LOAN BÁO TIN MỪNG
“Anh Em hảy đi khắp tứ phương
thiên hạ,
Loan báo Tin Mừng cho mọi loài
thụ tạo” (Mc 16,15)
Chúa Giêsu đã thiết lập Giáo Hội với sứ mạng loan báo Tin Mừng: “Anh em
hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo”
(Mc 16,15). Đây là một sứ mạng lớn lao mà Đức Kitô đã uỷ thác
cho toàn thể Giáo hội. Giáo Hội từ hơn hai ngàn năm qua đã cố
gắng thi hành bổn phận này dưới sự soi dẫn và thúc đẩy của Chúa Thánh Thần, qua
gương mẫu đời sống, lời giảng dạy và các Bí tích, để dẫn đưa mọi người đến với
đời sống đức tin.
Có rất nhiều phương
thế để loan báo Tin Mừng. Dù bằng phương thế nào, thì hoạt động của Giáo Hội
bao giờ cũng phải đặt sứ vụ truyền giáo lên mức ưu tiên hàng đầu. Sứ vụ đó luôn
bao gồm một lời công bố rõ ràng: “Trong Đức
Kitô… ơn cứu độ được cống hiến cho mọi người, như một quà tặng của ân sủng và
lòng thương xót của Thiên Chúa; đó chính là nền tảng, là tâm điểm, và đồng thời
là tột đỉnh của động năng việc rao giảng. Mọi hình thức hoạt động truyền giáo đều
hướng tới việc rao giảng này, nó tỏ lộ và dẫn tới mầu nhiệm vốn được giữ kín từ
bao thế hệ và đã được mặc khải trong Đức Kitô - tâm điểm của việc truyền giáo”
(x. RM 44; EN 22).
1.
Giáo Hội xác tín về sứ mạng của mình
Công Đồng Vat. II diễn đạt
về Giáo Hội như sau: “Tự bản tính, Giáo Hội lữ hành là truyền giáo (thừa sai),
vì chính Giáo Hội bắt nguồn từ sứ mạng của Chúa Con và Chúa Thánh Thần theo ý định
của Thiên Chúa Cha” (AG 2).
Ba
Ngôi không chỉ là nguồn mạch cho sự hiện hữu và bản chất thừa sai của Giáo Hội,
nhưng còn là cùng đích: “Giáo Hội vừa cầu nguyện vừa hoạt động để toàn thể
vũ trụ biến thành Dân Thiên Chúa, Thân Thể Chúa Kitô và Đền Thờ Chúa Thánh Thần,
và trong Chúa Kitô là thủ lãnh muôn loài, mọi danh dự và vinh quang được dâng
lên Chúa Cha Đấng Tạo Thành vũ trụ” (LG 17).
Chính niềm tin vào Đức Kitô
là Đấng cứu độ duy nhất và phổ quát mà thúc đẩy những Kitô hữu đầu tiên trở thành
những nhà truyền giáo (x. Cv 4,10-12). Sự mặc
khải và ban tặng nầy là duy nhất và chuẩn mực cho tất cả, nên sứ vụ Kitô giáo
mang một giá trị liên tục và cấp thiết. Đánh mất sự tập trung vào Đức Kitô trong việc Phúc Âm hóa
là đánh mất căn tính của sứ vụ Kitô giáo. Xấu hổ về Đức Kitô là kết quả của sự xấu
hổ về sứ vụ Kitô giáo, và cuối cùng là xấu hổ về Thiên Chúa và nhân loại. Đức Kitô
là con đường duy nhất cho Giáo Hội, cho mỗi người và mọi người, để dẫn đưa tất
cả về nhà Cha (x. RH 38).
Trong sứ mạng này, Giáo
Hội biết rằng, ý muốn cứu độ của Thiên Chúa nơi Đức Kitô thì không đối lập, không
độc lập, cũng không chạy song song với các trung gian cứu độ của những tôn giáo
khác, nhưng chúng thành lập một điều cơ bản cho nhau.
Đức Gioan Phaolô II đã minh
định: “Tuy không loại trừ những thứ loại và cấp bậc trung gian khác, nhưng
những trung gian nầy chỉ có thể có ý nghĩa và giá trị do từ trung gian duy nhất
của Chúa Kitô, và những trung gian đó không thể được coi là song hành hay bổ
sung cho trung gian của Đức Kitô” (RM 1).
Trước bối cảnh đa phức tôn
giáo hôm nay, thì nhiệm vụ của chúng ta là mạnh dạn dấn thân vào con đường đối
thoại với tất cả khả năng của trí tuệ, sức mạnh của con tim và niềm tin tưởng lạc
quan nơi quyền năng Thiên Chúa, Đấng tác tạo và hướng dẫn muôn vật theo kế hoạch
yêu thương nhiệm mầu của Ngài.
Giáo Hội xác quyết
rằng, “Sứ mệnh truyền giáo của Giáo Hội,
cũng như sứ mệnh của Chúa Giêsu, là công việc của Thiên Chúa, hay nói theo thánh
Luca, là công việc của Chúa Thánh Thần” (RM 24). Chúa Thánh Thần là tác
nhân siêu việt và chính yếu của sứ vụ Giáo Hội. Chính Ngài thúc đẩy mỗi người loan
báo Tin Mừng, và từ chiều sâu ý thức, Ngài làm cho người ta đón nhận và hiểu Lời
cứu độ. Cũng chính Ngài liên tục gieo những hạt giống chân lý giữa các dân tộc,
tôn giáo, văn hóa và triết học của họ (x. RM 36).
Nhờ Chúa Thánh Thần, vị Thầy Nội Tâm, gương mặt và giáo huấn của Chúa Kitô
sẽ tỏ hiện lên trong lòng người đón nhận, và đặc biệt hơn trong chính cuộc đời
và bản thân của người truyền giáo. Do đó, trong việc truyền giáo, đời sống nội
tâm của người truyền giáo là vấn đề căn bản để cho các hoạt động, lời nói và
chính đời sống mình trở nên dụng cụ trung thực và sống động của Chúa Thánh Thần.
2.
Ý nghĩa và nội dung của việc Truyền Giáo [1]
“Truyền giáo” là một danh từ có gốc tiếng Latinh: Missio, động từ là Mittere.
Một trong những nghĩa thường được hiểu là gửi
đi, sai phái đi để làm một công tác
quan trọng. Chính Đức Giêsu được Đức Chúa Cha sai đến trần gian để cứu độ con
người và mọi loài thụ tạo, và các môn đệ cũng được Đức Giêsu sai đi trong sứ mạng
cao cả này.
Chúng
ta nói nhiều đến việc truyền giáo, nhưng mỗi người lại hiểu theo một ý nghĩa và
khía cạnh khác nhau, khiến nó dễ trở nên nhập nhằng. Vì thế, cần xác định lại ý
nghĩa và mục đích của công việc truyền giáo theo giáo huấn chính thức của Giáo Hội.
Ở đây chỉ nhắc lại giáo huấn của Công đồng Vaticanô II trong sắc lệnh truyền
giáo “Ad Gentes” (Đến với muôn dân) và
Thông điệp “Redemptoris Missio” (Sứ mệnh
Đấng Cứu Thế).
a. Theo “Ad Gentes” số 6:
- Công việc truyền giáo là công tác tông
đồ đối với anh chị em chưa biết Chúa Giêsu. Tiêu chuẩn để xác định việc
truyền giáo là tiêu chuẩn Đức Tin chứ không phải tiêu chuẩn kinh tế
(người nghèo hay giầu), xã hội (người bị bỏ rơi, bị áp bức) hay
chủng tộc (sắc dân).
- Mục đích cụ thể là rao giảng và làm
chứng cho Chúa Giêsu và Tin Mừng của Ngài, để người ta biết và tin vào
Ngài. Sau đó, qui tụ những người tin thành cộng đoàn, nghĩa là thiết
lập các Giáo Hội địa phương.
Tuy nhiên, vẫn còn những vấn
đề phải nêu lên mà phải đợi đến 25 năm sau với Thông điệp “Sứ mệnh Đấng Cứu Thế” mới xác định rõ ý nghĩa của việc truyền
giáo và đặt nó trong tương quan với các công tác tông đồ khác.
b. Theo Thông điệp “Redemptoris Missio”, số 33-34 & 37.
Truyền giáo là rao giảng cho mọi người những
gì Chúa Giêsu đã truyền dạy và dẫn dắt họ trở thành môn đệ của
Ngài, rửa tội cho họ: “nhân danh Cha và Con và Thánh Thần” (Mt
28,19-20). Đây là sứ mệnh duy nhất của Giáo Hội và phải được thực hiện
mọi nơi, mọi đời. Tuy nhiên, Thông điệp phân chia đối tượng của sứ mệnh
Giáo Hội thành 3 nhóm, với 5 công tác khác nhau, mỗi công tác có mục
đích và đặc tính riêng của nó, như mô hình dưới:
Mặc dù phân chia như trên, nhưng thực tế, việc Tân
Phúc Âm hóa và truyền giáo gắn kết làm một với nhau. Như Đức Gioan Phaolô II đã
nói: “Tôi
thấy đã đến lúc phải huy động tất cả sức lực của Giáo Hội vào việc tân phúc âm hóa và vào công việc truyền giáo. Không tín hữu
nào của Chúa Kitô, không cơ cấu nào của Giáo Hội có thể đứng ngoài lề bổn phận
tối hậu này là rao giảng Chúa Kitô cho mọi dân tộc” (RM 3). Không thể
truyền giáo nếu thiếu Tân Phúc Âm hóa, vì đó là công tác tông đồ cho một đối tượng
cụ thể là những giáo dân trong tình trạng đức tin đã cũ kỹ, hao mòn và lệch lạc,
để giúp họ sáng lên một niềm tin mới sâu xa và linh động hơn.
Làm sáng
lên một niềm tin mới không phải vì nội dung Phúc Âm đã thay đổi, hay việc rao giảng
Phúc Âm trước đây không đúng, nhưng vì con người hôm nay đã thay đổi não trạng
và cái nhìn về mọi phương diện, cách riêng là phương diện tôn giáo, luân lý. Chẳng
hạn những gì là tội từ bản chất giờ đây biến thành bình thường trước trào lưu của
xã hội vô thần và tục hóa. Tân Phúc Âm hóa là làm mới lại lòng xác tín sâu xa về
Lời Chúa, mới về lòng nhiệt thành, mới về
phương pháp và cách diễn tả,[2] cho phù hợp với con người thời đại, để tinh
thần Phúc Âm có thể thấm nhập vào mọi sinh hoạt của con người.
Đức Gioan Phaolô II đã nói
đến những tình trạng phải được Tân Phúc Âm hóa như sau: “Nhiều quốc gia, trước đây có một đời sống Kitô phồn thịnh và có khả năng
làm phát sinh những cộng đồng đức tin sống động, nay bị thử thách nặng nề hay
có khi bị biến đổi sâu sa vì những hiện tượng thờ ơ, tục hóa và vô thần... Tại
các vùng khác trên thế giới, các truyền thống đạo đức và các tâm tình công giáo
vẫn còn được bảo tồn sống động, nhưng các gia sản thiêng liêng đó đang gặp nguy
cơ bị tan biến dưới sức mạnh của nhiều trào lưu, trong đó có trào lưu tục hóa
và sự lan tràn của các giáo phái. Chỉ có cuộc Tân Phúc Âm hóa mới có thể đoan
chắc cho đức tin thăng tiến tinh nguyên và sâu xa, có khả năng làm cho những truyền
thống ấy trở thành một sức mạnh tự do thật” (CF 34).
Vì vậy mà Thượng Hội Đồng Giám mục 2012 đã khai
triển sâu rộng chủ đề: “Tân Phúc Âm Hóa nhắm
đến việc truyền đạt đức tin”. Điều phải được lưu ý đặc biệt trong việc tân
phúc hóa chính là tinh thần và việc dấn thân truyền giáo. Con số thống kê sau
đây cho ta thấy được mức độ còn bé nhỏ của Công Giáo trên thế giới.
Riêng tại Châu Á, số người
Công giáo ở mức độ quá thấp:
Châu lục |
Dân số |
Công giáo |
Tỷ lệ |
Châu Phi |
993.400.000(+19.983.000) |
179.480.000(+6.530.000) |
18,07% (+0,3) |
Châu Mỹ |
921.824.000(+8.744.000) |
582.012.000(+5.863.000) |
63,14% (+0,04) |
Châu Á |
4.115.586.000(+47.702.000) |
125.860.000(+1.814.000) |
3,06% (+0,01) |
Châu Âu |
710.959.000(+1.850.000) |
284.030.000 (+597.000) |
39,95% (-0,02) |
Châu Đại Dương |
35.830.000 (+967.000) |
9.283.000 (+147.000) |
25,93% (-0,3) |
TC |
6.777.599.000(+79.246.000) |
1.180.665.000(+14.951.000) |
17,42% (+0,02) |
Đứng trước thiên
niên kỷ mới, Đức Gioan Phaolô II đã khuyến khích: “Hơn bao giờ hết, hôm nay Giáo Hội có cơ hội thuận tiện để đưa Phúc Âm
đến cho tất cả mọi người, mọi dân tộc, qua chứng nhân cuộc sống, hoặc bằng lời nói.
Tôi thấy đang ló rạng một kỷ nguyên truyền giáo và sẽ bừng sáng rạng rỡ và nặng
trĩu hoa trái, nếu tất cả mọi kitô hữu, đặc biệt các nhà tông đồ truyền giáo và
các giáo hội trẻ đáp lại những kêu gọi và thách đố của thời đại với lòng quảng
đại và sự thánh thiện” (RM 92).
3.
Nhìn lại công cuộc truyền giáo tại Việt Nam
Giáo Hội Công Giáo tại Việt
Nam đã mừng kỷ niệm hai sự kiện lớn trong lịch sử truyền giáo của mình: 350 năm
thành lập hai địa phận tông toà và 50 năm thành lập hàng giáo phẩm. Hai sự kiện
này nói lên mức độ trưởng thành của một cơ cấu tổ chức.
Sau khi Lời Sự Sống được
gieo trồng trên quê hương Việt Nam, vì nhiều lý do phức tạp, người ta cố tìm cách
để trù dập hay thậm chí là muốn nhổ tận gốc mầm của Lời Sự Sống. Dưới thời các
vua Minh Mạng, Thiệu Trị rồi Tự Đức, Giáo Hội tại Việt Nam tưởng chừng như không
còn đất sống. Nhưng lạ thay, những cực hình, những đòn tra tấn tàn bạo và những
cuộc bố ráp để diệt tận gốc đã không làm suy giảm đức tin của các tín hữu nhưng
lại làm cho đức tin ấy kiên cường và ngời sáng hơn. Từ năm 1833 đến 1862 là thời
kỳ bách hại đạo nghiệt ngã, nhưng số tín hữu vẫn không ngừng gia tăng từ 320.300
vào năm 1800 lên đến 426.000 vào năm 1855.
Thời kỳ cấm cách qua đi,
bầu trời trở lại bình yên, Giáo Hội có nhiều cơ hội để thể hiện chính mình hơn.
Nhưng nghịch lý thay, càng được yên ổn bao
nhiêu thì công cuộc rao giảng Tin Mừng của Giáo Hội lại càng ít phát triển, nếu không nói là giậm chân tại chỗ.
Theo thống kê của Thánh Bộ Truyền Giáo, chúng
ta thử lấy hai con số cách nhau hơn 30 năm để so sánh số thống kê sau đây:
Năm |
1970 |
1990 |
1993 |
2004 |
2010 |
Dân số |
31.993.143 |
63.286.000 |
70.257.700 |
82.320.147 |
86.927.700 |
Công giáo |
2.679.776 |
4.341.976 |
4.641.677 |
5.667.428 |
6.187.486 |
Tỷ lệ |
8,37% |
6,86% |
6,60% |
6,88% |
7,11% |
Kết
quả so sánh trên cho thấy công cuộc truyền giáo gần như hoàn toàn bị ngưng trệ.
Lý do nào đã đưa đến tình trạng như vậy? Linh mục FX Trần Kim Ngọc có bài viết
về truyền giáo với đề tựa: “Thiếu lửa
truyền giáo tại Việt Nam?”[3].
Đề tài là một câu hỏi, nhưng trong thực chất nội dung là một lời
xác quyết. Tác giả đưa ra 5 lý do vì sao thiếu lửa truyền giáo tại
Việt Nam:
1) Thiếu nhân lực
truyền giáo; 2) Thiếu đào tạo; 3) Thiếu tổ chức; 4) Thiếu mục tiêu;
5) Thiếu cộng tác.
Nói là thiếu nhưng thực tế lại rất thừa trên nhiều phạm vi hoạt động khác của
Giáo Hội, do thiếu sự phân bổ để ưu tiên cho việc truyền giáo. Dù việc truyền giáo
được quan tâm và nói đến nhiều, nhưng không được huy động toàn lực để thực hiện,
mà chỉ là những hô hào, những phong trào, những làn sóng nổi dậy theo từng dịp,
từng lúc, rồi đâu lại vào đấy. Các tổ chức, hội đoàn, dòng tu, giáo phận, giáo
xứ... đều lấy việc truyền giáo làm mục tiêu chính, nhưng lại thiếu đào tạo, thiếu
kế hoạch, nhất là chẳng có tổ chức nào chuyên về việc truyền giáo.
Ngoài ra, còn vài nhân tố
quan trọng khiến suy yếu tinh thần truyền giáo[4]:
- Trước hết là do não trạng
của người Công giáo Việt Nam hôm nay mang nặng tính cách văn hóa gia đình, làng
xóm, cục bộ, chỉ đóng khung trong giáo xứ của mình. Từ đó chỉ lo ganh đua và
hơn thua với nhau về danh giá, lợi lộc và những hình thức bên ngoài, đâu còn thời
giờ và tâm trí để nghĩ đến việc truyền giáo?
- Thứ đến còn do một thứ
tâm lý lệ thuộc và “ăn xin” phát xuất từ cơ cấu văn hóa đẳng cấp thái quá và tình
trạng dân bị trị, nghèo đói. Thứ tâm lý này đưa đến cách suy nghĩ và hành động
trông chờ, xin xỏ chứ không dâng hiến, cho đi.
- Hơn nữa, trong nhiều giáo
xứ, giáo dân ít được gây ý thức về truyền giáo, càng không có tổ chức và kế hoạch
để đưa giáo dân vào hoạt động. Trước tình trạng này, Đức Cha Giuse Đinh Đức Đạo
đã đặt vấn đề phải chăng “Chương trình huấn
luyện trong các Chủng viện, Nhà tập, Học viện…: thiếu môn truyền giáo hoặc có học
mà không có hành, có huấn mà không có luyện”.
Biết rằng phần đông các giáo
xứ đều quan tâm thực hiện công việc bác ái xã hội, chăm lo cho những người nghèo
khổ, tật nguyền, neo đơn, bị bỏ rơi... Nhưng nếu việc bác ái xã hội không gắn
liền với công cuộc truyền giáo thì chẳng ăn nhằm gì! Người nghèo không bao giờ
thiếu trong đời ta (x. Ga 12,8), nhưng cần tận dụng mọi cơ hội để cho họ chính
Đức Kitô (x. 2Tm 5,2). “Chỉ trong Đức Kitô,
chúng ta mới được giải thoát khỏi mọi vong thân và hư hoại” (x. RM 11).
Đức
Gioan Phaolô II trong Thông điệp Redemptoris
Missio cũng cho thấy việc bác ái từ thiện không thể thay thế cho việc loan báo
Tin Mừng. Sứ mạng đến với muôn dân không chỉ ở việc cho người ta cơm áo gạo tiền,
nhưng trên hết phải mang sứ điệp cứu độ của Đức Kitô đến cho họ. Thánh Phêrô đã
làm rõ sứ mạng đó: “Vàng bạc thì tôi không có; nhưng cái tôi có, tôi cho anh đây: nhân
danh Đức Giêsu Kitô người Nadarét, anh đứng dậy mà đi!” (Cv 3, 6).
Trong thông điệp Deus Caritas est, Đức Bênêđictô XVI nhấn
mạnh đến ba chiều kích của Giáo Hội theo thứ tự ưu tiên: rao giảng Đức Kitô (truyền giáo); cử hành mầu nhiệm Đức Kitô (phụng vụ); thực thi đức ái (tông đồ bác ái). Đức Kitô phải là ưu tiên hàng đầu
trong sứ vụ đến với muôn dân.
Dù có bao nhiêu hoạt động
tông đồ khác, nhưng nếu Đức Kitô không được rao giảng thì Giáo Hội vẫn còn cuộn
tròn trên chính mình, không thể phát triển theo ý định của Thiên Chúa.
4.
Truyền giáo: nhiệm vụ của mọi Kitô hữu
Sứ vụ truyền giáo không của riêng thành phần nào trong Giáo Hội mà là
nhiệm vụ của mọi Kitô hữu, như Vat.II đã xác định: “Sứ vụ truyền giáo đòi hỏi tất cả những ai đã chịu phép Rửa Tội đều được
kêu gọi quy tụ vào một đoàn duy nhất, và như thế họ có thể đồng lòng làm chứng về
Chúa Kitô, Chúa của họ, trước mặt muôn dân” (AG 6). Chính Đức Giêsu đã giao
phó sứ vụ đó cho tất cả những ai là môn đệ Ngài, và đòi họ phải trở nên muối men
cho đời và ánh sáng cho trần gian (Mt 5,13-16). Đương nhiên trước hết là các
giám mục, linh mục, tu sĩ, cũng như một số giáo dân được bổ nhiệm và sai đi.
Riêng đối với người giáo dân, Đức Gioan Phaolô II đã xác định trong
Tông huấn Ơn gọi và Sứ mạng như sau: “Các
tín hữu giáo dân, vì thuộc thành phần của Giáo Hội nên được mời gọi và nhận lãnh
sứ mệnh rao truyền Phúc âm: Họ đã được chuẩn bị để dấn thân chu toàn hoạt động
này bằng các Bí Tích của đời sống Kitô hữu và ơn Chúa Thánh Thần”. Hiểu được
như thế, chúng ta cũng có thể thốt lên như thánh Phaolô: “Khốn thân tôi nếu tôi không rao
giảng Tin Mừng” (1 Cr 9,16).
Việc truyền giáo
trước tiên là “vấn đề của đức tin, là thước
đo lường của lòng tin vào Chúa Kitô và tình yêu của Ngài đối với chúng ta” (RM
11). Tin vào Chúa Kitô không đơn thuần là chấp nhận một hệ thống giáo điều hay
một lý thuyết, nhưng chính là sống gắn bó với Chúa Kitô và để cho tinh thần của
Ngài thấm nhập vào tất cả cuộc sống mình. Cũng như cành nho phát sinh và tăng
trưởng tùy thuộc vào việc chúng gắn liền với cây nho (Ga 15,4-5). Trong chiều
hướng này, mỗi tín hữu truyền giáo trước tiên bằng đời sống hơn là lời nói hay
những hình thức bên ngoài (x. RM 23). Đó là một đời sống đã được thấm nhập và đổi
mới nhờ Lời Chúa, nhờ đó góp phần thăng tiến xã hội theo tinh thần Phúc Âm.
Quả thật, không
ai có thể rao truyền Phúc Âm cho người khác nếu tâm hồn chưa được Phúc Âm biến đổi.
Cũng vậy, “không ai có thể làm chứng cho
Chúa nếu không phản chiếu hình ảnh của Ngài” (RM 87). Kinh nghiệm của các tín hữu sơ khai cho thấy đời sống tu đức là căn
bản, và là nguồn sinh lực của việc truyền giáo. Mặc dù thiếu thốn và nhiều khốn
đốn (1Cr 1, 23), nhưng các tín hữu vẫn luôn đồng tâm nhất trí, chuyên cần cầu nguyện
và siêng năng trong nghi lễ bẻ bánh. Họ sống tình yêu thương chan hòa trong sự
chia sẻ với nhau, và nêu cao phẩm chất của đời sống Kitô hữu, do vậy họ “được
toàn dân thương mến” (Cv 2,46).
Nhờ đời sống thánh
thiện của các cộng đoàn sơ khai mà sau một thời gian vắn, Phúc Âm đã lan tràn
khắp nơi. Sự liên kết mật thiết với Đức Kitô chính là nguồn mạch sâu kín và là
mực thước vững chắc cho hoạt động tông đồ và hứng khởi truyền giáo của Giáo Hội.
Tông Huấn Giáo Dân
cũng đã xác định: “Sự thánh thiện là nền
tảng căn bản, là điều kiện không thể thay thế để có thể chu toàn sứ mệnh cứu độ
đã được phó thác cho Giáo Hội” (CL 17).
Vì thế, “chỉ thay đổi các phương pháp mục vụ không đủ;
hoặc chỉ tổ chức hay điều hợp khéo léo hơn các lực lượng trong Giáo Hội... cũng
chưa đủ. Cần phải khơi dậy một bầu nhiệt huyết thánh thiện nơi các thừa sai và cả
trong cộng đồng dân Chúa” (RM 90).
Sự thánh thiện là dấu chỉ đời sống chứng tá hữu hiệu nhất trong việc truyền
giáo, vì “con người thời nay tin vào các chứng
nhân hơn là những thầy dạy, và nếu họ có tin vào các thầy dạy là vì các thầy dạy
ấy đã là những chứng nhân” (Đức Phaolô VI).
5.
Tính cách người truyền giáo
Như Đức Kitô
Khi nói về tính cách truyền giáo tại Á Châu, Hội Đồng Giám Mục đã lên tiếng
như sau:“Sứ mệnh rao giảng Chúa Giêsu trong
môi trường Á Châu đòi hỏi trước tiên các tín hữu, cá nhân và cộng đồng, phải
làm chứng cho các giá trị Nước Trời qua những hành động giống như Chúa Kitô, sống
giống như Ngài giữa những người thuộc các tín ngưỡng và xác tín khác”[5]. Vì
vậy “Điều mà Chúa Thánh Thần đang thôi thúc
đòi hỏi Giáo Hội tại Á Châu trong sứ mệnh tông đồ là trở nên giống và hoàn toàn
đồng hóa với Chúa Kitô và Phúc Âm của Ngài”[6].
Để được như vậy,
người tông đồ phải là người của Thinh Lặng
và Chiêm Niệm.
Thinh lặng là khả
năng lắng nghe để được Chúa chinh phục. Chiêm niệm là bước đường tìm kiếm và gặp
gỡ Chúa, để được chiếu sáng mầu nhiệm linh thánh của Ngài trên mọi tư tưởng và
hành động. Bước đường thinh lặng và chiêm niệm chính là cuộc hành trình tiến tới
say mến Chúa. “Nhà tông đồ truyền giáo, nếu
không phải là nhà chiêm niệm, không thể rao giảng Chúa Giêsu cách đáng tin tưởng”
(RM 91).
Chính Đức Kitô đã
để cho mình được hoàn toàn chi phối bởi kế hoạch của Chúa Cha: “Đây là một sự tự hủy vì tình yêu nên cũng diễn
tả tình yêu” (RM 86). Người truyền giáo cũng thế, cách có hiệu quả nhất để
làm cho thế giới biết Đức Kitô là sự từ bỏ mình để ràng buộc với Ngài, để cho
Ngài chi phối hoàn toàn cuộc sống mình, đến độ có thể nói như Thánh Phaolô: “Tất cả,
tôi làm chỉ vì Phúc Âm” (1Cr 9, 22-23; RM 88).
Trong Chúa Thánh
Thần
Chính thái độ vừa từ bỏ
mình lại vừa ràng buộc với Đức Kitô mà ta có thể tiến bước vững vàng trong Chúa
Thánh Thần, Đấng điều khiển toàn bộ việc rao giảng Tin Mừng. Ngài luôn hiện diện
sinh động trong thế giới, trong tâm hồn mỗi người, trong xã hội, trong lịch sử,
trong các nền văn hóa và các tôn giáo. “Chúa
Thánh Thần là nguồn gốc của các lý tưởng cao đẹp và các sáng kiến tốt của nhân loại
trên đường lữ hành” (RM 28).
Dưới sự hướng dẫn của Ngài,
ta mới có đủ khôn ngoan để nhận ra những nẻo đường nhiệm mầu của Thiên Chúa,
dám lao mình vào những viễn tượng mới của công cuộc truyền giáo và biến đổi các
khó khăn thành những cơ hội mới để rao giảng Tin Mừng (x. RM 87).
“Qua Bí Tích Thêm Sức, chúng ta được trở nên mạnh
mẽ nhờ ơn huệ của Thánh Thần để có thể làm chứng cho Tin Mừng một cách trưởng thành
hơn. Do đó, chính Thánh Thần của tình yêu là nguồn trợ lực cho sứ mạng chúng
ta. Thánh Thần thúc đẩy chúng ta biết “đi ra” khỏi mình và “ra đi” để loan truyền
Tin Mừng”.[7]
Sự vâng nghe Chúa Thánh
Thần sẽ dẫn dắt ta chuyển dần từ đời sống hoạt động sang đời sống thụ động, nhưng
lại linh động hơn đời sống hoạt động. Đó là cách đào luyện của Thánh Thần để ta
đừng bôn chôn thiết lập kế hoạch theo ý mình và đo lường mọi sự theo tính toán
khôn ngoan người đời. Để việc việc vâng nghe Thánh Thần được sâu sát đòi ta phải
luôn thanh lọc bản thân khỏi những tư lợi và ham muốn trần tục, là những thứ dễ
làm mờ tâm trí mình.
Trong tâm tình đó
ta mới có khả năng làm cả những điều mình không ưa thích, đi đến những nơi không
muốn. Đó là ý nghĩa lời Chúa nói với thánh Phêrô: “Khi ngươi còn trẻ, ngươi tự mặc áo
lấy, và đi tới nơi ngươi muốn; nhưng khi ngươi đã về già, ngươi sẽ giang tay ra
để người khác choàng áo cho, và dẫn ngươi đi nơi ngươi không muốn” (Ga
21,18). Già trẻ đây không tính về tuổi tác, nhưng về sự trưởng thành trong đời
sống thiêng liêng, và “người khác” ở đây chính là Chúa Thánh
Thần. Người tông đồ sẽ trở nên can đảm và khôn ngoan lạ thường nhờ buông theo
Thánh Thần, không còn lo lắng gì cả đến sự an toàn của mình (x. Mt 10,37-39).
Chỉ khi người tông đồ biết
chấp nhận chết cho chính mình mới trở nên người của Thánh Thần để phục vụ Chúa
và làm vinh danh Chúa, hay nói theo khẩu hiệu của thánh I Nhã: “Omnia ad majorem Dei gloriam”.
Tuy nhiên, ta vẫn luôn bị
cám dỗ qui hướng về bản thân mình, dễ đặt nặng danh dự, quyền hành, lợi lộc, chức
tước và ý riêng trong mọi hoạt động. Vì vậy, vâng nghe theo Thánh Thần là một
cuộc chiến đấu liên lỉ và cam go. Cuộc chiến này sẽ đưa dến cái chết thực sự cho
chính bản thân mình, để mầm sống mới vươn lên và sinh hoa kết quả dồi dào theo
ý định mầu nhiệm của Thiên Chúa.
Đức Bênêđictô XVI
mời gọi các bạn trẻ hăng say dấn thân vào sứ mạng truyền giảng Tin Mừng của Giáo
Hội. Ngài đưa ra lời nhắn nhủ trên đây trong Sứ điệp công bố hôm 16-11-2012
nhân ngày Quốc Tế giới trẻ sẽ tiến hành vào tháng 7 năm 2013, tại thành phố Rio
de Janeiro Brazil, với chủ đề: “Hãy Đi
Và Làm Cho Muôn Dân Trở Thành Môn Đệ” (Mt 28,19).
Lời kêu gọi cấp thiết
Mở đầu Sứ điệp trên,
Đức Thánh Cha lên tiếng như sau: “Các con
thân mến, cha hạnh phúc vì thấy các con đang dấn thân vào sứ mạng truyền giáo,
một sứ mạng đã vươn ra tới mọi ngõ ngách của thế giới, để làm cho Đức Kitô được
biết đến, như là một món quà quý giá nhất mà các con có thể trao ban cho người
khác...”
Để được như vậy,
Đức Thánh Cha khuyên nhủ: “Các con hãy để
cho chính mình được dẫn dắt bởi tình yêu Thiên Chúa. Hãy để cho tình yêu đó giúp
các con vượt qua mọi khuynh hướng khép kín lại nơi thế giới, nơi các vấn đề và
thói quen của mình. Hãy can đảm để “đi ra” khỏi mình, “để đến” với người khác
và chỉ cho họ thấy con đường gặp gỡ Thiên Chúa...”
“Cha muốn mỗi người trong các
con hãy tự vấn chính mình: Tôi đã bao giờ có đủ can đảm để đề nghị một người trẻ
lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội chưa? Tôi đã bao giờ mời gọi ai đó dấn thân vào hành
trình khám phá niềm tin Kitô giáo chưa? Các bạn thân mến, đừng e ngại đề nghị một
cuộc gặp gỡ với Đức Kitô cho con người trong thời đại hôm nay. Hãy cầu xin sự
trợ giúp của Chúa Thánh Thần. Chúa Thánh Thần sẽ chỉ cho các bạn con đường để
hiểu biết và yêu mến Thiên Chúa nhiều hơn, và để trở nên đầy sáng tạo trong việc
loan báo Tin Mừng”.
Ý nghĩa việc truyền giáo
Đức Thánh Cha xác định: “Khi loan báo
Tin Mừng, chính các con lớn lên trong đức tin vì được cắm rễ sâu nơi Đức Kitô
và trở thành những người Kitô hữu trưởng thành. Chúng ta không thể trở thành những
tín hữu đích thực nếu không loan báo Tin Mừng. Việc loan báo Tin Mừng chỉ có thể
là kết quả của niềm vui lãnh nhận từ cuộc gặp gỡ cá vị với Đức Kitô và thấy rằng
Ngài là viên đá sống động mà chúng ta xây đắp cuộc đời mình trên đó. Khi lao
tác để giúp đỡ người khác và loan báo Tin Mừng cho họ, thì chính đời sống các
con vốn bị phân tán vì quá nhiều hoạt động, sẽ tìm thấy sự hội nhất nơi Thiên
Chúa”.
Tuy nhiên, để trở nên một nhà truyền giáo thì Đức Thánh Cha cho biết, trước
hết phải trở nên môn đệ đích thực của Đức Kitô. Điều này đòi ta phải “lắng nghe
sự mới mẻ trong lời mời gọi theo Ngài và cậy dựa vào Ngài... Môn đệ là người chú
ý đến lời của Đức Giêsu; là người hiểu rằng Đức Giêsu là Thầy và là Đấng đã yêu
thương chúng ta đến nỗi hiến mạng sống mình vì chúng ta. Vì thế, mỗi người trong
chúng ta nên để cho mình được khuôn đúc bởi lời của Thiên Chúa mỗi ngày. Điều
này làm cho ta trở thành bạn của Thiên Chúa, Đức Giêsu, và có thể dẫn những người
trẻ khác đến và trở nên bạn với Ngài”.
Đức
Thánh Cha khuyến khích các bạn trẻ hãy nhớ đến những quà tặng đã lãnh nhận từ Thiên
Chúa, để đến lượt họ cũng có thể trao ban cho người khác: “Hãy đọc lại lịch sử cá nhân đời mình. Hãy ý thức về những di sản tuyệt
các con đã lãnh nhận được từ các thế hệ trước... Chúng ta đừng bao giờ quên
mình là những mắt xích quan trọng trong một dây chuyền vĩ đại, nơi đó những người
nam và người nữ đã thông truyền chân lý đức tin và họ cần chúng ta để có thể
thông truyền nó cho người khác”.
Ngài còn nêu lên một xác tín thâm sâu rằng: “Phúc Âm Hoá luôn khởi đi từ cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa. Những người đã
đến với Đức Giêsu và đã kinh nghiệm về tình yêu của Ngài, lập tức họ sẽ muốn chia
sẻ vẻ đẹp và niềm vui phát sinh từ tình bạn có được với Đức Kitô. Càng biết về
Đức Giêsu, chúng ta càng muốn nói về Ngài. Càng thưa chuyện với Đức Kitô, chúng
ta càng khao khát để nói về Ngài. Càng để Đức Giêsu chiếm đoạt mình, chúng ta
càng khao khát lôi kéo người khác về với Ngài...”.
Kiên vững trong
đức tin
Đức Thánh Cha cũng cho thấy thực tế là:
“Đối diện với những khó khăn
của sứ mạng loan báo Tin Mừng, lắm khi các con dễ bị cám dỗ để từ chối như ngôn
sứ Giêrêmia: “Ôi! Lạy Ðức Chúa là Chúa Thượng, con đây còn quá trẻ, con không
biết ăn nói!”. Tuy nhiên đối với các con, Thiên Chúa cũng phán rằng: “Ðừng nói
ngươi còn trẻ! Ta sai ngươi đi đâu, ngươi cứ đi” (Gr 1, 6-7). Trong việc loan
báo Tin Mừng và làm chứng tá đức tin, nếu khi các con thấy mình không xứng đáng,
thiếu khả năng và yếu kém, các con đừng sợ hãi gì! Việc loan báo Tin Mừng chẳng
phải do sáng kiến của chúng ta và cũng chẳng tùy thuộc vào tài năng của chúng
ta. Nó là một sự đáp ứng đầy tin tưởng và vâng theo lời mời gọi của Thiên Chúa,
không dựa trên sức riêng của chúng ta, nhưng là dựa vào sức mạnh của Thiên
Chúa” (2Cr 4, 7).
“Vì thế cha mời gọi các con
hãy bén rễ trong cầu nguyện và trong các Bí Tích…. Thời gian các con lắng nghe
và thưa chuyện với Chúa Giêsu hằng hiện diện trong Mình Thánh sẽ trở nên nguồn
lực mới mẻ Cho lòng hăng say mới trong việc truyền giáo”.
Lãnh vực truyền giáo
Đức Thánh Cha nhấn mạnh
hai lãnh vực mà người trẻ có thể dấn thân truyền giáo:
- Lãnh vực truyền
thông xã hội, đặc biệt là Internet[8]:
“Các con hãy đưa vào
nền văn hóa của môi trường truyền thông mới này, những giá trị vốn làm nền tảng
cho cuộc sống của các con. Các con là những người trẻ hầu như cảm thấy tự nhiên
hợp với các phương tiện truyền thông mới mẻ ấy, các con có nghĩa vụ đặc biệt loan
báo Tin Mừng trong đại lục kỹ thuật số này. Vậy các con hãy biết sử dụng phương
tiện này một cách khôn ngoan, để ý đến cả những cạm bẫy chứa đựng trong đó, đặc
biệt là nguy cơ nghiện nó, lẫn lộn thế giới thực tế với thế giới tiềm thể, thay
thế cuộc gặp gỡ và đối thoại trực tiếp với con người bằng những tiếp xúc trên mạng”.
- Lãnh vực thứ hai
là môi trường lưu động: “Ngày nay, ngày càng có nhiều bạn trẻ du hành,
vì học hành, vì công ăn việc làm hoặc để giải trí. Các con đừng sợ làm chứng cho
đức tin của các con cả trong những bối cảnh đó: thông truyền niềm vui vì gặp gỡ
Chúa cho những người các con gặp, đó thực là một món quà quí giá”.
Ngài cũng gợi lại tượng
Chúa Cứu Thế ở thành Rio de Janeiro đang mở rộng đôi tay và con tim cho tất cả mọi
người: “Các con chính là con tim và vòng
tay của Chúa Giêsu! Các con hãy ra đi làm chứng về tình thương của Chúa, hãy trở
thành những thừa sai mới, được tình thương và tinh thần hiếu khách linh hoạt!
Hãy noi gương các nhà đại truyền giáo của Giáo Hội, như thánh Phanxicô Xaviê và
bao nhiêu vị khác”.
Hãy ra đi, không sợ hãi, để phục vụ
Trong bài giảng chính thức của Ngày Quốc tế giới trẻ lần thứ 28 tại
Brazil, Đức Thánh Cha Phanxicô giải thích và tóm tắt chủ
đề ra đi rao giảng Tin Mừng (Mt
28,19) trong ba từ: Hãy ra đi - không sợ hãi - để phục vụ:
- Hãy ra đi không phải là một điều tùy ý,
nhưng là mệnh lệnh của Chúa. Mệnh
lệnh này không phát sinh từ ý muốn thống trị hoặc quyền
lực, nhưng từ
sức mạnh của tình thương, vì Chúa Giêsu trước tiên đến giữa chúng ta không
để ban một điều gì đó, nhưng là ban toàn thể con người của Ngài.
-
Không sợ hãi, vì là mệnh lệnh
của Chúa được trao ban với quyền năng
của Ngài nên cũng không có gì phải sợ hãi. Chính khi chúng ta cùng nhau đương đầu với các
thách đố, thì chúng ta mạnh mẽ, và
khám phá những năng lực mà chúng ta không biết là mình có.
-
Để phục vụ. Để loan báo Chúa Giêsu, thánh Phaolô đã trở nên “đầy tớ mọi người”. Rao giảng Tin Mừng là đích thân
làm chứng về tình yêu Thiên Chúa, là vượt
thắng sự ích kỷ của chúng ta, là phục vụ bằng cách cúi mình xuống rửa chân cho
anh em chúng ta như Chúa Giêsu đã làm.
Đức Thánh Cha Phanxicô kết luận: “Các
con hãy ra đi, không sợ hãi, để phục
vụ. Khi sống theo 3 lời này, các bạn sẽ cảm nghiệm được rằng người rao giảng
Tin Mừng thì cũng được trở
nên Tin Mừng. Ai thông truyền niềm vui đức tin, thì cũng nhận được niềm vui... Khi Chúa sai ngôn sứ Giêrêmia, Ngài
ban cho ông quyền được “loại bỏ và phá đổ, phá hủy và san bằng, xây dựng và vun
trồng” (Gr 1,10). Cả các bạn cũng như thế. Mang Tin Mừng là mang sức mạnh của
Thiên Chúa để nhổ bỏ và phá hủy sự ác và bạo lực; để phá tan và đạp đổ những
hàng rào ích kỷ, bất bao dung và oán thù; để kiến tạo một thế giới mới. Chúa
Giêsu Kitô hy vọng nơi các bạn! Giáo Hội cậy dựa vào các bạn! Giáo Hoàng hy
vọng nơi các bạn! Xin Mẹ Maria, Mẹ Chúa Giêsu và Mẹ chúng ta luôn tháp tùng các
bạn với sự hịu hiền của Mẹ: Các con hãy
ra đi và làm cho mọi dân tộc thành môn đệ!”.
7.
Đức Maria, nhà truyền giáo mẫu mực tiên khởi
Đức Maria là tín hữu và là
môn đệ đầu tiên của Đức Kitô, cũng có thể được gọi là nhà truyền giáo đầu tiên,
vì là người đã ban Chúa Kitô cho thế giới. Qua đó, Mẹ trở thành mẫu mực của Hội
Thánh truyền giáo và mẫu mực của mọi người tông đồ. Ở đâu ơn cứu độ trong Chúa Giêsu
được rao giảng, ở đó cũng có Đức Maria. Do đó, việc rao giảng của Hội Thánh
luôn mang chiều kích Thánh Mẫu này. Giáo Hội nhìn nhận mẫu gương Đức Maria như
là một môn đệ hoàn hảo của Chúa Giêsu, và như là nữ tỳ của mầu nhiệm cứu chuộc.
Lịch sử Giáo Hội cho thấy Đức
Maria đã gợi hứng cho nhiều người nam nữ các Hội Dòng noi gương Mẹ, dấn thân phục
vụ cho việc truyền giáo bất cứ nơi đâu, kể cả những nơi ngặt nghèo và nguy hiểm.
Qua mọi thế hệ, mọi tín hữu đều coi Mẹ thật “diễm phúc” vì đã tin vào lời rao
giảng đầu tiên về Tin Mừng cứu độ. Mẹ là mẫu người “được rao giảng Tin Mừng
hoàn hảo” và là “nhà rao giảng Tin Mừng hoàn hảo” để ta noi theo.
Kết luận
Sứ mạng truyền giáo là nhiệm
vụ bức thiết của Giáo Hội, như Đức Gioan Phaolô II đã viết: “Sứ mệnh của Chúa Kitô Cứu Thế được trao phó cho Giáo Hội vẫn đang còn nhiều dang dở...
Nhìn vào số đông nhân loại chưa
biết Chúa cũng đủ cho thấy rằng sứ mệnh này mới chỉ đang ở những bước đầu tiên
và chúng ta còn cần phải dồn hết mọi nỗ lực của mình cho công trình này” (RM 1).
Cánh đồng truyền giáo vẫn còn mênh mông bát ngát. Cần phải tận dụng mọi cơ hội để đưa Chúa Giêsu và Phúc Âm của Ngài đến cho mọi người. Hơn bao giờ hết, lời Chúa Giêsu vẫn vang lên trong tâm hồn mỗi người chúng ta hôm nay: “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít. Vậy anh em hãy xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về” (Lc 10, 2).
Riêng đối
với Giáo Hội Việt Nam, thợ gặt bây giờ không
thiếu, chỉ thiếu lửa hăng say nhiệt thành, thiếu đời sống hy sinh và cầu nguyện,
thiếu khôn ngoan và đạo đức, thiếu tổ chức và đào luyện cũng như hợp tác với
nhau. Vì quá thiếu nên tay nghề thợ gặt quá yếu. Lời cầu xin phải đi kèm với nỗ
lực quyết liệt của chúng ta, chứ không thể khoán trắng cho Chúa.
Đức Thánh Cha Phanxicô thúc
giục chúng ta qua Tông Huấn đầu tiên của Ngài: “Hãy lên đường,
hãy lên đường
cống hiến cho mọi người sự sống của Chúa Kitô…Tôi muốn thấy một Giáo Hội bị bầm
giập, tổn thương và lấm lem trên đường dấn thân, chứ không phải là một Giáo Hội
'xanh xao vàng vọt' vì sống đóng khung
và bám víu vào chu vi hàng rào an toàn của riêng mình… Tôi không muốn có một Giáo Hội chỉ lo cho mình
phải là 'cái rốn của vũ trụ', và sau đó, kết thúc bằng việc bị giam cầm giữa một mạng
lưới định kiến và thủ tục”; “…bao nhiêu người đang chết đói trước cửa nhà chúng
ta, và Chúa Giêsu vẫn không mệt mỏi nhắc nhở chúng ta: "Chính anh em hãy cho
họ ăn đi” (x. Tông huấn Niềm
Vui Phúc Âm, s.48.49).
Lời nguyện
Lạy Chúa Giêsu! Ước chi con
ý thức được ý nghĩa cao cả của đời mình là ra đi cho một sứ mạng - sứ mạng loan
báo Tin Mừng - nối tiếp sứ mạng của Chúa, Đấng cứu độ trần gian.
Tuy nhiên, trước tiên con cần được Lời Chúa thanh
tẩy, thấm nhuần và đổi mới bản thân con. Chỉ khi con trở nên giống Chúa mỗi ngày
một hơn, Chúa Thánh Thần mới có thể thực hiện nơi con sứ mạng của chính Chúa.
Một sứ mạng mà đòi con phải bỏ mạng như chính Chúa,
để được hiệp làm một với hiến lễ đồi xưa, hầu được sống lại trong niềm vui ơn cứu
độ muôn đời. Amen.
Lm. Thái Nguyên
[1] Dựa trên bài chia sẻ về Truyền giáo và Tân Phúc Âm hóa của Đức Cha Giuse Đinh Đức Đạo vào ngày 15-06-2012.
[2] Gioan Phaolô II, trong “Insegnamenti di Giovanni Paolo II”, VI/I (1983), tr. 698
[3] Web. VietCatholic News 20/08/2010
[4] Bài chia sẻ về Truyền giáo và Tân
Phúc Âm hóa của Đức Cha Giuse Đinh Đức Đạo ngày 15-06-2012, simonhoadalat.com/HOCHOI/TaiLoanBaoTinMung.
[5] FABC, Đại Hội Đồng lần V, “Journeying Together Toward the Third Millenium ", Final Statement 4.1, trong ASIA NEWS, 15.9.1990, p. 370.
[6] FABC, Evangelization in Asia Today. A Message to the Churches , trong East Asian Pastoral Review, 4 (1988), p. 335.
[7] Sứ Điệp Của Đức Thánh Cha Benêđictô, nhân Ngày Quốc Tế
Giới Trẻ 2013
[8] Sứ điệp nhân Ngày Thế giới truyền thông xã hội lần thứ 43 ngày 24-5-2009.