ĐỀ TÀI 2
LOAN BÁO TIN MỪNG CÁCH MỚI MẺ (Tân Phúc Âm hóa) DƯỚI CHIỀU KÍCH: GIÁO HỘI NHƯ
LÀ DÂN THIÊN CHÚA
Loan báo Tin
Mừng: một nhu cầu cấp bách của Giáo Hội trong thời đại hôm nay
Ước muốn sửa chữa lại tính cách
phiếm diện của hình ảnh Giáo Hội trong suốt 400 năm qua, Công đồng Vatican II
đã trình bày một Giáo Hội tồn tại trong hai khía cạnh, một đàng Công đồng tiếp
tục củng cố qui hướng Giáo Hội về nguồn gốc Thánh Kinh và Tông truyền của mình
và đàng khác Công đồng không quên nhấn mạnh đến tính chất hiện thực của Giáo
Hội trong một thế giới trần thế. Công đồng đã cố gắng làm sáng tỏ căn tính của
Giáo Hội như là “Dân Chúa” lữ hành. Trên con đường lữ hành này, Giáo Hội phải
nỗ lực chu tất sứ vụ của mình như là “bí tích cứu độ phổ quát” (LG 9),
có nghĩa là Giáo Hội phải làm thế nào để qui tụ mọi người vào trong Vương quốc
của Thiên Chúa Cha. Chỉ khi nào Giáo Hội đồng nhất với toàn thể nhân loại đã
được hòa giải, Giáo Hội mới thực sự tìm thấy căn tính trọn hảo của mình, tức
Giáo Hội phổ quát” (ecclesia universalis).
Vì vậy, Công đồng đã nhấn mạnh
đến bổn phận của Gáo Hội là phảiqui tụ vào chính mình “tất cả những ai
trọn niềm tin kính tìm đến Đức Kitô là tác giả của ơn cứu rỗi và
là nguồn mạch sự hợp nhất và bình an” (LG 9), để nhờ đó họ được
dự phần sự sống trong Vương quốc của Thiên Chúa. Bổn phận này bắt nguồn từ sứ
vụ mà Chúa Kitô trao cho Giáo Hội. Thật vậy, Chúa đã sai Giáo Hội đi vào thế
giới như ánh sáng cho trần gian và như muối cho đời (x. Mt
5,13-16), để qua Giáo Hội Chúa cứu chuộc nhân loại, làm cho họ trở thành con
Thiên Chúa, thành công dân Nước Trời. Vì thế, Giáo Hội ở trong Đức Kitô như là
bí tích, có nghĩa là dấu chỉ và khí cụ cho sự kết hợp mật thiết với Thiên Chúa
cũng như cho sự hợp nhất toàn thể nhân loại” (LG 1; x. LG 9).
Công đồng Vatican II đã minh
định: “Tự bản tính, Giáo Hội lữ hành là người được sai đi” (AG2).
Vâng, Giáo Hội được sai đi để mang ơn cứu độ đến cho hết mọi dân tộc, để tất cả
mọi người được nên một với nhau trong “Vương quốc Thiên Chúa”. Sứ vụ đó không
gì khác chính là loan báo Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo. Suốt chiều dài lịch sử
của mình, Giáo Hội luôn ý thức về nhiệm vụ này và đã không ngơi nghỉ cất bước
trên mọi nẻo đường, vượt nhiều gian khổ, tìm nhiều cách thế, để Tin Mừng được
loan báo đến khắp mọi nơi trên thế giới. Sự kiện Công đồng Vatican II được khai
mở là bằng chứng hùng hồn nói lên thao thức của Giáo Hội về nhiệm vụ loan báo
này. Công đồng đã chỉ ra con đường mang Tin Mừng đến cho nhân loại với nhiều chỉ
dẫn mới mẻ mang tính thời sự qua các Hiến chế và Sắc lệnh. Công đồng kết thúc
trong niềm hân hoan với hy vọng lớn lao: Giáo Hội sẽ không còn được nhìn tới
như thành lũy kiên cố lạc lõng giữa thế gian, nhưng sẽ là con đường “hiệp
thông của niềm hy vọng”, con đường nàynằm ngay trong đại gia đình nhân
loại. Chính trong con đường này các Kitô hữu làm cho nhân loại tìm thấy niềm
vui nơi Giáo Hội mãnh liệt hơn cái đau khổ họ đang chịu.[1]
Thế nhưng, 50 năm trôi qua, kể
từ ngày Công đồng Vatican II được khai mạc cho đến nay, xem ra con đường hy
vọng này như đang gặp vấn đề nan giải, được gọi là khủng hoảng đức tin, trước
tiên Giáo Hội đang đối diện với khủng hoảng của một cuộc đào thoát khỏi đức tin
công giáo, đặc biệt nơi các Giáo Hội Châu Âu và Mỹ Châu La Tinh, kế đến con số
những người chưa biết Chúa Kitô vẫn cao ngất ngưỡng? Có thể nói trên 80% nhân
loại không phải là Kitô hữu. Đâu là nguyên nhân của vấn đề? Con người ngày nay
đang đối diện với cám dỗ gạt bỏ Thiên Chúa rất mạnh. Với sự phát minh khoa học,
kỹ thuật và mức sống trở nên sung túc làm cho người ta xác tín rằng họ có thể
tự tay làm được mọi chuyện mà không cần đến Thiên Chúa, điều đó được coi như lý
do khách quan của vấn nạn khủng hoảng đức tin. Tuy nhiên, lý do chủ quan bắt
nguồn từ chính trong lòng Giáo Hội được coi như nguyên nhân chính của cuộc
khủng hoàng này: trong Giáo Hội người ta chỉ lo tìm cớ xào xáo nhau vì những
chuyện riêng tư thuộc đời sống Giáo Hội, không chú tâm đến chuyện làm thế nào
để diễn tả niềm tin của mình cho thế giới sao cho phù hợp với não trạng thời
đại hôm nay, và có thể nói gì với họ để họ có thể lắng nghe và dễ dàng đón
nhận. Vì thế, các cuộc tranh luận trong Giáo Hội hôm nay người ta càng ngày
càng ít đề cập đến nội dung đức tin, đến những đòi hỏi của đời sống đức tin,[2]để
rồi từ đó đưa tới hệ luận: người rao giảng thiếu tin tưởng vào sức mạnh của Tin
Mừng, và người nghe thiếu tin tưởng vào những người rao giảng Tin Mừng[3].
Đứng trước thách đố này, Đại hội
thường kỳ lần thứ XIII Thượng Hội đồng Giám mục - sẽ được tổ chức tại Vatican
từ ngày 7 đến 28 tháng 10 năm 2012, đã lấy chủ đề “Loan báo Tin Mừng cách mới
mẻ để truyền bá đức tin Kitô”. Qua bản Lineamenta, chúng ta đọc được mục đích
của Thượng Hội Đồng là nỗ lực thực hiện việc canh tân Giáo Hội “để đáp ứng
những thách thức mà xã hội và các nền văn hoá hôm nay, qua các thay đổi quan
trọng của chúng, đang đặt ra cho đức tin Kitô giáo, cho việc loan báo và
làm chứng đức tin ấy. Đối diện với những thách thức này, Hội Thánh không đầu
hàng hay thu mình; ngược lại, Hội Thánh thực hiện một kế hoạch tái tạo sinh lực
cho mình. Hội Thánh đặt Con Người Chúa Giêsu Kitô và sự gặp gỡ với Người vào
tâm điểm suy tư của mình, vì biết rằng Người sẽ ban Thánh Thần của Người
và cống hiến sức mạnh để loan báo và rao giảng Tin Mừng bằng những cách mới mẻ
để có thể nói với các nền văn hoá hôm nay”[4], và nhắc nhớ cho mọi Kitô hữu
“không bao giờ được từ bỏ sự bạo dạn trong việc loan báo Tin Mừng và tìm kiếm
mọi phương thức tích cực để mở ra những con đường đối thoại, ở đó chúng ta có
thể thảo luận về những mong đợi thâm sâu nhất của con người và lòng khát khao
Thiên Chúa của họ. Sự bạo dạn này cho phép chúng ta đặt đúng bối cảnh vấn đề về
Thiên Chúa qua việc chia sẻ những kinh nghiệm cá nhân của mỗi người trong việc
tìm kiếm Thiên Chúa và kể lại ân huệ được ban nhưng không trong cuộc gặp gỡ cá
nhân với Tin Mừng của Chúa Giêsu Kitô”[5].
LOAN BÁO TIN MỪNG CÁCH MỚI MẺ
KHỞI SỰ TỪ KHÁI NIỆM GIÁO HỘI NHƯ LÀ DÂN THIÊN CHÚA
Nói đến loan báo Tin Mừng cách
mới mẻ, thì cũng được hiểu Giáo Hội là cộng đoàn được Tn Mừng hóa. Thật vậy,
việc loan báo Tin Mừng của Chúa Giêsu được tiếp tục bởi một cộng đoàn bao gồm
những con người hoán cải do Tin Mừng. Cộng đoàn này đã lắng nghe Tin Mừng từ
lời loan báo của các Tông đồ, đã để Lời Chúa biến đổi trở thành những con người
mới. Nhũng con người trong cộng đoàn này liên kết với nhau bằng mối dây đức tin
và đức ái. Họ hiệp thông với nhau qua việc cùng nhau cầu nguyện, lắng nghe lời
giảng dạy của các Tông đồ, cùng nhau cử hành nghi lễ bẻ bánh, thi hành việc bác
ái (Tđcv 2,42-46). Tuy nhiên cộng đoàn hoán cải bởi Tin Mừng này “chỉ
thực sự mang trọn ý nghĩa khi cộng đoàn trở thành chứng tá, khơi dậy lòng thán
phục và sự trở lại thành lời loan báo Tin Mừng”[6]. Từ việc được Tin Mừng hóa,
Giáo Hội tiếp tục thực thi điều đã làm nên chính mình, tức là loan báo Tin Mừng
cho những con người đang sống ngoài Giáo Hội. Vì vậy, đối với Giáo Hội, Tin
Mừng hóa là đem Tin Mừng vào trong mọi cảnh vực nhân loại và nhờ sự tiếp xúc
này làm thay đổi tự bên trong, đổi mới chính nhân loại : ‘Này đây Ta tạo dựng
một vũ trụ mới, (Kh 21,5). Nhưng không có nhân loại mới, nếu trước tiên
không có con người mới, không có sự sống mới nhờ phép Rửa tội (Rm 6,4)
và do đời sống theo Tin Mừng (Ep 4,23-24). Vậy mục đích của việc Tin
Mừng hóa chính là sự thay đổi nội tâm đó, và nếu phải diễn tả một cách vắn tắt,
thì ta có thể nói một cách đúng đắn rằng Giáo Hội Tin Mừng hóa, chỉ khi nhờ sức
mạnh thần linh của sứ điệp mà Giáo Hội công bố (Rm 1,16), Giáo Hội tìm
cách hoán cải cùng lúc lương tâm cá nhân và tập thể của con người, hoán cải
sinh hoạt mà con người đang dấn thân, hoán cải đời sống và hoàn cảnh cụ thể của
họ”[7].
Như vậy, việc loan báo Tin
Mừngcách mới mẻ, không là nhằm thay đổi căn tính của Giáo Hội, nhưng là làm
sống dậy tính năng động nơi Giáo Hội, một cộng đoàn được Tin Mừng biến đổi để
trở thành men, thành muối cho đời. Vì là men, là muối, Giáo Hội luôn mang trong
mình một nội lực nhận lãnh từ Thánh Thần để tiếp tục biến đổi sao cho phù hợp
với sự phát triển không ngừng của thế giới về mọi lãnh vực khoa học kỹ thuật
cũng như xã hội nhân văn. Là men cho đời Giáo Hội luôn làm cho khối bột trần
thế ở bất cứ thời đại nào, đều có thể được dậy men Tin Mừng. Qua việc dậy men,
con người được biến đổi và được tháp nhập vào cộng đoàn cứu độ được gọi là Dân
Thiên Chúa. Ý thức về sứ vụ của mình, Giáo Hội tại Việt Nam cũng đã minh định
qua thư chung của Hậu Đại Hội Dân Chúa 2010: “thay vì coi truyền giáo chỉ như
một trong những hoạt động của Giáo Hội, thì nay cần nhìn sứ mệnh truyền giáo
như nắm men thấm nhập, khơi dậy và chi phối mọi khía cạnh đời sống Giáo Hội. Do
đó, cần dành mọi nỗ lực và hoạt động, từ vật chất đến thiêng liêng và mục vụ,
cho mục tiêu này”[8].
1- Như là Dân
Thiên Chúa, Giáo Hội là một cộng đoàn đức tin và đức mến
a- Giáo Hội – Cộng đoàn đức
tin: Giáo Hội là một cộng đoàn được Thiên Chúa qui tụ bao gồm những người
tin vào Chúa Kitô cũng có nghĩa là tin vào kế hoạch cứu chuộc của Thiên Chúa.
Và được coi như là thừa kế của cuộc tụ họp Dân Chúa trong Cựu Ước[9]. Quả thật,
Giáo Hội xuất hiện và tồn tại như một cộng đoàn tương quan với nhau qua cùng
một đức tin vào Thiên Chúa, là những người được chính Chúa Thánh Thần thúc đẩy,
hướng dẫn để có thể nhận biết Thiên Chúa. Chỉ trong Chúa Thánh Thần, Đức Giêsu
Kitô được mặc khải cho biết Người chính là Con Thiên Chúa, được Thiên Chúa Cha
gởi đến trần gian, Người đã hiến dâng mạng sống của mình, đã sống lại và được
đưa lên cao để mang lại sự sống cho nhân loại, đó là khởi điểm của đức tin kiến
tạo nên nguồn gốc của Giáo Hội.
Vì là do Thiên Chúa qui tụ, cộng
đoàn đức tin này vượt lên trên mọi tổ chức chính trị, không bị lệ thuộc vào bất
cứ một chi phối nào của bất cứ tổ chức trần thế nào. Giáo Hội được thừa kế sự
tự do của “người con” nơi Đức Kitô, vì vậy Giáo Hội “không bao giờ xuất hiện
như một phụ nữ nô lệ, sinh con ra để làm nô lệ. Giáo Hội là một phụ nữ tự do,
là Hiền thê của Đức Kitô, Đấng là vị Cứu tinh, là sự tự do nhập thể…. Giáo Hội
bao giờ cũng phải là một cộng đoàn của những người được giải thoát đang dấn
thân giải thoát mọi người, nhằm đáp lại ước mong của toàn tạo thành, mong được
tham dự vào sự tự do của con cái Thiên Chúa”[10].
Vì được dự phần vào sự tự do của
chức phận làm con, mọi Kitô hữu có sự bình đẳng thực sự, bình đẳng về phương
diện phẩm giá và hoạt động chung của mọi tín hữu để xây dựng thân thể Chúa
Kitô, Công đồng Vatican II đã minh định: “chỉ có một đoàn dân ưu tuyển
của Thiên Chúa: ‘Chỉ có một Chúa, một đức tin, một phép rửa’ (Ep
4,5); cùng chung một phẩm giá giữa các chi thể do được tái sinh trong
Đức Kitô, cùng chung một ơn là con cái Thiên Chúa và cùng chung một ơn
gọi hướng tới sự hoàn thiện; chỉ có một ơn cứu độ, một niềm hy
vọng và một đức ái không phân chia. Như thế, trong Đức Kitô và trong
Giáo Hội, không có sự bất bình đẳng do chủng tộc hay quốc gia, do
địa vị xã hội hoặc phái tính, bởi lẽ ‘không còn phân biệt Do thái
hay Hy lạp, nô lệ hay tự do, đàn ông hay đàn bà; nhưng tất cả anh em
chỉ là một trong Đức Kitô’. (Gl 3,28: bản Hy Lạp; x. Cl 3,11)”
(LG, 32). Vì vậy,“Người tín hữu không chỉ có đặc sủng vâng lời, nhưng
còn có các đặc sủng của hồng ân Thánh Thần làm cho họ có khả năng đóng một vai
trò tích cực vừa là chứng nhân trong thế giới, vừa thể hiện vai trò đó trong
chính cộng đoàn, mà nếu không có sự đóng góp của người tín hữu thì các chủ chăn
không thể thi hành phận vụ mình cách thích đáng được”[11]. Ngoài ra
Công đồng cũng đã nhấn mạnh đến đặc sủng không sai lầm: “Toàn thể
tín hữu được Chúa Thánh thần xức dầu (x. 1 Ga 2,20 và 27) không thể sai
lầm trong đức tin. Họ biểu lộ đặc tính ấy nhờ cảm thức siêu nghiệm về đức tin
của toàn thể dân Chúa, khi ‘từ các Giám mục cho đến người giáo dân rốt hết’[12]
đều đồng ý về những điều liên quan đến đức tin và phong hóa” (LG 12).
Tuy nhiên, trong sự bình đẳng
đó, Chúa Thánh Thần cũng mang lại những đoàn sủng khác nhauvà đa dạng trong
Giáo Hội. Chúa Thánh Thần phân phát các ân sủng đặc biệt của Người cho mọi cấp
bậc các tín hữu qua những cách thế khác nhau tùy theo ý của Người, “khiến người
nhận lãnh các đặc sủng ấy có đủ khả năng và sẵn lòng đảm nhận các công việc và
nhiệm vụ khác nhau nhằm mưu ích cho việc canh tân, xây dựng và phát triển Giáo
Hội” (LG 12). Trong khuôn khổ khác nhau của đoàn sủng, Công đồng đã nhấn
mạnh đến sự phân biệt về “Ân huệ khác nhau theo đoàn sủng và phẩm trật” (LG
4).Trước tiên đoàn sủng đó được ám chỉ tới “nhiệm vụ” hay “chức vụ”
(ministeria) được trao ban qua Bí tích truyền chức thánh nhằm phục vụ cho sự
hợp nhất Dân Chúa trong phương thế đặc biệt qua việc “giảng dạy, thánh hoá và
cai quản” (LG 32; x. LG 4, 7, 12, 18, 20, v.v….) đó chính là
nhiệm vụ của giám mục, linh mục và thầy phó tế. Qua các ngài, Chúa Kitô thể
hiện quyền bính của Người như là Đầu của thân thể hữu hình (LG 7, 10,
32;
Như vậy, cộng đoàn đức tin hình
thành hai mối tương giao: tương giao bình đẳng giữa các Kitô hữu qua bí tích
Rửa tội, tương giao hiệp thông phẩm trật qua bí tích Truyền chức thánh. Hai mối
tương giao này kiến tạo nên cấu trúc bí tích nơi Giáo Hội. Đây cũng là vấn đề
mà Giáo Hội luôn đối diện, vì ngay chính trong nội bộ Giáo Hội đã thường xuất
hiện những cơn sóng tạo ra sự căng thẳng trong mối tương quan giữa giáo sĩ với
nhau và với giáo dân phát xuất từ cấu trúc này, làm cản trở cho việc loan báo
Tin Mừng. Có khi người ta quá thiên về khái niệm giáo sĩ như một alter
Christus, nhấn mạnh đến quyền bính tạo ra mối tương quan tiêu cực giữa giáo sĩ
và giáo dân. Ngược lại, có nhiều người nại đến sự bình đẳng trong Giáo Hội làm
dậy lên trào lưu chống đối giáo sĩ, hoặc giáo sĩ hóa hàng ngũ giáo dân. Sự căng
thẳng này đã làm cho cộng đoàn đức tin đánh mất đi tính năng động trong việc
tìm kiếm cách thế tuyên xưng trước mặt mọi người đức tin đã lãnh nhận, cho dầu
vẫn luôn xác tín: tất cả mọi Kitô hữu có bổn phận phải loan truyền và bảo vệ
đức tin bằng lời nói và việc làm như những chứng nhân đích thực (LG 11).
Vì vậy, loan báo Tin Mừng cách
mới mẻ chính là canh tân và củng cố mối tương giao này, nhất là Giáo Hội địa
phương cần phải nỗ lực làm cho mối tương giao giữa chức “linh mục thừa tác” và
chức “linh mục cộng đồng của các tín hữu” thực sự trở thành mối tương giao qua
lại cần thiết cho việc loan báo Tin Mừng[13]. Việc canh tân này thiết nghĩ phải
được khởi sự từ hàng giáo sĩ, vì nếu quả thực Chúa Giêsu được trình bày như là
đầu của Giáo Hội cấu trúc bí tích, thì việc trình bày này chính là nhằm hiện
tại hóa sự phục vụ và trao hiến của Chúa Giêsu cho Giáo Hội. Khi Chúa Giêsu rửa
chân cho các môn đệ của Người, Người tỏ ra như “Chúa và Thầy” của các ông (Ga
13,13 – 15). Người cấm các môn đệ không được bắt chước thái độ của vua chúa
trần gian khi thi hành nhiệm vụ (Mc 10,41 – 45), Người muốn Giáo Hội của
Người và những người lãnh nhận nhiệm vụ của Giáo Hội phân định rõ ràng về quyền
bính của trần thế, và quyền bính của người môn đệ Chúa. Quyền bính của thế trần
không đồng hành với quyền bính của Chúa Giêsu, một quyền bính được biểu thị
bằng dấu chỉ của tình bằng hữu: “Thầy không gọi anh em là tôi tớ, nhưng Thầy
gọi anh em là bạn hữu” (Ga 15,13tt)[14]. Thánh Augustinô đã
trình bày mối tương giao giữa chức thánh và người Kitô hữu, để nói lên cấu trúc
Bí tích trong Giáo Hội luôn là lời mời gọi dấn thân phục vụ theo tinh thần của
Chúa Giêsu: “Điều tôi lo sợ, chính là tôi sống cho anh em, nhưng điều tôi được
an ủi, chính là tôi sống với anh em. Cho anh em tôi là Giám mục, với anh em tôi
là Kitô hữu. Giám mục là tên chức vụ, Kitô hữu là ân huệ. Giám mục là danh hiệu
nguy hiểm, Kitô hữu là danh hiệu có ơn cứu độ”[15].
Kết thúc Đại Hội Dân Chúa 2010,
Hội Đồng Giám Mục Viêt Nam cũng đã đưa ra đường hướng hành động để canh tân mối
tương giao giữa các thành phần trong Giáo hội như là công việc loan báo Tin
Mừng cách mới mẻ của Giáo Hội tại Việt Nam: “Đại Hội Dân Chúa mong muốn Giáo
Hội tại Việt Nam củng cố sự hiệp thông và tham gia trong đời sống Giáo Hội ở
mọi cấp bậc, tạo điều kiện để mọi thành phần Dân Chúa tích cực tham gia vào đời
sống và sứ vụ của Giáo Hội”,[16]và đề nghị “các giám mục nên quan tâm đồng
hành, lắng nghe và nâng đỡ các linh mục. Cũng trong tinh thần này, cần khích lệ
và cổ võ sự liên đới tương trợ giữa các giáo phận về nhân lực cũng như tài lực”[17].
Cộng đồng Dân Chúa hân hoan về đề nghị của Hội Đồng Giám Mục, bởi giáo dân Việt
Nam hằng thao thức về đời sống đức tin của mình, bằng chứng là tại các buổi cử
hành Phụng vụ, nhất là Thánh Lễ ngày Chúa nhật, các tín hữu luôn tham dự cách
đông đảo và nhiệt tình. Tuy nhiên, vẫn còn thiếu một cái gì đó để biến sự nhiệt
tình này thành những lời loan báo Tin Mừng sống động và hữu hiệu. Cái thiếu đó
có thể là sự khích lệ, sự cảm thông, sự quan tâm và lắng nghe phát xuất từ đức
ái đích thực của người mục tử?
b- Giáo Hội – một cộng đoàn
đức mến: Thánh Giacôbê đã nói: đức tin không có việc làm là đức tin chết” (Gc
2,17). Việc làm của đức tin được thánh Giacôbê xác định là hành vi bác ái yêu
thương, vì vậy, Giáo Hội: cộng đoàn đức tin cũng là cộng đoàn đức ái. Thật vậy,
Thiên Chúa đã qui tụ Dân Người, để Dân này loan báo kỳ công của Chúa. Kỳ công
đó không gì hơn chính là tình yêu thương khôn dò của Người. Việc loan báo này
một phần do chính Chúa Kitô ủy thác, một phần do bởi nguyên nhân hiện hữu của
mình, thánh Cyprianô đã trình bày Giáo Hội phát xuất từ sự hợp nhất của Chúa
Cha và Chúa Con cùng với Chúa Thánh Thần[18], hay như
sắc lệnh về Hiệp nhất Unitatis Redintegratio trình bày: “Mẫu mực và
nguyên mẫu tối cao của mầu nhiệm này (sự hiệp nhất Giáo Hội) chính là sự hiệp
nhất của một Thiên Chúa duy nhất trong Ba ngôi vị là Chúa Cha, Chúa Con trong
Chúa Thánh Thần” (UR 2). Theo đó, Giáo Hội bắt nguồn từ sự hiệp thông
Thiên Chúa, sự hiệp thông của một cấu trúc liên hệ đến tình yêu giữa ba ngôi vị
riêng biệt. Khi nói đến Mầu nhiệm Giáo Hội là nói đến việc Giáo Hội tham dự vào
đời sống của Tình yêu Thiên Chúa Ba ngôi trong Đức Kitô, Đấng sáng lập Giáo Hội
và trong Chúa Thánh Thần, Đấng soi sáng và hướng dẫn mọi người, Giáo Hội được
mời gọi và được tạo điều kiện trở thành hình ảnh và dấu chỉ, trở thành bí tích
của sự hiệp thông Thiên Chúa và sự hiệp thông nhân loại, không những trong hình
thức được hình thành bởi xã hội riêng biệt mà còn cả trong việc phục vụ cho
công cuộc hoà giải nhân loại và toàn thể tạo vật với Thiên Chúa (LG 1).
Quả thật, nhờ tác động của Chúa
Thánh Thần Giáo Hội trở thành một cộng đoàn đức ái, chứng nhân cho tình yêu của
Chúa Cha, Đấng muốn làm cho nhân loại trở thành một gia đình duy nhất trong Con
của Người. “Mọi hoạt động của Hội Thánh đều là sự biểu lộ một tình yêu muốn tìm
sự thiện toàn vẹn cho con người: Hội Thánh nỗ lực Phúc Âm hoá con người qua lời
và các bí tích - một công việc thường rất anh hùng khi thực hiện trong lịch sử
- và tìm cách phát triển con người trong những lĩnh vực khác nhau của cuộc sống
và sinh hoạt nhân văn. Như thế tình yêu trở thành việc phục vụ mà Hội Thánh
thực hiện để luôn đáp ứng với những đau khổ và nhu cầu kể cả những nhu cầu vật
chất của con người”[19].
Do đó, việc phục vụ bác ái
(diakonia) thuộc về bản chất của Giáo Hội, không thể giao phó cho một ai khác[20]. Việc phục vụ này trước tiên hướng đến người nghèo,
bởi họ là đối tượng hàng đầu trong việc phục vụ đức ái của Giáo Hội. Đây không
là hành vi phát xuất từ lòng thương xót do bởi cảm tính con người, nhưng nó
thuộc về căn tính của Giáo Hội được gọi là Giáo Hội của người nghèo. Gọi như
thế không phải là cường điệu hay mị dân, nhưng nó nằm trong chiều kích thần học
khi minh định rằng, qua bí tích Rửa tội, tất cả những người tin được trở nên
đồng hình đồng dạng với Đức Kitô, và vì vậy, Giáo Hội mang lấy tính xã hội và
lịch sử của “người con”, luôn lắng nghe và vâng phục Cha trong mọi sự. Có thể
nói, Giáo Hội đã mang lấy dáng vẻ của “người con” vì vâng phục bắt nguồn từ
tình yêu dành cho Cha, đã “hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ,
trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế” (Pl 2,7-8) để tỏ bày
tình yêu của Cha cho mọi người. Vâng, Đức Kitô đã mạc khải tình yêu của Thiên
Chúa qua sự nghèo khó trong tinh thần lẫn vật chất được biểu lộ trong đời sống
và cái chết của Người trên Thập Giá. Do đó, Giáo Hội chỉ có thể bày tỏ hình
dáng đích thật của Đức Kitô nơi chính mình, khi Giáo Hội thực sự trở thành
“đồng dáng vẻ” với những người mà Chúa Giêsu gọi là “những anh chị em nhỏ nhất”
của Người (Mt 25,40), và khi Giáo Hội thực sự là họa ảnh cách cụ thể của
Đức Kitô trong “dáng vẻ” nghèo khó, một dáng vẻ mà qua đó, Thiên Chúa đã thổ lộ
tình yêu siêu nghiệm của Ngài cho nhân loại.
Quả thật, tội đã phá hủy sự giàu
sang mà Thiên Chúa đã ban tặng cho con người qua công trình tạo dựng. Tội đã
làm cho con người nhận ra sự tràn truồng của mình (St 3,11), con người
chẳng còn gì, chỉ còn là một kiếp người mỏng dòn với thân phận bụi tro và phải
chết. Với một tình yêu khôn tả, Thiên Chúa đã “quay lại chống đối chính mình”[21]để giang rộng đôi tay ôm lấy con người với một thân
phận “trần truồng” nghèo khó chẳng còn gì. Được nên giống như Chúa Kitô, Giáo
Hội cũng ôm lấy nhân loại nghèo khó này như gia nghiệp của mình, ôm lấy để hiến
thân phục vụ hầu phục hồi “sự giàu có” cho họ.
Trong một thế giới phát triển
vượt bậc về khoa học kỹ thuật, điều kiện sống của con người xem ra được nâng
cao xứng hợp với phẩm giá, thế nhưng trong thực tế số người nghèo ngày một gia
tăng, và hố ngăn cách giữa giàu và nghèo ngày càng mở rộng. Vẫn còn đó những
nguyên nhân gây ra sự nghèo khó trong xã hội: - về khía cạnh vật chất: cuộc
sống dưới mức tối thiểu để có thể được gọi là đủ sống; - khía cạnh xã hội: kỳ
thị, cô độc v.v...; - khía cạnh thể chất và tâm lý: bệnh tật và tàn tật; - khía
cạnh chính trị: ức hiếp, bóc lột, cưỡng bức; - khiá cạnh đạo đức: bị ngăn cản
không được dự phần vào các sinh hoạt đời sống chung trong xã hội một cách thích
hợp (tội phạm, mại dâm, ma túy). Tất cả đều bắt nguồn từ một cuộc sống tham
lam, ích kỷ, cá nhân chủ nghĩa bởi một lương tâm vô cảm, chai lì không còn quan
tâm đến tha nhân như người anh em của mình nữa
Đối diện với thực trạng này, Giáo
Hội phải nỗ lực phục vụ để xóa bỏ hố sâu ngăn cách phù hợp với căn tính cộng
đoàn đức ái của mình. Giáo Hội không phải là một tổ chức chính trị, vì vậy việc
phục vụ của Giáo Hội không tạo nên sự căng thẳng của một cuộc đấu tranh chống
giai cấp, nhưng là kiến tạo một không gian sống đượm tình bác ái trong sự công
bằng, bởi bác ái sẽ không thể hiện hữu nếu không có công lý[22].
Nhưng kiến tạo sự công bằng đó như thế nào? Đức Bênêđictô XVI đã đưa ra chỉ
dẫn: “Hội Thánh không thể và cũng không được phép tham gia vào cuộc tranh chấp
chính trị để thực hiện một xã hội công bằng nhất. Mặc dù Hội Thánh không thể và
không được phép thay thế vị trí của Nhà nước, nhưng cũng không thể và không
được phép đứng bên ngoài cuộc đấu tranh cho công bằng. Hội Thánh phải dấn thân
vào cuộc đấu tranh này bằng con đường lý luận dựa theo lý trí và phải thức tỉnh
những sức mạnh tinh thần, vì nếu không có những sức mạnh này thì sự công bằng,
vốn luôn đòi hỏi sự hy sinh, không thể được thực thi và phát triển. Xã hội công
bằng không thể là công trình của Hội Thánh, nhưng phải được chính trị thực
hiện. Dù vậy, cố gắng để có được sự công bằng nhờ việc soi sáng nhận thức và ý
chí cho những đòi buộc của các điều thiện hảo là điều Hội Thánh rất tha thiết”.[23]
Như vậy, cuộc đấu tranh cho công
bằng của Giáo Hội chính là nỗ lực tìm mọi cách thế để giáo dục lương tri cho con
người. Công cuộc giáo dục này cần phải được các Giáo Hội địa phương tích cực
hành động bằng những chương trình cụ thể, các Giáo huấn xã hội của Giáo Hội cần
được khai triển và học tập trong các cộng đoàn Giáo xứ. Chương trình dạy giáo
lý không thể bỏ qua việc giáo dục lương tâm, ý thức về sự công bằng, và học hỏi
về các Giáo huấn xã hội của Giáo Hội, bởi giáo dục lương tâm ngay thẳng luôn
gắn chặt với việc giáo dục đức tin Kitô giáo. Đức tin chỉ có thể sống và lớn
lên trong một tâm hồn ngay chính, yêu sự thật và ghét bỏ gian tà. Có thể nó
được rằng, việc loan báo Tin Mừng cách mới mẻ coi những lãnh vực giáo dục này
là những “Sân của Dân Ngoại”: “giúp con người sống đầy đủ mục đích cơ bản hay
‘ơn gọi’ của họ giữa những đổi thay mà họ đang trải nghiệm, đó là đưa vấn đề
Thiên Chúa và đức tin Kitô giáo lên diễn đàn của con người thời nay, và coi
những lãnh vực này là quĩ đạo ở đó những con người được đào luyện để trở nên tự
do và trưởng thành, và đến lượt họ, họ có thể đưa vấn đề Thiên Chúa vào đời
sống, gia đình và nơi làm việc của chính họ”.[24]Đây
cũng là một trong những cách thế để nhân loại nhận ra Tin Mừng tình yêu. Trước
cảnh nghèo khó của bao người, chúng ta thử tìm câu trả lời cho vấn nạn sau:
“Giáo Hội, nàng có muốn là ‘Dân được chúc phúc’, không có một bảo đảm nào cho
nàng ngoài Đức Kitô: Một dân nghèo hèn, Dân sống chiêm niệm và kiến tạo hòa
bình, là người mang lại niềm vui và mở lễ hội trong niềm hân hoan giải phóng
đối với nhân loại, nhưng cũng có mối hiểm nguy đính kèm: bị bắt bớ vì sự công
chính không?”[25].
Như là Hiền Thê trung tín của
Đức Kitô, Giáo Hội tại Việt Nam luôn nhận ra được những hình thức mới của sự
nghèo khổ, bén nhạy trước những đổi thay của xã hội, và để kịp thời đáp ứng Hội
Đồng Giám Mục Việt Nam mong muốn các tín hữu của mình hăng say dấn thân phục vụ
cho công bằng xã hội, hầu giúp cho “những anh chị em còn phải chịu nhiều thiệt
thòi về kinh tế, xã hội cũng như văn hóa”[26] nhận được
sự quan tâm đặc biệt của Giáo Hội. “Các bệnh nhân, những người tàn tật, già
yếu, neo đơn, mồ côi, những thiếu nữ lầm lỡ, các tù nhân… cũng là những thành
phần cần được chăm sóc nhiều hơn trong các hoạt động mục vụ. Các cộng đoàn Kitô
hữu cần tìm cách thể hiện tình yêu thương phục vụ họ cách cụ thể, đồng hành với
họ trong những khó khăn của đời sống, giúp họ nhận ra được niềm vui của đức tin
khi được nên giống Đấng chịu đóng đinh và hoàn tất những gì còn thiếu trong cuộc
khổ nạn của Người vì Hội Thánh (x. Cl 1, 24)”[27].
Một trong những dấn thân phục vụ
để giảm bớt những khổ đau do sự túng thiếu nghèo khó mang lại, Hội Đồng Giám
Mục Việt Nam đã đề nghị: các cộng đoàn Kitô hữu, gia đình cũng như các đoàn
thể, giáo xứ cũng như các dòng tu, hãy hết sức quan tâm đến giáo dục, hỗ trợ
những học sinh nghèo, nâng cao trình độ học vấn của giới trẻ, dạy nghề cho giới
trẻ miền quê, đồng hành với giới giáo chức Công Giáo[28].
Nhất là “các giáo xứ cần quan tâm đến nền giáo dục đại chúng về lương tâm,
những giá trị nhân bản và văn hóa đối thoại, dưới ánh sáng Lời Chúa”[29]. Đây là hướng đi đúng đắn của Giáo hội Việt Nam, tuy
nhiên đâu là những chỉ dẫn để cho những đề nghị này thực sự trở thành phương
châm hành động thiết thực trong các chương trình sinh hoạt mục vụ của các Giáo
phận, Giáo xứ?
2- Như là Dân
Thiên Chúa, Giáo Hội là một cộng đoàn mang tính tương quan
Trọng tâm chính của nhiệm vụ
Giáo Hội là mang ơn cứu độ được Chúa Cha trao ban qua Đức Giêsu Kitô đến cho
hết mọi dân tộc để tất cả mọi người được nên một với nhau trong một đoàn dân
duy nhất, được gọi là Dân Thiên Chúa. Gọi như thế, nhằm nói lên mối tương quan
giữa Giáo Hội và Cha của Đức Giêsu Kitô, Đấng là nguyên khởi và hoàn tất công
trình tạo dựng. Là Dân Thiên Chúa, Giáo Hội luôn hướng tới phạm trù phổ quát
của ơn cứu độ, Giáo Hội ra sức mời gọi mọi người trên thế giới dự phần vào ơn
cứu độ. Công đồng Vatican II đã nỗ lực vượt qua mọi rào cản để tìm ra căn tính
đích thật của Giáo Hội như là Dân Thiên Chúa. Căn tính đó không còn được định
nghĩa từ chỗ phân biệt bởi sự khác nhau về các cách thế biểu lộ đức tin và từ
yêu cầu về tính cách độc tôn (exclusive) của Giáo Hội trong các trình bày thần
học. Giáo Hội đã bắt đầu đổi mới cái nhìn chính mình khi định nghĩa về mình qua
mối tương quan và qua sự phân định ranh giới giữa Giáo Hội Công giáo và
các Giáo Hội khác (LG 13 – 16).
Từ khái niệm Giáo Hội ưu việt
độc tôn (exclusive) của thời sau Công đồng Tridentinô, Công đồng Vatican II đã
đưa ra một suy tư mới về Giáo Hội: “Giáo Hội tương quan”. Giáo Hội như
là “Dân Thiên Chúa” trong chiều kích của mối tương quan khác nhau khởi đầu từ “trong”
rối đến “ngoài”, qua mối tương quan này Giáo Hội được cấu thành như một
chủ thể mang xã hội tính của đức tin (x. LG 8).
Nền tảng cho quan niệm mở rộng
của Giáo Hội Công giáo đối với các Giáo Hội khác nằm ở mối tương quan cánh
chung: Thật vậy, nếu Giáo Hội được nhìn một cách cụ thể trong chiều kích tương
quan tới Vương quốc Thiên Chúa trọn hảo, và nhờ đó Giáo Hội tìm thấy căn tính
của mình như là “Giáo Hội phổ quát” (x. LG 2), thì đồng thời cũng đòi
hỏi Giáo Hội phải tự vượt qua hình thức thuộc định chế mang tính riêng biệt, để
đặt mối tương quan với các hình thức khác, mà tâm điểm lịch sử của chúng có
tiềm ẩn mối tương quan với Giáo Hội Công giáo, từ đó khám phá rằng, ở nơi mỗi
con đường, các tín đồ cũng đang nỗ lực tìm kiếm chân lý bằng những cảm nghiệm
khác nhau, họ có cùng mục đích với Giáo Hội (Thí dụ: trong các Giáo Hội Kitô
khác, trong các tôn giáo và tín ngưỡng khác, ngay cả trong những người được gọi
là vô thần đang tìm kiếm ơn cứu độ một cách thầm kín)[30].
Bước đi này nhằm khẳng định đến căn tính của Giáo Hội không còn co cụm trong
cấu trúc phẩm trật, nhưng Giáo Hội mở rộng mối tương quan đến chiều kích toàn
cầu, nhằm biến đổi thế giới và đưa thế giới đạt tới
tình yêu giải phóng và cứu chuộc của Thiên Chúa. Nhờ đó mà căn tính của Giáo
Hội được tỏ hiện một cách rõ ràng. Thế nhưng, nếu Giáo Hội tìm thấy ý nghĩa
đích thực về chính mình trong chiều kích tương quan phổ quát, thì phải hiểu thế
nào về khái niệm Giáo Hội “công giáo”? Trước tiên phải hiểu cụm từ “công
giáo” được công đồng Tridentinô xử dụng nhằm phân biệt Giáo Hội Công giáo với
các Giáo Hội Cải cách (Tin lành), và với những người không công giáo, vô tín
ngưỡng, ngoại đạo, tà giáo, ly giáo. Công đồng Vatican II đã cố gắng điều chỉnh
lại khái niệm hẹp hòi này và đã trả lại ý nghĩa nguyên thủy của từ ngữ “công
giáo” thời các Giáo phụ.
Chính từ quan niệm này của Công
đồng đã vẽ ra một con đường loan báo Tin Mừng cách mới mẻ trong mối tương quan
với nhân loại qua đối thoại để cùng với họ, Giáo Hội thực thi ý muốn của Thiên
Chúa về việc kiến tạo hòa bình, xây dựng công lý, bảo vệ và tôn trọng sự sống.
Giáo Hội đích thật là Giáo Hội vừa con người, vừa Kitô, Đấng đã phục vụ cho hết
mọi người để mong sao mọi người trở thành công dân của Vương quốc Thiên Chúa.
Công đồng đã vạch ra con đường đối thoại không nhằm chiêu nạp tín đồ, để thuyết
phục, nhưng nói như Đức Bênêđictô XVI, đối thoại là “mở ra một thứ ‘Sân của Dân
Ngoại’ để người ta có thể một cách nào đó chạm tới Thiên Chúa đang khi còn chưa
biết Người và chưa đi vào được mầu nhiệm của Người, là mầu nhiệm được cử hành
bởi đời sống bên trong của Hội Thánh. Ngày nay, ngoài việc đối thoại liên tôn,
cần phải có một cuộc đối thoại với những người mà tôn giáo đối với họ là một
cái gì xa lạ, những người không biết Thiên Chúa nhưng không muốn sống là người
vô thần, trái lại muốn được lôi kéo đến gần Người, mặc dù họ không biết Người”[31].
Nhiều người công giáo, kể cả một
số nhà thần học hiểu lầm: khi trình bày Giáo Hội như là Dân Thiên Chúa – một
cộng đoàn mang tính tương quan, Giáo Hội cổ vũ cho việc đối thoại liên tôn như
một công nhận “Đạo nào cũng tốt”, hoặc đồng ý rằng người ta có thể thuộc về nhiều
tôn giáo khác nhau cùng một lúc (Multiple religious belonging), và coi các nhà
sáng lập các tôn giáo khác ngang hàng với Đức Kitô, hoặc là nghiêng theo chủ
nghĩa chiết trung (electicisme).Giáo Hội không bao giờ ủng hộ cho trào lưu
tương đối hóa tôn giáo, một trào lưu được mục sư Presbyterian Hoa Kỳ John Hick
ra sức cổ vũ qua đường lối đối thoại tôn giáo. Theo ông, “đối thoại phải là một
sự trao đổi giữa những lập trường ngang hàng với nhau, và như thế chúng sẽ có
liên hệ hỗ tương với nhau. Chỉ bằng cách này mới đạt được sự hợp tác và hợp
nhất tối đa giữa các tôn giáo khác nhau”[32]. Giáo Hội
kiên quyết loại trừ tư duy này. Bởi theo Giáo huấn của Giáo Hội, đối thoại tôn
giáo không là thỏa hiệp hay cào bằng chân lý. Chủ trương đối thoại tôn giáo,
Giáo Hội công nhận sự bình đẳng như là cách thế để tiến hành đối thoại, “chứ
không phải về nội dung giáo lý, càng không phải về địa vị của Chúa Giêsu Kitô -
Ngài là chính Thiên Chúa đã làm người - trong tương quan với các sáng lập viên
các tôn giáo khác. Thật vậy, Giáo Hội, được hướng dẫn bởi đức ái và lòng tôn
trọng tự do, trước hết phải dấn thân rao giảng cho các dân tộc chân lý do Chúa
đã dứt khoát mạc khải, và loan truyền sự cần thiết kết hợp với Giáo Hội qua bí
tích Rửa tội và các bí tích khác, ngõ hầu tham gia đầy đủ trong sự hiệp thông
với Thiên Chúa, Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần”[33].
Giáo Hội luôn kiên định về đức tin của mình, theo đó, “mạc khải về mầu nhiệm
cứu độ của Thiên Chúa đã được ban cho cách đầy đủ và trọn vẹn nơi Chúa Giêsu
Kitô”[34]. Người là trung gian cứu độ duy nhất. Chính
Người thiết lập Giáo Hội như một mầu nhiệm cứu độ: Người ở trong Giáo Hội và
Giáo Hội ở trong Người. Và vì vậy, chỉ có một Giáo Hội duy nhất do chính Chúa
Kitô thiết lập, Giáo Hội này được cấu tạo và tổ chức như một xã hội trong thế
giới ngày nay, tồn tại trong (subsistit in) Giáo Hội Công Giáo, được quản trị
bởi Thánh Phêrô và các Giám Mục hiệp thông với người[35].
Cổ vũ cho việc loan báo Tin Mừng
cách mới mẻ trong suy tư Giáo Hội – một cộng đoàn mang tính tương quan là mời
gọi mọi thành phần Dân Chúa dũng cảm nói về Thiên Chúa trong một xã hội đa tôn
giáo nhưng lại khước từ sự hiện hữu của Thiên Chúa Mạc khải. Chấp nhận đối chất
chứ không né tránh hay loại trừ ngay cả với những hình thức mới của chủ nghĩa
vô thần hay chủ nghĩa cực đoan muốn loại trừ Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống[36]. Để có được dũng cảm đó, trước tiên mọi thành phần
Dân Chúa phải thể hiện được sự đồng tâm nhất trí với nhau trong mối tương quan
anh em cùng một Cha trên Trời, loại những lo toan không sinh hiệu qủa ở những
vấn đề loanh quanh trong nội bộ Giáo Hội. Các Kitô hữu chúng ta phải thể hiện
sự hiệp nhất với nhau, để qua đó chúng ta dẫn Giáo Hội vào trong vùng trời rộng
lớn có nhiều năng lực, giúp người ta nhận ra dấu chỉ Nước Thiên Chúa trong thế
giới của chúng ta, và biến Giáo Hội trở thành dấu chỉ đó. Hãy để từ trong Giáo
Hội trổ sinh một niềm hy vọng mới. Chính bởi việc hiệp nhất, loại bỏ mọi bất
đồng để hòa giải với nhau mà các Kitô hữu cống hiến cho thế giới một đời sống
công lý, hoà bình, cuộc sống chung giữa các dân tộc và sự bảo vệ môi trường
“như là những nơi để chúng ta làm rõ vấn đề về Thiên Chúa trong đời sống con
người. Thật vậy, những điều này chỉ có được ý nghĩa đích thực nhất của chúng
dựa trên cơ sở của lời tình yêu mà Thiên Chúa ban cho chúng ta trong Con của
Người là Đức Giêsu Kitô”[37].
Có thể dùng những lời sau đây
của thầy Roger Schutz, người sáng lập cộng đoàn Taizé để thực hiện một cuộc hoà
giải trong Giáo Hội:
“Các bạn trẻ của tôi ở trong
thời đại có nhiều xâu xé và tranh chấp giữa con người xuyên qua cả Âu lục. Do
đó tôi tự hỏi: Tại sao có những cuộc tranh chấp giữa con người với nhau, ngay
cả giữa những Kitô hữu? Tại sao có những kết án mà không có sự cảm thông? Và
tôi cũng tự hỏi: Có chăng ở trên trái đất này một con đường dẫn đến việc hiểu
biết lẫn nhau? Tôi tự nhủ: con đường này có được khởi sự từ nơi chính anh, và
chính anh tự dấn thân để xây dựng con đường đó. Chính anh sẽ là nhịp cầu để tất
cả mọi người hiểu biết lẫn nhau”[38].
Giáo Hội tại Việt Nam cũng mong
muốn canh tân chính mình, để mình thực sự là không gian gặp gỡ Đức Kitô của mọi
người, một không gian được lan tỏa đức ái của Tin Mừng, đức ái biểu tỏ sự tôn
trọng, lắng nghe…. Hội Đồng Giám Mục Việt Nam khẳng định: “Trong bối cảnh của
xã hội Việt Nam, khi thi hành sứ vụ loan báo Tin Mừng, Giáo Hội cần đối thoại
với các tôn giáo, … và với những anh chị em không tôn giáo. Đây là cuộc đối
thoại từ trái tim đến trái tim nhằm xây dựng sự hiểu biết lẫn nhau và phục vụ
hạnh phúc đích thực của con người. Đó cũng là cuộc đối thoại phục vụ ơn cứu độ”.[39]
Kết : Như là Dân
Thiên Chúa, Giáo Hội trở thành dấu chỉ của niềm hy vọng
Đứng trước thực trạng hữu hạn
của mình đặc biệt là cái chết, để rồi nhìn về phía trước là một tương lai bất
định, âu lo và sợ hãi luôn khuấy động cuộc sống. Tương lai của tôi là gì và đâu
là niềm hy vọng của cuộc sống? Giáo Hội được Chúa thiết lập để trả lời cho
những vấn nạn này.
Thật vậy, sự sợ hãi và nỗi âu lo
là do bởi con người bước đi trong bóng đêm của tội, bởi tội làm cho con người
trở nên mù tối không còn nhận biết Thiên Chúa là nguồn mạch hạnh phúc. Đức Kitô
xuất hiện như Ánh sáng dẫn đưa con người ra khỏi bóng đêm của sự sợ hãi này.
Người trở nên niềm hy vọng cho chúng ta, ngoài Chúa Kitô không ai có thể mang
lại niềm hy vọng lớn lao cho nhân loại, vì niềm hy vọng đó là niềm hy vọng cứu
độ. Niềm hy vọng đó được tiếp tục chiếu sáng trong nhân loại qua việc Chúa
thiết lập Giáo Hội. Vâng, Giáo Hội là cộng đoàn phản chiếu ánh sáng của niềm hy
vọng này, trở thành biến cố của việc hiện tại hóa Chúa Giêsu Kitô và của ơn cứu
độ Người đối với nhân loại. Bởi đó, Giáo Hội trình bày niềm hy vọng cứu độ qua
việc loan báo cũng như qua các hoạt động của mình không đơn giản như là người
chỉ đường, nhưng như chính là con đường.
Vì thế, trong việc nỗ lực trình
bày cho con người về niềm hy vọng cứu độ, thì ngay chính Giáo Hội cũng đã là
một cộng đoàn cánh chung, một cộng đoàn đang chờ đợi sự trở lại của Đức Kitô
cách vinh quang trong tương lai, Cộng đoàn chờ đợi đó cũng đang chứa đựng nơi
chính mình sự trở lại của Đức Kitô trong hiện tại hôm nay. Hai nhãn quan “tương
lai” và “hiện tại” đó nói lên đặc tính Giáo Hội như là Dân Thiên Chúa: Dân của
niềm hy vọng.
Vì thế, Giáo Hội chỉ có thể tìm
đúng ý nghĩa thần học của mình khi kiến tạo mối tương quan giữa Vương quốc
Thiên Chúa đã hứa và đã đến trong Đức Giêsu Kitô với mọi người. Mối tương quan
đó được đâm chồi nẩy lộc nơi chính Đức Giêsu Kitô, vì chính Người mới là nguồn
hy vọng cho con người. Giáo Hội là không gian của cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu
và những con người đang khao khát nguồn ơn cứu độ, họ là những người như Maria,
Matta, họ có thể là Nicôđêmô đến gặp Chúa ban đêm, hoặc như là một phụ nữ
Samaria…Tất cả mọi người được kêu gọi đến với Chúa Giêsu qua những hình thức
khác nhau đều có thể đạt tới niềm hy vọng của Dân Thiên Chúa, bởi “Ai bị rung
động bởi tình yêu sẽ bắt đầu cảm nhận được “sự sống” thực sự là gì. Người ấy
bắt đầu cảm nhận ý nghĩa của lời hy vọng mà chúng ta đã gặp trong Nghi Thức Rửa
Tội: ở nơi đức tin tôi trông đợi “sự sống đời đời” – sự sống thật trong đó,
toàn thể và chắc chắn, trong trạng thái viên mãn nhất, thuần tuý là sự sống.
Chúa Giêsu, Đấng loan báo rằng Ngài đã đến để chúng ta được sống và sống trong
viên mãn, sống dồi dào (x. Ga 10,10), cũng đã giải thích với chúng ta ý
nghĩa của “sự sống”: “sự sống đời đời là họ nhận biết Cha, Thiên Chúa duy nhất
và chân thật, và nhận biết Đấng Cha đã sai đến, là Giêsu Kitô” (Ga
17,3). Sự sống trong ý nghĩa đích thực của nó không phải là một điều gì chúng
ta sở hữu độc quyền hay đến từ chính chúng ta: đó là một tương quan. Và sự sống
toàn diện là tương quan với Đấng là nguồn mạch của sự sống. Nếu chúng ta sống
trong mối tương quan với Ngài, Đấng không chết, Đấng chính là Sự Sống và Tình
Yêu, thì chúng ta ở trong sự sống. Khi đó chúng ta ‘sống’”[40].
Có thể nói cuộc gặp gỡ với Đức
Kitô giữa những người Công giáo và những người tin vào Chúa Kitô là hiện thân
cho định chế của Dân Thiên Chúa, một Dân bao gồm mối tương quan “thuộc
về”(pertineri) và “hướng về” (ordinari) của những tín hữu. Điều đó khẳng định:
cả hai chiều kích hình dáng “phổ quát” và “định chế” của Giáo Hội qui chiếu về
nhau, tạo nên “Bí tích cứu độ phổ quát”; cả hai giới thiệu cho nhau và cho
chính mình sự hiệp thông cứu độ của Vương quốc Thiên Chúa nơi con người. Đó
chính là dấu chỉ hy vọng của Vương quốc Thiên Chúa nơi trần gian này.
Để có trở thành dấu chỉ của
Vương quốc, Giáo Hội phải gieo hy vọng vào thế giới, đó chính là thực hiện việc
loan báo Tin Mừng cho nhân loại, bởi nhân loại cần có hy vọng để sống. Nội dung
của niềm hy vọng nàylà “Thiên Chúa, Đấng có bộ mặt con người và ‘đã yêu thương
chúng ta đến cùng’”[41]. Thế nhưng, công việc gieo vãi
như đang bị khủng hoảng do những nghi kỵ của người thời đại. “Đây là lý do
khiến chúng ta phải lặp lại lời kêu gọi thực hiện một cuộc loan báo Tin Mừng
cách mới mẻ, không chỉ như là một nhiệm vụ được thêm vào, nhưng là một cách để
phục hồi niềm vui và sự sống cho những hoàn cảnh bị tù túng trong sợ hãi.Vì vậy
chúng ta tiến bước vào cuộc loan báo Tin Mừng với tinh thần phấn khởi. Chúng ta
sẽ học được niềm vui dịu ngọt và an ủi của việc rao giảng Tin Mừng, cả khi việc
rao giảng xem ra giống như một hạt giống gieo trong nước mắt (x. Tv
126,6). “Chớ gì đối với chúng ta niềm vui này là một sự phấn khởi mà không một
ai hay một điều gì có thể dập tắt nổi. Chớ gì nó là niềm vui to lớn cho đời
sống tận hiến của chúng ta. Và chớ gì thế giới của thời đại chúng ta, một thế
giới đang đi tìm, đôi khi trong lo âu, đôi khi trong hi vọng, có thể nhận lãnh
Tin Mừng không phải bởi những người rao giảng chán nản, thất vọng, thiếu kiên
nhẫn hay lo âu, nhưng bởi những thừa tác viên Tin Mừng có đời sống cháy bừng
lửa nhiệt tình, những người đã nhận được niềm vui từ Đức Kitô trước, và sẵn
sàng hi sinh mạng sống để Nước Thiên Chúa được rao giảng và Hội Thánh được
thiết lập giữa thế giới.”[42]
Lm Antôn Hà Văn Minh
[1]X. Giám mục W.
Kempf, Fuer euch und fuer alle, Fastenhirtenbrief 1981,
[2]X. J. Ratzinger, Salz
der Erde, NXB Anstalt GmbH,
[3]X.Đức Hồng Y
Godfried Daneels, Trả lời phỏng vấn về vấn đề sống đạo tại Bỉ, tạp chí Trenta
Giorni,10.11. 2009, trang 25-31.
[4]Lineamenta,Thượng
Hội Đồng Giám Mục Thường niên lần thứ XIII, 5.
[5]Nt.
[6]Đức Phaolô VI,
Tông huấn Evangelii nuntiandi, 8.12.1975, 15.
[7]Nt, 18.
[8]Hội Đồng Giám Mục
Việt
[9]X. Giáo lý của
Hội Thánh Công Giáo, số 751.
[10]Bernard Haering
CSsR, Free and Faithful in Christ, Bản Việt Ngữ: Tự Do & Trung Thành
trong Đức Kitô, do Lm Dom. Nguyễn Đức Thông CSsR chuyển ngữ, NXB Tôn Giáo 2012,
Cuốn I, tr. 169, 170.
[11]H. J. Pottmeyer,
Der eine Geist als Prinzip der Einheit der Kirche in Vielfalt. Auswege
aus einer christomonistischen Ekklesiologie, trong: Pastoraltheologische
Informationen 5 (1985) Heft, tr. 278.
[12]Augustinô, De
Praed Sanct 14, 27: PL 44, 980.
[13]Giáo sư Thần học
về Giáo Hội học Medard Kehl nhận định: Công đồng Vatican II đã nỗ lực làm sáng
tỏ mối tương quan giữa chức “linh mục thừa tác” và chức “linh mục cộng đồng của
các tín hữu” trong LG 10 với cách trình bày rất dễ hiểu lầm: cả hai phân biệt
“chính yếu tínhvà không chỉ làcấp bậc”. Điều đó có nghĩa là gì?
Qua từ ngữ “không chỉ” cách nói này trước tiên đã nói đến một sự cách biệt về
cấp bậc trong việc tham dự chức linh mục của Chúa Giêsu, và như thế dẫn đến một
sự cách biệt trong chính bản chất Kitô hữu; hình như thánh chức linh mục dự
phần vào ân sủng của Chức linh mục Chúa Kitô nhiều hơn chức linh mục cộng đồng
của những người chịu Phép Rửa và chịu Phép Thêm sức và như thế chức linh mục
thừa tác đứng cao hơn chức linh mục cộng đồng trong trật tự cứu chuộc. Ngày nay
hầu hết các nhà thần học từ chối điều này, vì sự cách biệt về việc tham dự vào
ân sủng và ơn cứu độ không nằm trong ý nghĩa của Bí tích này. Theo cách khách quan
Bí tích Truyền chức thánh không ban cho người nhận lãnh một sự thánh thiện cao
hơn. Điều này rõ ràng ngược với tinh thần LG 32 về “một sự bình đẳng đích thật
giữa tất cả mọi người, một sự bình đẳng về phẩm giá”. X. M. Kehl, Die
Kirche?, Eine kathologische Ekklesiologie, NXB Echter, Wuerburg
1994, tr.113-114.
[14]X. H. Legrand, Die
Gestalt der Kirche, trong: P. Eicher (xuất bản), Neue Summe Theologie 3:
Der Dienst der Gemeinde,
[15] Augustinô, Sermo
340, 1 (= PL 38, 1483). Trích trong Lumen Gentium, 32.
[16]Hội Đồng Giám
Mục Việt
[17]Nt, 25.
[18]X. Cyprianô, De Orat. Dom.
23. PL 4, 553.
[19]Đức Bênêđictô XVI, Thông điệp Deus
caritas est, 25.12.2005, 19.
[20]X. Nt, 25.
[21]Đức Bênêđictô XVI, Thông điệp Deus
caritas est, 12.
[22]Đức Bênêđictô XVI, Thông điệp Caritas
in veritate, 29.06.2009, 6.
[23]Đức Bênêđictô XVI, Thông điệp Deus
caritas est, 28.
[24]Lineamenta, Thượng Hội Đồng Giám Mục Thế Giới lần thứ XIII, 21.
[25]Roger Schutz,Taiz und das Konzil der
Jugend,
[26]Hội Đồng Giám Mục Việt
[27]Nt.
[28]Nt, 37.
[29]Nt, 38.
[30]X. M. Kehl, Die Kirche, Eine
katholíche Ekklesiologie, NXB Echter, Wuerzburg 1994, tr. 94.
[31]Đức Bênêđictô XVI, Diễn văn Mùa Giáng
Sinh cho Giáo triều Roma và các Đại diện Giáo Hoàng 21.12.2009.
[32]Trích trong bài thuyết trình của ĐHY
Giuse Ratzinger (tức là Đức Đương Kim Giáo Hoàng Bênêđictô) trong buổi họp các
chủ tịch các Ủy Ban Tín Lý của các Hội Đồng Giám Mục Châu Mỹ La Tinh tại
Guadalajara, Mễ Tây Cơ, tháng 5, năm 1996, do Phạm văn Khôi chuyển sang Việt
ngữ,
nguồn: http://www.vietcatholic.net/News/Html/55802.htm.
[33]Thánh bộ Giáo lý Đức tin, Tuyên ngôn Dominus
Jeus, 6.8.2000, 22.
[34]Nt,6.
[35]Nt,16; Lumen Gentium, 8.
[36]Lineamenta, Thượng Hội Đồng Giám Mục Thường niên lần thứ XIII, 7.
[37]Lineamenta, Thượng Hội Đồng Giám Mục Thường niên lần thứ XIII, 7.
[38]Trích theo W. Schaeffer, Erneuerter
Glaube – Verwirkliches Menschsen, Zuerich 1983, 255.
[39]Hội Đồng Giám Mục Việt
[40]Đức Bênêđictô XVI, Thông điệp Spe
Salvi, 31.11.2007, số 27.
[41]Nt, 31.
[42]Đức Phaolô VI, Tông Huấn Evangelii
nuntiandi , 8.12.1975, 80.