ĐỐI THOẠI - TRUYỀN GIÁO
TRONG SÁNG VÀ CHÂN THẬT
“Khi đối
thoại liên tôn, các Kitô hữu xác tín rằng chỉ có Đức Kitô mới đem lại sự cứu độ trọn vẹn”. (GHTCA 31§1).
Ngày nay, con người dễ lầm lẫn giữa bề ngoài với bề trong,
giữa hình thức với nội dung, giữa hình tướng và chân tướng, do dễ ưa chuộng
những gì đẹp mắt, dễ coi.
Ngày nay, con người dễ bị sai lầm trong những quảng cáo,
mời mọc thật chất lượng nhưng nhưng lại giả trang, thiếu phẩm chất.
Ngày nay, con người thích xây dựng tương lai của mình
bằng các chất liệu mì ăn liền, tạo nên một bức tranh tuy nhiều mầu sắc, nhưng
lại kém về nghệ thuật và độ bền.
Ngày nay, con người thích tô vẽ cho nhau bằng nhưng kiến
thức rẻ tiền, lời lẽ ngon ngọt, cách thức hoa mỹ, nhưng bên trong thì trống
rỗng hoặc có ý đồ…
Ai cũng thích tìm kiếm sự thật, đối xử bằng sự thật,
nhưng lại ít khi sống thật, hoặc khi nghe sự thật về mình hay về người khác thì
lại bực bội, khó chịu.
Ai cũng mong được chữa lành bệnh tật
thể xác và tinh thần, nhưng sợ đắng đót khi dùng thuốc, sợ đau đớn khi giải
phẩu, sợ thương tổn khi sửa dạy... Nếu không có tâm hồn trong sáng và yêu
chuộng sự thật, con người quả thật phức tạp, và đời sống thật đa đoan.
I. TRONG SÁNG
1. Trong
sáng để thấy sự thật
Tâm hồn trong
sáng là nền tảng để thấy sự thật và sống chân thật. Tâm hồn bị hỗn loạn, mờ
đục, thì chỉ còn quờ quạng trong bối tối, không còn biết đâu là thực hư. Muốn
trở nên con người truyền giáo và đối thoại đòi ta phải khai sáng tâm hồn mình,
để đến với mọi người bằng sự chân thật, và chỉ có sự thật mới giải thoát con
người.
Thực tế cho thấy khi con người sinh
ra, tâm hồn trẻ thơ rất hồn nhiên trong sáng, nhưng từ khi biết tiếp xúc với
cuộc đời, tình thương trong sáng này đã bị hoàn cảnh xã hội và các nghiệp tập bao bọc lại, khiến người ta
luôn sống với những gì xã hội tác động, sống với những gì nghiệp lực thúc bách. Từ đó, tình cảm trong sáng và tình thương
chân thật đã bị biến dạng, trở thành tình cảm xấu như tham lam, hung dữ, si mê,
cố chấp, vụ lợi, kiêu ngạo, đố kỵ, ganh ghét, v.v…
Ví dụ như sự thương hại làm cho người ban phát tình
thương trở nên kiêu căng, còn người được thương thì bị mặc cảm, buồn tủi … Hoặc
tình yêu nam nữ, hay tình yêu của những người đồng phái có tính chất khát ái,
ích kỷ, lợi dụng, nô lệ hóa cho nhau và làm khổ lẫn nhau.
2. Lương
tâm trong sáng
Trong thư mục vụ năm 2006 mang tựa đề Sống đạo hôm nay (8-9-2006), các giám
mục cho thấy: “Trong xã hội hiện nay, đôi khi nhu cầu sinh sống và phát triển đã kéo
theo những hệ lụy làm cho lương tâm con người bị sai lệch hoặc bị mất phương
hướng” (số 5 ). Nhận
định như thế là quá nhẹ nhàng, có lẽ các ngài không muốn nói cho tới bến. Phải
đi vào lòng xã hội mới thấy được lương tâm gần như bị biến chất hay đã biến mất.
Chỉ cần nghe báo, đài và qua các phương tiện truyền thông thôi, ai cũng thấy
được tình trạng suy thoái lương tâm hay ý thức đạo đức tới mức báo động. Trả lời một cuộc phỏng vấn báo Thanh Niên, ông Trần Quốc Thuận, Phó chủ
nhiệm văn phòng Quốc Hội thẳng thắn nói: “Cái lớn nhất bị mất, đó là đạo
đức. Chúng ta sống trong một xã hội mà chúng ta phải tự nói dối với nhau để
sống. Nói dối đã trở thành thói quen hằng ngày của xã hội Việt Nam. Thói quen
đó lặp đi lặp lại nhiều lần thành “đạo đức”, mà cái “đạo đức” đó là rất mất đạo
đức. Đó là một cái nguy nhưng tôi thấy ít người quan tâm”.
Chỉ vì mất đạo đức mà người ta tự định đoạt về hành vi
luân lý của mình mà bất chấp luật lệ tự nhiên, hành động theo định luật lợi ích
chứ không theo lẽ phải. Cái gì phù hợp và có lợi thì đúng, cái gì không hợp và bất
lợi thì sai. Lương tâm bị coi quá rẻ, người ta không xài nữa hoặc đã vất vào
một xó, còn thua xa lương bỗng, nên đời sống chỉ còn là lương lẹo. Một lối sống
như thế thì lương tâm không còn khả năng phân biệt điều thiện với điều dữ, càng
không thể nghe tiếng Thiên Chúa nói qua lương tâm. Đang khi
đó, lương tâm con người tùy thuộc vào Thiên Chúa, vào các lề luật của Thiên
Chúa và vào chân lý khách quan. Do đó, Giáo Hội chống lại mọi thứ duy chủ quan
sai lầm.
Lương tâm sẽ mất hẳn sự trong sáng và bén nhạy nếu một
người luôn để tội ngự trị trong tâm hồn họ. Lương tâm được ví như một tấm gương
soi mình, phản chiếu mọi hình ảnh thu nhận được. Hình ảnh được phản chiếu trong
sáng và trung thực hay không là do độ trong và sạch của tấm gương. Tấm gương
lương tâm có trong và sạch hay không là do việc gìn giữ của chủ nhân. Nếu chủ
nhân siêng năng lau chùi và đánh bóng, tấm gương sẽ sáng tỏ và phản chiếu mọi
điều thu nhận.
Như vậy điều quan trọng cho mỗi người Kitô hữu là hãy giữ
mình sạch tội và năng tự vấn lương tâm. Sạch tội và tự vấn lương tâm sẽ giúp
lương tâm mình sáng tỏ trước việc phân biệt thiện ác, phải trái. Lương tâm
trong sáng và ngay lành giúp ta phát hiện những mưu mô cạm bẫy và thấy được bản
chất sự vật, sự việc. Đúng như Khổng Tử đã nói: “Chánh tâm, thành ý, cách vật trí tri”.
Sống trong một xã hội thiên về thực nghiệm và duy vật con
người dễ để mình bị lôi cuốn trong những đòi hỏi quá đáng nhằm thỏa mãn những
thèm muốn thuộc bản năng thấp hèn trong con người. Bên cạnh những cám dỗ do
những hào nhoáng bề ngoài của xã hội còn là các phương tiện truyền thông mang
nặng tính cá nhân chủ nghĩa và trục lợi. Hoàn cảnh đó khiến con người sống
trong xã hội như đi giữa rừng già tăm tối và rất dễ bị ảnh hưởng trong cung
cách phán đoán một chiều của xã hội. Biên cương giữa thiện và ác, giữa phải và
trái mờ nhạt dần. Con người rồi đây bước đi trong tội mà vẫn hân hoan thơ thới
như bước trên đại lộ của niềm tin!
Truyền giáo và đối thoại là để chuyển tải tình thương
trong sáng từ trong tâm hồn mình, là biểu tỏ Đấng là Ánh Sáng trong mình. Nhưng
nếu tình thương và lương tâm không còn trong sáng thì mọi sự đều trở nên tối
tăm. Bản thân mình không còn tỏa sáng sự thiện hảo thì ta còn có thể chuyển tải
gì đây? Đúng như Lời Chúa nói: “Vậy nếu ánh sáng nơi anh lại thành bóng
tối, thì tối biết chừng nào!” (Mt 6, 23). “Nếu toàn thân anh sáng, không có
phần nào tối tăm, thì nó sẽ sáng hoàn toàn, như khi đèn toả sáng chiếu soi
anh." (Lc 11, 36).
II. CHÂN THẬT[1]
1. Chân
thật với chính mình
Nếu ta cho rằng hạnh phúc là khi mình tích góp được thật
nhiều tiền bạc hay danh vọng thì chắc chắn ta không thể nào đem lòng thành thật
ra như một bảo bối để ứng chiến giữa những cuộc cạnh tranh khốc liệt. Người
thấy được hạnh phúc chân thật từ cõi lòng bình yên, thì buông bỏ bớt những mong
cầu hay chống đối không cần thiết, họ cũng không muốn thỏa mãn cảm xúc trong
nhất thời, và bằng mọi giá họ sẽ bảo vệ tâm hồn mình. Họ thà chấp nhận để cho
việc bất thành chứ không để cho tâm mình bất hảo. Tâm bất hảo là tâm đã bị hư. Tâm hư khó sửa gấp trăm ngàn lần việc hư.
Và nếu việc thành mà tâm hư thì đâu còn gì là hạnh húc.
Người sống có chiều sâu sẽ luôn ý thức giữ tâm hơn giữ cảnh. Thế nhưng, lắm lúc
ta cũng hoang mang đứng trước sự chọn lựa nên giữ gìn lòng thành thật hay bước
vào vai diễn để dối gạt đời, vì không phải lúc nào nội lực ta cũng đủ mạnh để
phòng ngự sự kích động của những hấp lực bên ngoài. Muốn làm chủ được bản thân thì ta phải hiểu được chính mình, muốn hiểu
được chính mình thì ta không được dùng ý chí để nhồi nặn tâm mình thành ra một
sản phẩm tốt đẹp để rồi tự đánh lừa mình.
Mình đang giận mà không chịu nhận là mình đang giận; mình
ganh tỵ mà cố nghĩ là mình đang phấn đấu thi đua; mình hèn yếu mà lại cho rằng
mình đang nhịn nhục... Lý do mình không thấy được chính mình cũng do sự can thiệp
quá vội vàng của ý chí. Ý chí là năng lực hướng tới sự tốt đẹp, nó được làm ra
từ những kinh nghiệm và kiến thức tích lũy, trong khi thực tại là một cái gì đó
rất khác với trình độ ý chí. Mà bản thân của ý chí cũng chỉ có thể kềm hãm sự
phát triển của phiền não chứ không thể nào chuyển hóa trọn vẹn, nên ý chí không
những không giúp được trường hợp như vậy mà khiến ta đánh giá sai lệch về tâm
thức của mình. Ta trở nên chủ quan và sẽ bất ngờ trước những phản ứng vụng về
đến tệ lậu của mình mà không hiểu tại sao.
Loại trừ được thái độ yêu thích hay ghét bỏ trong khi
nhìn vào tâm mình thì chắc chắn ta sẽ thấy rõ chân tướng của nó, thấy rõ nguyên
nhân sâu xa nào đã thúc đẩy và tạo nên tâm lý mình đang có. Chỉ cần im lặng và
thong thả quan sát thì ta sẽ tháo gỡ được từng mảnh tâm lý từ thô đến tế. Điều
này phải cần quá trình luyện tập kiên trì chứ không thể thành công ngay. Tuy
nhiên khi ta bắt đầu thành thật với chính mình, chấp nhận những gì mình đang có
rồi mới tìm cách tháo gỡ thay vì phủ nhận hay chống đối, đó là bước tiến rất
quan trọng của công trình chuyển hóa bản thân mình.
Ta đã từng thấy có nhiều người quyết tâm cải thiện mình
rất lớn, nhưng trải qua nhiều năm tháng mà họ vẫn không tiến được bước nào, đôi
khi còn lui sụt. Nguyên nhân thường thấy nhất là do họ chỉ dùng toàn ý chí, họ
không chấp nhận trình độ mình đang có, thậm chí họ còn có thái độ khinh ghét
bản thân mình, luôn mặc cảm khi nhìn thấy những năng lượng xấu trong tâm mình.
Nhưng đó là kết quả của lối sống thiếu tỉnh thức của chính ta gây ra, ta không
thể ra lệnh nó thay đổi liền khi ta chưa thật sự tập luyện cho mình một thói
quen mới. Ta cần phải chấp nhận nó, làm hòa với nó để hiểu được nó thì ta mới
chuyển hóa nó được.
Vì vậy, nghệ thuật sống cao cấp nhất không phải là trình
độ kỹ xảo uốn nắn tâm mình thành một kiểu mẫu tốt đẹp nào đó mà không có nền
tảng của sự chuyển hóa thật sự. Chỉ cần lúc nào cũng thấy rõ tâm mình và hiểu
biết nó một cách sâu sắc, kiên trì quan sát nó nhiều lần bằng thái độ nhẹ nhàng
và từ tốn thì kết quả tự nhiên sẽ xảy ra. Sống được với tính hồn nhiên chân
thật là hòa điệu với sự vận hành của vũ trụ, là lối sống của bậc trí thức, là
ước mơ của bao người đã không tìm thấy giá trị chân thật từ những vở tuồng đầy
kịch tính và màu sắc của cuộc đời. Nhạc sĩ Phạm Duy đã thốt lên những lời tâm
sự thật cảm động trong bài hát Kỷ niệm: "Cho
tôi lại còn nhiều, cho tôi lại tình yêu, tôi không cần khôn khéo, tôi không đòi
bao nhiêu, cho tôi lòng non yếu, dễ khóc dễ tin theo… Cho tôi lại ngày đầu,
chưa đi vội về sau, xin đi từ thơ ấu, đi vui và bên nhau…".
2. Chân
thật với nhau
Con
người ngày càng nghiêng về chiều hướng hưởng thụ, luôn đi tìm những cảm xúc tốt
từ những tiện nghi vật chất đến sự công nhận của những người chung quanh, nên
chẳng còn mấy ai ý thức giữ gìn lòng chân thật. Nhiều khi người ta còn dám
tuyên bố sống giữa đời sống bây giờ mà cố giữ lòng thành thật thì đó là thái độ
sống rất ngây thơ, phải khôn khéo và đầy kỹ xảo trong từng hành động mới là kẻ
thức thời và dễ dàng thành đạt.
Đừng quên rằng: Sự thật sẽ giải phóng chúng ta (x.
Ga 8, 32). Đành rằng cuộc sống đôi khi cũng cần sự khôn khéo, nhưng chút ít
thôi, chỉ nên dùng nó trong những trường hợp đối phương chưa sẵn sàng tiếp nhận
sự thật, chứ không phải để tạo thêm lớp phấn son giả tạo cho mình. Song ta phải
có trách nhiệm tìm cơ hội đã trình bày sự thật trở lại, đừng đợi người kia phát
hiện ra thì ta sẽ mang tội danh lừa dối.
Một trong những lý do khiến ta có được niềm tin vào cuộc
sống là khi mỗi lời mình thốt ra đều được bên kia lắng nghe và tin tưởng. Không
gì thoải mái cho bằng được sống chung với những người mà ta không cần phải dò
xét hay đối phó bằng bất cứ chiêu thức nào, chỉ nhìn nhau là đã hiểu nhau rồi.
Bởi lẽ muốn thương nhau thì phải hiểu nhau, mà muốn hiểu nhau thì phải tin
tưởng nhau, mà muốn tin tưởng nhau thì phải thật lòng với nhau.
Phải thật lòng với nhau thì mới có thể đối thoại với
nhau, vì đối thoại là nói với nhau bằng sự thật. Tuy nhiên sự thành thật của
mình hay người khác cũng chưa chắc đã là sự thật, vì thế trong đối thoại cần
luôn khai mở để cùng khám phá, và hướng đến sự thật là chính Thiên Chúa, là Lời
của Ngài trong chính Đức Giêsu Kitô. Vì thế, truyền giáo là loan tin về Ngài là
Đấng chân thật, và đối thoại là thể hiện chính Ngài trong đời mình qua mọi cuộc
tiếp xúc và gặp gỡ.
II. ỨNG
DỤNG LỜI CHÚA
1. Ga 9, 24-38: người mù bẩm sinh được Chúa
Giêsu cho sáng mắt
Việc Đức Giêsu cho anh mù sáng mắt trong bài Tin Mừng
trên mạc khải cho ta biết Ngài là ánh sáng cứu độ, Đấng soi chiếu nhân loại
đang còn nằm trong bóng tối tăm và sự chết. Tuy nhiên, con đường tiếp nhận ánh
sáng đó là hành trình đức tin đầy cam go và thử thách, giữa một cuộc sống đầy
những phức tạp và nhiễu nhương do lòng người, đầy những ảnh hưởng của sự dữ.
Kinh nghiệm thiêng liêng cho ta thấy nhiều khi ta rất sáng mắt nhưng không sáng
lòng. Thấy sự việc nhưng mà không thấy sự thật. Thấy rõ hành động của một người
nhưng lại không thấy nguyên nhân và ý nghĩa của nó.
Lý do có thể là ta bị đóng khung, cứng ngắt theo một thói
suy nghĩ, chỉ dựa vào luật lệ và đạo đức bên ngoài, mà cũng có thể do sự chật
hẹp của lòng mình. Lý do khác nữa vì tự ái, vì thành kiến, vì quyền hành, danh
giá, nhất là vì ghen ghét mà ta muốn suy diễn khác đi, cũng giống như những
người Biệt phái trong Tin Mừng: họ không muốn coi Đức Giêsu là người của Thiên
Chúa, vì điều đó đòi họ phải thay đổi lối nghĩ và lối sống đạo, thay đổi bộ mặt
tôn giáo của cha ông, nhất là đòi họ phải tin và theo Ngài. Họ tự hào mình hiểu
biết và đạo đức. Chính niềm tự hào này đã khiến họ khép lại, không có can đảm
chấp nhận mình sai lầm, và cố chấp ở lại trong bóng tối.
Mù không phải là một tội. Cố ý không muốn thấy mới là
đáng tội. Chúng ta ai cũng sợ bị mù trên phương diện tâm hồn, nhưng lắm khi ta
lại tự làm cho mình mù, khi không chấp nhận thực tế về bản thân, về tha nhân,
khi né tránh sự thật và không muốn nghe ai.
Trên phương diện đức tin có những khi ta giống như những
Biệt phái, từ ánh sáng lại rơi vào bóng tối, nhưng rồi có những khi chúng ta
cũng giống như anh mù, từ bóng tối đã tìm thấy ánh sáng nhờ nghe và tin vào lời
Chúa. Tuy nhiên, anh ta vui mừng chưa hết thì bao nhiêu thử thách lại ập tới.
Người ta nghi ngờ anh, xoi mói anh, gây khó khăn và đe dọa đời sống anh. Dù anh
ta đã được sáng mắt, có được niềm tin, nhưng gia đình và những người thân anh
lại tỏ ra thờ ơ lãnh đạm, coi thường, bỏ rơi.
Sự căng thẳng lên đến cực điểm khi anh phải đối đầu với
quyền lực tôn giáo, là những người dạy dỗ, hướng dẫn, và là mẫu gương sống đức
tin cho dân Chúa. Họ mạt sát anh là sinh ra trong tội lỗi. Họ tố cáo Chúa Giêsu
đã lỗi phạm luật nghỉ ngày Sabbat. Và sau cùng, họ khai trừ anh khỏi hội đường.
Đây là hình phạt nặng nề nhục nhã nhất đối với người Do Thái. Bị giáo hội khai
trừ, bị người thân chối từ, bị dân chúng xa lánh. Anh đau lòng, tủi hổ và cảm
thấy cô đơn hoàn toàn, quả là một thử thách ghê ghớm.
Để vững niềm tin, anh đành chấp nhận hành trình đơn độc.
Để sống cho sự thật anh chấp nhận bị loại trừ. Lựa chọn của anh giờ đây là dứt
khoát. Mất tất cả chỉ để trung tín với niềm tin của mình. Đúng lúc đau đớn nhất
Chúa Giêsu lại xuất hiện, để nâng đỡ và khen thưởng cho đức tin kiên vững của
anh. Ngài tỏ mình cho anh ta biết Ngài là Đấng Cứu Thế. Lập tức anh sấp mình xuống
thờ lạy Người. Hành trình đức tin gian khổ thế là chấm dứt. Anh đã gặp được
Chúa Kitô. Đời anh từ nay tràn ngập ánh sáng niềm tin.
Hành trình đức tin của mỗi người chúng ta cũng vậy, không
thiếu những gian nan thử thách và bóng tối vây quanh. Nhưng nếu không như vậy
thì đức tin ta không thể lớn lên và rạng sáng được. Đức tin Chúa ban cho chúng
ta giống giống như viên ngọc quí vậy. Nhưng “ngọc
bất trác bất thành khí”, đức tin mà không được tinh luyện thì trở thành vô
hiệu. Phải làm sáng lên đức tin của mình, một đức tin có thể còn mù mờ và luôn
bị bao phủ bởi nhiều bóng tối: bóng tối của lòng mình, bóng tối của anh chị em
mình, bóng tối của đời sống cộng đoàn. Chúa đang đón đợi mỗi người chúng ta
trên từng chặng đường và từng biến cố lớn nhỏ, để an ủi, nâng đỡ và làm sáng
lên cuộc đời ta.
Vì thế, lời nguyện hằng ngày của chúng ta là xin Chúa phá
tan bóng tối trong con, cho con được gặp Chúa, được thấy Chúa trong mọi sự, nơi
mọi người, và ngay trong những thử thách của đời con. Trong thông điệp Deus
Caritas Est, Đức Bênêđictô khẳng định rằng:
“Trở
thành Kitô hữu không phải là kết quả của sự lựa chọn đạo đức hoặc ý tưởng cao
thượng, mà là cuộc gặp gỡ với một biến cố, một con người, đem
lại cho đời sống mình một chân trời mới và một hướng đi quyết định” (số 11).
Thật vậy, có gặp được Chúa cách nào đó, đời chúng ta mới
bừng sáng lên trong tin yêu, để trở nên nhân chứng sống động trong mọi tương
quan gặp gỡ và đối thoại hằng ngày.
2. Ga 3, 16-21: ánh sáng và bóng tối
“Ánh
sáng đã đến thế gian, nhưng người ta đã chuộng bóng tối hơn ánh sáng, vì các
việc họ làm đều xấu xa. Quả thật, ai làm điều ác, thì ghét ánh sáng và không
đến cùng ánh sáng, để các việc họ làm khỏi bị chê trách. Nhưng kẻ sống theo sự
thật, thì đến cùng ánh sáng, để thiên hạ thấy rõ : các việc của người ấy đã
được thực hiện trong Thiên Chúa”.
Chúng ta đang sống trong một thế giới có nhiều ảnh hưởng
của mê lầm và dối trá. Các nhà lãnh đạo quốc gia không dám nói hết sự thật. Các
cấp lãnh đạo tôn giáo đôi khi cũng sợ nói sự thật. Các nhà giáo dục cũng không
muốn đặt vấn đề sự thật trong các ngành nghề. Các bậc bề trên, phụ huynh và
người hướng dẫn cũng che dấu sự thật. Vì nói sự thật thì có khi mất lòng, mất
danh dự, mất uy tín, mất địa vị, mất công ăn việc làm và có thể mất đi chính
mạng sống mình. Chúng ta sợ sự thật của gia đình, của con cái, của cha mẹ, của
nhân viên, của các cộng tác viên và của chính mình bị phơi bầy và tỏ lộ. Sự
thật mà có lợi thì quá dễ dàng cho ta thể hiện, nhưng khi sự thật mà bất lợi
thì mấy ai can đảm nói hết sự thật.
Chúa Giêsu không chỉ là con đường dẫn tới sự thật, mà còn
là chính Sự Thật. Chúa thấu tỏ lòng người. Chúa hiểu thấu được lòng con người
nghĩ gì và muốn gì. Nhiều người nghe Chúa giảng đã phải thốt lên: “Thưa Thầy, chúng tôi biết Thầy nói và dạy
một cách thẳng thắn, không thiên vị ai, nhưng theo sự thật mà dạy đường lối của
Thiên Chúa” (Lc. 20,21).
Chúa Giêsu thẳng thắn phê bình những lầm lỗi và cách hành
xử của các nhà lãnh đạo tôn giáo. Họ chỉ thích được ưa chuộng những hình thức
xuất hiện bên ngoài, giả dạng và khoe khoang. Họ ngại bước vào đời sống nội tâm
vì sợ nhìn thấy mặt trái của đời sống mình. Vì sống theo sự thật là sống trong
ánh sáng: “Những kẻ sống theo sự thật,
thì đến cùng ánh sáng, để thiên hạ thấy rõ: các việc của người ấy đã được thực
hiện trong Thiên Chúa” (Ga. 3,21).
Chúa Giêsu giảng dậy chân lý và áp dụng lời giảng trong chính
cuộc sống mình. Còn chúng ta đôi khi nói một đàng, làm một nẻo. Ngôn hành bất
nhất. Chúng ta muốn có sự thật nhưng đôi khi không thực hành sự thật. Sự dối
trá cứ len lỏi ràng buộc chúng ta vào những mê lạc, tự vệ, cố chấp, ương ngạnh
và sống giả hình.
Chỉ có sự thật mới giải thoát chúng ta. Chúa Giêsu nói
với những người Do-thái rằng: “Các ông sẽ
biết sự thật, và sự thật sẽ giải phóng các ông” (Ga. 8,32). Sự thật thì đơn
sơ chân thành ví như tâm hồn trong trắng của trẻ thơ. Tâm hồn chân thật thì
thanh thoát và không lệ thuộc vào những tranh đua hơn thua ở đời. Khi so sánh
hơn thiệt và đua đòi cuộc sống dễ dẫn chúng ta đến những sự dấu diếm và dối
gian. Lúc đó mới cho thấy: “Sông sâu còn
có kẻ dò, lòng người nham hiểm ai đo cho cùng”.
Chúa Giêsu là sự thật trên mọi sự thật, sự thật về Thiên
Chúa và sự thật về con người, để ai tin tưởng nơi Ngài thì được sống trong niềm
vui của sự thật, cũng là niềm vui ơn cứu độ. Vì thế Ngài đã tha thiết cầu
nguyện cho các môn đệ: “Xin Cha lấy sự
thật mà thánh hiến họ. Lời Cha là sự thật” (Ga. 17,17).
Lm. Thái Nguyên