. Nhà
nước giúp mọi cơ hội thuận tiện, bao gồm chiếu khán, quyền cư trú, hay nhập
quốc tịch, hay trợ cấp ngân khoản để đại học có thể thu hút được nhiều nhân tài
trên thế giới.[41]
n Được như vậy, đại học (theo đúng nghĩa) trở thành
quốc tế. Chúng ta có thể thu hút được rất nhiều nhân tài. Nước Mỹ mạnh, bởi vì
họ thu hút được hầu hết những người giỏi nhất của thế giới phục vụ cho họ.
5.
Một Số Đề Nghị thay Kết Luận
Sau nhiều dịp về
thăm quê hương, và từng được vinh hạnh thảo luận cũng như tham dự một số hoạt
động hàn lâm nơi quê nhà, chúng tôi nhận ra được cố gắng của nhà nước cũng như
của quý đại học trong công cuộc giáo dục đào tạo nhân tài. Tuy còn đương gặp
nhiều khó khăn, từ tài chính tới nguồn nhân lực, chúng tôi nghĩ các đại học
nước nhà vẫn có thể vươn lên, để ít nhất có thể cạnh tranh được ở Á châu, và
nổi bật trong cùng Đông Nam Á. Lý do là chúng ta có rất nhiều nhân tài. Điểm
chính yếu là làm sao đào tạo được đội ngũ này, và phân công, tổ chức, hoạt động
một cách hữu hiệu mà thôi. Để được như vậy, chúng tôi xin được đề nghị với
những vị hữu trách một số điểm như sau:
5.1. Phân Cấp
Nên phân nền
giáo dục đại học thành ba cấp.
Cấp thứ nhất chuyên về nghiên cứu khoa học, cấp thứ hai, đào tạo nhân viên hành
chánh, chuyên nghiệp như kỹ sư, chuyên viên, bác sĩ… và cấp thứ ba mang tính
chất cộng đồng, nâng cao dân trí, và phục vụ từng vùng hay địa phương.
n Trong cấp thứ nhất chuyên về nghiên cứu, chỉ nên tập trung vào từ 4 tới 10 đại học (thí dụ
các đạí học Hà Nội, Tph Hồ Chí Minh, Đà Lạt, Huế…) phát triển thành những đại
học quốc tế gần giống như Trọng Điểm Đại Học của Trung Quốc, hay các đại học ưu
tú của Mỹ, Nhật, Anh. Nơi dây, tự do nghiên cứu được tôn trọng tối đa. Nhà nước
sẽ trợ cấp các chương trình nghiên cứu (trường hợp Đài Loan, Anh, Đức, Pháp…).[42]
Các đại học được tư do hợp tác với các hãng kỹ nghệ, hay thương mại, hay sản
xuất… phát minh, và sản xuất các vật dụng, khí cụ, thuốc men, hóa phẩm, nông
phẩm vân vân.
n Trong cấp thứ hai, đại học đào tạo những cán bộ chuyên môn,
giới công chức, hành chánh, kỹ sư, y sĩ, luật sư. Đại học ở cấp này cần một
kiến thức chắc chắn, thực dụng. Nó sẽ sản sinh ra giới điều hành cũng như thi
hành những chương trình, dự án… của quốc gia, xã hội.
n Nơi cấp đại học thứ ba, còn gọi là đại học cộng đồng, mục đích chỉ để nâng cao dân
trí, chú trọng đến những kiến thức địa phương, những vấn đề xã hội,
nền giáo dục văn hóa và cách sống của người dân…
5.2. Đa Diện, Đa Hóa
Khuyến khích
thành lập các đại học tư lập, nhất là các đại học chuyên về nghiên cứu. Như chúng ta biết, thường thì các đại học tư được
hoặc các giáo hội tôn giáo, các hãng kỹ nghệ, hay các cơ sở thương mại thành
lập.[43]
Thế nên, các đại học này luôn luôn như là bộ óc của các tôn giáo, tổ chức, hãng
hay cơ sở đó. Như các hãng kỹ nghệ, kinh doanh, tổ hợp, các đại học tư, để có
thể sống còn, sẽ phải cố gắng và cạnh tranh. Chính nhờ vào cạnh tranh mà nghiên
cứu càng phát triển. Nền giáo dục đại học tại Mỹ, phát triển mạnh là nhờ vào hệ
thống đại học tư lập. Các đại học lớn thuộc phái Trường Xuân (Ivy League) là
các đại học tư lập thuộc các giáo hội khác nhau. Những đại học nổi danh như
Rockerfeller, Carnegie-Mellon, Colgate đều là những đại học do các doanh gia
thành lập.
2.1.
Thế nên, đề nghị nhà nước nên cộng tác hay khuyến khích các giáo hội tôn giáo thành lập
đại học. Như nhà nước từng nhấn mạnh, cũng như tôn trọng và
khuyến khích, việc tham gia vào công tác giáo dục của mọi công dân vốn được
hiến pháp nước nhà đảm bảo. Thế nên, nhà nước không nên (thực ra, không có quyền) hạn chế công dân, và các tổ chức,
bao gồm giáo hội tôn giáo, thành lập đại học hay các trường học.
Như chúng ta đều biết, những đại học nổi tiếng nhất trên thế giới đa số đều do
các giáo hội của các tôn giáo khác nhau thành lập. Thí dụ tại Anh: ĐH Oxford,
ĐH Cambridge (Anh giáo); tại Bỉ: ĐH Louvain (Công giáo); tại Pháp: ĐH Sorbonne
(Công giáo cho tới thời Napoléon); tại Ý: ĐH Sacre Cuore, ĐH Gregoriana (Công
giáo); tại Mỹ: ĐH Harvard, Yale, Princeton, Stanford, Johns Hopkins (Tân giáo),
Georgertown, Notre Dame, Boston College… (Công giáo), Rice, Pensylvannia,
Columbia, Cornell, Boston University, Emory (Tin lành), vân vân. Lý do mà tôi
đề nghị nhà nước khuyến khích các tôn giáo mở đại học viện đại khái bao gồm:
(1) Các đại học do các tôn giáo có những bảo đảm căn bản, họ không vụ lợi, và
không làm buôn bán. Thế nên có đảm bảo lâu dài, và không dễ dàng bị lạm dụng.
(2) Thứ tới, thường thì các giáo hội tổ chức rât chặt chẽ trong lãnh vực giáo
dục và đạo lý, thế nên tổ chức lành mạnh hơn các đại học tư nhân khác. (3) Vả
lại có một sự cạnh tranh giữa các giáo hội. Chính vì vậy mà họ rất chú trọng
đến nghiên cứu và đào tạo nhân tài. Hệ thống giáo dục của Dòng Tên (Society
Jesu) của Công giáo được cả thế giới công nhận là một hệ thống giáo dục đào tạo
ra rất nhiều nhân tài: Galileo, Descartes, Rousseau, Pasteur, de Gaulle, Bill Clinton…
và cả Karl Marx từng là học trò của các trường trung học hay đại học do tôn
giáo điều khiển. (4) Ngay trong Giáo hội Tin Lành, mỗi giáo phái đều có đại học
riêng, cạnh tranh rất mạnh. Địch thủ chính của Harvard là ĐH Yale. Đại học sau
được thành lập với mục đích để làm “áp lực” với ĐH Harvard (mặc dù cả hai đều
thuộc cùng một giáo hội). Tương tự ĐH Stanford muốn làm bá chủ thay thế địa vị
của Harvard…[44] và
bên Anh, ĐH Cambridge thách đố ĐH Oxford. (4) Hệ thống đại học tư lập, và đại
học do các tôn giáo có thể giúp nhà nước tiết kiệm rất nhiều chi phí, công
việc, nhưng lại đào tạo được rất nhiều nhân tài.[45]
(5) Các đại học tư nếu được tổ chức hoàn thiện có thể tránh khỏi những vấn đề
hiện nay của nhiều đại học tư lập như ĐH Đông Đô ở Việt Nam, và nhất là không
vướng vào bệnh quan liêu, chậm chạp, vân vân, thấy nơi nhiều đại học công lập.
5.3. Vấn Đề Lương Bổng
Phải trả lương
một cách tương xứng
cho những người làm việc tại đại học. Lý do như sau: (1) Ta không nên
theo chính sách bình quân trong vấn đề lương bổng, bởi vì lương bổng
là một động lực chính yếu nhất khiến mọi người (cách chung) cố gắng. Theo Marx,
mỗi người phải được hưởng cái mà ông ta xứng đáng được (tức “theo nhu cầu và
khả năng” như Marx từng tuyên bố trong Tuyên Ngôn Đảng Cộng Sản 1848). (2) Chủ
trương bình quân làm giảm bớt động lực, khiến không ai cố gắng, hay hy sinh
thêm. Sự thất bại trong chính sách nông nghiệp tại Liên Xô, Trung Hoa và có lẽ
cả ở Việt Nam, một phần là do nông dân thiếu động lực sản xuất, và có lẽ thiếu
cả trách nhiệm bảo vệ. Nếu người giỏi giang cũng chỉ được trợ cấp như kẻ dốt
nát, người rất cố gằng cũng chỉ được trả lương như kẻ lười biếng, thì còn ai
muốn làm việc, nhất là khi mà động lực yêu nước không còn mạnh mẽ như trong
thời bảo vệ đất nước. (3) Mỹ vượt khỏi Aâu châu và mọi nước khác, vì họ dám trả
đồng lương khá hậu hĩ cho những người nghiên cứu giỏi. Hiện tượng “óc rữa”
(brain-drain) nơi các nước nhược tiểu nói rõ sự thành công của Mỹ. Nhân tài của
các nước này nhận làm việc cho Mỹ, bởi vì họ không thể sống được với đồng lương
“sống giở, chết giở” của họ nơi quê nhà. (4) Đã đến lúc chúng ta nên tạm ngưng
chửi “Mỹ đế quốc” (lẽ diên, Mỹ đáng chửi), bởi lẽ có chửi rã họng đi nữa, thì
chúng ta vẫn chẳng có nhân tài, mà không nhân tài, thì suốt đời chúng ta vẫn chỉ
là những nước nhược tiểu mà thôi. Ngược lại, tôi xin đề nghị nhà nước nên hy sinh bóp bụng trả một đồng
lương xứng đáng cho nhân tài để họ ra sức làm việc cho đất nước.[46]
Nước Tân Gia Ba tuy nhỏ, nhưng có nhân tài, nên được thế giới kính nể. Các nước
Thụy Sỹ, Aùo quốc, Bỉ, Hòa Lan… cũng nhỏ thôi, nhưng có ai dám khinh chê họ.
Bởi lẽ họ có rất nhiều nhân tài.[47]
Chỉ một nước Aùo (với quãng 7-8 triệu dân, và diện tích bằng 1/5 của Việt Nam)
đã có thể chiếm được trên dưới 20 giải Nobel. Vào thập niên 1980s, Đài Loan đã
áp dụng chính sách này, và do đó họ đã lôi được khá nhiều nhân tài trở về phục
vụ Đài Loan. Các Giáo sư Lê Nguyên Triết (Nobel hóa học), Giáo sư Trương Quang
Trực (nhà khảo cổ thời danh của ĐH Harvard)… đã bỏ Mỹ để trở lại Đài Loan. Gần
đây, chính phủ Bắc Kinh cũng đã bắt đầu chính sách tương tự. Họ lôi kéo những
nhà vật lý tài ba như Dương Chấn Ninh, Lý Chính Đạo… (Nobel vật lý) về dậy tại
Trung Hoa.
Ngoài ra, với
đồng lương tương xứng, nhân viên tại đại học sẽ ít tham nhũng hơn. Họ sẽ không
lạm dụng đại học để làm chuyện tư nhân. Và như vậy, đại học có thể tiết kiệm
được một ngân quỹ khả quan.[48]
5.4. Lôi Cuốn Nhân
Tài Từ Mọi Nước. Đào Tạo Một cách Đa Diện
Như quý vị còn biết nhiều hơn cả chúng tôi, mỗi
nước, mỗi nền giáo dục có những đặc sắc riêng. Trong quá khứ, nhà nước thường
chỉ gởi cán bộ tu nghiệp hay huấn luyện tại một số nước, mà hệ thống, lối tổ
chức và cách thế tư duy tương đối đồng nhất. Nhưng chính vì quá đồng nhất mà
thiếu cạnh tranh; chính vì quá giống nhau, nên ta không thấy có những cái khác,
mới hơn, hay hơn; và nhất là, chính vì đồng nhất mà chúng ta đóng kín. Một kiểu
bế quan tỏa cảng mới ở thế kỷ 20. Để tránh cái nguy hại này, chúng tôi xin đề
nghị nhà nước gửi người đi tu nghiệp hay học nghiên cứu ở nhiều nước khác nhau,
nhiều nền văn hóa khác nhau, không phân biệt tôn giáo, chính trị….
n Lẽ đương nhiên, cái học phải liên quan tới nhu cầu
của đất nước. Trong giai đoạn hiện đại, nhà nước càng nên chú trọng tới những
lãnh vực sau đây: canh nông, ngư nghiệp, công nghiệp, kỹ nghệ, giao thông, y
học, và dược học.
n Vấn đề văn hóa cũng rất quan trọng, bởi lẽ văn hóa
gắn liền với phát minh khoa học. Chế độ dân chủ, xã hội, cộng hòa luôn gắn liền
với nền văn hóa Tây phương, đặc biệt là Kitô giáo; trong khi sự phát triển kỹ
nghệ, tư bản, khoa học gắn liền với phái tân giáo (lý thuyết của Max Weber).[49]
Tương tự, sự phát triển của các con rồng Á châu phần nào cũng liên hệ với nền
đạo đức, giáo dục của Nho giáo.[50]
n Là người Việt, chúng ta phải đặc biệt chú trọng văn
hóa của mình, những nền văn hóa liên quan với lịch sử của minh, và ngay cả nền
văn hóa của cả kẻ thù. Họ có thể xâm lược, đàn áp chúng ta. Nếu chúng ta không
“biết người, biết mình” thì làm sao có thể “trăm trận trăm thắng” được? (Binh
pháp Tôn Tử). Thế nên, mỗi đại học, đặc biệt đại học nghiên cứu, cần phải có
những trung tâm nghiên cứu về Việt học (Vietology và Vietnamese Studies, bao
gồm Hán Nôm), Hoa học (bao gồm Hán học), Aâu Mỹ học, Đông Nam á học, Tôn giáo
học, vân vân…
5.5. Ngân Quỹ Giáo
Dục và Nghiên Cứu
Điểm quan trọng
nhất, và quyết định nhất vẫn là ngân quỹ giáo dục và nghiên cứu mà nhà nước cần
phải đầu tư. Tại các nước tiền tiến, tổng số ngân quỹ đầu tư vào giáo dục quãng
15% tổng số thu nhập của một quốc gia. Tại nhiều nước như Nhật, Tân Gia Ba,
Đức, Bắc Aâu, ngân quỹ này còn cao hơn, đôi khi tới 18% chưa kể nghiên cứu.
Trong tình thế đất nước hiện nay, chúng tôi đề nghị một ngân quỹ tối thiểu là 15%,
và được hiến pháp đảm bảo. Điều này có nghĩa là, dù ở bất cứ hoàn cảnh thiếu
thốn tới đâu, ngân quỹ giáo dục luôn phải là 15%. Nếu kinh tế mạnh, ngân quỹ sẽ
tăng lên, nhất là trong lãnh vực nghiên cứu.[51]
Lẽ dĩ nhiên còn
rất nhiều đề nghị, mà vì phạm vi của bài tham luận này nên chúng tôi tạm không
bàn đến. Trong tinh thần của các bài điều trình mà cụ Nguyễn Trường Tộ từng gửi
tới triều đình nhà Nguyễn, trong tâm hồn hướng về đất nước, tôi xin gửi tới nhà
nước và quý vị hữu trách những ý kiến trên, mong được tham khảo.
Trần Văn Đoàn
ĐHQG Đài Loan, 23.09.2002.
Duyệt lại
ĐH Salzburg, Áo, 01.05. 2005
[1]
Nghịch lý
nơi đây không có nghĩa là mâu thuẫn, hay đối nghịch (contradiction) nhưng là
một loại “chưa phân loại, chưa rõ ràng” (paradoxes). Nó theo cái luật “chuẩn
bị” (paralogy).
[2] Nhà Nước vốn nghĩa chỉ
đất nước quê hương. Nhưng không biết từ thời nào, nó đã mang nghĩa nhà cầm
quyền, tức những người (nhà) nắm vận mệnh đất nước.
[3]
Như loạt sách về Danh Nhân Đất Việt của nhiều tác giả được Nhà xuất bản Thanh
Niên phát hành vào thập niên 1990s. Khi đọc những mẫu chuyện anh hùng của họ,
tôi không biết phải hãnh diện hay tiếc nuối. Những nhân vật vĩ đại như vậy mà
làm sao nước vẫn nghèo, dân vẫn ngu, kẻ cai trị vẫn ngạo ngược, người ngoại
quốc vẫn dễ dàng đánh bại và cai trị chúng ta.
[4]
Plato đưa ra chủ nghĩa cộng hòa, Aristotle với chủ thuyết đức trị, Khổng Tử với
đạo nhân, Mạnh Tử với chủ trương dân vi quý, Rousseau với chủ thuyết dân chủ,
Hobbes với chủ thuyết cộng phú (Commonwealth), Marx với chủ thuyết xã hội, Tôn
Dật Tiên với chủ thuyết tam dân, Gandhi với chủ trương bất bạo động, vân vân.
Francis Bacon (1561-1626) với tác phẩm Novum Organum (London, 1620).
[5]
Jean-Francois Lyotard, La Condition postmoderne - rapport sur le savoir
(Paris: Minuit, 1979). Cũng xin tham khảo thêm biên khảo của chúng tôi: Trần
Văn Đoàn, Chủ
Thuyết Hậu Hiện Đại (Viện Triết Học Hà Nội, dự trù xuất bản năm
2005). Đây là loạt bài thuyết giảng của chúng tôi tại Viện Triết Học, Trung Tâm
Khoa Quốc Gia, Hà Nội, vào tháng Giêng năm 2002.
[6]
Lyotard, Introduction: “Giản đơn cho tới mức tối đa, tôi định nghĩa hậu hiện đại
như là tính bất tin vào bất cứ những đại lý thuyết nào.” Xin tham khảo bản dịch
Việt ngữ của chúng tôi: Điều Kiện Hậu Hiện Đại - Báo Cáo Tri Thức
(Washington, D.C.: Vietnam University Press, sửa soạn xuất bản).
[7]
Những luận cứ của chủ thuyết hậu hiện đại đã được chúng tôi trình bày và phê bình
trong một tập luận văn khác, nên xin được miễn bàn nơi đây. Xin tkh. Trần Văn
Đoàn, Chủ
Thuyết Hậu Hiện Đại, sđd..
[8]
Karl Popper, Conjectures and Refutations: The Growth of Scientific Knowledge
(London: Routledge & Kegan Paul, 1973).
[9]
Samuel P. Huntington, The Clash of Civilizations and the Remaking of World
Order (New York: Simon and Schuster, 1997). Tập sách này phát triển
từ bài “The Clash of Civilizations” từng đăng trên Foreign Affairs (1983?).
[10]
Nguyễn Trọng Chuẩn & Nguyễn Văn Huyên chủ biên, Giá Trị Truyền Thống Trước Những Thách
Thức của Toàn Cầu Hóa (Hà Nội: Nxb Chính Trị Quốc Gia, 2002).
[11]
Howard M. Wachtel, The Money Mandarins: The Making of a Supra-National
Economic Order. Cũng xin tham khảo: Daniel Yergin và Joseph
Stanislaw, The
Commanding Heights: The Battle Between Government and the Marketplace that is
Remaking the Modern World (New York: Simon and Schuster, 1998).
[12]
Hệ thống viễn thông đã khiến con người rất gần mà lại rất xa với nhau. Biết bao
cuộc hôn nhân qua mạng lưới điện toán, biết bao sinh viên nghiên cứu, lấy được
bằng cấp qua phương tiện này. Bây giờ, một người ở Đà Lạt có thể tốt nghiệp ở
một đại học Mỹ mà không cần phải có 72 phép biến hóa của (con khỉ) Tôn Ngộ
Không.
[13]
Francis Bacon (1561-1626) với tác phẩm Novum Organum (London, 1620). Câu nói “tri
thức là sức mạnh” (knowledge is power) của nhà triết học người Anh này vẫn còn
có giá trị cho tới nay. Tuy rằng, câu nói “ai khống chế được thế giới điện
toán, người đó nắm được thế giới” (Báo Cáo của Bộ Kinh Tế-Kỹ Thuật Đầu Tư (MITI)
Nhật năm 1982) quả có đúng đi nữa, thì câu nói “không có tri thức, không có
điện toán” lại càng đúng hơn.
[14]
Nước Mỹ với cả ngàn đại học và trên 30 đại học có tầm vóc quốc tế, ảnh hưởng
tới nền chính trị, kinh tế, khoa học, giáo dục, nghệ thuật… của Mỹ và của toàn
thế giới như Harvard, Yale, Princeton, Chicago, Massachusett Institute of
Technology (MIT), Caltech, Stanford, University of California at Berkeley,
Coumbia, Rockerfeller, Cornell, University of Pennsylvania, Rice, Tulane,
Georgetown, Notre Dame, Johns Hopkins, Duke, Brown… Nước Anh với các đại học
như Oxford, Cambridge, The London School of Economics and Politics, Imperial
College; nước Pháp với hệ thống Grandes Eùùcoles và trung Tâm Nghiên Cứu Quốc
Gia (Centre national de recherche), nước Nhật với các đại học Đông Kinh
(Tokyo), Kinh Đô (Kyoto)…, nước Đức với các đại học như Heidelberg, Berlin,
Muenchen, Tuebingen, Goettingen… và nhất là Viện Nghiên Cứu Max-Planck
Institut.
[15]
Hoàng đế Napoléon Bonaparte ra lệnh thiết lập hệ thống “Đại Học Viện” (Grandes
Eùcoles) để đào tạo công chức cũng như chuyên viên cho nhà nước. Trường Bách
Khoa (Eùcole polytechnique) vốn là trường đào tạo sĩ quan pháo binh nhắm phục
vụ quân đội xâm lược của Napoléon. Trường Cao Đẳng Sư Phạm (Eùcole normale
supérieure) đào tạo giáo viên trung học Pháp, vân vân. Xin tkh. H. Janne,
“L’Université et les besoins de la société contemporaine,” trong Cahiers de
l’Association internationale des Universités, số 10 (1970).
[16]
Johann Fichte nổi tiếng với luận văn “Reden an der deutschen Nation” (Tuyên Cáo
cho Dân Tộc Đức) (1807-1808) trong Werke, 6 Tập, do Medicus chb., Tập V.
Tuyên cáo này viết ra ngay sau khi nước Phổ bại trận dưới bàn tay của Napoléon.
Trong tuyên cáo này, Fichte nhấn mạnh tới sự tái sinh của một dân tộc Đức, tinh
thần của Đức, cũng như tinh thần nhân bản. Ông từng giữ chức Hiệu trưởng ĐH Bá
Linh (1811-1812). Sau khi chết (1814), Fichte được chôn tại đây. Hegel thay thế
Fichte giữ chức Giáo sư tại Berlin từ năm 1819 cho tới năm 1831. Mộ của Hegel
(chết năm 1831) nằm cạnh mộ của Fichte.
[17]
Fichte, như trên, Tập IV, ctr. 407 vtth.
[18]
Miguel Abensour, ed., Philosophie de l’Université: L’Idéalisme allemand et
la question de l’université (Paris: Payot, 1979). Trong bộ sách này
ta thấy có bài tham luận về vấn đề giáo dục đại học của các đại triết gia, thần
học gia như Schelling, Fichte, Schleiermacher, Humboldt và Hegel. Xem Lyotard,
chú thích số 108.
[19]
Wilhelm von Humboldt, “Ueber die innere und auessere Organisation der hoeheren
wissenschaftlichen Anstalten in Berlin” (1910) trong tập sách Wilhem von
Humboldt (Frankfurt a.M., 1957), tr. 126; Lyotard, chú thích 109.
[20]
Những khó khăn chính yếu bao gồm: (1) Vai trò của đại học và nhà nước. Nếu đại
học phục vụ nhà nước, thì đại học sẽ mất sự độc lập cần thiết tức tự lập. Nhưng
nếu nhà nước không trợ cấp đại học, thì đại học cũng khó có thể phát triển (do
sự liên hệ mật thiết giữa quốc gia và đại học). (2) Đại học và dân chúng. Sư
chính đáng của đại học là do nhân dân ủy thác, nhưng đại học lại không được
phép mị dân, nhưng phải có nhiệm vụ hướng đạo dân chúng. (3) Đại học và lý
tưởng. Đại học phải phát triển lý tưởng, nhưng đại học không được phép bị một
lý tưởng (tôn giáo, ý thức hệ, giá trị…) nào đó ràng buộc. (4) Đại học và sáng
tạo, phát minh. Mục đích của nghiên cứu là tìm ra căn nguyên cội rễ của sự vật
và con người. Nhưng những phát minh, sáng tạo không phải để hủy hoại con người
hay xã hội.
[21]
Thực ra, Khổng Tử là người đầu tiên đã nhận ra những mục đích này. Trong Đại Học
(chương 1) ta thấy: “Đại học chi đạo, tại minh minh đức, tại thân dân, tại chỉ
ư chí thiện.” Mà để đạt tới mục tiêu trên, cần phải “tu thân”, mà để tu thân
cần “sự hiểu biết” (tri), “chắc chắn” (định), và “có kết quả” (đắc), mà để có
tri thức thì cần phải biết sự vật cho tới nguồn ngạch (cách vật chí tri): “Tri
chỉ nhi hậu hữu định, định nhi hậu năng tĩnh, tĩnh nhi hậu năng an, an nhi hậu
năng lự, lự nhi hậu năng đắc. Vật hữu bản mạt, sự hữu chung thủy. Tri sở tiên
hậu, tắc cận đạo hĩ.” (Đại Học, chương 1. Dựa theo Chu Hy, Tứ Thư Tập
Chú, bản dịch Việt ngữ và chú giải của Nguyễn Đức Lân, Hà Nội: Nxb
Văn Hóa Thông Tin, 1998).
[22]
Sự liên kết giữa nghiên cứu và quốc phòng đã được bắt đầu với ĐH Bá Linh. Hạt
nhân, bom bay, hỏa tiễn… đã từng được nghiên cứu ở đây. Chỉ sau thế chiến thứ
2, chính phủ Tây Đức mới thành lập Viện Nghiên Cứu Max-Planck (Max-Planck
Institut)(mà tôi từng được hân hạnh làm nghiên cứu viên tại đây, 1996-1997).
“Hình dạng” Viện gần giống như Viện Khoa Học của Việt Nam, nhưng rất khác
biệt như thấy trong tinh thần nghiên cứu, sự liên kết giữa Viện và các đại học
(các viện nghiên cứu không tập trung), tự do không bị nhà nước quản lý, vàø do
tư nhân quản trị. Tương tự, các đại học khác cũng đã bắt chước: ĐH Cambridge
chế tạo bom nguyên tử cho vương quốc Anh. ĐH Chicago (với phòng nghiên cứu Fermi)
đã chế tạo trái bom nguyên tử đầu tiên trên thế giới. Hiện nay các ĐH thời danh
của Mỹ như Princeton, MIT, Caltech, Chicago, Harvard, Stanford đều có những dự
án nghiên cứu do Ngũ Giác Đài, hay những cơ quan nhà nước ủy thác. ĐH Caltech
chế một bộ phận quan trọng cho phi thuyền không gian của NASA, trong khi phòng
thí nghiệm Alamos được chính phủ và quốc hội Mỹ chấp thuận “đầu tư” hàng tỉ Mỹ
kim.
[23]
Chú ý, công nhận công lao của Humboldt, ĐH Bá Linh đổi tên lại thành ĐH
Humboldt. Ngoài ra, còn có quỹ Humboldt (Humboldtstiftung) nhắm trợ cấp cho
những học giả, nhà khoa học trẻ khắp thế giới. Ngày nay tại Bá Linh có 3 đại
học nổi tiếng: ĐH Humboldt (Đông Bá Linh), ĐH Tự Do (Frei Universitaet, Tây Bá
Linh), và ĐH Kỹ Thuật Bá Linh.
[24]
Những đại học, học viện tư lập thuộc các Giáo hội tại miền Đông Bắc Mỹ như
Harvard, Yale, Cornell, Columbia, Princeton, University of Pennsylvania, Brown,
Johns Hopskin, vân vân. Đặc điểm chung của các đại học này là họ trồng nhiều
cây trường xuân (ivy) trong khuôn viên đại học. Thế nên, người ta thường gọi họ
là phái Trường Xuân (Ivy League).ï
[25]
Câu truyện của nhà bác học Einstein khi tới dậy học tại ĐH Princeton. Câu hỏi
đầu tiên ông hiệu trưởng hỏi nhà bác học là “Ngài cần bao nhiêu tiền để nghiên
cứu, cần những thiết bị, phòng thí nghiệm… như thế nào, cần bao nhiêu nhân viên
phụ tá?” Einstein trả lời: “Tôi chỉ cần đủ để sống, một bàn viết, vài cây bút
chì, vài viên phấn và một bảng đen là đủ rồi.” Thực ra, lối nhìn của Einstein
chỉ áp dụng cho thiên tài như ông. Ngày nay, thiếu trang bị, thiếu ngân quỹ,
thiếu nhân tài, ta khó mà làm thí nghiệm được, đừng nói là cạnh tranh. Theo tôi
biết, phòng thí nghiệm của 1 giáo sư tại ĐH California tại Berkeley (Một đại
học công lập rất nổi tiếng trên thế giới) rất có thể còn đắt và lớn hơn cả
phòng thí nghiệm của một quốc gia như Việt Nam. Trang thiết cho phòng thí
nghiệm của giáo sư họ Chu, người Mỹ gốc Tầu (giải Nobel Vật lý năm 1999) trên
30 triệu Mỹ kim. Giáo sư Đinh Triệu Trung (Nobel vật lý năm 1978) điều khiển
trên hai ngàn nghiên cứu viên tại Trung Tâm Khoa Học Aâu Châu (CERN). Cùng với
4 vị khoa học gia khác (đều đạt giải Nobel vật lý), họ điều hành CERN với một
ngân quỹ thường niên gần 1 tỉ Mỹ kim (do các nước Aâu châu đài trợ).
[26]
Đại Học Cambridge của Anh là một địch thủ đáng gờm của ĐH Chicago, với quãng
trên dưới 63 giải Nobel. Viện Max-Planck của Đức đoạt 28 giải Nobel. Bell Lab
(Phòng thí nghiệm của hãng Bell) của Mỹ cũng đoaot được cả chục giải thưởng
Nobel. Tại Aùo, một nước nhỏ bé, chỉ một ĐH Vienna đã đạt quãng 15, và ĐH Innsbruck
4 giải Nobel. Chú ý là các đại học trên (trừ ĐH Vienna, vốn tư lập, hiện đổi
thành ĐH công lập), vả cả Viện Max Planck mang tính cách tư nhân, do tư nhân
điều hành, nhưng được nhà nước tài trợ tối đa.
[27]
Riêng tại Đài Loan, đa số giới lãnh đạo từng tốt nghiệp từ các đại học tư lập
của Mỹ: cựu Tổng thống Lý Đăng Huy (tiến sĩ
ĐH Cornell), cựu phó Tổng thống kiêm Thủ tướng Liên Chiến, và hiện là
chủ tịch
Quốc Dân Đảng (tiến sĩ ĐH
Chicago), Thị trưởng Đài Bắc Mã Anh Cửu (tiến sĩ ĐH Harvard). Tống Sở Lẫm, cựu
thống đốc Đài Loan và hiện là Chủ tịch đảng Thân Dân, vốn có bằng tiến sĩ tại ĐH
Georgetown. Quốc
Lập Đài Loan Đại Học (tôi thường dùng Đại Học Quốc Gia Đài Loan)
từng theo mô hình của Harvard (đại học này được ca tụng như là Harvard của
Trung Quốc). Nó là cái nôi của các nhà lãnh đạo chính trị, kinh tế, khoa học và
văn hóa của Đài Loan. Các Tổng thống Lý Đăng Huy, Trần Thủy Biên, các Giáo sư
Lê Nguyên Triết (Nobel Hóa học 1987) và kể cả Giáo sư Đinh Triệu Trung (Nobel
Vật lý, 1978, người từng muốn thi vài ĐHQG Đài Loan) cũng như hàng ngàn khoa
học gia dạy học hay làm việc tại Mỹ, Gia Nã Đại… và tuyệt đại đa số giới lãnh
đạo Đài Loan đều xuất thân từ đại học này. Riêng tại Nhật, thái tử hiện nay
từng học tại Oxford, trong khi thái tử phi học tại Harvard.
[28]
ĐH Bologna của Ý từng thành lập trên 1000 năm, các ĐH Paris và Oxford gần 1000
năm. ĐH Louvain trên 800 năm.
[29]
Lẽ tất nhiên, trừ ĐH Santo Thomas của Phi Luật Tân với cả 300 năm lịch sử. ĐH
này đã sản sinh ra nhiều nhà lãnh đạo chính trị, tôn giáo… của nước Phi. Tuy
vậy, vì thiếu nghiên cứu, nên đại học này hiện bị các đại học khác như ĐH
Phillipines (công lập, UP), ĐH Ateneo de Manila (tư lập, do Dòng Tên điều
hành), ĐH De la Salle (tư lập, Công giáo) vượt xa.
[30]
Ngay cho tới năm 1995, các đại học tại Trung Quốc (Bắc Kinh) vẫn còn khư khư
theo lối suy tư cũ kỹ này: ĐH Nhân Dân đào tạo cán bộ cho Đảng, ĐH Thanh Hoa và
ĐH Giao Thông đào tạo cán bộ kỹ thuật cho nhà nước… Vào năm 1996, chủ tịch
Dương Trạch Dân (cựu sinh viên ĐH Giao Thông) mới thực sự thi hành chính sách
nghiên cứu, và tập trung vào quãng 30 đại học, gọi là Trọng Điểm Đại Học (hay
các đại học có tầm vóc quan trọng). Chính phủ Bắc Kinh đầu tư vào các đại học
như Bắc Kinh, Thanh Hoa, Phụ Đán, Nam Khai, Trung Sơn, Hà Bắc, Tây An, Phúc
Kiến... Chỉ sau một số năm, hai đại học Bắc Kinh và Thanh Hoa đã có một thế
đứng vững chãi trong giới hàn lâm quốc tế.
[31]
Hai đại học này đã chiếm được tổng cộng gần 7 giải Nobel (Vật lý, Hóa học và 1
Kinh tế).
[32]
Theo bảng xếp hạng các đại học tại Á châu và Uùc châu do Tạp chí Asia
Newsweek (dựa theo chuẩn mực của các đại học quốc tế) hoàn tất, thì
10 đại học nổi tiếng nhất của Á và Uùc vào những năm 1999-2001, bao gồm: (1)
University of Tokyo, (2) University of Kyoto, (3) University of Sendai (tất cả
của Nhật), (4-7): National Taiwan University (ĐHQG Đài Loan, Đài Loan),
National Seoul University (Đại Hàn), National Singapore University (Singapore),
(8) University of Hongkong (Hương Cảng), (9) Peking University (Trung Quốc),
(10) University of Melbourn (Uùc)… Riêng về phần nghiên cứu, vẫn do các đại học
Nhật dẫn đầu. Kết quả, công trình nghiên cứu của ĐH Đông Kinh năm 2000 gồm gần
40.000 (đứng đầu), của ĐHQG Đài Loan gần 11.000 (hạng thứ tư), trong khi của ĐH
Bắc Kinh chưa tới 2000 (quả còn quá thấp).
[33]
Nhiều giáo sư ĐH Oxford, London… đã xin dạy tại ĐH Hồng Kông. Lý do là đồng
lương giáo sư tại Hương Cảng cao gấp 3 tới 5 lần. ĐH Stanford cũng như
University of California at Berkeley trao đổi hay gửi sinh viên sang học tại
ĐHQG Đài Loan.
[34]
Trong những bảng xếp hạng mới nhất (2004-2005) do nhiều đại học nghiên cứu, ĐH
Đông Kinh đã vọt lên hàng số 5, ĐH Bắc Kinh hàng số 8 trên toàn thế giới. ĐH
Hán Thành, ĐH Tân Gia Ba vào hàng 40-60, trong khi ĐHQG Đài Loan vào quãng số
101-120. Riêng về Khoa Học Xã Hội Nhân Văn, theo báo Sun Daily (Supplement) của
Anh, ĐHQG Đài Loan xếp hạng 4 ở Á châu, và 44 trên thế giới. Trích lại từ Đài Đại Hiệu
Tấn (National Taiwan University Newsletter), số 795 (08 June 2005).
Độc gỉa có thể thấy trong: http://www.ntu. edu.tw/sec/scinfo_asp/show.asp
[35]
Năm 1989 khi ghé Liên Sô (Mạc Tư Khoa và Leningrad), tôi thấy đa số các nghiên
cứu viên bận chuyện cơm ăn áo mặc nhiều hơn là nghiên cứu. Năm 1993, trở lại
Nga tham dự Hội Nghị Triết Học Thế Giới tại thủ đô xứ này, thì thấy là tuyệt
đại đa số không còn nghiên cứu, tuy vẫn lĩnh đồng lương chết đói (quãng 20.000
Rúp, tương đương với quãng 20 đô la Mỹ theo hối đoái lúc bấy giờ). Rất nhiêu cơ
quan nghiên cứu cho thuê phòng nghiên cứu để lấy tiền sống. (Một tòa nhà tại ĐH
Mạc Tư Khoa (Lomonosov, đại học số 1 của Nga) cho người Việt thuê để may các
quần Jean, Levi lậu). Các nhà nghiên cứu thì chạy lông rông, kiếm công việc phụ
trội. Có người trồng rau cỏ bán ở chợ. Xem ra rất thê thảm. Năm 1999 khi tôi
trở lại dạy một khóa tại ĐH Sư Phạm Lenin, tình hình nghiên cứu ở Nga đã cải
tiến khá nhiều. Tuy vậy vẫn còn xa mức độ lý tưởng. Sự thật là, nghiên cứu khoa
học không thể tách rời khỏi tình trạng kinh tế, tài chánh. Không có thực làm
sao vực được đạo? Tại Bắc Kinh, có đôi chút khác với Nga. Năm 1993 tôi được mời
sang nghiên cứu và dạy tại Sở Triết Học của Trung Quốc Xã Khoa Viện. Lúc bấy giờ, đa
số các học giả thích làm việc tại Xã Khoa Viện hơn. Lý do chính yếu vẫn là đồng
lương cao hơn, môi trường làm việc tốt hơn, và ít bị áp lực hơn. Muà Đông năm
1996, tôi sang dậy triết học tại ĐH Bắc Kinh, tình hình có nhiều thay đổi.
Những nhà nghiên cứu giỏi, có năng lực xin về dạy tại các đại học, đặc biệt các
đại học nổi tiếng. Lý do là đồng lương, điều kiện làm việc tại các đại học này
tốt hơn Khoa Học Viện và Xã Khoa Viện. Vào những năm gần dăy, được dậy tại các
đại học như Bắc Kinh là ước mơ của mọi người. Lý do là lương bổng của một giáo
sư (khoa Kinh Tế) tại ĐH Bắc Kinh lớn gấp 10 lần lương của nghiên cưu viên tại
các Trung Tâm Khoa Học (Khoa Học Viện hay Xã Khoa Viện), và họ được nhà nước và
xã hội trọng vọng hơn. Trợ cấp cũng như bổng lộc nhiều hơn.
[36]
Thí dụ như ĐH Caltech nghiên cứu về phi thuyền cho cơ quan NASA của Mỹ. ĐH
Rockerfeller được trợ cấp bởi các hãng (và cả ngân hàng Manhattan) do gia đình
Rockerfeller điều hành, ĐH Texas tại Austin được hãng dầu lửa của Texas trợ cấp
mỗi năm cả gần 300 triệu Mỹ kim, vân vân. Nhờ vào trợ cấp của các hãng này, mà
đồng lương của các giáo sư trong ngành kỹ nghệ, hay thuốc, dược, hay điện toán…
có thể lớn gấp 5 tới 10 lần đồng lương của các giáo sư trong ngành khoa học xã
hội và nhân văn (ít được trợ cấp).
[37]
Mỗi năm, các đại học Mỹ đều được đánh giá và xếp hạng, đại khái theo các chuẩn
mực sau: (1) Thành quả (đạt giải thưởng của ban giáo sư, sự thành công
của sinh viên tốt nghiệp, mức độ nghiên cứu theo lượng và phẩm), (2) mức độ gần
gũi giữa nhân viên giảng huấn và sinh viên (thí dụ tại Harvard mỗi 7
sinh viên thì có một nhân viên giảng huấn, trong khi tại 1 đại học Pháp, có lẽ
cả trăm sinh viên mới có một giáo sư), (3) tiêu chuẩn chọn lựa sinh viên (thí dụ
Harvard chỉ thu nhận 2074 sinh viên trong số 18.183 sinh
viên xuất sắc nhất của Mỹ; ĐH Georgetown nhận cũng quãng trên dưới
2000 sinh viên từ quãng 14.000 người sinh viên rất xuất sắc xin nhập trường),
(4) ngân sách, tình hình tài chánh của trường (Harvard có tới 13 tỉ Mỹ kim vốn
(quãng 200.000 tỉ bạc Việt nam), và hàng năm chi tiêu quãng 1 tỉ Mỹ kim (15.000
tỉ bạc), lớn hơn cả ngân sách của Bộ Giáo Dục Việt Nam), (5) cách tổ chức, địa
thế, các thiết bị (thư viện, phòng nghiên cứu, thí nghiệm, vận động trường thể
thao, xã hội gần trường… ). ĐH Harvard có đài thiên văn với viễn vọng kính gấn
như lớn nhất nhì thế giới. ĐH Stanford có lò nghiên cứu hạt nhân lớn thứ ba sau
Los Alamos (Trung Tâm Nghiên Cứu Quốc Gia) và CERN (của Aâu châu tại gần
Geneva). (6) Ảnh hưởng của ĐH trong xã hội. Càng quốc tế, càng được đánh giá
cao. Riêng tại Á châu, ĐH Đông Kinh cũng chi tiêu quãng 1 tỉ Mỹ Kim mỗi năm,
không kém Harvard! ĐH Đông Kinh có một thư viện gần 12 triệu sách, trong khi
ĐHQG Đài Loan, tuy nhỏ hơn ĐH Đông Kinh, cũng có 1 thư viện gần 5 triệu quyển
sách, một nông trại rất lớn với diện tích gần bằng 1% diện tích của Đài Loan,
một nhà thương nghiên cứu nổi tiếng nhất của Đài Loan (có lẽ vào hàng thứ 3 ớ Á
châu), và một ngân quỹ quãng 500 triệu Mỹ Kim mỗi năm.
[38]
Vào năm 1996 khi tôi sang dậy tại ĐH Bắc Kinh, đồng lương của một giáo sư ĐH
Bắc Kinh tương đương với đồng lương của nghiên cứu chính tại Viện Khoa Học (800
tới 1000 Nhân dân tệ). Lúc bấy giờ, chỉ lương do nhà nước quyết định. Gần đây,
các đại học lớn đã có thể tự quyết đinh lương bổng. Đồng lương tại ĐH Bắc Kinh
bao gồm 3 phần: (1) do chính phủ trả, (2) do ĐH trả, (3) do các hãng (cơ quan)
trợ cấp. Thí dụ lương của một giáo sư bạn của tôi (Giáo sư chính, kiêm Chủ
nhiệm Khoa) bao gồm (1) 4000 (chính phủ trả), 6000 (ĐH trả), và 2800 (do thu
nhập của hãng kinh doanh liên quan với khoa, và trường). Tổng cộng, lương của
anh bạn tới 12.800 Nhân dân tệ, lớn hơn cả lương của chủ tịch nhà nước. Chưa kể
các trợ cấp (một căn nhà 120 mét vuông, điện nước miễn phí hay với giá rất rẻ,
bảo hiểm xã hội và sức khỏe, trợ cấp gia đình, vân vân). Khi các giáo sư đủ
sống, họ sẽ nghiên cứu hay và tiến bộ hơn rất nhiều.
[39]
Có một thời gian (thập niên 1970-1980s), các đại học miền nam Đức như Muenchen,
Tuebingen, Freiburg, Heidelberg… từ chối không chấp nhận các văn bằng của các
đại học vùng bắc Đức như Berlin, Hamburg, Bremen… . Lý do là các đại học vùng
bắc Đức không chú trọng nghiên cứu, đào tạo sinh viên, và quá dễ dàng cấp phát
văn bằng. Các đại học này thường bị chính trị chi phối, hay quá mị dân. Nhiều
quyết định không do chuyên gia, nhưng theo đa số ý kiến của sinh viên. Sinh
viên do đó lộng quyền, can thiệp vào công việc nghiên cứu, đánh giá công trình
nghiên cứu, tham gia vào khảo hạch. Vào thời điểm này, nếu ai thường tham gia
biểu tình chống nhà nước, gia nhập đảng xã hội, chắc chắn sẽ thi đậu. Ngược
lại, người chăm chỉ hạt bột, hay chăm chú nghiên cứu khó có thể thi đậu. Sự
khác biệt giữa các đại học, cũng như giá trị của các đại học được xác định do
nghiên cứu. Thế nên, tại Mỹ, bằng cử nhân (BA) của Harvard, Yale, Princeton có
giá trị hơn bằng Tiến sĩ (Ph.D) của các đại học tầm thường. Tương tự, bằng cử
nhân của ĐH Tokyo vẫn sáng giá hơn bằng tiến sĩ của những đại học tầm thường
bên Nhật.
[40]
Chú ý là tự do nghiên cứu không bao gồm tự do hoạt động chính trị. Các đại học
Aâu Mỹ không tham gia hoạt động chính trị. Nhân viên đại học, sinh viên đại học
có quyền
tự do tham gia đảng phái, hoạt động chính trị nhưng với tư cách là
công dân và thường ở bên ngoài khuôn viên đại học mà thôi. Họ không được phép
nhân danh đại học để làm buôn bán, hoạt động chính trị, hay hoạt động vụ lợi
cho cá nhân họ.
[41]
Chính phủ tạo mọi thuận tiện để các đại học và các cơ quan nghiên cứu thu hút
nhân tài trên thế giới. Họ được cấp chiếu khán (mẫu riêng cho học gỉa), nhập
cảnh và cư trú một cách dễ dàng nếu được các cơ quan, hay đại học (bất luận
công lập hay tư lập) mời. Họ cũng có thể được nhập tịch, hay được cư trú vĩnh
viễn nếu làm việc ở Mỹ. Tại Đức, Aùo và Thụy Sỹ (trước đây), bất cứ ai được mời
làm giáo sư đại học ở 3 nước trên, có thể tự động nhập tịch biến thành công dân
nước họ.
[42]
Năm 2003, Chính phủ Bắc Kinh trợ cấp thêm cho ĐH Thanh Hoa và Bắc Kinh mỗi đại
học hàng trăm triệu nhân dân tệ. Năm 2005 quốc hội Đài Loan chấp nhận ngân qũy
50 tỉ Đài tệ (quãng 1 tỉ 7 dollars) trợ cấp thêm cho ĐH QG Đài Loan và một đại học thứ
hai trong 5 năm.
[43]
Tại Đài Loan có 156 đại học và học viện (thống kê năm 2005), trong đó 2/3 là
các đại học và học viện tư lập. Giáo hội Phật giáo có quãng 6 đại học (các ĐH
Nam Hoa, Phật Quang, Từ Tế, Huyền Trang, Hoa Phạm, Pháp Cổ) và 1 đương thành
lập (Nghĩa Dân); Giáo hội Tin Lành có 4 đại học (Đông Hải, Đông Ngô, Trung
Nguyên và Chân Lý), trong khi Giáo hội Công Giáo có hai đại học (Phụ Nhân, Tĩnh
Ỷ) và hai học viện. Ngoài ra, đa số các đại học tư lập là do các hãng kỹ nghệ,
hay kinh doanh, hay ngân hàng. Thí dụ, ĐH Viễn Trực do Hãng Viễn Đông, ĐH
Trường Cân do nhà đại kỹ nghệ Vương Vĩnh Kính lập, ĐH Trường Vinh do hãng
Trường Vinh (Eva Air và Evergreen) lập, ĐH Đại Đồng do hãng điện và điện tử Đại
Đồng lập, vân vân.
[44]
ĐH Stanford thường hạ cấp ĐH Harvard xuống với câu nói ”Harvard là Stanford ở
miền Đông Mỹ.” Harvard trả đũa với câu “Stanford là Harvard ở miền Tây Mỹ.”
[45]
Thí dụ như ở Đài Loan, 70% sinh viên tốt nghiệp từ các đại học tư lập. Đại đa
số những người này ở lại Đài Loan và phục vụ xứ sở của họ. Ngược lại, rất nhiều
sinh viên ưu tú của các đại học nhà nước sang Mỹ và ở lại làm việc cho nước
này.
[46]
Đồng lương của Giáo sư Lê Nguyên Triết lớn hơn đồng lương của tổng thống Trần
Thủy Biên. Tại Mỹ, mỗi giáo sư, tùy theo giao kèo với đại học, có đồng lương
khác nhau.
[47]
Ai cũng biết là Tân Gia Ba trả lương cho nhân viên nhà nước, cũng như giới giáo
chức còn cao hơn cả Âu Mỹ. Chính vì có một đồng lương tương xứng mà nhân viên
nhà nước, giáo chức không tham nhũng, và làm việc rất đắc lực. Chú ý, sự thâm
thủng ngân quỹ cũng như những chính sách sai lầm làm nhà nước phải trả một giá
rất mắc, mắc gấp trăm lần tổng ngân quỹ để trả lương cho nhân viên, giáo chức.
[48]
Vào đầu thập niên 1980s, trước thời cải cách, tăng lương giáo chức, tệ hại tham
nhũng tại Đài Loan khá trầm trọng. Nhân viên lấy cơ sở, phương tiện của đại học
để giao dịch hay làm chuyện tư nhân. Nhiều người làm buôn bán. Lại có những
người thông đồng với các hãng buôn để lấy thêm tiền. Thí dụ, thay vì báo cáo
tốn phí một tòa nhà cỡ 5 tỉ, họ sẽ báo cáo tới 10 tỉ; 1 cây bút chì giá 500
đồng Việt Nam, họ sẽ báo cáo giá gấp đôi hay ba lần. Hãng buôn, thầu, công ti
sẽ chia nhau số tiền tham nhũng với giới điều hành của trường. Có một thời
gian, các hiệu trưởng (từ tiểu học tới đại học) rất giầu, bởi lẽ họ có thể được
các hãng buôn, thầu khoán, công ti xây cất… trả lại 10% (một cách công khai)
tổng số mà họ thu nhập. Thí dụ, một tòa nhà giá 10 tỉ bạc, thì công ti xây cất
sẽ hậu hĩ ngài hiệu trưởng 1 tỉ (tức 10%). Thế nên, bất cứ ai cũng tranh chức
hiệu trưởng. Và công việc mà các ngài hiệu trưởngï thích nhất, hăng say nhất,
và đấu tranh quyết liệt nhất là tranh thủ tiền để xây cất các tòa nhà, lớp học,
sân vận động. Ít ai để ý đến học vấn! Để được nhà nước cấp tiền, các ngài tặng
quà cáp (tiền mặt trong bao giấy đỏ, còn gọi là hồng bao) cho nhân viên hữu
trách của nhà nước, hay cho các dân
biểu, nghị viên.
[49]
Max Weber, The
Protestant Ethic and the Spirit of Capitalism (New York: Charles
Scribner’s Son, 1951).
[50]
Hoàng Quang Quốc (Hwang Kwang-kuo), Nho Gia Tư Tưởng dữ Đông Á Hiện Đại Hóa
(Đài Bắc: Chủ Lưu, 1988). (Hoa ngữ); Peter Berger and Michael Hsiao, eds., In Search of
An East Asian Developmental Model (New Brunswick, N.J.: Transaction
Books, 1988).
[51]
Ngân quỹ tối thiểu cho giáo dục tại Đài Loan là 15%, không kể các chương trình
đài trợ nghiên cứu khoa học, văn hóa, thể thao. Ngân quỹ này được đảm bảo bởi
hiến pháp.