Kỷ niệm 400 năm: Cách mạng Truyền giáo Di Nobili bên Ấn
Năm 2010 vừa qua, cả thế giới
(gồm Trung Quốc) đã tưng bừng khánh niệm 400 năm ngày ly trần tại Bắc Kinh của
một nhân vật vĩ đại, Cha Matteo Ricci, được ngưỡng mộ vừa như người tiên phong
trong giao lưu khoa học-văn hoá Đông-Tây, vừa như một trong hai nhà truyền
giáo, cũng tiên phong trong kế sách hội nhập văn hoá. Người tiên phong thứ hai
về mặt này, đó là Cha Roberto Di Nobili, cũng người Ý (và Dòng Tên). Phải chăng
vì dân Ý là dân cởi mở nhất bên Tây trong việc tiếp thu ánh sáng của những nền
văn minh xa lạ? Chúng ta nên nhớ, vào thế kỷ XIII, cũng một người Ý khác là
Marco Polo đã du hành Phương Đông, cho tới tận xứ sở các Con Trời (Thiên Tử),
và nói về văn minh này với nhiều kính nể.
Năm 2010, tôi đã viết về Ricci,
năm nay không thể tôi không nói về Di Nobili nhân 400 năm (1612-2012) cuộc Cách
mạng Truyền giáo của Cha bên Ấn Độ. Tôi nói CÁCH MẠNG TRUYỀN GIÁO, vì tuy việc
trruyền giáo đã khởi sự từ trước ở đấy, nhưng cách làm của cha đi ngược hẳn
cách làm của những thừa sai tiền nhiệm, do đó gây sóng gió lớn, không những làm
cha đau khổ, mà còn khiến thiệt hại cho việc Phúc Âm hoá đất nước đông dân thứ
hai của thế giới ấy.
Tình trạng xã hội Ấn
và ngõ cụt truyền giáo
Không dân tộc nào sùng đạo như
dân Ấn, nhưng cũng không đất nước nào bị phân hoá xã hội cho bằng đất nước Nam
Á này…
Về mặt tôn giáo, tuy Ấn giáo
chia thành 2 ngành, ngành lấy Vishnu làm thượng thần, ngành lấy Shiva làm đấng
tối cao, nhưng các thần đều được thờ chung ở cả hai bên. Sống đạo cũng vậy, cư
sĩ (tín đồ tại gia) tới cầu nguyện ở đền thờ, còn tu sĩ sống một mình trong
rừng hoang hay sơn cốc, nhưng hai bên không hề va chạm nhau.
Về mặt xã hội thì khác hẳn. Dân
Ấn chia thành những giai cấp cha truyền con nối, tức tập cấp (castes), và giữa
những tập cấp khác nhau, người ta không kết hôn với nhau, tránh tiếp xúc với
nhau. Thậm chí một số người bị loại khỏi tập cấp (outcastes), trở thành dơ dáy,
được gọi là Candala (sanskrit), Dalit, Pariah (tamil), nghĩa là BẤT KHẢ XÚC
(Intouchables, Untouchables). Theo niềm tin lâu đời, sự phân cấp ấy là tự
nhiên. Kinh Veda cho biết, từ con người nguyên sơ Purusha[1] bị sát tế, các
thần đã phân chia thân thể ấy mà làm nên 4 tập cấp cao thấp khác nhau:
Khi các thần phân xẻ
Con người,
Họ làm nên mấy phần?
Miệng thành gì, cánh
tay thành chi?
Là gì cẳng chân, là
chi bàn chân?
Miệng thành tế sư
(brahmana)
Cánh tay thành chiến
tướng (ksatriya)
Cẳng chân nên
công-nông (vaisya)
Bàn chân nên nô bộc
(sudra).
Rigveda X.90
Có điều quyển X của sách Rigveda
tập hợp những bài kinh khá mới, riêng bài kinh 90 chỉ có mặt sau công nguyên,
cốt ý giải thích một tình trạng xã hội sẵn có rồi, đồng thời xác định địa vị
cao nhất của tế sư. Chứ hẳn nhiên trước đó, địa vị cao nhất phải thuộc về giai
cấp cai trị là ksatriya (do chữ ksatra là việc cai trị) từ đó chọn ra vua và
những sỹ quan trong quân ngũ cùng với người cai quản trong vương quốc. Bằng
chứng được tìm thấy trong bộ sử thi vĩ đại Mahâbhârata được hoàn tất vào thế kỷ
II trước công nguyên, trong đó rõ ràng địa vị của vua và ksatriya là cao nhất.
Thật ra, cách đây 3.500 năm, sau
khi dân Ârya từ Tây-Bắc sang xâm lăng Ấn Độ, tại xứ sở này chỉ có 2 giai cấp:
giai cấp thống trị là Ârya da trắng và giai cấp bị trị, gọi daisyu hay man di,
là người Ấn da đen. Chính vì thế, tiếng dùng để chỉ tập cấp là
Có 4 tập cấp chính: tế sư, vương
tướng, công nông và nô bộc, trong đó chỉ 3 tập cấp trên có khả năng tôn giáo.
Thật ra, khả năng ấy đầy đủ nhất là ở tập cấp tế sư, balamona (brahmana). Và
cũng chỉ balamona mới học hành cao, và phải cố sống theo 4 giai đoạn (âsrama)
của bộ luật Manu: lúc niên thiếu thì làm tập sinh (brahmacârin), thụ huấn với
một sư phụ; lớn lên thành cư sĩ (grihastha), nghĩa là lập gia đình, có bổn
phận tế tự; khi đã lo cho con cái thành gia thất thì vô ẩn tu trong rừng; đợi
khi lòng thoát tục, sẽ đi lang thang và trở thành tu sĩ bỏ đời, chờ ngày giải
thoát hay giác ngộ.
Như đã nói trên, thuộc tập cấp
khác nhau thì khó tiếp xúc với nhau. Nhất là không thể tiếp xúc với người ngoại
tập cấp (outcastes), vì bản chất họ dơ dáy, bất khả xúc (untouchables). Chỉ cần
bóng họ đi qua, phủ lên thức ăn, là thức ăn ấy phải đổ đi, không ăn được nữa.
Biết như thế, ta mới hiểu sự trruyền giáo xuyên tập cấp là điều khó khăn thế
nào.
Sự bế tắc truyền
giáo ở Madurai vào đầu thế kỷ XVI
Theo đạo lúc ấy rất ít người, và
hết thảy thuộc tập cấp bất khả xúc (Pariah, Dalit). Trước hết, đó là dân
Paravers mò ngọc trai. Vì bị người Hồi đoạt hết miếng ăn và đàn áp khốn khổ,
nên họ chạy đến xin quân Bồ che chở, và quân Bồ đánh đuổi lũ cướp biển Hồi
giáo, giúp Paravers trở lại với nghề mò ngọc trai cũ. Do đó mà họ theo đạo
đông. Cho đến năm 1537, tất cả đã chịu Phép rửa, khoảng 20.000 người, nhưng gần
như không được dạy dỗ gì, lại chỉ có một linh mục coi sóc thôi. Năm 1542, Thánh
Phanxicô Xaviê tới, thấy họ dốt giáo lý quá, nên dừng lại một thời gian để dạy.
Loại người thứ hai theo Kitô
giáo là một số rất ít những cô gái thuộc tập cấp rất thấp hay ngoại tập cấp,
họ theo đạo để lấy chồng Bồ, nhờ đó được cấp phát nhà cửa và ruộng đất tịch thu
từ người Hồi giáo.
Người theo Kitô giáo thuộc cả
hai loại, đều ăn mặc như Bồ, ăn thịt như Bồ và sống theo cách Bồ, nên họ bị
người Ấn ghê tởm và xa lánh. Nhất là từ khi có Sắc dụ 1546 của vua Bồ, ra lệnh
cấm thờ thần tượng trong vùng thuộc địa của Bồ Đào Nha; riêng tế sư nếu bị bắt
quả tang tiếp tục hành nghề, sẽ bị tù khổ sai và tịch biên gia sản. Vì thế,
người Ấn càng ghét Bồ và ghét người theo đạo Bồ, mà họ gọi là Prangui một cách
khinh bỉ. Không may là các thừa sai, phần vì dốt tiếng Tamil và không hiểu
phong tục Ấn, phần khác ít tiếp xúc với người Ấn học thức nên không hiểu họ
nghĩ gì, nên tự đồng hoá mình với Prangui, để rồi thay vì hỏi ai đó có muốn
theo Kitô giáo không, thì lại hỏi: Có muốn gia nhập tập cấp (markam, vedam,
kulam) Prangui không?
Như thế, làm gì có ai vì tôn
kính mà theo Kitô giáo đây? Sau 12 năm trời làm việc, Cha sở Fernandez không
kiếm nổi dù chỉ một tân tòng, đành làm phép rửa gấp gáp “in articulo mortis”
cho mấy kẻ hấp hối, thế thôi. Tình trạng bi đát đến nỗi Cha Giám tỉnh Dòng Tên
Laerzio phải than thở:
- “Sự ghê tởm của dân Ấn đối
với người Bồ hay Prangui, đi kèm với nỗi lo mất danh hiệu quý tộc để rồi bị
(đồng bào) khinh bỉ mãi mãi, chính những điều ấy khiến người ta không cách nào
theo Kitô giáo được. Truyền giáo kiểu này, đi đôi với sự dốt tiếng Tamil, đã
gây những hiểu lầm thực vô cùng tai hại.”
Đang lúc Cha Laerzio và Đức Tổng
Giám mục Roz, cũng Dòng Tên, lâm cảnh bế tắc không lối thoát như thế, thì Trời
gửi đến cho họ một cứu tinh, Cha Roberto Di Nobili!
Cha Di Nolili và
cuộc cách mạng truyền giáo ở Madurai
Roberto sinh năm 1577 ở Rôma, từ
dòng họ quý tộc danh tiếng Di Nobili, trong đó có Giáo hoàng Julius III (trị vì
từ 1550 đến 1555) và một số hồng y, mà vị đang sống lúc ấy là Hồng y Sforza,
con nữ bá tước Sforza Di Santa Fiore. Hồng y này, vì thấy Roberto học rất giỏi,
nên đặt nhiều kỳ vọng vào người em họ của mình, mong ít là cậu cũng trở thành
hồng y như mình.
Thế nhưng Roberto lại nuôi một
tham vọng ngược lại, cậu muốn vô Dòng Tên, mà dòng này muốn các thành viên phải
lánh xa những chức tước như hồng y và giám mục. Thế là Hồng y Sforza bèn vận
động cả gia tộc chống lại ý định trên của Roberto, khiến cậu bé 16 tuổi phải
“đào vi thượng sách”, một mình vượt biên giới đến ẩn lánh ở vương quốc Napoli,
trong dinh của nữ công tước Di Nocera, tên Anna Carafa. Bà này cho cậu hầu cận
hai năm bên mình, và giúp cậu tiếp tục việc học. Trong khi ấy, bà cũng dùng thế
lực của mình mà vận động gạt bỏ những rào cản từ phía gia tộc Di Nobili. Cuốii
cùng, một cách “không kèn không trống”, Robeto đã có thể vô tập viện dòng Tên ở
Ngay khi còn ở nhà tập, Roberto
đã bày tỏ ý nguyện muốn được đi truyền giáo bên Ấn. Một lần nữa, sóng gió lại
nổi lên từ phía dòng tộc Di Napoli, nhưng Roberto cương quyết giữ nguyên ý định
của mình. Cuối cùng, Cha Tổng quyền D.T. Aquaviva phải can thiệp, và gia tộc Di
Nobili chịu lui bước.
Với ý chí kiên cường đi đôi với
tài học như vậy, lắm người đã thấy trước được những gì phi thường cha sẽ thực
hiện ở phương trời xa xôi kia.
***
Di Nobili xuống tàu năm 1604 và
cập bến
Ở
Vì thế, để bắt đầu, cha ra ở
riêng để khòi dính dấp tới người Bồ và Prangui. Đồng thời, cha dành hết thời
gian để học kỹ ngôn ngữ Tamil, không phải thứ Tamil bình dân, mà Tamil văn học.
Cha cũng học kỹ tiếng Sanskrit, nhờ đó đi sâu vào Veda và các kinh thư khác của
Bàlamôn giáo[2]. Qua hai ngôn ngữ này, dần dà cha nắm vững được các vấn đề văn
hoá-xã hội-tôn giáo của chung xứ Ấn và của riêng miền Nam.[3]
***
Bằng cách ra ở riêng, ăn vận và
sống theo kiểu các tu sĩ bỏ đời, cha tỏ ra cho thấy cha thuộc dòng quý tộc
Rôma, cũng là một samnyâsin sang truyền bá nền minh triết (vidya) đích thực.
Quả thế, cha ăn chay chứ không ăn thịt như Prangui và người Bồ, cha cũng bỏ
giày mà đi guốc, lại mặc áo cà sa, quấn khăn, mang dây đeo balamona (có Thánh
giá) và để chỏm tóc kudumi. Cha lại sống cô độc ở nơi thanh vắng và ít tiếp
khách. Riêng về mặt kinh thư Ấn giáo, khi tranh luận cha có thể trưng thuộc
lòng bất cứ đoạn nào, y như một balamona thông thái vậy. Số là cha được học với
một balamona uyên bác, tên Shiva-dharma, và ông này, cảm phục vì đức độ và sự
thông minh của cha, đã chép tay các kinh thư cho cha học, trong khi những sách
thánh này, đáng lẽ chỉ hàng balamona mới có quyền tiếp cận thôi.
“Tiếng lành đồn xa, tiếng dữ đồn
xa”, chẳng bao lâu khắp xứ nghe bàn tán về nhà tu hành quý tộc da trắng ấy, và
khá nhiều balamona cùng quan chức
Dĩ nhiên là trước khi thi hành
những thay đổi như thế, cha đã thỉnh ý cha Giám tỉnh, còn vị này thì bàn với
Đức cha Roz. Cả hai vị, cùng với Đức Giáo trưởng Goa đặt rất nhiều kỳ vọng vào
phương pháp mới này, mong rằng nó mở được cánh cửa
Và xảy ra đúng như vậy. Ngay năm
đầu tiên đã có 50 tân tòng, trong số đó có chính balamona thông thái Shivadharma,
thầy dạy ngôn ngữ của cha. Ông này, sau 20 ngày tranh luận với cha, mỗi ngày 5
giờ, đã chịu khuất phục và chịu Phép Rửa dưới tên mới là Alberto. Một khi đã
thành Kitô hữu, ông trở nên một nhà truyền giáo hăng say, và nhiều người quý
tộc theo gương ông.
Cánh cửa đã mở, và thành công
lớn không ngờ, khiến Đức cha Roz phải reo lên trong bức thư gửi Cha Tổng quyền
Aquaviva như sau:
- “Thế là Cha Roberto tốt lành
ấy đã đi trước hết mọi người - tôi tin như thế - để nhờ sự linh ứng rất đặc
biệt của Chúa Thánh Thần, cha tiến vào thành phố Madurai vĩ đại, thủ đô của
thần tượng cũng như của nền bác học balamona… Cha đã ăn mặc và sống theo người
địa phương, từ bỏ hết mọi tiện nghi thể xác cùng với quốc tính của mình. Cha đã
học được 3 ngôn ngữ rất khó [tamil, sanskrit, telougou], đã hiểu sâu những bí
nhiệm thần thánh Ấn giáo… Tôi đã trao đổi với cha Roberto về ngôn ngữ và phong
tục địa phương. Nghe cha, tôi rất ngỡ ngàng. Tôi nghĩ mình cũng nắm được phần
nào ngôn ngữ [tamil] ấy, nhưng tôi phải thề trước Phúc Âm rằng: không ai có thể
ngờ cha đã thể hiện ngôn ngữ nói trên một cách tự nhiên đến vậy, cũng như đã
sống khổ hạnh đến độ ấy.
***
“Sau khi Đức Giáo trưởng Menezès
biết truyện, nhất là khi thấy Cha Roberto đã lôi kéo được một số balamona vào
đạo, thì ngài cảm động vô cùng. Ngài còn thêm câu phát biểu tuyệt vời như sau:
“Tạ ơn Chúa nếu số người sống đạo hạnh theo gương Cha Roberto cũng đông bằng số
kẻ gièm pha lối sống của cha! Riêng tôi, tôi chẳng ngại đeo 600 dây balamona
chỉ vì sự cứu độ dù của một linh hồn!”
Và cứ vậy công cuộc truyền giáo
tăng tốc. Nên nhớ, không như trước kia khi người theo đạo là kẻ ít học, và họ
theo đạo chỉ vì cái lợi vật chất trước mắt thôi. Chứ người theo đạo bây giờ là
người có học: họ tự đến nghe giảng, tranh luận, rồi mới quyết định. Công việc
tuy bận rộn, nhưng đầy hưng phấn, và một số linh mục, như Cha Vico, cũng tới
gia nhập đoàn quân viễn chinh. Dù bị cấm làm phép rửa trên mười năm, nhưng khi
Cha Roberto qua đời năm 1656, đã có 40.000 người theo đạo. Con số sẽ thành
75.000 vào đầu năm 1688, và vào đầu thế kỷ sau, vọt
tới trên 100.000.
Đất bằng nổi sóng
Một cuộc thay đổi lớn, đến đảo
lộn tất cả như thế, sao khỏi gây sóng thần.
Sóng gió bắt đầu từ chính hàng
tế sư Ấn giáo. Trước đó, chỉ có ngoại tập cấp theo “đạo Bồ” thôi, nên không mấy
ai quan tâm. Nhưng nay thì đã có hàng quý tộc, thậm chí balamona tới làm đệ tử
người samnyâsin xa lạ kia, nên sự việc ấy làm chấn động
May mắn thay khi ấy, một bạn
thân của cha rất có thế lực tại triều đình đứng ra bênh đỡ cha. Không chịu
thua, 800 tế sư tập họp lại để nghe một người tố cáo cha. Lần này, chính ông
thầy dạy ngôn ngữ cho cha đứng lên phản bác. Ông nói khéo léo đến nỗi, thay vì
luận tội cha, các tế sư lại đem lòng kính trọng nhà tu hành thoát tục da trắng
ấy.
Một lần khác, trong đám dân mò
ngọc trai có kẻ tới xúi giục đệ tử cha, rằng họ bị cha đánh lừa, rằng chính cha
cũng chỉ là một prangui, và thứ muối cha cho họ ăn lúc chịu phép rửa, cũng như
chính phép rửa, đều thuộc nghi thức gia nhập prangui. Thế là nhốn nháo cả lên,
và một số bỏ cha. Không sao được, cha đành phải viết rõ trên lá tán treo trước
cửa nhà, rằng cha thuộc dòng quý tộc Rôma, chứ không phải prangui gì cả.
Dẫu sao chăng nữa những khó khăn
từ phía dân Ấn chỉ là chuyện nhỏ so với những chống phá cha gặp từ chính anh em
đồng đạo của mình, các thừa sai dòng Tên.
***
Quả thế, sóng gió nổi lên từ
phía anh em dòng Tên, bắt đầu là Cha Gonsalo Fernandez.
Để giúp Cha Roberto dễ thi hành
kế sách mới, Cha Giám tỉnh Laerzio bèn sai Cha Fenandez đi công tác một thời
gian ở bờ biển. Lúc trở về, cha này thấy cha phụ tá làm đảo lộn tất cả, và hình
như muốn dạy mình một bài học.
Quả vậy, Roberto bỏ hẳn cách
sống quen thuộc của các thừa sai. Cha ăn mặc theo địa phương chứ không theo Bồ,
nói tiếng Tamil chứ không nói tiếng Bồ, ăn chay chứ không ăn mặn như các anh em
khác. Nhất nữa còn tuyên bố thẳng thừng: để thành Kitô hữu, người ta không phải
trở thành Prangui, lại cứ việc giữ nguyên cách phục sức và tắm rửa theo tập cấp
của mình. Nên nhớ, cách phục sức và tắm rửa đó vẫn bị các thừa sai coi là dị
đoan. Sự việc càng trở nên rắc rối khi Roberto rời bỏ xứ đạo mà ra ở riêng, rồi
làm nhà thờ riêng luôn.
Tức giận, Fernandez đi gõ cửa
mọi nơi để kiện. May mắn cho cha, đúng lúc ấy, có một Kinh lược sứ (Visiteur)
đến thanh tra 2 tỉnh dòng Tên là
Trong khi ấy ở Rôma, với các báo
cáo của Kinh lược sứ, người ta tưởng như Roberto đã
cài đạo sang Ấn giáo, khiến cả những bạn thân của Roberto, như Hồng y
Bellarmino, cũng trách cứ cha. Năm 1613, Cha Tổng quyền Aquaviva gửi thư sang
Madurai, tuy vẫn ủng hộ cách làm của Roberto, nhưng phải tỏ ra dè dặt hơn,
khiến Pimenta và giám tỉnh mới có thể giải thích thư ấy theo hướng suy nghĩ của
mình, nhờ đó thắt chặt hoạt động của nhóm Roberto. Vâng, giám tỉnh mới, một mặt
ngăn chặn thư từ trao đổi giữa Roberto với Đức cha Roz, mặt khác cấm cha không
được làm thêm Phép Rửa nào nữa. Phe địch còn tìm cách mua chuộc một vài đệ tử
của Roberto để họ bỏ cha và đứng lên tố cáo cha.
Thế nhưng, chưa kịp hoàn thành ý
nguyện là bãi bò sứ vụ Roberto, thì giám tỉnh mới đột ngột qua đời năm 1615.
Cùng lúc, Rôma cũng hiểu ra vấn đề, và cả Aquaviva lẫn Bellarmino đều trấn an
Di Nobili. Rồi khi Tổng Giám mục mới của Goa muốn ép cha từ bỏ kế sách truyền
giáo của mình, thì năm 1616, bằng Đoản sắc (bref) Cum sicut Fraternitas, Đức
Phaolo V hết lòng khen ngợi Di Nobili và căn dặn phải nghiên cứu kỹ phong tục
xứ Ấn để thích nghi trong việc truyền giáo. Đến lúc Tổng Giám mục nói trên quay
sang Toà Thẩm sát (Inquisition) Lisbonne để xin kết án cha, thì Thẩm sát
trưởng lại khuyên ông phải tuân phục Toà Thánh.
Không chịu thua, Tổng Giám muc
Cuối cùng, bằng Sắc dụ (bulle)
Romanae Sedis Antistites ký năm 1623, Đức Gregorio XV chính thức cho phép các
balamona theo đạo được đeo dây balamona và để chỏm tóc kudumi.
12 năm sóng gió (1613-1624) và
bị cấm làm Phép Rửa, đã khiến công cuộc truyền giáo của nhóm người cách mạng bị
chựng lại rất nhiều. Sóng gió ấy nay đã yên, Cha Roberto đi lập thêm căn cứ ở
những vùng xa xôi, như Tiruchirapalli và
Tuy biển đã lặng, nhưng vẫn còn
những cơn giông nho nhỏ. Nhất là khi về già, cha không được sống già giữa những
người thân tín và con chiên của mình. Lấy cớ là để cha được nghỉ hưu, người ta
điều cha tới tận Sri Lanka từ 1646 đến 1648, rồi khi được trở về Ấn Độ, cha lại
phải ở xa tít về phía Bắc của Tamil Nadu, tại Madras. Khi ấy cha đã 71 tuổi,
hoàn toàn mù loà, nhưng vẫn sống đời sống khổ hạnh của một samnyâsin. Cả Kitô
hữu lẫn người Ấn giáo đều gọi cha một cách kính cần, là Cha thánh. Cha qua đời
năm 1656.
Sau khi Roberto đã ly trần được
80 năm, cuộc tranh cãi về phương pháp mới một lần nữa được khơi dậy, gây thiệt
hại thêm cho việc truuyền bá Phúc Âm. Phải chờ sang thế kỷ XX, cánh cửa mới
được mở hẳn, và một số thừa sai, như Jules Monchanin và Henri Le Saux đã có thể
tiến xa hơn Roberto Di Nobili trong con đường hội nhập văn hoá, mà chẳng ai
bắt bẻ gì nữa. Đó là đi vào con đường tu luyện và huyền nghiệm của các sâdhu,
và đây mới là thế mạnh của Ấn Độ huyền nhiệm. [5]
Nhìn lại để tổng kết
Với quan niệm Mọi người bính
quyền bình đẳng hiện nay, khó ai còn có thể chấp nhận sự kỳ thị giai cấp, nói
chi đến chế độ tập cấp quá khắc nghiệt của Ấn Độ thời ấy. Gần đây, hiến pháp
của Ấn Độ độc lập đã xoá bỏ tập cấp, tuy một số người bảo thủ vẫn cố níu kéo
lại. Những nhân vật như M.K. Gandhi và R. Tagore, cùng với những phong trào
canh tân như Brahmo Samaj đều cương quyết đấu tranh cho sự bình đẳng, và cho
một tình huynh đệ không bất cứ biên giới nào.
Vì thế, để hiểu con đường truyền
giáo dựa theo tập cấp của Di Nobili, chúng ta phải đặt mình vào thế kỷ XVI,
XVII khi mà bên Tây phương vẫn còn nặng sự phân chia giai cấp, giữa một bên là
hàng quý tộc và bên kia là các nông nô. Quả thế khi ấy, đất đai thuộc hết về
lãnh địa của các công tước, hầu tước, bá tước, tử tước, nam tước. Dân chúng còn
lại trở thành nông nô cho họ, làm cật lực mà chỉ được giữ lại phần nhỏ hoa màu
để tạm sống thôi. Và cũng chỉ hàng quý tộc mới được làm quan trong triều, làm
tướng lãnh trong quân đội, làm giám mục hay tu viện trưởng trong tôn giáo. Vâng,
khi ấy, cả trong Kitô giáo, người ta cũng chấp nhận sự phân biệt giai cấp như
một điều tự nhiên, và chưa ai ý thức gì về quyền được đối xử bình đẳng của mọi
người.
Trong thời kỳ mà cả bên Âu lẫn
bên Ấn, người ta coi phân biệt giai cấp là điều tự nhiên như thế, Roberto Di
Nobili chỉ có ý khai phá một con đường cho những giai cấp cao nói riêng, cho
dân Ấn nói chung, có thể tiếp cận Tin Mừng, thế thôi. Chính những kẻ chống đối
cha, họ cũng không hề chống đối vì chủ trương bình đẳng, mà chỉ vì tưởng lầm việc
đeo dây balamona và mang chỏm tóc kudumi,… là dị đoan. Điều đáng trách nơi họ,
là trước khi đem Tin Mừng đến một vùng trời xa lạ, họ đã không chịu đi sâu vào
ngôn ngữ và văn hoá địa phương, hầu giúp Kitô giáo nhập thể vào văn hoá ấy.
Vâng, vì kiêu ngạo, họ chỉ biết ban phát chứ không thèm ngửa tay ăn xin, điều
ấy đi ngược với con đường nhập thể trọn vẹn của Ngôi Hai Thiên Chúa.
-------------------------
[1] Về huyền thoại
Con người nguyên sơ trên thế giới và bên Ấn, xin đọc Hoành Sơn Hoàng Sĩ Quý, Le
mythe de l’Homme cosmique dans son contexte culturel et dans son évolution,
trong Revue de l’Histoire des Religions, avril-juin 1969, tr. 133-154.
[2] Ấn giáo chia
thành Vishnu giáo và Shiva giáo. Bàlamôn giáo là hướng đi tôn giáo truyền
thống, đặt nền trên kinh thư cổ điển là các Veda, các Brahmana, các Aranyaka và
các Upanishad.
[3] Tamil là ngôn
ngữ phổ thông ở miền
[4] Bên Tây phương,
người ta quen lấy tên một vị thánh mà đặt tên cho con mình, nhưng không luôn
như thế. Thánh Gemma chẳng hạn, vì bố mẹ già rồi mới sinh được một mụn con, nên
quý như ngọc, và đặt tên Gemma, nghĩa là Ngọc; chứ trước đó, chẳng có thánh nào
tên Gemma cả. Sau này, vì các thừa sai quen lấy tên một thánh mà đặt tên Phép
Rửa trong xứ truyền giáo, nên giáo luật cũ mới theo thói quen ấy mà ấn định làm
như vậy, nhưng bên các xứ truyền giáo thôi. Nhưng đây là việc xảy ra sau này.
Đến 1972, vì thấy việc đặt tên thánh không tốt cho hội nhập văn hoá, nên Thánh
bộ Phụng tự đã bãi bỏ.
[5] x. Hoành Sơn, Một
chứng từ của Đttg bề sâu: Henri Le Saux, trong Sống đạo với Phương Đông,
tr. 14-24.
(emty.org 25/05/2012 - 11:21:13)