HỘI THẢO THẦN HỌC - ĐỀ TÀI 3: LOAN BÁO TIN MỪNG CÁCH MỚI MẺ DƯỚI GÓC ĐỘ GIÁO HỘI NHƯ LÀ THÂN MÌNH ĐỨC KITIÔ [TÂN PHÚC ÂM HOÁ] (22/04/12, 10:19 am)

 

Dẫn Nhập

Như chúng ta đã biết, Thượng Hội Đồng Giám Mục lần thứ XIII, được Đức Bênêđictô XVI triệu tập, sẽ diễn ra tại Roma vào tháng 10, năm 2012 với chủ đề: “Tân Phúc âm hóa để thông truyền Đức Tin Kitô giáo” (Nova evangelizatio ad christianam fidem tradendam). Và chúng ta cũng biết rằng, trước đó, Đức Gioan Phaolô II đã giải thích trong những dịp viếng thăm mục vụ ở nhiều nơi trên thế giới, theo đó chúng ta đi đến một nhận định: Tân Phúc Âm hoá không phải là tìm kiếm hay giới thiệu một Phúc Âm mới, nhưng chính là nỗ lực loan báo Tin Mừng với cách diễn đạt mới, phương pháp mới, phong cách mới, cường độ mới, nhiệt huyết mới hay khí thế mới trước những thách đố mới của tâm thức và văn hóa thời đại.

 

Để tiếp tục buổi thảo luận hôm nay, đề tài được trình bày sau đây như là một cố gắng minh định phần nào điều muốn nói khi suy nghĩ về “Loan Báo Tin Mừng cách mới mẻ dưới góc độ Giáo Hội là Thân Mình Đức Kitô”. Đặt vấn đề như thế, bởi vì Giáo Hội vừa là “người rao giảng” vừa là “kết quả” của việc rao giảng, như các thuyết trình viên khác đã trình bày.[1] Và thiết nghĩ, theo hướng nhìn của Thượng Hội Đồng Giám Mục trong bản Đề Cương (Lineamenta), khi tìm kiếm phương pháp mới, thực sự đó chính là lúc chúng ta phản tỉnh về căn tính, tìm lại lý do về sự hiện hữu của mình, cũng như tìm ra cách thức mới để sống đức tin, để làm người Kitô hữu, để là Giáo Hội. Vatican II đã khẳng định: “Giáo Hội tự bản chất là truyền giáo”. Vậy Giáo Hội rao giảng Tin Mừng, nên Giáo Hội hiện hữu. Giáo Hội hiện diện giữa lòng thế giới là để “làm chứng cho ký ức sống động về Thiên Chúa của Đức Giêsu Kitô”.[2]

 

Như thế, chúng ta có thể khởi đầu bằng việc trở về với khái niệm truyền thống: “Giáo Hội là Thân Mình Đức Kitô”, mà chính Thánh Phaolô đề xướng (Ep 4:12; 5:23; 1 Cr 10:17; 12:27; Rm 12:15; Cl 1:24). Trở về với truyền thống, chúng ta thấy rằng Giáo Hội sơ khai đã tìm cách định nghĩa chính mình tiên vàn như một mầu nhiệm tương thuộc, đó là Thân Mình duy nhất của Đức Giêsu Kitô. Thân Mình này bao gồm tất cả những người có cùng một đức tin, nhận lãnh cùng một phép rửa, cùng được dự phần vào một thực tại Thánh Thể, và sinh động bởi một Thần Khí (1 Cr 10:16-17; 12:13; Ep 1:23). Giáo Hội sống bằng chính sự sống của Đức Kitô, vì Người là “Đầu” của toàn thân (Cl 1:15-18) và yêu thương toàn thân như bạn trăm năm (Ep 5:25-28). Do đó, chúng ta sẽ triển khai thành ngữ “Giáo Hội: Thân Mình Đức Kitô” trong bối cảnh của mầu nhiệm hiệp thông, mầu nhiệm vượt qua của Đức Kitô và niềm hy vọng cánh chung của Giáo Hội. Sau đó, chúng ta cùng trao đổi về những phương thức mới, phong thái mới: làm thế nào để có thể loan báo Tin Mừng hữu hiệu hơn, khả tín hơn và đáp ứng được những nhu cầu hay yêu sách đặc biệt của thế giới hôm nay?

 

1. GIÁO HỘI: THÂN MÌNH ĐỨC KITÔ và SỨ VỤ LOAN BÁO TIN MỪNG

 

Khi Thánh Phaolô định nghĩa Giáo Hội là Thân Mình Đức Kitô, trước hết là để nhận thức rằng: “như thân thể người ta chỉ là một, nhưng lại có nhiều bộ phận, mà các bộ phận của thân thể tuy nhiều, nhưng vẫn là một thân thể, thì Đức Ki-tô cũng vậy … tất cả chúng ta, dầu là Do-thái hay Hy-lạp, nô lệ hay tự do, chúng ta đều đã chịu phép rửa (được tái sinh)trong cùng một Thần Khí để trở nên một thân thể ” (1 Cr 12:12-13). Có thể nói, đây là một định nghĩa rất “năng động” và “trung thực”, một định nghĩa như muốn tôn trọng toàn vẹn chân tính Giáo Hội, bởi vì nhắm đến Giáo Hội như một thực tại quy tụ các Kitô hữu hiệp thông với Đức Kitô và với nhau trong một Thân Mình. Hơn nữa, khái niệm “Thân Mình Đức Kitô” không chỉ nói đến một cộng đồng các tín hữu địa phương, mà còn ám chỉ cả Giáo Hội phổ quát. Thật vậy, được thiết lập trong Máu Giáo Ước mới và vĩnh cửu của Đức Kitô, Giáo Hội được tràn đầy Thần Khí yêu thương của Người, để trở nên hiện thân của chính Người trong thế giới lịch sử, như bí tích cứu độ, dấu chỉ loan báo Tin Mừng “hiệp nhất giữa Thiên Chúa với con người cũng như giữa con người với nhau.”[3] 

 

Một Cộng Đồng Hiệp Thông loan báo Tin Mừng Hiệp Thông

 

Như thế, Giáo Hội là một Cộng Đồng hiệp thông, là công trình của Thiên Chúa để loan báo Tin Mừng hiệp thông. Trong nhiều hàm ý khác nhau mà thuật ngữ “hiệp thông” (koinonia) được sử dụng cho phù hợp với từng bối cảnh khác biệt của Tân Ước, ở đây chúng ta tập trung vào cách thức mà theo đó nói đến hiệp thông là nói đến trọng tâm căn tính, bản chất cũng như đời sống và sứ vụ rao giảng của Giáo Hội. Phát sinh từ mầu nhiệm “Hiệp thông Ba Ngôi”, Giáo Hội là một phản ảnh, một bằng chứng của mầu nhiệm hiệp thông tuyệt đối giữa Ba Ngôi Thiên Chúa. NhưLumen Gentium diễn đạt: “Giáo Hội phổ quát xuất hiện như một dân tộc được quy tụ do sự hiệp nhất giữa Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần”.[4] Vì thế, Giáo Hội có nguồn gốc từ trời cao, từ sứ mệnh của Ba Ngôi, là sáng kiến của Thiên Chúa. Chính từ trời mà Con Thiên Chúa đã nhập thể, “hoàn toàn trút bỏ vinh quang”, mặc lấy thân phận con người, “sống như người trần thế” (Pl 2:6-7), và tuôn đổ Thần Khí của Người vào lòng các tín hữu. Thần Khí ấy đã đi vào thế giới lịch sử, linh hoạt, làm cho nhân loại thuộc mọi chủng tộc và dân nước, mọi văn hóa, giai cấp và thời đại trở thành những chi thể của một Thân Mình, đến độ tất cả có thể gọi Thiên Chúa: “Abba, lạy Cha” (Rm 8,15 ; Gl 4,6). 

 

Hơn nữa, như Thân Mình hiệp thông với Đức Kitô và với nhau trong cùng một Thần Khí, Giáo Hội là cộng đồng hiệp nhất trong đa dạng. Hiệp nhất, vì chính Đức Kitô là Đấng đã phá đổ mọi bức tường ngăn cách giữa con người (Ep 2,14). Người là Đấng đã chết để quy tụ tất cả con cái Thiên Chúa về gắn bó với nhau trong một tương quan hoàn toàn mới (Ga 11,52 ; 17, 20 ). Tương quan đó bắt nguồn từ nguyên lý nội tại: “Chỉ có một Thân Mình, một Thần Khí…một Chúa, một đức tin” (Ep 4:1-6). Thế nên, hiệp nhất là đặc tính cấu tạo nên yếu tính của Giáo Hội, một Cộng Đồng được khuôn đúc theo hình ảnh Đức Kitô, “nhờ Người, với Người và trong Người” mà Thần Khí tràn lan trên các tín hữu. Không có hiệp nhất, phải chăng cũng chẳng có một Giáo Hội như ý muốn của Đức Kitô, vì hiệp nhất nằm trong chính định nghĩa về Giáo Hội. Thánh Phaolô, trong bối cảnh Hy Lễ Tạ Ơn, cũng đã tóm lược giáo lý đó:“Chỉ có một Tấm Bánh, và tất cả chúng ta chia sẻ cùng một Tấm Bánh ấy, nên tuy nhiều người chúng ta chỉ là một thân thể” (1 Cr 10:17). Và đây là điều kiện để Giáo Hội cùng sống, cùng rao giảng bằng sự sống, bằng sức mạnh duy nhất của Thần Khí, vì Người là “Linh Hồn” của Giáo Hội, là nền tảng để có chung cùng một đức tin, một đức ái và một niềm hy vọng .[5] Quả thật, bằng việc truyền thông Thần Khí của Người, Đức Giêsu đã thiết lập anh em Người, được triệu tập từ muôn dân, thành thân thể của Người cách mầu nhiệm”.[6]

 

Và nếu hiệp nhất là trạng thái kết hợp mật thiết và hài hòa với nhau, trở nên một trong nhau như huyền nhiệm sâu thẳm của tình yêu, thì đa dạng là chiều kích khai phóng sáng tạo của tình hiệp nhất. Như Vatican II khẳng định: “Giáo Hội do Chúa thiết lập được tổ chức và điều khiển theo nhiều lề lối khác biệt kỳ diệu”.[7] Trong ý nghĩa đó, thì đa dạng không phải là mâu thuẫn với đặc tính duy nhất của một Thân Mình, nhưng trái lại, xác minh tính chất phổ quát của một Giáo Hội trọn vẹn không phân chia, một Giáo Hội công giáo theo nguyên ngữ. Nếu có khác nhau, đó là sự khác biệt trong các nhiệm vụ, công tác, chức năng hay đoàn sủng: “Mỗi người chúng ta đã nhận được ân sủng tuỳ theo mức độ Đức Ki-tô ban cho… Và chính Người đã ban ơn cho kẻ này làm Tông Đồ, người nọ làm ngôn sứ, kẻ khác làm người loan báo Tin Mừng, kẻ khác nữa làm người coi sóc và dạy dỗ” (Ep 4:7, 11). Vì thế, đa dạng không phải là hạn chế, nhưng đúng hơn là phương thế thiết yếu làm sáng tỏ sự hiệp nhất của một cộng đồng tham gia, đồng trách nhiệm, cộng sinh, cộng tác và cộng sự: “nhờ đódân thánh được chuẩn bị để làm công việc phục vụ, là xây dựng thân thể Đức Ki-tô, cho đến khi tất cả chúng ta đạt tới sự hiệp nhất trong đức tin và trong sự nhận biết Con Thiên Chúa, tới tình trạng con người trưởng thành, tới tầm vóc viên mãn của Đức Kitô” (Ep 4:12-13). Chính ở đây mà tính đa dạng cũng nói lên sự phong phú vô hạn của Thần Khí, Đấng ban phát muôn vàn ân huệ khác nhau theo nhu cầu của các thừa tác vụ, ngõ hầu làm cho Giáo Hội được tăng trưởng: “Có nhiều hoạt động khác nhau, nhưng vẫn chỉ có một Thiên Chúa làm mọi sự trong mọi người. Thần Khí tỏ mình ra nơi mỗi người một cách, là vì ích chung” (1 Cr 12: 6-7; Rm 12:3; Gl 3:27-28).  

 

Một khía cạnh khác khiến chúng ta nói tới hiệp nhất trong đa dạng, đó là chiều kích “nhập thể” của Giáo Hội vào trong những môi trường, trong đó có những tình huống sống khác biệt về phương diện xã hội, văn hóa, chủng tộc, kinh tế, chính trị giữa các chi thể. Với tư cách là Thân Mình Đức Kitô, để tiếp nối sứ mạng của Người là phục vụ con người và thế giới, Giáo Hội “đến với muôn dân”, “sống giữa muôn dân”, hội nhập, mặc lấy những sắc thái khác nhau trong lối suy tư và hiện hữu liên quan đến cách thức Giáo Hội thể hiện chính mình và cuộc sống cộng đoàn của mình trong việc rao giảng Tin Mừng, trong mọi sinh hoạt mục vụ và cử hành phụng vụ, đồng thời cũng vì thế mà làm nổi bật bản sắc hay những gía trị cá biệt của từng địa phương, từng dân tộc của mọi nền văn hóa nhân loại. Tuy nhiên, phải nói rằng, dù có đa dạng hay khác biệt đến đâu đi nữa, thì tất cả, như Vatican II quảng diễn,“đều làm chứng cho sự hiệp nhất kỳ diệu của Thân Mình Đức Kitô; thực vậy, chính sự khác biệt về ân huệ, tác vụ và hoạt động lại là mối dây kết hợp con cái Thiên Chúa làm một, vì mọi sự đều là công trình của cùng một Thánh Thần duy nhất”.[8] Chính Thánh Thần thôi thúc và dẫn đưa Giáo Hội vào trong tình hiệp thông, vào công tác phục vụ. “Ngườihuấn luyện và dẫn dắt Giáo Hội bằng muôn ơn lành theo phẩm chức và đặcsủng, trang điểm Giáo Hội bằng hoa quả của Người”(Ep 4,11-12; 1Cor 12,4; Gal 5,22). Sự duy nhất và tính đa dạng trong Giáo Hội cũng như sự hiệp thông và cơ chế thừa tác đều bắt nguồn từ đó.

 

Suy tư hay gợi lại những khía cạnh căn bản về Giáo Hội là Thân Mình Đức Kitô như thế, chúng ta thấy rằng chỉ có thể tiếp nối sứ mạng của Đức Kitô trong sự hiệp thông với Giáo Hội, bằng cách loan báo tất cả Tin Mừng về một con người “toàn diện” như một huyền nhiệm duy nhất, vì Đức Kitô và Giáo Hội là “Đức Kitô toàn thể” (Totus Christus).[9] Giáo Hội là một với Đức Kitô. Giáo Hội làm chứng về một vận mạng chung, về một tình yêu hiệp thông hữu hiệu giữa mọi chi thể, như thế nói lên bản chất của Kitô giáo, làm cho Tin Mừng thực sự hiện diện trong thế giới. Sự hiệp thông giữa các thành phần của Giáo Hội với nhau và với Đức Kitô là dấu chỉ cho con người nhận ra được sự hiệp nhất giữa Người với Chúa Cha và Thần Khí. Và đó cũng là lý do tại sao vấn đề hiệp nhất giữa những người cùng niềm tin vào Đức Kitô lại là một trong những thách đố hàng đầu của công cuộc loan báo Tin Mừng. Đúng theo kế hoạch nhiệm mầu của Thiên Chúa thì Giáo Hội nhất thiết là bí tích hiệp thông, dấu chỉ và khí cụ hiệp nhất giữa con người, để rao giảng Tin Mừng hiệp thông, vượt qua mọi chia rẽ trong nhân loại.[10] Giáo Hội chỉ duy nhất, thánh thiện trong Thân Mình duy nhất của Đức Kitô, trong Thần Khí duy nhất của Thiên Chúa, và chỉ tông truyền khi trung thành với mệnh lệnh:“Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo” (Mc 16:15).

 

Thế nên, khi sự hiệp thông nơi Thân Mình Đức Kitô bị đổ vỡ, nhất là trong bối cảnh hôm nay của nhân loại, thì sứ vụ rao giảng trở thành một vấn nạn hơn là sứ điệp có sức mạnh khai mở dẫn tới niềm tin. Điều đó có ảnh hưởng quyết định đến tính khả tín của Giáo Hội là chủ thể loan báo: “Người ta cứ dấu này mà nhận biết anh em là môn đệ của Thầy… là anh em có lòng yêu thương nhau” (Ga 13:35). Vì vậy, tất cả nỗ lực truyền bá Phúc Âm, trước hết đòi hỏi Giáo Hội chú tâm tới ý nghĩa hiệp thông cũng như ý thức sâu xa về sự hiệp nhất giữa các chi thể trong một Thân Mình. Đặc biệt, hơn bao giờ hết, có thể nói chính xác, như Đức Gioan Phaolô II:“làm thế nào để Giáo Hội trở thành trường dạy hiệp thông và ngôi nhà cho hiệp thông cư ngụ” với tất cả hàm ý có liên quan đến mọi khía cạnh của đời sống Kitô, ngay cả việc cải cách về cơ chế.[11] Đó là cũng là điều mà Vatican II muốn minh định ngay trong đoạn mở đầu của Hiến Chế về Giáo Hội: “Trong Đức Kitô, Giáo Hội một cách nào đó, là bí tích, nghĩa là dấu chỉ và phương tiện kết hợp mật thiết với Thiên Chúa và hiệp nhất với mọi người … Nhân loại mà ngày nay đã liên kết với nhau hơn nhờ những liên hệ xã hội, kỹ thuật và văn hóa, cũng cần phải thực hiện sự hiệp nhất trọn vẹn trong Đức Kitô”.[12]

 

Thực tế lịch sử đã cho thấy Giáo Hội luôn đổi mới chính mình cũng như canh tân phương thức để cho sứ vụ loan báo Tin Mừng không bao giờ bị gián đoạn. Nếu bản chất của Giáo hội là hiệp thông, thì có thể nói, hiệp thông tự bản chất là truyền giáo, là truyền bá Phúc Âm. Như tất cả sứ vụ của Đức Kitô là hiến dâng mạng sống mình để chúng ta được nên một. Có thể nói như một tác giả hiện đại: “Điều rõ ràng là chỉ khi nào dân Thiên Chúa tự quy tụ lại với nhau thành một và đồng tâm nhất trí với nhau, lúc đó mới có thể thuyết phục được thế giới”.[13]Và như thế, Giáo Hội chỉ thực sự là một Thân Mình, khi Giáo Hội xác tín rằng mình đang được sai đi, tiếp nối Đức Giêsu Kitô đến với mọi người để xây dựng tình hiệp thông. Vì chưng “điều chúng tôi đã thấy và đã nghe, chúng tôi loan báo cho cả anh em nữa, để chính anh em cũng được hiệp thông với chúng tôi” (1Ga 1:3). Giáo Hội là dấu chỉ, là khí cụ, là người loan báo sự hiệp thông và qua hiệp thông diễn tả sự duy nhất của đức tin, để thế giới có thể tin (Ga 17: 21). Do đó, Giáo Hội không chỉ nói về Đức Kitô, mà còn “chỉ cho thấy” Người nữa (Ga 12:21). Chính nhờ vậy, Giáo Hội trở thành một địa điểm hội ngộ, hay một “Sân Chư dân” hiện đại theo kiểu nói của Đức Bênêđictô XVI, một không gian cho mọi người “muốn xem” và được mời gọi “đến mà xem”, đến để nhận biết và gặp gỡ Đức Kitô, để hoà hợp với Thân Mình của Người, đón nhận tình yêu và ơn cứu độ hiệp nhất của Thiên Chúa.

 

Một Cộng Đồng Vượt Qua loan báo Tin Mừng Phục Sinh

Mặt khác, với tư cách là Thân Mình Đức Kitô, Giáo Hội tưởng niệm và cử hành trong lịch sử Mầu Nhiệm Vượt Qua của Người. Chính trong “ký ức sống động”(Anamnesis) này mà cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Đức Kitô, như một biến cố cứu độ độc nhất và vĩnh viễn, trở thành “đồng thời” với cộng đồng cử hành. Như thế, Giáo Hội “đảm nhận các mầu nhiệm của cuộc đời Người, hiệp thông với những đau khổ của Người như thân thể hiệp thông với Đầu, cùng chịu đau khổ với Người, để cùng được tôn vinh với Người”.[14] Như trong Kinh Nguyện Tạ Ơn: “Xin thương cho tất cả những ai cùng chia sẻ một tấm bánh và một chén rượu này, được Chúa Thánh Thần liên kết thành một thân thể, và trở nên hy lễ sống động trong Đức Ki-tô để ca tụng Cha vinh hiển”.[15]Thật vậy, trong ý nghĩa “dâng lên” (Anaphora) của mọi lời Chúc Tụng, Giáo Hội được mời gọi dự phần vào số phận cũng như chia sẻ sứ mạng cứu thế của Đức Kitô. Vì Người “đứng hàng đầu trong mọi sự” (Cl 1:18), là Đấng Vượt Qua và Giáo Hội là các chi thể, nên hiện hữu của Giáo Hội cũng là một hiện hữu “Vượt Qua”, tham dự vào hành trình vượt qua từ sự chết đến sự sống. Là “Đầu” của toàn Thân Mình, Đức Kitô trở thành nguyên lý và là chuẩn mẫu tối hậu cho tất cả đời sống và sứ vụ của Giáo Hội. Vì thế, sự hiệp thông với Đức Kitô làm sáng tỏ hai chiều kích của bổn phận truyền bá Phúc Âm: đó là rao giảng dưới bóng Thập Giá và loan báo Tin Mừng Phục Sinh. Sống đức tin và thông truyền đức tin trở nên một kinh nghiệm duy nhất. Rao giảng Tin Mừng đồng nghĩa với loan báo Đức Kitô chịu đóng đinh và Phục Sinh “cho tới ngày Người lại đến” (1 Cr 11:26).

 

Trước hết, là Thân Mình của Đức Kitô tử nạn, Giáo Hội là một cộng đồng được sinh ra dưới chân Thập Giá, đi theo Thập Giá và rao giảng về Thập Giá (1 Cr 1:18). Thật vậy, qua trình thuật của Tin Mừng, chúng ta nhận ra tất cả cuộc đời của Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa làm người, đều quy hướng về Thập Giá. Vatican II đã mượn quan điểm của Augustinô để khẳng định: “Chính từ cạnh sườn của Đức Kitô yên nghỉ trên Thập Giá, đã phát sinh ra bí tích huyền diệu là Giáo Hội toàn thể”.[16] Trong Đức Kitô bị đóng đinh mà Thiên Chúa hoàn tất “kế hoạch yêu thương đã định từ trước”, đó là “qui tụ muôn loài trong trời đất” (Ep 1:9-10). Có thể nói, đây là một trong những khía cạnh nghịch lý, nhưng độc sáng nhất của mạc khải Kitô giáo mà dường như không ai dám chờ đợi, thậm chí không  thấy trong quan niệm của các tôn giáo. Như thế, Thiên Chúa của người Kitô hữu đã tự khải, tự tỏ hiện cách mãnh liệt, sâu thẳm và trọn vẹn nhất ngay trong những yếu đuối, khổ đau và cái chết, nghĩa là dưới những hình thái hoàn toàn xa lạ, ngay cả “đối nghịch” với những gì là thần linh siêu phàm (1 Cr 1:18-25). Tư tưởng của Thập Giá vốn là “điên rồ” và “ô nhục” dưới những con mắt trần gian, ngay cả đối với những cố gắng “hợp lý hoá” thập giá của con người trong lịch sử. Nhưng đó lại là “khôn ngoan” của Thiên Chúa (1 Cr 2:6-16; 14:18). Như chính Phaolô đã cảm nghiệm:“Thưa anh em, khi tôi đến với anh em, tôi đã không dùng lời lẽ hùng hồn hoặc triết lý cao siêu mà loan báo mầu nhiệm của Thiên Chúa. Vì hồi còn ở giữa anh em, tôi đã không muốn biết đến chuyện gì khác ngoài Đức Giê-su Ki-tô, mà là Đức Giê-su Ki-tô chịu đóng đinh vào thập giá” (1 Cr 2:1-2).

 

Trong ý nghĩa đó, nỗ lực loan báo Tin Mừng của Giáo Hội chắc hẳn không phải là công trình của những tâm trạng đắc thắng, hãnh tiến, chinh phục hay chiêu dụ tín đồ, nhưng là làm cho Phúc Âm về sự đau khổ của Thiên Chúa được sống động và hiện diện trong thế giới cách mới mẻ. Nơi nào Cộng Đồng tín hữu biết kết hợp chính mình “với cuộc Vượt Qua của Đức Kitô”, và trở nên giống như Người trong mọi nỗi gian truân, thiếu thốn, bị bách hại mà vẫn kiên vững trong niềm tin, nơi đó Tin Mừng sẽ được chiếu toả như hương thơm ngào ngạt (Ep 5:2), vì “Đấng Cứu Chuộc chúng ta đã tỏ cho thấy, Người cùng với Hội Thánh mà Người đảm nhận, là một người duy nhất” (Gl/ 795).[17] Hơn nữa, trong Mầu Nhiệm Vượt Qua, lịch sử của những nỗi khổ đau của nhân loại cũng là lịch sử của Đấng Vượt Qua. Người hiện diện với con người trong các khổ đau ấy, để vượt qua mọi đau khổ và giúp con người khám phá ra giá trị cao cả của các đau khổ được hiến dâng trong tình yêu. Chỉ có tình yêu mới đem lại ý nghĩa và hướng đi cho đau khổ. Phải chăng bỏ qua Thập Giá là đánh mất bản chất của Kitô giáo.[18] Thập Giá trở thành Tin Mừng về sự đau khổ của Đấng đã yêu thương con người “như thế đó” (Ga 3:16) vì đã gánh lấy mọi khổ đau và biến khổ đau thành của mình.

 

Thứ đến, Giáo Hội rao giảng Phúc Âm dưới bóng Thập Giá còn có nghĩa là một cộng đồng nghèo khó lắng nghe tiếng kêu cứu của người nghèo khổ, những ai bị bỏ rơi và cô thân cô thế của thế giới như “tiếng kêu của Thiên Chúa”. Đó là một cộng đồng làm trổ sinh hoa trái nhờ bổ khuyết “trong thân xác mình những gian nan thử thách Đức Kitô còn phải chịu” (Cl 1:24), và như thế có khả năng làm cho những người khôn ngoan, quyền thế trần gian phải bẽ mặt. Như Đức Kitô chịu đóng đinh, Giáo Hội đi tới tận cùng sự nghịch lý của cuộc đời và không ngần ngại đồng hóa mình với tất cả những ai vô tội bị trao nộp cách bất công, bị đóng đinh trong lịch sử (Mt 25:35-40; Cv 9:4). Không một tình huống nào, nhất là trong đó có sự tha hoá vì lầm than nghèo đói, bị áp bức, bị loại trừ và khinh chê mà Giáo Hội lại có thể tỏ ra xa lạ hững hờ. Giáo Hội hiện diện đích thực cũng như đích thân liên đới với những con người ấy. Giáo Hội nhất thiết là một Cộng Đồng dấn thân phục vụ “tình yêu và công lý” để giao hoà “công lý với tình yêu”, không vì tìm kiếm lợi lộc như những kẻ có quyền lực của thế gian, nhưng đứng về phía người bé mọn, nhân danh sự tự do của mình, không thoả hiệp, nhưng lên tiếng trước các thế lực bóc lột khai thác con người. Bởi vì Giáo Hội cũng luôn bị bách hại vì muốn sống triệt để Tin Mừng (Mt 10:16, 18,19, 20), và bị ngược đãi bởi những thế lực đối nghịch với Tin Mừng Thập Giá (Pl 3:18). Nhưng thiết nghĩ, lời rao giảng về Thập Giá lại cho chúng ta thấy chính trong sự nghèo khó, yếu đuối và bóng tối khổ đau của thế giới mà Giáo Hội tìm gặp Thiên Chúa cũng như chân tính của mình.   

 

Như vậy, khi loan báo Tin Mừng dưới dấu chỉ Thập Giá, Giáo Hội đồng hành với con người trong mọi trạng huống, dâng lên Thiên Chúa những lời van xin đầy nước mắt của những cuộc đời không được nhìn nhận hay bị đẩy ra ngoài lề cuộc sống giữa một thế giới còn hằn sâu bóng tối của sự chết và lòng ích kỷ. Có thể, như Đấng bị “đóng đinh”, Giáo Hội bị “bó tay”, chẳng làm được gì đi nữa, chỉ biết tin mà không thấy, chiến đấu trong niềm hy vọng, nhưng không đạt được kết quả trước mắt. Trong tình cảnh như thế, dựa vào khía cạnh “khôn ngoan và điên dại” của Thập Giá Đức Kitô, có thể chính những bàn tay bị “đâm thủng”, trái tim bị “đâm thâu”, hay con người bị “giương lên trên Thập Giá” lại có thể rao giảng Tin Mừng chân thực hơn, có sức mạnh “lôi kéo mọi người” hơn, vì chẳng còn điều gì “khả tín” khác ngoài Tình Yêu và Thiên Chúa. Phải chăng có một cách thức rao giảng, tuy cổ xưa, nhưng vẫn còn hữu hiệu, đó là tình yêu: “nhẫn nhục, hiền hậu…không tự đắc…nhưng vui khi thấy điều chân thật…tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, hy vọng tất cả, chịu đựng tất cả” (1 Cr 13:4-7). Và như vậy, chỉ có tình yêu mới đáng tin. Đây cũng là quan điểm của Đức Bênêđíctô XVI, lúc còn là Bộ trưởng Thánh bộ Giáo lý Đức tin, về truyền bá Phúc Âm với cách thức mới:“Đức Giêsu đã không cứu độ thế giới bằng những lời có cánh, nhưng bằng chính cuộc khổ nạn và cái chết của Người. Cuộc khổ nạn mang cho Lời của Người sức mạnh. Lời được gieo vào lòng đất phải chết đi mới trổ sinh bông hạt, đó là điều căn bản cho Tân Phúc Âm hóa”.[19] Ở đây, chúng ta có thể thấy cuộc đời rao giảng của Phaolô là một chứng từ rất đáng suy nghĩ, vì “sự thành công trong sứ vụ của người không phải nhờ vào tài hùng biện hay khả năng mục vụ khôn khéo; nhưng những hoa trái đó gắn liền với những đau khổ, trong sự liên đới với cuộc khổ nạn của Đức Kitô” (1 Cr 2:1-5; 2Cr 11:30; Gl 4:12-14). Nghịch lý thay, biết đâu chính những tình huống khó khăn, đầy thách đố, nơi có sự chống đối Tin Mừng và ngược đãi với người rao giảng lại là mảnh đất chờ đợi Tin Mừng được rao giảng cách mới mẻ, sẽ đâm rễ sâu và trổ sinh nhiều hoa trái. Qua bao thế kỷ, lời của Giáo Phụ Tertulianô vẫn còn hữu lý và đáng trân quý: “Máu của các vị tử đạo là hạt giống nảy sinh ra người Kitô hữu”. Như vậy truyền bá Phúc Âm có nghĩa là dự phần vào số phận của người Tôi Tớ đau khổ của Thiên Chúa.

 

Thế nhưng, tiếp theo lời rao giảng về cuộc khổ nạn của đức Kitô là lời loan báo mà thế giới không thể ngờ được:“Con Người sẽ sống lại” (Mc 8:31;9:31; Mt 16:21; Lc 9:22). Nếu cái chết là tiếng nói cuối cùng của lịch sử Đức Giêsu Kitô, thì quả thật không còn gì để rao giảng. Mọi nỗ lực tiếp nối Người công trình cứu độ và hiệp nhất muôn người, nói cho cùng đều vô vọng, nếu không muốn nói là vô nghĩa. Phục Sinh cho thấy ý nghĩa cứu độ và vinh quang của Thập Giá. Như câu nói mạnh bạo của Phaolô:“Nếu Đức Kitô không trỗi dậy, thì lời rao giảng của chúng tôi là trống rỗng, và cả đức tin cũng trống rỗng” (1 Cr 15:14-15). Vì vậy, lời rao giảng của Giáo Hội luôn duy trì cùng một lúc ngôn từ của Thập Giá và sứ điệp Phục Sinh. Đây có thể nói là trương lực tạo nên sức năng động của niềm tin Kitô giáo. Chính Thập Giá là mạc khải về một tình yêu “cho đến cùng” (Ga 3:16; 13:1), mãnh liệt nhất, “mạnh mẽ hơn cả tử thần” (Dc 8:6), và như thế nói lên chiến thắng quyết định, trọn vẹn của quyền lực Sự Sống trên Sự Chết. Đó là lý do khiến Phaolô đã lấy mầu nhiệm Phục Sinh của Đức Kitô làm khởi điểm và tâm điểm cho ý nghĩa của lời rao giảng về Thập Giá:“Chúng tôi bị dồn ép tư bề, nhưng không bị đè bẹp; hoang mang, nhưng không tuyệt vọng;bị ngược đãi, nhưng không bị bỏ rơi; bị quật ngã, nhưng không bị tiêu diệt. Chúng tôi luôn mang nơi thân mình cuộc Thương Khó của Đức Giêsu, để sự sống của Người được biểu lộ nơi thân mình chúng tôi” (2 Cr 4: 8-10). Đây cũng là hướng nhìn của Hiến Chế Tín Lý về Giáo Hội: “Ðang khi còn là lữ hành trên mặt đất, bước theo vết chân Người trong đau thương và bách hại, chúng ta cùng thông hiệp với những đau khổ của Người như thân thể kết hợp với đầu, với sự thương khó của Người để được cùng Người vinh hiển”.[20] Thật vậy, là Thân Mình Vượt Qua của Đức Kitô, Giáo Hội “cùng chịu chết” với Người, ngõ hầu được “cùng Người trỗi dậy” (Rm 6:7) và làm chứng nhân cho Tin Mừng Phục Sinh.

 

Có thể nói, sự phục sinh vừa là biến cố xảy ra nơi Đức Kitô, đồng thời vừa là biến cố xảy ra nơi các môn đệ, vì chính biến cố đó đã trở nên sứ điệp làm biến đổi tận căn con người và cả cuộc sống của những kẻ tin vào Người. Giáo Hội luôn xác tín rằng những gì Đức Kitô Phục Sinh đã hứa đều nhờ Thần Khí mà được thực hiện nơi Thân Mình của Người. Vì khi làm cho Đức Kitô trỗi dậy từ cõi chết, Thiên Chúa “đã đặt tất cả dưới chân Người và đặt Người làm đầu toàn thể Hội Thánh; mà Hội Thánh là thân thể Đức Ki-tô, là sự viên mãn của Người, Đấng làm cho tất cả được viên mãn” (Ep 1:22-23). Trong viễn tượng này, loan báo Tin Mừng Phục Sinh là thông truyền kinh nghiệm sống động về Đức Kitô (1Cr 15). Đó là kinh nghiệm gặp gỡ tiếp xúc với Đấng Phục Sinh đang sống, đang hiện diện và tác động lên hiện tại nơi Thân Mình Giáo Hội. Người “là khởi nguyên, là trưởng tử trong số những người từ cõi chết sống lại” (Cl 1:18). Việc “Phục sinh từ trong cõi chết” như thế, không chỉ dọi ánh sáng vào quá khứ nhưng còn mở ra một thực tại mới mẻ, một tương lai cứu độ cánh chung là hiệp nhất mọi người vào trong một Thân Mình. Các tín hữu sơ khai đã trở thành chứng nhân về cuộc gặp gỡ với Đấng Phục Sinh, một gặp gỡ luôn ghi dấu trong đời họ như là gặp được tình yêu và sự sống đích thực. Sự sống và tình yêu mà các tín hữu đã lãnh nhận chính là Thần Khí và ơn tha thứ của Đức Kitô Phục Sinh. Người là Đấng mở đường khai lối, sát nhập họ vào Thân Mình của Người, và làm cho họ được tái sinh, đuợc sống bằng sự sống mới là chính sự sống tròn đầy trong tình yêu hiệp nhất với Người. Vì thế, họ vui mừng chịu đựng mọi thử thách vì Tin Mừng, “lòng hân hoan bởi được coi là xứng đáng chịu khổ nhục vì danh Đức Giê-su”(Cv 5:41). Không một quyền lực thế gian nào có thể dập tắt được sức sống và niềm vui của tình yêu hiệp nhất đó. Họ “chuyên cần nghe các Tông Đồ giảng dạy, luôn luôn hiệp thông với nhau, siêng năng tham dự lễ bẻ bánh, và cầu nguyện không ngừng ...Họ đồng tâm nhất trí ... với lòng đơn sơ vui vẻ ... ca tụng Thiên Chúa, và được toàn dân thương mến. Và Chúa cho cộng đoàn mỗi ngày có thêm những người được cứu độ”(Cv 2: 42-47).

 

Nếu như thế, lời rao giảng của Giáo Hội, được biến cố Phục Sinh bảo đảm, chỉ có thể được diễn tả dưới hình thái “khả tín” như một sứ điệp đem lại niềm vui chứ không phải nỗi buồn, lời của ân sủng chứ không phải tội lỗi, của tình yêu thứ tha chứ không phải đe doạ hận thù, của sự sống chứ không phải sự chết, vì con người luôn vĩ đại hơn những khổ đau trong đời và không nhất thiết phải kết thúc trong bất công khổ sầu. Dù thế nào đi nữa, cách thức rao giảng hữu hiệu nhất vẫn là cách thức của tình yêu, nhất là tình yêu thông hiệp vào sự sống của Đấng đã “hiến dâng” mạng sống mình để mở ra con đường cứu độ, chữa lành và giải thoát nhân loại. Vì là Đấng Phục Sinh, Người không thuộc về quá khứ, nhưng là hiện tại hôm nay, đang sống và hoạt động nơi Thân Mình của Người. Vậy nếu Mầu Nhiệm Vượt Qua là lịch sử của Đức Kitô, thì đó cũng là lịch sử của Giáo Hội dấn thân trên hành trình truyền bá Phúc Âm. Là “Đấng Sáng Lập,” là vị “Thủ Lãnh”, “Đấng khơi nguồn sự sống” (Cv 3:15), Đức Kitô đã tự hiến chính mình cho các chi thể được sống và trở nên Thân Mình biết hiến dâng tình yêu và sự sống cho mọi người. Và điều này đem lại nhiều hệ quả quan trọng cho sứ mạng của Giáo Hội trong thế giới hôm nay: vui mừng và hy vọng.

 

Một Cộng Đồng Cánh Chung loan báo Lễ Hội Nước Thiên Chúa

Một hình ảnh thích hợp nữa được sử dụng để diễn tả tương quan mật thiết giữa Đức Kitô và Giáo Hội, giữa “Đầu” với các chi thể là hình ảnh hôn ước (Ep 5:22-23). Chính Đức Kitô cũng đã tự ví mình như “Chàng Rể” (Mc 2:19; Mt 22:1-14; 25:1-13). Và Thánh Phaolô trình bày Giáo Hội, mỗi thành phần của Thân Mình, như là “Hiền Thê” được kết hôn với Đức Kitô, trở nên một Thần Khí với Người (Gl, 796). Là Hiền Thê, Giáo Hội cũng là “Tân Nương” tinh tuyền của “Con Chiên vẹn tuyền” (Kh 19:7; 21:2-9; 2217-21; Ep 1:4; 5:27), được Người trang điểm lộng lẫy, yêu thương và hiến dâng mạng sống để “thánh hoá và thanh tẩy” (Ep 5:26) bằng một giao ước bền vững đến muôn đời (Ep 5:29). Chính vì thế, Đức Kitô là nguồn vui của Giáo Hội, là Phu Quân, Đấng mà Giáo Hội chờ mong trong niềm hy vọng cánh chung: “Thần Khí và Tân Nương nói: Xin hãy ngự đến”. Và Đấng làm chứng cho những điều đó phán rằng: “Phải, chẳng bao lâu nữa Ta sẽ đến” (Kh 22:17, 20). Như vậy, Giáo Hội là một Cộng Đồng cánh chung cho thấy trước Lễ Hội Nước Thiên Chúa.

 

Trước hết, sứ mạng của Giáo Hội là loan báo Nước Thiên Chúa đã khởi đầu nơi chính bản thân, cuộc đời, và sứ vụ của Đức Giêsu Kitô, như một thực tại đang triển nở giữa lòng thế giới. Qua cái chết và sự Phục Sinh của Người, ơn cứu độ trở thành “hiện tại” cho Giáo Hội sống trong thời gian xen kẽ những gì đã được thực hiện và những gì sẽ được hoàn tất vào ngày Người ngự đến. Đó là “Ngày của Chúa”, ngày Lễ Hội cánh chung, không phải như một thời điểm kết thúc mọi sự, nhưng như một cuộc biến đổi hoàn vũ, mang đến ý nghĩa cho tất cả lịch sử nhân loại. Hiến Chế về Giáo Hội đã khẳng định:“Như thế thời đại cuối cùng đã đến với chúng ta rồi vậy (1Cor 10,11). Việc canh tân thế giới được thiết lập một cách bất khả phục hồi và thực sự đã bắt đầu một cách nào đó ngay từ bây giờ vì Giáo Hội đã được trang điểm bằng sự thánh thiện đích thực, tuy chưa hoàn toàn. Dù vậy, cho tới khi có trời mới và đất mới, nơi công lý ngự trị (2P 3,13), Giáo Hội lữ hành mang khuôn mặt chóng qua của đời này, qua các bí tích và định chế là những điều thuộc thời đại này. Và Giáo Hội vẫn sống giữa các thụ sinh tới nay còn rên siết và quằn quại trong cơn đau đớn lúc sinh con, và mong đợi con cái Thiên Chúa xuất hiện (Rm 8,19-22)”.[21]

 

Trong viễn tượng đó, cùng với những cơ cấu và định chế của mình, Giáo Hội là chứng nhân và chứng từ của Nước Thiên Chúa, trở thành con đường của Đức Kitô hiện diện và hoạt động giữa lòng thế giới, để dẫn đưa con người đến với sự sống và sự thật, nhằm giải thoát con người. Bởi vậy, như bí tích cứu độ phổ quát giữa nhân loại và để hoàn thành sứ mạng truyền bá Phúc Âm của mình, Giáo Hội không những phải am hiểu về đức tin Kitô giáo mà còn thực sự nhạy cảm, mở lòng ra với tất cả những gì liên quan đến con người, làm sao để thông truyền đức tin cho con người của thế giới hôm nay. Khi rao giảng Tin Mừng, Giáo Hội vừa nhìn nhận giá trị tích cực của cuộc sống nhân sinh, vừa nhận ra trách nhiệm của mình đối với trần thế, để kiện toàn những gía trị nhân bản, can đảm tố giác tội ác, những gì ngăn cản hoạt động đổi mới của Thần Khí, và hướng mọi tình huống sống của con người tới cùng đích là Nước Thiên Chúa, như lời của Hiến Chế Vui Mừng và Hy Vọng:“Thực vậy, sau khi đã theo mệnh lệnh Chúa và nhờ Chúa Thánh Thần phổ biến trên trái đất các giá trị về nhân phẩm, về hiệp thông huynh đệ và tự do, nghĩa là mọi thành quả tốt đẹp do bản tính và hoạt động con người đem lại, chúng ta sẽ gặp lại chúng, nhưng là gặp lại sau khi chúng được thanh tẩy khỏi mọi tì ố, được chiếu sáng và biến đổi, nghĩa là khi Chúa Kitô giao hoàn lại Chúa Cha vương quốc vĩnh cửu và đại đồng: “Vương quốc của chân lý và sự sống, vương quốc thánh thiện và diễm phúc, vương quốc công bình, yêu thương và bình an” Vương quốc ấy đã hiện diện cách mầu nhiệm ở trần gian này và sẽ được kiện toàn khi Chúa đến”.[22]

 

Hơn nữa, Giáo Hội ý thức mình không phải là Nước Thiên Chúa, nhưng là “hạt giống” của Nước Thiên Chúa, là “Nước Thiên Chúa hiện diện trong mầu nhiệm”.[23] Ý thức về chiều kích thời gian của mình, Giáo Hội lữ hành về đất hứa, sẵng sàng trung thành chờ màn đêm qua đi cho ngôi sao cứu độ muôn dân toả chiếu. Là “Hiền Thê” yêu quý của Đức Kitô, Giáo Hội không phải như một bà lão đã đạt tới đích điểm, chỉ bằng lòng với việc lập lại quá khứ  hay tiếc nuối, tái khẳng định thuở vàng son, nhưng thực sự như một thiếu nữ trẻ trung còn đang được trang điểm trên đường về quê. Vì thế, Giáo Hội nhận thức được điều kiện “lên đường” và tình trạng “vượt qua” của mình. Với phương châm:“Ecclesia semper reformanda”, Giáo Hội thường xuyên canh tân, thay đổi cách hiện diện, nếp sống, lối suy tư, phương thức hành động, để luôn được thanh tẩy trong Đức Kitô (Ep 4:23). Đó cũng là sự hoán cải trong Giáo Hội, là bước đầu tiên của nhiệm vụ truyền bá Phúc Âm, dựa theo quan điểm của Đức Bênêđíctô, nghĩa là “chất vấn chính cuộc sống của mình”, là “ra đi khỏi sự tự mãn để khám phá ra và chấp nhận thân phận nghèo nàn của chúng ta trước những thiếu thốn của người khác, và đón nhận từ Đấng khác tình bằng hữu và ơn tha thứ của Người”.[24] Thế nên, Giáo Hội vừa trung thành với điều đã hoàn tất, vừa không ngừng vươn tới mức thành toàn viên mãn của khuôn mặt Đức Kitô như tương lai cánh chung của mình (Cl 1:19; Eph 3:8). Cũng như trong hướng nhìn của Vatican II, ý thức lịch sử là điều đáng quan tâm: “Với bổn phận phải lan rộng khắp thế giới, Giáo Hội đi sâu vào lịch sử nhân loại. Tuy nhiên Giáo Hội đồng thời cũng vượt thời gian và biên giới các dân tộc. Tiến bước giữa cơn cám dỗ và đau thương, Giáo Hội vững mạnh nhờ ơn Thiên Chúa mà Chúa Giêsu đã hứa ban, hầu Giáo Hội vẫn hoàn toàn trung tín, sống như một Hiền Thê xứng đáng của Chúa mình, dầu xác thịt yếu hèn, và không ngừng tự đổi mới dưới tác động của Chúa Thánh Thần cho đến ngày, nhờ thánh giá, đạt đến ánh sáng không hề tắt”.[25]

 

Như vậy, đứng trước vấn đề loan báo Tin Mừng cách thức mới, Giáo Hội luôn nhớ đến cứu cánh tương lai, nắm bắt những dấu chỉ thời đại hiện nay của lịch sử, để hướng lòng về sự mới mẻ đang đến. Cùng lúc tâm thức lịch sử bừng dậy đòi buộc Giáo Hội phải có khả năng đối diện với những câu hỏi không ngừng mới mẻ, với những lối suy tư, tiếp cận khác về con người, và chính qua những câu hỏi như  thế mà đức tin của Giáo Hội mới có thể được thông truyền cách mới mẻ và sống động. Đó là cơ hội để Giáo Hội đối thoại, đối chất, và nhất là để chứng thực cho niềm tin. Giáo Hội không thể đoan chứng cho Tin Mừng mà không đồng thời lưu tâm đến những vấn nạn, lắng nghe những thao thức của con người trong chính tình huống hôm nay của cuộc sống. Như lời Đức Gioan Phaolô II trong Thông Điệp Redemptoris Missio:“Giáo Hội phục vụ Vương Quốc của Thiên Chúa bằng việc lan truyền khắp thế giới "các giá trị Phúc Âm", là biểu hiện Vương Quốc này và là những gì giúp cho con người chấp nhận dự án của Thiên Chúa. Thực tại sơ khởi về Vương Quốc Thiên Chúa thật sự cũng có thể được thấy bên ngoài giới hạn của Giáo Hội, ở các dân tộc khắp nơi, qua việc họ sống "các giá trị Phúc Âm" và cởi mở trước hoạt động của Thần Linh, Đấng thổi lúc nào và ở đâu tuỳ ý Ngài (Ga 3:8).[26] Tất nhiên, không một thủ đắc, một thành công hay vinh quang trần thế nào mang mầu sắc khoa trương chiến thắng có thể làm cho Giáo Hội ngây ngất quên đi lý do hiện hữu của mình là mở rộng Nước Thiên Chúa, đồng thời là dọn đường, chuẩn bị cho Ngày Đức Kitô, Đấng Phu Quân của mình ngự đến trong vinh quang.

 

Sau hết, trong viễn tượng loan báo Lễ Hội Nước Thiên Chúa, Giáo Hội đi sâu trong lịch sử để mang đến niềm hy vọng cho thế giới. Vì mục đích tối hậu của mình, Giáo Hội biết tương đối hóa mọi thành quả vĩ đại của thế giới, những tiến bộ trong lãnh vực khoa học kỹ thuật mà lại chẳng đi đôi với sự tiến bộ trong lãnh vực đào luyện đạo đức con người. Chính ở đây, Giáo Hội nhận thức được bước theo Đức Kitô rao giảng Tin Mừng là đảm nhận lịch sử, quan tâm đến mọi tình huống và tâm thức con người giữa một thế giới không ngừng chuyển biến, làm sao để phát hiện ra nỗi khát vọng ẩn sâu bên dưới những thái độ, cách ứng xử,  và lối sống xem ra vẻ đầy đủ tiện nghi, sung túc, hưởng thụ, buông thả theo những hào nhoáng bên ngoài, thậm chí đến mức ngán ngẩm vô nghĩa. Và hệ quả là con người có nguy cơ mất hướng, chạy trốn chính mình trong những náo động bên ngoài, từ đó dửng dưng với tiếng kêu cứu của người nghèo, vô cảm với những người bất hạnh, bị hất hủi, bị từ chối những nhu cầu cơ bản cần thiết cho một cuộc sống xứng đáng với phẩm giá. Phải chăng, thái độ, lối sống thực dụng, duy lợi nhuận hiện thời theo trào lưu tục hoá như thế, lại để lộ cho thấy tình trạng “chán sống” hay hiện tượng “không biết sống” của nền “văn hoá sự chết”? Có tất cả mà không có gì cả. Biết đâu đây chẳng phải là những hình thái của sự thiếu thốn tâm linh hay mặt trái của sự phủ nhận nhu cầu siêu việt nơi con người? Trước thực trạng đó, loan báo Tin Mừng là đưa ra ánh sáng những nỗi lo âu, những cơn đói khát về ý nghĩa, về thân phận, cũng như về điều tuyệt đối, về một cuộc sống không chỉ sống nguyên nhờ “cơm bánh”. Thật vậy, con người tự thâm sâu vẫn luôn cần một lẽ sống vô biên và tối hậu, thiết thân và bao trùm, như là nền tảng vững chắc cho tất cả cuộc sống của mình.[27] Rao giảng Tin Mừng là nhận ra được những dấu chỉ của niềm hy vọng về lẽ sống, về mục đích và cùng đích đời người, ngõ hầu có thể đem đến câu trả lời của đức tin, làm sáng tỏ đức tin như là lời đáp thoả đáng cho những khát vọng căn bản của con người và thời đại. Vấn đề ở đây chính là khả năng rao giảng một cách mới mẻ, đáp ứng lại những nhu cầu tâm linh thực sự của con người, làm sao để chứng tỏ đức tin không làm “tha hoá” bản chất con người, nhưng ngược lại, là Tin Mừng hiện thực nỗi khát vọng tìm kiếm sự triển nở, hoàn thành bản chất của con người và đạt tới sự sống tròn đầy sung mãn (Ga 10:10; 20:31).

 

Do đó, Giáo Hội là bí tích của niềm hy vọng cánh chung, mang đặc tính vừa “thần linh” vừa “nhân loại”. Giáo Hội nhập thể, nhập cuộc vào thế giới lịch sử, sống hiệp thông như một “Cộng Đồng tín hữu” để cứu độ và hoà giải con người với nhau, đồng thời cũng vượt qua lịch sử thế giới như “Hiền Thê” cánh chung của Đức Kitô, luôn vươn lên tìm kiếm những phúc lộc của Nước Thiên Chúa. Vì “Nước Thiên Chúa là sự công chính, bình an và hoan lạc trong Chúa Thánh Thần” (Rm 14:17), niềm hy vọng của Giáo Hội chủ yếu được biện minh trong thực hành, trong sự dấn thân cách trung thực vào những hoạt động cứu độ thế giới, nhằm giải thoát con người khỏi những gì chỉ là giả tạo của trần thế, những ngẫu tượng mới và vong thân văn hóa. Giáo Hội tích cực tham dự vào lịch sử để giới thiệu giá trị cứu độ và ban sự sống của Tin Mừng trong những bối cảnh của văn hoá, kinh tế và xã hội khác nhau. Tuy nhiên, nhân danh những thực tại tối hậu của mình, Giáo Hội không đồng hoá với bất cứ một ý thức hệ, một đảng phái chính trị, một hệ thống kinh tế nào. Giáo Hội là lương tâm phê phán lịch sử, vừa rao giảng cho nhân loại về nguồn gốc và cứu cánh của mình, vừa sẵn sàng cộng tác với mọi người nhằm thăng tiến phẩm giá của con người và xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn. Như được “kết hôn” với Đức Kitô, Giáo Hội hướng lòng về trời cao, chờ mong Lễ Hội Nước Thiên Chúa, nhưng không lạc mất lối về cuộc đời, bởi vì Giáo Hội mang lấy những hy vọng của nhân loại, đồng thời xác nhận những hy vọng đó dựa vào ánh sáng của Tin Mừng. Nỗ lực rao giảng của Giáo Hội ở đây là làm sao cho thấy niềm hy vọng Kitô giáo có thể mở cho con người cơ hội hiểu biết hơn ý nghĩa về cuộc sống, nhất là về một cuộc sống mà cả sự chết cũng không làm gì được, để có thể sống đúng với phẩm giá đích thực của mình. Nói theo hướng nhìn của Vatican II, cũng như quan điểm của Đức Bênêđíctô XVI, niềm tin vào Thiên Chúa và niềm hy vọng vào đời sống vĩnh hằng không “làm cho cuộc sống trần gian này ra vô nghĩa. Nhưng ngược lại, chỉ khi mà chiều kích của đời sống là vô tận, thì cuộc sống của chúng ta trên trần gian này mới tuyệt vời và vô giá. Thiên Chúa không phải là đối thủ, nhưng là Đấng bảo đảm tuyệt vời cho sự sống của chúng ta. Như thế chúng ta trở lại điểm xuất phát đó là chính Thiên Chúa”, và thực ra, “sứ điệp Kitô giáo rất đơn giản: chúng ta nói về Thiên Chúa và con người, và bằng cách này chúng ta nói về tất cả mọi sự”.[28] Trong ý nghĩa đó, niềm hy vọng siêu việt của Giáo Hội, có thể nói, là làm sống lại những niềm hy vọng tự nhiên của con người, nhất là của những người cùng khốn, những ai đang là tù nhân của tội lỗi, sự dữ, sự ác, và cả sự chết. Lý chứng về Nước Thiên Chúa, tuy có làm cho Giáo Hội trở thành lữ khách, nhưng không phải là một viễn mơ xa rời thực tế, mà là một động lực thúc đẩy bổn phận đồng hành và phục vụ thế giới, góp phần thực hiện khát vọng hướng tới cuộc sống bình an và hạnh phúc, như thế cũng là chuẩn bị cho vinh quang của Nước Thiên Chúa, vinh phúc cho con người mà Thiên Chúa hứa ban.

 

2.  PHƯƠNG THỨC LOAN BÁO TIN MỪNG TRONG THỜI ĐẠI HÔM NAY

Từ những suy tư trên, có thể nói, lời mời gọi loan báo Tin Mừng theo phong cách mới tỏ ra cấp bách hơn bao giờ hết. Chúng ta cần tìm hiểu tâm thức của con người đang sống trong một thời kỳ lịch sử rất đặc biệt với nhiều đổi thay, căng thẳng, lo âu, mất cân bằng, mất phương hướng và đầy những hoài nghi. Vì thấm nhuần chủ nghĩa tục hoá, con người dường như sống chìm ngập trong những hưởng thụ hiện tại và toan tính nhất thời. Nhưng để có thể trả lời cho những thách đố đa diện của thời đại, có lẽ Giáo Hội phải dấn thân trên nhiều con đường khác nhau, để Tin Mừng đích thực là lời đáp cho mọi người, cho tất cả lịch sử. Giáo Hội “luôn luôn sẵn sàng trả lời cho bất cứ ai chất vấn về niềm hy vọng”của mình. Nhưng “phải trả lời cách hiền hoà và với sự kính trọng” (1 Pr 3:15-16). Dựa theo những phân tích, những định hướng của Thượng Hội Đồng Giám Mục trong bản Đề Cương, chúng ta cố gắng tổng hợp và gợi ra những cách thức, phương pháp, hay ngôn ngữ mới để diễn tả và rao giảng Phúc Âm. Chúng ta tìm kiếm những mảnh đất chung như những “Sân Chư Dân”, những “Đấu Trường” hiện đại, những chân trời, nhưng lối đường mới hoặc làm mới lại những cách thức “hộ giáo”, để hy vọng có cuộc gặp gỡ đối thoại giữa Giáo Hội và con người, giữa những khát vọng của con người hiện đại với Tình Yêu của Đấng là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống.   

 

Đức Tin, Văn Hoá và Nghệ Thuật

Con người của thế giới hôm nay, có thể nói, rất nhạy bén về mối tương quan giữa đức tin, văn hoá và nghệ thuật. Sự nối kết đó là một lối đường rất quan trọng. Con người, từ muôn thuở, với những sắc thái văn hoá khác biệt, đều yêu chuộng nghệ thuật. Tuy văn hoá là một khái niệm mang nhiều hàm ý sâu rộng với những cách hiểu khác nhau như hoạt động sáng tạo, thái độ, lối sống, cung cách ứng xử, trình độ học vấn, văn học, thơ ca, mỹ thuật, sân khấu điện ảnh, âm nhạc, nhưng tựu trung, tất cả đều liên quan đến đời sống vật chất và tinh thần của con người. Văn hoá có thể được hiểu như là tổng thể các giá trị làm nên con người, do con người sáng tạo trong quá trình lịch sử. Nói cho cùng, theo các tài liệu sử học, thì từ cổ xưa văn có nghĩa là “đẹp” (cái đẹp hay vẻ đẹp) và hoá có nghĩa là làm thay đổi, làm cho con người trở nên tốt đẹp, hoàn thiện hơn.[29] Vì thế, nói theo kiểu của Augustinô: “Chúng ta chỉ yêu cái gì đẹp” (Non possumus amare nisi pulchra).[30] Con người luôn bị hấp dẫn, rung động bởi vẻ đẹp vì lòng đã tiềm ẩn khát vọng cái đẹp. Như Tôma Aquinô cũng đã nhận định: “điều gì đẹp là điều hễ nhìn thấy là yêu thích”,[31] bởi vì cái đẹp thuộc về bản chất đời sống tâm linh của con người, và từ trong sâu thẳm, liên hệ đến việc tìm kiếm những gì là chân thật cũng như thiện hảo. Dostoevsky có một quan điểm hơi táo bạo:“Chính cái đẹp sẽ cứu độ thế giới”.[32] Trong một thế giới còn nhiều những khổ đau quẫn bách và những đen tối của tội lỗi, con người vẫn khao khát cái đẹp, không chỉ về thể lý, mà cả về tâm linh, vì chính cái đẹp làm cho con người vươn tới, mở ra với những chiều kích khác của cuộc sống.        

 

Như thế, trong nỗ lực rao giảng Tin Mừng cách mới mẻ, thiết tưởng, Giáo Hội làm thế nào để có thể giới thiệu cho thế giới, trước tất cả nét đặc thù và thách thức của thời đại, sự phong phú đa dạng của Mạc Khải, những cảm nhận của niềm tin phát xuất từ vẻ đẹp vô lường của khuôn mặt Đức Kitô (Ep 3:8). Cho đến ngày nay, có thể nói, khuôn mặt đó vẫn còn cuốn hút con người. Chính trong Mầu Nhiệm Nhập Thể và Vượt Qua, Người đích thực là “hình ảnh của Thiên Chúa” (Ga 1:18; 14:9), qua cách sống làm con người và làm con Chúa cách tuyệt đẹp, trọn hảo. Như niềm xác tín của Phaolô: “Quả thật, xưa Thiên Chúa đã phán : Ánh sáng hãy bừng lên từ nơi tối tăm! Người cũng làm cho ánh sáng chiếu soi lòng trí chúng tôi, để tỏ bày cho thiên hạ được biết vinh quang của Thiên Chúa rạng ngời trên gương mặt Đức Kitô.” (2Cr 4:6).Vì vậy, cũng nơi Đức Kitô, trọng tâm của tất cả sứ điệp Kitô giáo, mà con người hiện đại có thể gặp gỡ và cảm nhận được vẻ đẹp vừa “cổ xưa” vừa luôn “mới mẻ” của Thiên Chúa, Đấng là Chân, Thiện, Mỹ.

 

Từ đó Giáo Hội có thể tổ những chương trình sinh hoạt giao lưu, đối thoại, tiếp xúc và trao đổi với giới nghệ sĩ, ngay cả với những người ngoài Kitô giáo, trong mọi lãnh vực của nghệ thuật: văn chương, thi ca, âm nhạc, hội hoạ, phim ảnh, kịch nghệ, điêu khắc, thiết kế. Giáo Hội rao giảng Phúc Âm, làm sao cho họ có thể nghe, thấy, biết, cảm nhận con người của Đức Kitô, vì nội dung đức tin không phải chỉ là tổng hợp các điều phải tin, hay một lựa chọn luân lý, nhưng tiên vàn là việc gặp gỡ một ngôi vị như một biến cố mang lại cho họ một chân trời mới và một hướng đi mang tính quyết định.[33] Hơn nữa, là những con người có nhiều khả năng sáng tạo và sức tác động trên tâm hồn con người, các nghệ sĩ có thể góp phần phục vụ Tin Mừng, diễn tả, thông truyền niềm tin được gợi hứng từ Lời Chúa, và làm sáng tỏ niềm tin dưới nhiều hình thái mới, bằng nhiều phương thế mang dấu ấn của thời đại. Ở đây, cảm hứng từ những giáo huấn của Giáo Hội, chúng ta có thể liên tưởng tới nỗ lực canh tân Phụng Vụ và Thánh Nhạc trong những năm qua. Đức Bênêđíctô XVI cũng đã nói về tầm quan trọng của việc hiểu biết “ars celebrandi, nghệthuật cử hành phụng vụ, vì chính trong phụng vụ mà Giáo Hội cử hành, tuyên xưng và loan truyền, nuôi dưỡng và phát triển đức tin của mình.[34]

Đối Thoại Tôn Giáo

Trong một thế giới “toàn cầu hoá” như hiện nay, vấn đề giao lưu gặp gỡ giữa Kitô giáo với các nền văn hoá và các tôn giáo trở thành sự kiện phổ quát, ngày càng được cảm nhận cách sâu sắc. Giáo Hội tiếp tục con đường đối thoại, vì đó vẫn là một phương thức quan trọng, đầy hy vọng, trong việc truyền bá Phúc Âm. Nền tảng sâu xa của đối thoại không gì khác hơn là thông truyền sự hiệp thông của tình yêu và sự sống, trong sự trân trọng và hiểu biết lẫn nhau, tìm kiếm dẫn hạnh phúc đích thực và nguồn mạch chân lý. Có thể nói, để đem Tin Mừng đến cho mọi người như một sứ điệp có sức mạnh khai mở, đem lại niềm vui, soi sáng và giải thoát, Giáo Hội lên đường đối thoại, mong muốn cộng tác trong ý thức trách nhiệm chung đối với công lý và hoà bình trên thế giới và tương lai nhân loại. Trong văn kiện Evangelium nuntiandi vào năm 1975, Đức Phaolô VI đã đưa ra một nhận định tích cực về các tôn giáo ngoài Kitô giáo như là những cộng đồng mang theo mình “tiếng vang của hàng ngàn năm tìm kiếm Thiên Chúa”, cũng như các giá trị thiêng liêng của các tôn giáo như “những hạt giống của lời” và như “một chuẩn bị cho Tin Mừng”.[35] Tuy nhiên, dù không phủ nhận, nhưng tôn trọng trong những yếu tố của chân lý trong các truyền thống tôn giáo, Đức Gioan Phaolô II, trong Thông Điệp về truyền giáo, Redemptoris missio, cũng mạnh mẽ khẳng định đạo lý về “Đức Kitô là Đấng cứu độ duy nhất của toàn thể nhân loại, là Đấng duy nhất có thể mạc khải Thiên Chúa và đưa đến cùng Thiên Chúa”, đồng thời nhìn nhận cuộc đối thoại liên tôn là một phần của sứ vụ rao giảng Tin Mừng.[36]    

 

Đường hướng đại kết hay đối thoại với các tôn giáo cũng mở ra cho niềm tin Kitô giáo chiều kích mới. Có thể nói, đó như là một cơ hội cho Giáo Hội tìm hiểu và làm phong phú chính mình, nhất là để chứng thực trọng tâm của niềm tin: Thiên Chúa trong Đức Kitô và ơn cứu độ cho tất cả thế giời. Bản Đề Cương của Thượng Hội Đồng Giám Mục cũng ghi nhận giá trị này:“Các cuộc gặp gỡ và đối thoại với các truyền thống tôn giáo lớn, đặc biệt các tôn giáo phương Đông, các hoạt động này đã được Hội Thánh thực hiện trong những thập niên gần đây và còn đang tiếp tục được tăng cường. Sự đối thoại này là một cơ hội đầy triển vọng để học và so sánh để thấy cho thế giới các tôn giáo khác quan niệm vấn đề tôn giáo như thế nào, nhờ đó Kitô giáo có thể hiểu biết sâu hơn về những cách thức mà đức tin Kitô giáo có thể lắng nghe và đáp lại cảm thức tôn giáo của mỗi người”.[37

Khoa Học Kỹ Thuật và Công Nghệ Thông Tin

 

Trong thời đại mới, trước những thành tựu của toán học, những tiến bộ liên tục về nghiên cứu khoa học và kỹ thuật nhắm tới tri thức các sự vật, các qui luật thực tại tự nhiên và muốn làm chủ thế giới, làm cho con người trở nên ngày càng bị lệ thuộc vào những lợi ích của sự tiến bộ đó. Hậu quả là chỉ có những khám phá khoa học, kỹ thuật và công nghệ cũng như những gì khoa học có thể kiểm nghiệm hoặc kiểm chứng mới đáng tin. Như thế, vấn đề niềm tin vào Thiên Chúa ngày càng trở thành đáng ngờ, khi khoa học kỹ thuật xuất hiện của như một dạng thức minh triết mới trên diễn đàn cuộc sống. Với một vị thế như vậy, khoa học kỹ thuật tự hào là có khả năng cung cấp cho con người sự hiểu biết về ý nghĩa cuộc đời qua những tiện nghi vật chất và thoả mãn tức thời. Dù thế nào đi nữa, những chất vấn và thách thức đó, phải chăng đòi buộc Giáo Hội làm mới lại phương pháp “hộ giáo” của mình, diễn giải làm sao để con người hiểu được lý do cũng như giá trị của niềm tin, mà nếu không có niềm tin đó, con người cũng chẳng có gì để suy nghĩ, xây dựng, hy vọng cho cuộc đời. Giáo Hội tiếp tục ngỏ lời với con người trong tình huống hiện nay của thế giới. Vấn đề là làm sao Giáo Hội có thể chứng tỏ qua chứng tá đời sống của mình rằng: nơi Tin Mừng tình yêu và chân lý của Đức Kitô con người có thể tìm kiếm lời giải đáp trọn vẹn và tối hậu cho mọi thực tại. Bởi vì, nói theo suy luận của bản Đề Cương: “tận thẳm sâu của con người có hiện diện một điểm nằm ngoài bình diện quan năng giúp tiếp giáp với thế giới vô hình, để nhờ đó có thể đụng chạm tới được với Đấng vô hình, một nhu cầu cấp thiết cho sự hiện hữu của con ngườ … Đức Giêsu Kitô, Đấng được Cha sai đến để nói lời yêu thương với con người. Chính Đức Kitô, Lời Thiên Chúa nhập thể là câu trả lời cho toàn bộ ý nghĩa của cuộc sống nhân trần”.[38]

 

Hơn nữa, khả năng rộng lớn hầu như vô hạn do các phương tiện truyền thông đại chúng và kỹ thuật số là một trong những dấu chỉ của thời đại. Nhờ những tiến bộ của công nghệ thông tin mà con người có nhiều cơ hội hơn để hiểu biết nhau, phát triển hơn về tư tưởng, các giá trị nhân văn, đồng thời tiếp cận rộng rãi hơn với các thông tin khác, tạo ra những hình thức liên đới mới, để có thể trao đổi, nối kết và xây dựng một “thế giới văn hoá”toàn cầu. Như lời của Đức Bênêđictô XVI, trong sứ điệp nhân Ngày thế giới Truyền thông Xã hội lần thứ 46: “Phần lớn hoạt động hiện nay của truyền thông được định hướng bởi những câu hỏi cần có lời giải đáp. Các bộ máy tìm kiếm và các mạng xã hội là nơi đầu tiên nhiều người tìm đến khi cần lời khuyên, ý tưởng, thông tin và những lời giải đáp. Vào thời của chúng ta, hơn bao giờ hết internet đang trở thành nơi hỏi và trả lời – hơn nữa, con người ngày nay thường bị dội bom bằng những câu trả lời cho các thắc mắc mà họ chưa bao giờ đặt ra và các nhu cầu mà họ chưa cảm thấy…Tuy nhiên, trong thếgiới truyền thông phức tạp và đa dạng này, có nhiều người quan tâm đến những vấn đề tối hậu của đời sống con người: Tôi là ai? Tôi biết được điều gì? Tôi phải làm gì? Tôi có thể hy vọng điều gì? Điều quan trọng là phải đón nhận những người đặt ra những câu hỏi này, bằng cách mở ra một cuộc đối thoại sâu sắc, bằng lời nói và sự trao đổi, và cả việc mời gọi suy nghĩ trong thinh lặng”. Thế nên, không phủ nhận nguy cơ là các tiềm năng đó hàm chứa và gây ra nhiều hệ quả tiêu cực, có thể làm băng hoại con người, Giáo Hội có trách nhiệm tìm ra những viễn ảnh thiêng liêng, thần học và văn hóa qua các phương tiện truyền thông hiện đại. Đòi hỏi hiện tại hóa là đòi hỏi nội tại của một đức tin lịch sử. Vấn đề là làm thế nào để sử dụng các phương tiện đó cách tốt nhất, cần thiết nhất cho sứ mạng loan báo Tin Mừng, để xác định, phổ biến, làm sáng tỏ nội dung đức tin một cách mới mẻ, đáp ứng lại những nhu cầu thiết thực của con người, và đồng thời để xây dựng, bồi đắp “văn hoá sự sống”,  nối kết mọi người hướng tới một nền “văn minh tình thương”.

 

Di Dân và Bác Ái Xã Hội

Bước vào thời đại đô thị hoá và công ngiệp hoá, hiện tượng di dân cũng là một vấn đề đáng quan tâm trong sứ mạng loan báo Tin Mừng của Giáo Hội. Sứ điệp của Đức Bênêđíctô XVI, nhân ngày thế giới Di Dân năm 20012, với chủ đề “Di dân và Tân Phúc âm hóa” cũng nhận thức rằng thực tế lịch sử hôm nay “kêu gọi Giáo Hội phải bước lên con tầu truyền bá Phúc âm với cách thức mới giữa một đại dương mênh mông đầy sóng gió của một nhân loại chuyển động”. Như thế, sự kiện di dân quốc nội cũng như quốc tế, vì muốn cải thiện điều kiện sống, hoặc vì trốn chạy khỏi bắt bớ, chiến tranh, bạo động, đói khổ, thiên tai…đều đưa tới vấn đề con người phải sống hòa trộn với nhau. Từ vấn đề đó gây ra biết bao nhiêu vấn nạn, không những về khía cạnh nhân bản, mà còn cả về đạo đức, tôn giáo và tâm linh nữa. Việc loan báo Tin Mừng lại phải đối diện một lúc với hai vấn đề. Trước hết, Giáo Hội làm thế nào để giúp các di dân giữ vững được đức tin, đặc biệt khi không còn được nền văn hóa địa phương gốc của mình nâng đỡ. Phải chăng cần tìm ra cách tiếp cận mục vụ, các phương thế và diễn đạt mới, để Tin Mừng luôn là cho và vì con người trong chính trong hoàn cảnh cụ thể và đặc thù của họ. Như vậy, sứ điệp cứu độ và hiệp nhất của Đức Kitô được loan báo cùng với sự mở rộng vòng tay đón tiếp sẽ mang lại cho các di dân nguồn an ủi, hy vọng và “niềm vui trọn vẹn” (Ga 15,11). Đàng khác, nếu họ gặp được các chứng nhân Phúc Âm chân chính, cũng như các mẫu gương hiệp thông của đời sống Giáo Hội, họ sẽ được khích lệ để chính mình trở thành sứ giả và tác nhân mới của việc rao giảng Tin Mừng tại nơi họ được đón nhận.

 

Hơn nữa, ở đây, chúng ta cũng thấy được nỗ lực loan báo Tin Mừng trở thành sứ mạng bác ái xã hội, giúp đỡ tha nhân, đem lại công lý cho người nghèo, cơ hội giáo dục, hỗ trợ việc phát triển con người, khắc phục những chia rẽ về chủng tộc, tôn trọng sự sống trong tất cả mọi tình huống. Như vậy, bác ái xã hội là một cách thức truyền bá Phúc Âm, tuy không trực tiếp rao giảng Tin Mừngnhiều bằng lời nói, nhưng nhiều bằng hành động thể hiện tình yêu, và như thế là làm cho con người nhận biết được tình yêu Thiên Chúacách sống động.Đây là một chiều kích căn bản của sự hiệp thông sâu xa và mở rộng của Giáo Hội. Khi rao giảng Phúc Âm, Giáo Hội trở thành “trung tâm bác ái”, “ngôi nhà tình thương”, là “căn lều của tình yêu ” Thiên Chúa cắm giữa nhân loại, là nơi mọi người có thể tìm gặp được ánh sáng ấm áp của tình yêu Thiên Chúa, nhờ đó mà được phục hồi sự sống (Rm 5:12), được giao hòa và hiệp nhất với nhau (Ga 11:52; Ep 2:15-18). Như quan điểm có tính định hướng của Đức Bênêđíctô ngay trong Thông Điệp đầu tiên, Deus Caritas Est(2005): Giáo Hội phải “trở thành chứng nhân cho tình yêu của Chúa Cha, Đấng muốn làm cho nhân loại trở thành một gia đình duy nhất trong Con của Người. Mọi hoạt động của Giáo Hội đều là sự biểu lộ một tình yêu muốn tìm sự thiện toàn vẹn cho con người… và tìm cách phát triển con người trong những lãnh vực khác nhau của cuộc sống và sinh hoạt nhân văn”.[39] Và một khi được thể hiện qua việc bác ái xã hội, như vậy tình yêu thực sự chứng tỏ sứ điệp Tin Mừng là “khả tín

 

Kinh Tế và Chính Trị

Thực tế lịch sử cho thấy hình thái cơ bản nhất của chính trị là kinh tế. Các nguy cơ chiến tranh “nóng” hoặc “lạnh” đe doạ hoà bình của thế giới đều phát xuất từ sự thiếu cân bằng trong cán cân quyền lực hay quyền lợi, cũng là cạnh tranh lợi nhuận kinh tế. Tình trạng khủng hoảng kinh tế toàn cầu và trường kỳhiện nay, có thể nói, là hậu quả của những hoạt động kinh tế không theo một ý định đạo đức và chiều hướng nhằm phục vụ và xây dựng ích lợi chung cho nhân loại. Trái lại, nền kinh tế này lại đề cao giá trị lợi nhuận hơn là phẩm giá con người, và vì thế mà không còn khả năng bảo vệ công bằng xã hội cũng như duy trì mối quan hệ tốt đẹp giữa các dân tộc.  Trước những thách đố đó, và trong hoàn cảnh phức tạp của ngày hôm nay,phải chăng thế giới cần đến một nền đạo đức học về trật tự công bằng trong lãnh vực kinh tế và chính trị.

 

Thế nên, Đức Bênêđíctô đã mạnh dạn giới thiệu học thuyết xã hội công giáo cho thế giới, vì đây cũng là một phần quan trọng của Tin Mừng cứu độ và hiệp nhất của Đức Kitô. Tài liệu này không chỉ làm sáng tỏ chiều kích xã hội của Tin Mừng và quan điểm của Giáo Hội, mà còn đề nghị “những định hướng có giá trị, những nguyên tắc chỉ đạo vượt qua ranh giới của Giáo Hội …, đối diện với sự phát triển liên tục…, trong bối cảnh đối thoại với tất cả những ai thật sự quan tâm đến nhân loại và thế giới”.[40] Do đó, đối với Giáo Hội, khái niệm quan trọng trong sứ vụ rao giảng Tin Mừng hiệp thông cho thế giới đang bị khủng hoảng và phân chia này là “tình liên đới”, liên đới trong kinh doanh, liên đới trong phát triển và hợp tác kinh tế toàn cầu, vì con người thời đại ngày càng ý thức hơn về sự tương thuộc lẫn nhau. Tất cả các quốc gia trên thế giới cần được khuyến khích tham gia vào sự phát triển chung, nếu không, thì sự phát triển đó không đích thực, không bền vững. Tuy Giáo Hội không phải là cơ chế trực tiếp hoạt động trong những lãnh vực này, nhưng Giáo Hội loan báo Tin Mừng cho mọi người, làm chứng cho những giá trị cứu độ của Tin Mừng, phục vụ quyền lợi và bênh vực phẩm giá nguyện thủy của con người, trên nền tảng tình yêu và công lý. Có như thế, Giáo Hội mới có thể là “lương tâm của tình yêu”, đóng vai trò ngôn sứ để phê phán những gì thực ra chỉ là giả tạo và mưu đồ chính trị của trần gian. Vì vậy, đời sống kinh tế và chính trị của con người có thể được phântích bằng những lời lẽ của Tin Mừng hiệp thông.

 

Cảnh Vực Môi Sinh

Vấn đề sinh thái là chủ đề đang được thế giới hôm nay bàn luận sôi nổi. Các công trình kỹ nghệ hoá đã gây tác hại trầm trọng đến thiên nhiên, là môi trường sống và tương lai sự sống của con người. Trái đất tràn ngập sự sống với muôn vẻ huy hoàng biểu đạt vinh quang Thiên Chúa. Trong Tông Huấn “Sacramentum Caritatis”, Đức Bênêđíctô XVI đặc biệt nhấn mạnh đến trách nhiệm “thánh hóa thế giới, bảo vệ vũ trụ”.[41] Bởi vì tất cả nhân loại được liên kết với vạn thể trong vũ trụ, làm nên một lịch sử duy nhất và phổ quát. Trong niềm hy vọng Kitô giáo, toàn thể thụ tạo đang tiến tới sự hợp nhất trọn vẹn trong một thực tại siêu việt và bao trùm, đó là Đức Kitô Phục Sinh (Ga 1:1, 2, 3-4).Đi ngược lại hay tách biệt khỏi vòng tròn liên đới và tương tác cơ bản của trật tự sáng tạo này, con người có thể huỷ diệt chính mình. Hơn nữa, ý thức được cuộc khủng hoảng môi sinh hiện nay không thể giải quyết đơn thuần dựa trên những ý niệm hay tranh luận lý thuyết, nhưng tiên vàn là sự hoán cải toàn diện vì trái đất, đặt nền cho sự hiệp thông với vũ trụ vạn vật. Chính vì thế, loan báo Tin Mừng là mời gọi hoán cải, làm sao từ lẽ suy tư đến chính kinh nghiệm về niềm tin Kitô giáo, có thể khuôn đúc nên một nền đạo đứcsinh học, để từng hành động của con người có thể cứu vãn được tình thế nguy ngập hiện nay, khi biết lắng nghe và đáp lời “kêu cứu” của thiên nhiên. Đây cũng là một lộ trình mới cho sứ vụ rao giảng của Giáo Hội, vì niềm hy vọng Kitô giáo, như lời Đức Gioan Phaolô II, tuy thúc đẩy chúng ta hướng về “trời mới đất mới” (Kh 21:1), nhưng “điều đó không làm suy yếu, mà còn kích thích tâm thức chúng ta về trách nhiệm đối với trái đất” này.[42]

Giáo Dân  và Gia Đình

 

Sau hết, chúng ta khộng thể nói tới loan báo Tin Mừng cách thức mới trong thời đại hiện nay mà không đề cập đến đại đa số thành phần trong Thân Mình Đức Kitô là giáo dân và những người sống bậc gia đình. Có thể nói đây là những diễn viên chính, đóng một vai trò mang tính quyết định trong nỗ lực làm cho ánh sáng Tin Mừng được lan toả khắp mọi nơi trên thế giới, trong mọi lãnh vực và trạng huống cuộc sống. Chúng ta thấy vai trò này được minh định trong sắc lệnh về Tông đồ Giáo dân Apostolicam actuositatem”, trong Tông Huấn “Evangelii nuntiandi” của Đức Phaolô VI, và Tông huấn Kitô hữu Giáo dân“Christifideles laici” củaĐức Gioan Phaolô II. Ở đây thiết tưởng cần phải làm nổi bật những thừa tác vụ và đặc sủng khác nhau của Thần Khí trong Giáo Hội, nhằm cho tất cả Thân Mình được tăng trưởng. Và bởi vì sự sáng tạo của Thần Khí không bao giờ cạn kiệt, nhưng luôn sống dồi dào, và hoạt động, nên Kitô hữu nào cũng là người đồng trách nhiệm, đều dự phần vào việc truyền bá Phúc Âm. Vì thế, như trong Thư Chung Hậu Đại Hội Dân Chúa của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, chúng ta đọc thấy: “Giáo dân đã và đang góp phần thật phong phú và quảng đại cho đời sống và sứ vụ của Giáo Hội, như mang Tin Mừng của Chúa đến những vùng xa xôi hẻo lánh, chia sẻ công sức tiền của, nhất là những lời cầu nguyện và bao hy sinh âm thầm để xây dựng sự hưng thịnh và sinh động của cộng đoàn Dân Chúa. Thật đáng trân trọng những đóng góp quý giá đó, nay Giáo Hội cần quan tâm hơn đến việc phát huy phẩm chất của giáo dân bằng cách tổ chức các khóa huấn luyện về thần học, giáo lý, Kinh Thánh, mục vụ. Đồng thời, cần canh tân những đường hướng và qui chế tổ chức giáo phận và giáo xứ, để giáo dân có cơ hội thực thi những quyền chính đáng và trách nhiệm của mình trong Giáo Hội”.[43] Thật vậy, để đón nhận sự mới mẻ của Tin Mừng, Giáo Hội cần ý thức sâu sắc về tinh thần đồng trách nhiệm. Nếu tất cả đều đã nhận được Thần Khí, thì tất cả phải chuyển đạt Thần Khí ấy bằng cách góp phần làm cho Giáo Hội tăng trưởng trong sự hiệp thông và phục vụ Tin Mừng.

 

Từ đó, Giáo Hội cũng đặc biệtlưu tâm tới đời sống gia đình. Vì gia đình được quan niệm như “Giáo Hội tại gia”, việc người nam và người nữ trao hiến cho nhau tạo nên một thực tại hiệp thông mới, thực tại về tình yêu và sự sống trong một thân mình được chia sẻ, để rồi trào sang cuộc sống Giáo Hội và cộng đồng xã hội. Tình yêu vợ chồng là một dấu chỉ bí tích của tình yêu Đức Kitô đối với Giáo Hội như một Thân Mình hiệp nhất. Trong bối cảnh đó, có những cuộc hôn nhân chan hòa yêu thương và gia đình sống hạnh phúc có thể đóng góp rất nhiều cho thiện ích chung, làm chứng cho Tin Mừng về tình yêu hiệp thông giữa Ba Ngôi Thiên Chúa. Trái lại, có những cuộc hôn nhân đổ vỡ và gia đình rạn nứt, chắc hẳn cũng gây nên nhiều thương tích cho xã hội và Giáo Hội. Do đó, nỗ lực rao giảng Tin Mừng cách mới mẻ không thể tách rời khỏi mảnh đất gia đình. Vấn đề là làm thế nào để có thể giúp đỡ cho gia đình trong thời hiện đại sống trọn tình hiệp thông của mình, đồng thời cũng khám phá xem cuộc sống gia đình, với nhiều chiều kích phong phú, có gì để cống hiến cho tình hiệp thông rộng lớn hơn trong Giáo Hội.   

 

Kết Luận

Từ những suy tư và nhận định trên, sứ vụ rao giảng Tin Mừng với phương thức mới, với nhiệt tình mới là thông truyền đức tin trong nỗ lực đối thoại với thời đại chúng ta, làm sao có thể nối kết con người của ngày nay với Thiên Chúa. Bằng một cách thức cô đọng và sống động, khái niệm Giáo Hội là Thân Mình Đức Kitô cho chúng ta thấy được tiến trình từ Đức Kitô nhập thế rao giảng Tin Mừng về Nước Thiên Chúa đến Giáo Hội lên đường rao giảng Tin Mừng đợi chờ Nước Thiên Chúa. Giáo Hội chỉ có thể tiếp nối sứ mạng của Đức Kitô là “Đầu” của toàn Thân Mình, khi hiểu rằng tất cả công trình cứu độ của Người là muốn cho nhân loại nhận ra tình yêu hiệp thông giữa Người với Chúa Cha, nhận biết Người là Đấng được Chúa Cha sai đến, Đấng lãnh nhận và trao ban Thần Khí, để nhờ sự Phục Sinh mà đặt nền móng cho sự hiệp nhất giữa con người trong sự hiệp nhất của Ba Ngôi Thiên Chúa (Ga 14:20; 17:21,23). Điều này đòi hỏi Giáo Hội sống hiệp thông với Đức Kitô và với nhau để loan báo Tin Mừng hiệp thông cho thế giới, cùng dự phần vào cuộc vượt qua của Đấng chịu đóng đinh và Phục Sinh, cống bố và thực hiện trước tương lai của Nước Thiên Chúa mang dung mạo của Người.

 

Như thế, loan báo Tín Mừng cách mới mẻ có chiều kích Ba Ngôi học, Thánh Thần học, Kitô học, Giáo Hội, và niềm hy vọng cánh chung. Công cuộc loan báo Tin Mừng Tình Yêu cứu độ và hiệp nhất của Đức Kitô khởi sự trước hết nơi mỗi người tín hữu trong sức mạnh của Thần Khí nối kết tất cả, làm cho tất cả nên một với Đức Kitô, phục vụ thế giới dưới dấu chỉ của Thập Giá, chuẩn bị cho Lễ Hội Nước Thiên Chúa. Thời gian lịch sử qua đi, và có thể còn đó một cánh đồng truyền giáo mênh mông bất tận, những thách đố ở những nơi và những lúc khác nhau, tiếp nối với những nỗi vất vả nhọc nhằn của việc loan báo Tin Mừng. Thế nhưng, tin tưởng vào quyền năng của Đấng Tử nạn và Phục Sinh, Giáo Hội vui mừng vì biết rằng bình minh của Nước Thiên Chúa đang đến, thực sự đã bắt đầu nơi Thân Mình Đức Kitô.

 

Phaolô Vũ Chí Hỷ SSS.

 

 



[1] Lineamenta, Thượng Hội Đồng Giám Mục Thường Niên lần thứ XIII, số 3.

[2] Lineamenta, số 2.

[3] Lumen Gentium, Hiến Chế Tín Lý về Giáo Hội, số 1,4,5,8.

[4] Lumen Gentium, 4.

[5] Lumen Gentium, 8.

[6] Lumen Gentium, 7.

[7] Lumen Gentium, 32.

[8] Lumen Gentium, 32.

[9] Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo, số 795.

[10] Lumen Gentium, 1,4. Cf. GLGHCG, số 791.

[11] Tông Thư Tiến Tới Thiên Niên Kỷ Thứ Ba, Novo millennio ineunte (6/1/2001), số 43.

[12] Lumen Gentium, 1.

[13] Gerhard Lohfink, Does God Need The Church? Collegeville, Minnesota: Liturgical Prsss, 1999,60.

[14] Lumen Gentium, 7. Cf. GLCG, số 793.

[15] Kinh Nguyện Thánh Thể IV.

[16] Sacrosanctum Concilium, Hiến Chế về Phụng Vụ Thánh, 5.

[17] GLGHCG, số 795

[18] Quan Điểm của Hồng Y Joseph Ratzinger về Tân Phúc Âm Hóa, Hoàng Vinh trích dịch, (Nội San Trung Tâm Học Vấn Đaminh), tr. 41.

[19] Quan Điểm của Hồng Y Joseph Ratzinger về Tân Phúc Âm Hóa, tr. 38.

[20] Lumen Gentium, 7.

[21] Lumen Gentium, 48.

[22] Gaudium et Spes, 39.

[23] Lumen Gentium, 3.

[24] Quan Điểm của Hồng Y Joseph Ratzinger về Tân Phúc Âm Hóa, 39.

[25] Lumen Gentium, 39.

[26] Gioan Phaolô II, Redemptoris Missio, số 20.

[27] Gaudium et Spes, 18.

[28] Quan Điểm của Hồng Y Joseph Ratzinger về Tân Phúc Âm Hóa, 42.

[29] Cf. Nguyễn Trung Thành, Dẫn Luận Văn Hóa Việt Nam, (2009-2010), tr. 3. Cf. Trần Ngọc Thêm, Cơ Sở Văn Hoá Việt nam, NXBGD, 1999, tr. 15.

[30] Bruno Forte, The Portal of Beauty: Towards a Theology of Aesthetics, Grand Rapids: Michigan, 2008, p. 2.

[31] Bruno Forte, The Portal of Beauty: Towards a Theology of Aesthetics, 13.

[32] Bruno Forte, The Portal of Beauty: Towards a Theology of Aesthetics, 43.

[33] Bênêđíctô XVI, Thông Điệp Deus Caritas Est, số 1.

[34] Cf. “Thánh Thể: Hiệp Thông với Đức Kitô và với nhau” – Suy Tư Thần Học và Mục Vụ hướng tới Đại Hội Thánh Thể Quốc Tế lần thứ 50 tại Dublin, Ireland, Tháng 6, Năm 2012, số 22.

[35] T. P. Rausch, Đạo Công Giáo Thiên Niên Kỷ thứ Ba, Nguyễn Đức Thông chuyển dịch, NXBTG: 2010, tr. 432

[36] Gioan Phaolô II, trong Thông Điệp về truyền giáo, Redemptoris missio, 5 và 55.

[37] Lineamenta, Thượng Hội Đồng Giám Mục, 8.

[38] Lineamenta, Thượng Hội Đồng Giám Mục, 6.

[39] Bênêđíctô XVI, Thông Điệp Deus Caritas Est,19.

[40] Bênêđíctô XVI, Thông Điệp Deus Caritas Est,27.

[41] Sacramentum Caritatis, Bản dịch của UBGLĐT thuộc HĐGMVN, 2077, số 92

[42] Ecclesia de Eucharistia, số 20. Xem Gaudium et Spes, số 39.

[43] HĐGMVN, Thư Chung Hậu Đại Hội Dân Chúa, 2010. Số 27