THÁCH ĐỐ MỤC VỤ TẠI CÁC GIÁO XỨ – TÂN PHÚC ÂM HÓA Ở MỘT Á CHÂU ĐANG
THAY ĐỔI NHANH CHÓNG
(xuanbichvietnam.net)
29-31/5, 2015.
GIỚI THIỆU: Vị tổng giám mục dòng Sa-lê-diên có khuôn mặt hiền từ khắc khổ
và giọng nói rất nhỏ nhẹ sâu lắng này nay đã 79 tuổi. Ngài từng được Đức
Bênêđictô XVI cho phép nghỉ hưu ở tuổi 76, năm 2012, sau khi làm giám mục giáo
phận Dibrugarh trong 11 năm và tiếp theo là tổng giám mục Guwahati trong 20
năm. Nhưng từ hồi đầu năm ngoái (2014), ngài lại phải trở lại làm việc mục vụ,
vì Đức Phanxicô đặt ngài
làm giám quản tông tòa giáo phận Jowai, một giáo phận trống tòa.
Trước đó, từ 1986 đến 1992, Menamparampil là
chủ tịch Văn phòng đặc trách Loan báo Tin Mừng của FABC. Trong thời gian này, công việc chủ yếu
của ngài là đào sâu mối quan hệ với các nền văn hóa Á Châu xuyên qua việc rao
giảng Phúc âm và tổ chức cuộc gặp gỡ giữa các đại diện của Giáo hội và các đại
diện của các chính quyền cộng sản.
Sau đó,
Menamparampil là Thư Ký Đặc Biệt tại Thượng Hội Đồng Giám mục Á Châu (1998).
Ngài là tác giả của hơn 180 bài viết về các chủ đề khác nhau như rao giảng Phúc
âm, văn hóa, sứ vụ, giáo dục, đời sống thánh hiến, và cầu nguyện.
Năm 2006, ngài
được bầu vào chức chủ tịch Hội Đồng Giám mục vùng Đông bắc Ấn Độ. Hai năm sau,
ngài được chọn làm chủ tịch Ủy ban Giáo dục và Văn hóa của Hội Đồng Giám mục Ấn
Độ. Menamparampil đã đóng vai trò trung gian trong cuộc xung đột giữa các nhóm
sắc tộc khác nhau trong Nhà Nước Liên Hiệp Assam, và ngài điều phối “Nhóm Hòa
Bình Đại Kết”, một nhóm chuyên tâm thúc đẩy đối thoại ở Đông bắc Ấn Độ và đã tỏ
ra là một tổ chức đầy hiệu năng trong nỗ lực hóa giải các xung đột địa phương.
Tổng giám mục
Menamparampil được đề cử giải Nobel Hòa Bình vào năm 2011. Việc đề cử này cho
thấy sự nhìn nhận các nỗ lực không ngừng của ngài để vãn hồi hòa bình, hòa giải
và ổn định tại miền Đông bắc Ấn Độ, một vùng đầy những xung đột về lãnh thổ và
về sắc tộc.
Bài thuyết
trình sau đây, mang tựa đề “Thách
Đố Mục Vụ Tại Các Giáo Xứ – tân Phúc âm hóa ở một Á Châu đang thay đổi nhanh
chóng”, được ngài trình bày tại Hội nghị về “Loan báo Niềm vui
Tin Mừng trong tư cách những nhà loan báo Tin Mừng được canh tân tại Á Châu”
dành cho các giám mục, linh mục, và các nhà đào tạo – do Văn phòng đặc trách
Giáo sĩ của FABC tổ chức tại Pattaya, Thái Lan, từ 10-15.11.2014.
Xin trân trọng
giới thiệu với quí bạn đọc.
Lm. Giuse Lê Công Đức
THÁCH ĐỐ MỤC VỤ TẠI CÁC
GIÁO XỨ-
Tân Phúc âm hóa ở một Á
Châu đang thay đổi nhanh chóng
Tổng Giám mục Thomas
Menamparampil, SDB.
1. TÌNH TRẠNG ĐANG THAY ĐỔI CỦA Á CHÂU: TÍNH LIÊN TỤC VĂN HÓA BỊ
ĐỨT ĐOẠN, HIỆN TƯỢNG TOÀN CẦU HÓA, VÀ NHỮNG PHONG TRÀO CẤP TIẾN
Một khuôn mặt mới
của Á châu đang hiện lộ nhanh chóng. Những cộng đồng, vốn từng thuộc về vùng
nông thôn và canh tác nông nghiệp, sống chủ yếu trong các làng hẻo lánh và mưu
sinh chật vật bằng lao động thời vụ, chỉ qua có một vài thập niên đã đi vào nền
kinh tế đầu tư và có tính toàn cầu. Người ta đang cố gắng thích nghi với những
thay đổi xã hội đang diễn ra. “Cú sốc tương lai” mà Alvin Toffler nói đến cách
đây vài năm đang siết chặt lấy Á châu ngày nay. Dân cư thành thị trở nên hỗn độn.
Còn dân chúng miền quê thì bị bỏ mặc cho đói nghèo và vất vưởng.
Trong khi một bộ
phận xã hội đang học cách thích nghi và tận dụng những cơ hội mới nảy sinh
trong một thế giới cạnh tranh và toàn cầu hóa, thì nhiều người khác bị tụt lại
phía sau. Một số người cảm thấy mình bị loại ra lề hoặc bị bóc lột, đã hình
thành nên những nhóm nào đó để tự khẳng định mình, như:
- những nhóm sắc
tộc tự khẳng định
- những nhóm
chính trị tách biệt, những nhóm ly khai
- những nhóm cấp
tiến cực đoan
- những nhóm vũ
trang địa phương
- những nhóm
yêu nước cục bộ theo vùng miền
- những nhóm ý
thức hệ cấp tiến thiên hữu hay thiên tả
- những nhóm
quá khích có vũ trang
Các nhóm ấy
bùng phát, ở những đất nước vốn từng có tiếng về truyền thống hiếu hòa, theo một
cách thức mà ngay cả cách đây vài năm người ta cũng không thể dễ dàng tiên lượng
được. Động lực chính đằng sau hầu hết các phong trào này là những
người trẻ đang
kiếm tìm các giải pháp cho các vấn đề của cá nhân và của cộng đồng mình giữa những
lộn xộn của một thế giới toàn cầu hóa. Nền Kinh Tế Mới đã lôi kéo ngày càng nhiều
người trẻ ra khỏi mái ấm gia đình, niềm tin tôn giáo, gốc rễ văn hóa, căn tính
cộng đồng, vùng đất quen thuộc… và ném họ vào muôn trùng sóng gió bấp bênh.
Họ không có mấy cảm thức an toàn và càng không có mấy cảm
thức thuộc về. Sự giận dữ và thất vọng trở thành nguồn năng lực cho
họ.
Do sự suy yếu của
những mối ràng buộc gia đình và cộng đồng, họ không thể đào sâu bất cứ niềm xác
tín nào hay phát triển một tầm nhìn nào cho tương lai. Họ vuột
mất tính liên tục văn hóa vốn
đến từ sự hiện diện của cha mẹ, ông bà, chú bác, anh chị em… trong những gia
đình và cộng đồng chặt chẽ hơn. Họ vuột mất những quy tắc mà cha mẹ và giới
lãnh đạo cộng đồng vốn từng đề ra, vuột mất những sự chắc chắn từng được thừa kế
từ một di sản chung, và vuột mất sự liên đới mà cộng đồng làng xã từng cung ứng
cho mình trong những thời khắc khủng hoảng. Toàn bộ hệ thống giá trị của họ
đang bị đe dọa.
Chính trong những
căng thẳng và bấp bênh này, và những điều tương tự, mà chúng ta cung ứng những
giúp đỡ mục vụ và cố gắng hỗ trợ những người lạc lối, nghèo khổ, kém phát triển,
mù chữ, bệnh hoạn, già yếu, bị loại ra lề, hay bị đối xử bất công.
2. SỰ XÓI MÒN CỦA CÁC NỀN VĂN HÓA VÀ CÁC GIÁ TRỊ
Những căng thẳng
đang leo thang tại nhiều nước cho ta thấy rằng các lý tưởng và các giá trị truyền
thống Á châu đang suy yếu nhanh. Điều này là do bởi những khuynh hướng trong xã
hội chúng ta vốn dĩ làm xói mòn nền đạo đức, nhữngmối dây ràng buộc xã hội,
cảm thức thuộc về cộng đồng, và tinh thần dấn thân cho các giá trị và các lý tưởng
chung… dẫn đến nạn tham nhũng, tinh thần quy ngã trơ trẽn, óc bè phái, não trạng
phe nhóm hẹp hòi. Ý thức trách nhiệm suy vi nhanh chóng và cảm thức về thiện
ích chung đang lụi tàn. Sự gia tăng hàng hóa tiêu thụ có sẵn cho những ai đã
leo lên tới mức sống của giai cấp trung lưu đang đe dọa biến đổi con người từ
những công dân có lương thức, có phẩm giá và lòng tự trọng trở thành những cá
nhân ích kỷ, những rôbốt đói-khát-tiền-bạc-và-quyền-lực, và những người tiêu thụ
vô độ.
Khi các cá nhân
cũng như các cộng đồng bứt mình ra khỏi các gốc rễ tôn giáo và
văn hóa của mình, rồi trở nên duy vật, họ bắt đầu quên những
nguồn mạch mà từ đó họ đã từng kín múc sức mạnh luân lý và sự vững chãi tâm
linh: gia đình, cộng đồng, văn hóa, những truyền thống sống động và những niềm
xác tín chung. Họ không còn rút được năng lực từ những phẩm tính có sức thúc đẩy
và đem lại sức sống trong nền văn hóa của mình, và không còn nhận ra được sự
cao quý của những yếu tố dung dị trong truyền thống của mình, sự cao cả trong
căn tính và ý nghĩa trong đức tin của mình.
3. ÁP LỰC CỦA CÁC TRIẾT HỌC TÂY PHƯƠNG TRÊN GIỚI TRÍ THỨC Á
CHÂU, MỌI TÔN GIÁO ĐỀU BỊ SỨC ÉP
Trong thời kỳ
thực dân, nền giáo dục Tây phương đã đem những trào lưu triết học phổ biến của
mỗi giai đoạn đến các xã hội ở Á châu. Giới trí thức xem việc đón nhận một trào
lưu triết học nào đó là hợp thời vì nó thuyết phục họ hay phù hợp với họ.
Tương tự như thế,
họ bị ảnh hưởng bởi những định nghĩa khác nhau về tôn giáo do nhiều trường phái
tư tưởng khác nhau đưa ra; chẳng hạn, họ coi tôn giáo như sự tha hóa,
là một bản năng tự nhiên để xoa dịu những thực tại đau thương, là thuốc phiện của
những người bị áp bức, là tư tưởng đào thoát khỏi thực tế, là ảo tưởng, là một
cảm xúc hữu ích, là tìm kiếm sự khuây khỏa và hướng nội. Giới trẻ của chúng ta
ngày nay đang chịu ảnh hưởng từ nhiều học thuyết như thế. Các chủng sinh, tu sĩ
trẻ và những người nam nữ làm mục vụ cũng không là ngoại lệ.
Một thế giới mới
đã dần dần hiện lộ đối với giới trí thức Á châu, trong đó tôn giáo bị loại ra lề.
Bất chấp sức mạnh và sự vững chãi của các tôn giáo truyền thống Á châu, một
đàng là những triết học thế tục ấy và những ý thức hệ duy vật biện chứng (thiên tả), và đàng
khác là chủ nghĩa duy vật tiêu thụ (thiên hữu), đã định hình tâm thức của giới
trí thức ở Á châu trong hơn một thế kỷ. Kết quả là những lĩnh vực giải trí, nghề
nghiệp, giáo dục, chính trị, kinh tế trong xã hội chúng ta vẫn tiếp tục loại bỏ
các mối quan tâm tâm linh ra khỏi phạm vi của mình.
Ngày nay, với nền
kinh tế toàn cầu đang hạ thấp phần đông người ta trong xã hội xuống mức chỉ còn
là những người sản xuất và những người tiêu thụ, thế giới quan của đại đa số
người châu Á cũng chịu áp lực nặng nề. Vì cả nền giáo dục lẫn các phương tiện
truyền thông đại chúng đều phục vụ cho hình thức kinh tế này, nên những giá trị
đạo đức và tôn giáo từng là đặc nét của các xã hội Á châu nay phải rơi vào sự
căng thẳng nghiêm trọng. Trong khi chúng ta không thể phủ nhận rằng một bộ phận
lớn dân chúng vẫn trung thành với nền văn hóa và tôn giáo của mình, thì những
thế hệ trẻ hơn, nhất là những người có học, phải vật lộn với làn
sóng thế tục hóa hiện nay, một số trong họ bị cuốn vào một dạng
cực đoan nào đó trong phản ứng.
Phần đông người
ta ngày nay chỉ sống theo những gì thuận với sở thích trong lĩnh vực hoạt động
riêng của mình. Đời sống công cộng không cho thấy bao nhiêu dấu chứng về các niềm
xác tín tôn giáo hay về các nguyên tắc luân lý rút ra từ đó. Tôn
giáo nào cũng đang ở trong sức ép, và bị thách đố nghiêm trọng
bởi các ý thức hệ thế tục. Những ý thức hệ này đang nhanh chóng thay thế tôn
giáo. Và người ta đang lo sợ rằng khuynh hướng thế tục hóa hiện nay là không thể
đảo ngược. Có quá nhiều ngôn sứ của thời thế mạt.
Người ta ghi nhận
rằng một phần không ít giới trẻ của chúng ta đã lãng quên ngay cả những điều
căn bản của Công giáo, và một số người khác phản ứng bằng cách chuyển sang Phái
Ngũ Tuần! Thậm
chí những người đạo đức cũng thường hay bị mắc kẹt giữa hai thái cực:chủ trương mêsia thế tục (như thể việc xây dựng thiện
ích trần thế là mục tiêu duy nhất của sứ mạng Kitô hữu) và những thái quá mang
tính đặc sủng rất gần với Phái Ngũ Tuần.
4. SỰ GIÁN ĐOẠN TRONG VIỆC CHUYỂN TRAO ĐỨC TIN
Các nhà nhân học
cho chúng ta biết rằng đằng sau mọi nền văn minh/văn hóa đều có mộttầm nhìn thống nhất về thực tại.
Trong trường hợp của Á châu xét chung, đó là một “tầm
nhìn tâm linh”; vàđó
là linh hồn của các nền văn hóa của chúng ta. Tầm nhìn này đang lu mờ nhanh
chóng.
Như chúng ta đã
ghi nhận, do những tiến trình toàn cầu hóa gần đây, các cấu trúc xã hội như đại
gia đình, trường học, xóm giềng, những mô hình truyền thống hình thành nên xã hội - vốn giúp chuyển trao những xác
tín tôn giáo từ thế hệ này sang thế hệ kế tiếp – nay đã bị phá vỡ. Có một sự
gián đoạn rõ rệt trong việc chuyển trao đức tin cho thế hệ sau.
Tương tự như thế,
cũng có sự gián đoạn trong việc chuyển trao các giá trị xã hội cho thế hệ sau.
Các cộng đồng sản sinh ra giá trị không thể được xây dựng chỉ xuyên qua những
khái niệm tương quan mang tính khế ước giữa những cá nhân đơn lẻ như các nhà
triết học xã hội chủ trương. Đối với Marx, công nhân là những cá nhân đơn lẻ
bán sức lao động (Taylor 2007:221). Trái lại, các giá trị được phát sinh
nơi những cộng đồng hữu cơ, đặt
nền trên tính sắc tộc, văn hóa và tôn giáo. Tuy nhiên trong xã hội hiện đại,
các cá nhân bị ép vào trong các thực thể xã hội vô ngã vị như: nhà nước, đảng
phái, giai cấp, các phong trào xã hội, mạng lưới kinh tế, một thế giới toàn cầu
hóa. Ngay cả các cộng đồng tôn giáo cũng đánh mất “cảm thức cộng đồng” của họ
trong một thế giới vô ngã vị. Lại nữa, sự giao thoa giữa các nền văn hóa làm
cho tính liên tục trong truyền thống của chúng trở nên khó khăn, hầu như bất khả
(Bruce 2011:74). Đó là điều khiến con người ngày nay khao khát những giá trị
chung và đời sống cộng đồng bên trong những cộng đồng của chính họ.
Ngày càng được
cảnh báo về những dạng thức vô thần và những chênh vênh này, người ta đã phản ứng
bằng cách chuyển sang những hình thức khác nhau của chủ
nghĩa cực đoan, tức là bảo thủ thái quá trong quan điểm và công
kích triệt để chống lại những người khác. Những người trẻ của chúng ta – ở trường
học hay ở sở làm – đang thường xuyên “phơi sườn” cho các khuynh hướng này. Họ
cũng tương tác với những người hoạt động tích cực trong các phong trào như bảo
vệ môi trường, nữ quyền, nhân quyền, các nhóm thiểu số. Chính để chăm lo cho
các nhu cầu của những người đang chịu các ảnh hưởng này mà Giáo hội vạch ra các
chiến lược thực thi sứ mạng của mình.
5. KHUÔN MẶT ĐANG TRÔI QUA CỦA KHUYNH HƯỚNG CẤP TIẾN THIÊN TẢ
Cách đây
vài năm, nhiều bạn trẻ Công
giáo có học thức của chúng ta đã bị kéo theo hướng của những ý thức hệ thiên tả
và chủ nghĩa duy hoạt động. Khái niệm đấu tranh giai cấp, vốn phổ biến vào thời
điểm ấy, được truy nguồn từ các bản văn và các trình thuật Thánh Kinh. Những ý
niệm của Mỹ Latinh về sứ mạng Giải phóng (các ý niệm Thần học Giải phóng) được
phổ quát hóa, và các nhận thức rút ra được làm thành giáo thuyết. Cách tiếp cận
này mắc phải điểm yếu là không chú ý đến những kinh nghiệm ở những vùng khác
trên thế giới, yếu khi ứng xử với những thực tế lịch sử khác, giữa những nhóm
dân tộc khác, và trong những hoàn cảnh văn hóa khác.
Đối với một số
người, đức tin trở thành được đồng hóa với chủ trương mêsia chính trị,
và luân lý được coi như một phế tích của giai cấp tư sản. Những Kitô hữu ủng hộ
các khái niệm này đang quên
rằng trong khi việc mưu cầu công lý là điều quan trọng, thì Kitô giáo không thể
bị giảm trừ đến chỉ còn là những nỗ lực giải phóng, những cuộc đấu tranh cho
công lý hay cho nhân quyền. Ratzinger nói: “Khi đức tin bị biến thành một chủ
trương mêsia trần thế, thì đó là một sự phản bội đối với Kitô giáo” (Jankunas
2011:82).
Nhưng từ thập
niên 1990, các nhà cách mạng trẻ đã thay đổi cách nghĩ. Những ai từng giải quyết
các vấn đề công lý trong Thế giới thứ ba dựa vào quan điểm triết học, thì nay
thích nắm bắt các cơ hội hơn. Và khi thành công, một số người trong họ dồn hết
nỗ lực vào những kiểu kiếm tiền và tiêu tiền mà họ đã từng khinh thường trước
đây. Các ưu tiên của họ đã thay đổi, và ngày nay họ dùng tất cả mọi năng lực nhằm
sở đắc hàng hóa tiêu thụ.
6. NHỮNG KITÔ HỮU THIÊN VỀ BẢO THỦ HAY TRÀO LƯU NGŨ TUẦN BỊ PHÊ
BÌNH MỘT CÁCH THIẾU TRÁCH NHIỆM
Khi sự việc diễn
tiến theo hướng nói trên, hầu hết Kitô hữu không biết cách xử lý tình huống ngoại
trừ việc vẫn cứ bảo thủ một cách bất lực. Chẳng mấy người phát triển kỹ năng đối
thoại với các ý tưởng mới phát sinh bởi sự lan tràn niềm tin vô thần, khoa học,
kỹ thuật, công nghiệp, tự do, tự trị, lý luận và sự tiến bộ. Cách riêng, các
nhà lãnh đạo Giáo hội cảm thấy phiền nhiễu khi ứng xử với những đám đông tín hữu
vừa nặng tính bảo thủ vừa ít hiểu biết. Cách tiếp cận thận trọng của giới lãnh
đạo Giáo hội trước cách nghĩ mới khiến các vị trông có vẻ thủ cựu hơn so với bản
chất thật sự của mình. Tuy nhiên, khuynh hướng bảo thủ rõ rệt của giới giáo sĩ
được phần còn lại của xã hội giải thích như là sự đề kháng đối với những tư tưởng
cấp tiến và như là thái độ không sẵn sàng thay đổi. Cảm nhận này đã đẩy nhiều
giáo dân ở những đất nước Kitô giáo truyền thống về phe của những người tiến bộ,
phóng khoáng và bài giáo sĩ.
Ngoài ra, bất cứ
ở đâu mà những nhà lãnh đạo Giáo hội dính líu quá chặt với với chế độ cai trị
như ở Mỹ Latinh, thì những người tiến bộ trở nên càng bất tuân. Giữa những khó
khăn này, hầu hết tín hữu an phận đóng khung mình trong một thái độ nhân nhượng
bề ngoài và trong những thực hành truyền thống. Trong khi đó, một bộ phận lớn
giáo sĩ vẫn cứ tự mãn và thụ động, ù lì trước những nhu cầu mục vụ và ì ạch trước
những cơ hội loan báo Tin Mừng. Nói chung người ta thấy thiếu tính sáng tạo và
năng động.
7. THẾ TỤC HÓA: BẠN HAY THÙ?
Nói đến đây,
chúng ta phải thừa nhận rằng sự ‘phơi sườn’ của Á châu trước những cung cách và
tư tưởng chính trị, những kỹ năng kinh tế và lối nghĩ hiện đại của Tây phương,
đã giúp các quốc gia của châu lục này hiện đại hóa chính mình. Dân
chủ, bình đẳng trước pháp luật, sự tách biệt giữa Giáo hội và
Nhà nước, quyền tham gia vào việc đưa ra quyết định, tự do biểu đạt, những quyền
cơ bản của con người, sự tiếp cận bình đẳng đối với những cơ hội kinh tế… tất cả
những ý niệm này trở nên có giá trị lớn lao đối với các xã hội Á châu vốn khao
khát tự do và phát triển. Nền giáo dục Tây phương được nồng nhiệt đón nhận và một
hàng ngũ lãnh đạo xuất hiện ở hầu hết các nước Á châu, đó là những người có khả
năng nắm vận mệnh của đất nước mình.
Đặc biệt hơn,
thiểu số Kitô hữu ở Á châu đã nhận thấy lợi ích của việc khẳng định giá trị của
một chính thể thế tục. Họ nhất loạt đòi hỏi một chính quyền thế tục,
theo nghĩa không phải là một chính quyền bác bỏ các giá trị tâm linh hay bách hại
các tín hữu, nhưng là một chính quyền đối xử với mọi cộng đồng tôn giáo bằng sự
tôn trọng ngang nhau và mở rộng sự bảo vệ ngay cả đối với những
cộng đồng thiểu số. Đáng
tiếc, không phải tất cả các chính quyền ở Á châu tự nhận là thế tục mà thật sự
mang tính thế tục. Một số chính quyền công khai thiên vị giáo phái, một số khác
vẫn còn phủ nhận tự do tôn giáo đối với các cộng đồng thiểu số.
8. Chủ nghĩa cực đoan đáp trả tình trạng tục hóa thái quá và sự
sỉ nhục tập thể
Với việc
loại bỏ những sự chắc chắn và lòng trung thành thuộc tôn giáo, nhiều người
dứt khoát quay sang chủ nghĩa cực đoan để tìm kiếm nền tảng chắc chắn
làm điểm tựa cho thế giới ý tưởng và các xác tín của mình. Ở Á Châu, hiện tượng
này mặc lấy một chiều kích mới trong các xã hội từng bị sỉ nhục thê thảm hồi còn ở
trong thời thuộc địa. Vì thế, ở nhiều nơi chủ nghĩa cực đoan tôn giáo đã
liên kết chặt chẽ với cuộc khôi phục văn hóa và chủ trương cấp tiến
chính trị.
Koenraad Elst
nói rằng xã hội Ấn Độcảm thấy mình bị sỉ
nhục trong một
nghìn năm dưới sự thống trị cả về chính trị và văn hóa bởi các
thế lực Hồi giáo và Kitô giáo (Elst 2001:9). Những người Hồi giáo
cảm thấy mình bị tổn thương về cách đối xử của phương tây đối với
các quốc gia Hồi giáo và về việc cướp bóc tài nguyên thiên nhiên của
họ, mà họ coi là sự ngạo mạn của người Kitô giáo. Các nhóm tôn giáo
khác, như các tín đồ Phật giáo, cũng bày tỏ nỗi bất bình tương tự như thế.
Dù đúng hay
sai, thật quan trọng việc chúng ta lưu tâm đến tâm
thức tập thể của một cộng đồng bức xúc. Việc lên án cách
chung chung những xã hội này về yếu tố cấp tiến trong đó sẽ chẳng ích lợi
gì. Nên khởi xướng một hình thức trao đổi đối thoại nào đó. Các nhà tâm lý
cho ta biết rằng những ai mang một mặc cảm tự ti sẽ luôn cố tìm cách khẳng
định. Ta cần cảm thông với họ, ngay cả khi ta thấy rằng không thể đồng ý với
họ trong mọi chuyện.
Ngày nay
chúng ta cần những người làm cầu nối, những người cho dù gặp lắm khó
khăn với những kẻ cực đoan hay cấp tiến vẫn cố gắng tìm kiếm một
thế giới quan chung và các
giá trị đạo đức chung, cũng như một lối tiếp cận chung đối
với các vấn đề toàn cầu. Phaolô nhắc nhở: “Lời nói của anh em phải luôn luôn mặn
mà dễ thương, và anh em phải biết đối đáp sao cho phải với mọi người” (Cl 4,6).
Chúng ta cũng
không thể xác quyết rằng cộng đoàn Kitô hữu hoàn toàn miễn nhiễm đối với tư tưởng
cực đoan. Sự tăng số các giáo phái nghiêng chiều về việc giải thích Kinh
Thánh theo nghĩa mặt chữ và rao giảng với giọng điệu hung hăng có thể được xếp vào loại đó. Gần
đây họ nhận thêm sức mạnh khi đương đầu với sự hung hăng của những người quảng
bá chủ nghĩa vô thần và tư tưởng duy vật thô lậu như Christopher Hutchins và
Richard Dawkins, cũng như những cường điệu của các nhóm cực đoan trong các tôn
giáo khác.
Nhiều bạn
trẻ Kitô giáo chúng ta bị cám dỗ theo hai hướng: một số chọn rời bỏ
thực hành tôn giáo với không chút cắn rứt lương tâm, số khác thì cảm
thấy bất an khi đối mặt với trào lưu thế tục hóa diễn ra mạnh mẽ,
họ dứt khoát đi tìm những lối biểu hiện đức tin xuyên qua cảm xúc và
lời nói. Nhà rao giảng Tin Mừng nên quan tâm giúp đỡ những nhóm khác nhau
như thế. “Hãy luôn sẵn sàng đáp lời với mọi người chất vấn anh em về mối hy
vọng có trong anh em, nhưng với sự dịu dàng và tôn trọng”
(1Pr 3,15).
9. Cần tránh những sự phóng đại, và phải cởi mở với mọi
người, mọi nhãn
quan
Giữa những tiếng
nói đa tạp, ầm ĩ như thế, chúng ta cần đem lại sự cân bằngnào đó cho mọi sự. Đó là câu trả lời cho cả
những người ủng hộ trào lưu thế tục hóa lẫn những người cực đoan. Khi người
ta phóng đại các quan điểm của mình, dù về phía thế tục hay về phía tôn
giáo, họ đều đang đâm đầu vào xung đột. Chúng ta cần ý thức sự thực này. Cần
phải có tinh thần tự phê bình để điều chỉnh việc quá tin tưởng vào phía này
hay phía kia.
Cách đúng
đắn để Phúc âm hóa là trả cho Xê-da những gì thuộc về Xê-da và trả
lại cho Thiên Chúa những gì thuộc
về Thiên Chúa; trả cho mỗi lĩnh vực hoạt động của con
người những gì thuộc về nó và qui hướng sự chú ý vào những gì là cốt
yếu của con người. Đó là vượt qua những sai lầm của quá khứ và các lý do xung
đột trong hiện tại. Đó là thừa nhận rằng không có tôn giáo hay hệ thống đạo đức
nào đáng bị lên án chỉ vì những sai phạm về đạo đức nơi một số môn đồ của
nó. Đó là chung tay với những người thuộc các niềm tin khác nhằm phụng sự
cho lợi ích chung: ví dụ, các giá trị đạo đức, tự do, cải cách, các quyền của
cá nhân, thăng tiến phụ nữ, tôn trọng sự đa dạng; quyền phụ nữ, quyền của người
thiểu số.
10. Hòa giải các cuộc đối đầu, lựa chọn sự cân bằng, ủng hộ
Trung Đạo
Đức Giáo
Hoàng Bênêđíctô nói rằng chính khi một người đưa ra quyết định đúng với đạo
đức là lúc họ giống Thiên Chúa nhất. Kinh nghiệm sứ mạng thừa sai cho ta
thấy rằng sự quyết định có tính quân bình, tránh mọi kiểu phóng đại, là
điều rất quan trọng cho hiệu quả hoạt động tông đồ. Chúng ta bước tới như
Thiên Chúa thúc đẩy và như các hoàn cảnh yêu cầu mình. Chúng ta biết cách hòa
điệu Lý trí và Tôn
giáo. Một mặt chúng ta muốn hiện đại; nhưng mặt khác chúng ta
cũng muốn trung thành với di sản Kitô giáo chung của chúng ta, và với di sản
văn hóa riêng biệt của mỗi chúng ta.
Chúng ta muốn cởi
mở đối với các phát hiện mới của khoa học: xã hội học, tâm lý học, sinh học,
kinh tế, các ngành khoa học khác; nhưng chúng ta không muốn nhượng bộ về các
điều cơ bản của đức tin, của các truyền
thống Công giáo. Chúng ta chấp nhận sự kiện rằng có sự
thay đổi không ngừng
trong một xã hội năng động và trong Giáo Hội; nhưng lương tri đòi hỏi chúng ta
phải đảm bảo được tính liên tục và giữ gốc rễ. Chúng ta tin tưởng vào sự
năng động của thế hệ
trẻ; nhưng chúng ta cũng tôn trọng sự khôn ngoan và kinh
nghiệm của các thế hệ
lớn tuổi. Chúng ta dựa vào các nguồn lực nhân loại trong những tình huống khó khăn;
nhưng chúng ta cũng tin tưởng vào sự quan phòng của Thiên Chúa và tìm kiếm sự trợ
giúp của Người. Tại Ấn Độ, chúng ta nói về Trung đạo của Đức Phật. Các học
giả thời Trung cổ thường nói “in
medio stat virtus” (nhân đức là ở chỗ trung dung).
Chúng ta hãy
tiếp tục danh sách này (trung dung giữa hai mặt):
-Thiêng thánh và thế tục
-Thần bí
(linh đạo cá nhân) và tinh thần ngôn sứ (dấn thân cho một
xã hội rộng lớn hơn)
-Thái độ vui vẻ và thái độ nghiêm túc đối với các vấn
đề vốn hệ trọng
-Quyền bính và Tự do
-Kỷ luật và Nhân đạo
-Những vấn đề
trước mắt và Các mối quan tâm tối hậu, Mục tiêu
tối hậu
-Chủ nghĩa duy
tâm và Chủ nghĩa hiện thực
-Sự khắc khổ và sự chừng mực
-Sự tử tế và tính hiệu quả
-Nền kinh tế và Việc bảo vệ môi trường, văn hóa, các
giá trị, sự phân phối, Niềm vui của Tin Mừng
-Hiệu quả trong
sản xuất và Công bằng trong phân phối, rộng rãi
trong chia sẻ
-Sự tự lực
tài chính và định hướng hiệu quả tông đồ
-Các lợi ích địa
phương và Những mối quan tâm toàn cầu (EG
234-36)
-Các lợi ích
quốc gia và Tầm nhìn phổ quát
-Các mối quan
tâm đối với giáo xứ và sự cởi mở mang tính Công giáo
-Sự hoàn thành
cá nhân và sự dấn thân cộng đồng
-Khuôn khổ (kỷ
luật đời tu) và tình trạng hỗn loạn, vô tổ chức, thiếu
dấn thân (trong đời tu)
-Cấp tiến và Bảo thủ
(Thật lạ là người
ta có thể rất cấp tiến trong một lãnh vực, nhưng cực kỳ bảo thủ ở lãnh vực
khác, rất cấp tiến trong kỷ luật tôn giáo và các qui tắc phụng vụ nhưng có thể
cực kỳ bảo thủ trong các vấn đề công bằng xã hội!)
Tông huấn Evangelii
Gaudium số 229 có
riêng một danh sách:
-Trời và Đất
-Thiên Chúa và con người
-Thời gian và Vĩnh cửu
-Xác thịt và tinh thần
-Cá nhân và Xã hội
-Cá thể (căn
tính riêng) và Cộng đồng (EG 235)
Đã có nhiều sự
nhấn mạnh trong triết học và thần học để trả lời cho những sự phóng đại nào đó
theo các hướng khác nhau. Các sinh viên học lịch sử tư tưởng cần phải hiểu điều
này, để có thể đánh giá đúng một số trường hợp quá cường điệu và tránh sống
kiểu phản ứng thiếu suy nghĩ đối với quá khứ.
Điều vô cùng
khó, đó là phát triển một nhãn quan toàn diện về mọi sự, thu họp các quan điểm
đối lập lại với nhau, và làm việc để phối kết các chân trời khác nhau. Nếu
chúng ta chia rẽ trong các cộng đồng và trong tư tưởng của chúng ta, nếu ta
phân cực trong các cuộc tranh luận của chúng ta, thì chúng ta sẽ chẳng thể đạt
được kết quả nào trong lĩnh vực tông đồ.
11. Thích nghi chính mình với tất cả các nền văn hóa và các cộng
đồng
Hoạt động nơi
các nền văn hóa, những người loan báo Tin Mừng cần biết tự thích nghi với
những nhóm người khác nhau. Cần lưu ý về những khác biệt trong thế giới quan,
mô hình văn hóa, hệ thống ý nghĩa, và tâm lý tôn giáo của các cộng đồng khác
nhau khi ứng xử với người ta thuộc các nền văn hóa khác, tại trường học, ký túc
xá, cơ sở giáo dục, trung tâm y tế, các hoạt động phát triển xã hội và các bối
cảnh mục vụ .
Các nhà thừa
sai nên nhớ rằng mỗi cộng đồng đều có cách riêng để nhìn sự vật và đối xử với nhau. Bạn có thể mắc
những sai lầm nghiêm trọng nếu bạn quá cứng rắn ở nơi mà một lối tiếp
cận nhẹ nhàng thì dễ chấp nhận hơn đối với một cộng đồng, hoặc vì bạn
bỏ mặc cho người ta định đoạt mọi sự ở nơi mà người ta cần sự liên can trực tiếp
của bạn hơn. Có những chuyện mà đối với cộng đồng này là đáng kính
và trang nghiêm lại là nhạt nhẽo và đáng dè dặt đối với cộng đồng
khác. Người ta thể hiện cảm xúc của mình theo những cách khác nhau: thân mật
hay khó chịu, ngạc nhiên hay sốc, quan tâm hay thương cảm, nồng nhiệt hay lạnh
nhạt, chấp nhận hay từ chối. Các cảm nghĩ như thế đôi lúc được thể hiện rõ
ràng trong lời nói, lúc khác thì chỉ xuyên qua các ám chỉ gián tiếp. Một số
người thích ngụ ý hơn cụ thể, thích đề nghị hơn tuyên bố, thích biểu
lộ ý kiến của họ qua sự thinh lặng hay ngôn ngữ cơ thể (lắc đầu, nháy mắt, mỉm cười hoặc
cau mày) hơn là nói rõ ràng hay quả quyết.
Một số vấn đề hệ
trọng lại được thì thầm bên tai, chứ không được công bố trên các nóc nhà.
Người tây phương thường thích thẳng thắn, người đông phương tìm cách để
không làm mất lòng. Thái độ của con cái đối với cha mẹ, của các thành
viên trẻ đối với những người lớn tuổi, của các chàng trai ở giữa các cô
gái, cách thức mà họ tỏ ra tôn trọng những bậc trưởng thượng hoặc người tu
hành sẽ khác biệt tùy theo các truyền thống khác nhau của mỗi cộng đồng. Những
gì mà người này xem là tự tin và cởi mở có thể lại là kiêu ngạo và phiền
nhiễu đối với người khác. Có người thích lối nói giảm, nói tránh
(uyển ngữ), người khác lại khoái tô vẽ thêm. Việc thưởng hay phạt, hay
cách thi hành thuởng phạt có thể khác nhau. Cách gợi ý giúp đỡ, kêu gọi hợp
tác, mở ra phạm vi tham gia, tìm kiếm sự đồng thuận, bày tỏ quan điểm bất
đồng, nhận thức về thời gian, chú trọng tính đúng giờ, vai trò của cá nhân
trong gia đình và xã hội, vị thế của người lớn, cách xưng hô với nhau… tất cả
những điều này đều tùy thuộc vào nền văn hóa.
12. Quan tâm đến tâm thức tập thể của các cộng đồng
Từ sau vụ sập
tòa Tháp Đôi, ở Mỹ người ta đã thay đổi tâm thức đối với tôn giáo. Tương tự như
thế, sau một cuộc xung đột địa phương hay sau một đợt thiên tai như
sóng thần Tsunami, người ta hướng về Thượng Đế và trở nên chú trọng
cả về những trách nhiệm con người của mình.
Các nhà sử học
nhận thấy có một sự khác biệt lớn trong tâm thức tập thể và quan điểm chung
của người dân các nước tây phương trước và sau chiến tranh thế giới thứ nhất.
Ý thức cộng đồng và niềm tin về các khả năng của con người đã hoàn toàn thay
đổi. Trước khi chiến tranh bùng nổ, người ta đã rất đỗi tự tin về các tiềm
năng của con người đồng thời quá lạc quan về ‘tính bản thiện’ của con người.
Những thái độ phi lý của các nhà lãnh đạo và các hành động tàn ác vô
nhân đạo được chứng kiến trong suốt cuộc chiến tranh đã đặt dấu chấm hết
cho thời kỳ đó. Chiều hướng bi quan của nhiều triết gia học hiện sinh bắt
nguồn từ những kinh nghiệm bi đát của thời chiến và những quan điểm vô lý mà
ngay cả những người trí thức cũng mắc phải trong các thập kỷ phân hóa sâu sắc
tiếp theo.
Và sau này, bi
kịch của các cuộc Chiến tranh thế giới và kinh nghiệm của cuộc Chiến tranh lạnh,
sự xói mòn của các nền văn hóa, sự thay đổi trong các kiểu dạng năng
lượng thế giới, thắng lợi của cạnh tranh, sự buông theo chủ nghĩa cá nhân, suy
thoái kinh tế kéo dài, vàdân
số già đi dần…
đã ảnh hưởng đến tâm thái tập thể của thế giới tây phương.
Tương tự, các
nước thuộc Thế giới thứ ba cũng có những ký ức của riêng mình: về sự
chinh phục và nô dịch, sự thức tỉnh dân tộc nhờ giáo dục của phương Tây, cuộc
đấu tranh giải phóng; những khó khăn trong việc ứng xử với sự tự do vừa
giành được; sự tự tôn dân tộc trong xã hội của họ và sự hung hăng ý thức hệ;
những kinh nghiệm tương tự như thế đã lưu dấu trong thế
giới cảm xúc tập
thể của từng xã hội, làm méo mó nền văn hóa của xã hội, mỗi trường hợp theo
một cách riêng.
Còn có những
khác biệt khác nữa: nếu đã có kinh nghiệm về nội chiến, xung đột sắc tộc, những
hỗn loạn chính trị, nạn tham nhũng, những biến động của nền kinh tế, các trào
lưu thế tục hóa, sự xói mòn các nền văn hóa, sự đánh mất các giá trị, mỗi cộng
đồng mỗi khác tùy theo kinh nghiệm của mình. Sự đan xen các nền văn hóa càng
làm cho các hoàn cảnh thêm phức tạp. Trong các bối cảnh như vậy, người loan
báo Tin Mừng bắt buộc phải lưu ý những khác biệt như thế trong tâm thức tập
thể của các cộng đồng khác nhau, liên hệ với mỗi cộng đồng theo một cách thế
phù hợp và có ý nghĩa, để mình có thể trở nên “mọi sự cho mọi
người”.
13. Những ký ức tiêu cực về các thương tổn mang tính
lịch sử
Trong các thời
điểm khó khăn, chúng ta có xu hướng chú ý đến các nguyên nhân trực tiếp của
các xung đột, mà quên rằng phần nhiều nguyên nhân phát sinh do những ký ức
tiêu cực về các thương tổn mang tính lịch sử vẫn còn tồn tại trong tâm trí của
các cá nhân và xã hội. Trừ khi chúng được chữa lành và các định kiến được
tháo gỡ, bạo lực chắc chắn sẽ lại bộc phát.
Hầu hết các nhà
hoạt động xã hội ngày nay ý thức sâu sắc về những bất công có tính cơ cấu cần phải được điều chỉnh, nhưng lại
không nhận ra những bất công lịch sử vốn yêu cầusự chữa trị khẩn thiết những ký ức tập
thể của một xã hội.
Trong trường hợp thứ hai, các liệu pháp phải được cung cấp không phải cho các
cấu trúc của xã hội, nhưng là cho các chiều sâu tâm lý của một cộng đồng: cho
thế giới cảm xúc tập thể, các thái độ, các động lực, những nỗi sợ hãi, nghi
ngờ, định kiến.
Nhiều khi
những người đấu tranh cho công lý bị mắc kẹt trong các vấn đề khác.
Trong khi chúng ta một mực tôn trọng những chiến sĩ đấu tranh cho công lý
cách chân chính – là những người được thúc bách bởi một tình yêu chân thành
dành cho những người bị tước đoạt, và là những người hoàn toàn vô vụ lợi
– thì chúng ta phải thừa nhận rằng một số “chiến sĩ” công lý này, chỉ là
chiến sĩ theo tính khí hay theo thói quen thôi. Họ sử dụngphần hung hăng trong tính cách mà họ đã nuôi
dưỡng để giữ vị trí lãnh đạo trong cộng đồng của họ; cũng có thể là những
kẻ thủ đoạn hơn đang sử dụng họ để thu lợi riêng cho mình. Nhiều khi một
cộng đồng tự chọn những phát ngôn viên biến chất để nói lên những
yêu sách của mình, một số trường hợp vượt quá mức thích đáng.
Điều này, đến
lượt nó, lại kích động thêm sự kháng cự từ phía chống đối. Trong khi đó
các vấn đề công lý thực sự lại bị gạt ra, và những nạn nhân thực sự thì
bị bỏ mặc. Những gì khiến công luận chú ý là cái tôi của các nhà
lãnh đạo và lập trường tập thể của các nhóm gây áp lực. Bên chịu thiệt sẽ bị quên lãng
trong cuộc đổi chác. Nhiệm vụ của những người rao giảng Tin Mừng được
thần khí thúc đẩy đó là sát cánh với các nạn nhân thực sự và cung ứng mọi
sự trợ giúp có thể, nhất là nâng đỡ ‘niềm hy vọng’ nơi họ và chỉ cho họ một lối bước đầy tính
xây dựng về phía trước.
14. VIỆC CHỮA LÀNH NHỮNG KÝ ỨC TẬP THỂ
Về mặt lịch sử,
chúng ta đã làm tổn thương nhau trong tư cách là những nhóm chủng tộc, những quốc
gia, hay những nền văn minh. Một phần của công việc phúc âm hóa là chữa lành
các ký ức khỏi những vết thương lịch sử này ở các cấp
độ chủng tộc, văn hóa, quốc gia và ngay cả văn minh nữa. Điều đó thì không dễ.
Chính đây là chỗ mà chúng ta thường thất bại. Ngay cả một người tầm cỡ như
Mahatma Gandhi cũng đã nói rằng mình thất bại. Song chúng
ta biết rằng việc chữa lành các ký ức là việc làm của Thiên Chúa.
Có những ký ức
về những sự tổn thương giữa các Tôn Giáo, các Giáo Hội, các Giáo Phái, các Nghi
Lễ, các Dòng; giữa các Cơ Sở Giáo Hội, các tổ chức, các hiệp hội, các nhóm, các
người lãnh đạo, các thành viên, giữa các thế hệ thừa sai; giữa các giới tính,
các màu da, các đẳng cấp, các tầng lớp, các nhóm tuổi, các nhóm chủng tộc, các
nhóm tôn giáo; giữa những cộng đồng người nước ngoài và người bản địa, giữa những
người giàu hơn và những người nghèo hơn, giữa giáo
viên và sinh viên, cha mẹ và con cái, nhà đào tạo và người được đào tạo, giáo
sĩ dòng và giáo sĩ địa phận, giáo sĩ và giáo dân, những người nắm quyền và cácthuộc cấp. Thật là một sứ mạng to lớn
việc mang sự chữa lành đến với những người bị tổn thương.
Trong bối cảnh
mục vụ, chúng ta gặp thấy một cộng đồng-làng xã, cộng đồng-giáo xứ, một cộng
đoàn tu sĩ hay một tỉnh dòng còn đọng lại những ký ức tiêu cực trong tương quan
với những người thực thi quyền bính trên họ vào một thời kỳ trước đây. Nó nhắc
chúng ta là những nhà lãnh đạo tôn giáo, những người đang thi hành bất kỳ loại quyền lực nào ở bất kỳcấp độ nào,
phải phát triển một ý thức trách nhiệm để không bao giờ lợi dụng vị thế của
mình cho những mục tiêu ích kỷ, vốn sẽ để lại những ký ức cay đắng. Toàn bộ
truyền thống ngôn sứ đều chống lại bất kỳ quyền
bính tôn giáo nào thu lợi từ ơn gọi của mình. Những sự lạm dụng như vậy sẽ
không còn tính thiêng thánh nào (đền thờ, luật lệ, các truyền thống, các thực
hành, các việc đạo đức). Mỗi tín hữu đều có một bổn phận tôn giáo là góp phần
vào việc chữa lành những ký ức tiêu cực như thế và những hệ quả của những kinh
nghiệm tiêu cực ấy. Đó là một sứ mệnh đem lại niềm vui.
Vì đã làm việc
trong lãnh vực hòa giải giữa những cộng đồng xung đột nhau trong hai thập niên,
tôi biết ý nghĩa của sự tức giận tập thể. Nó kinh khủng. Công việc làm
nguôi giận đã trở
thành tâm điểm sứ vụ thừa sai của chúng ta hầu như ở khắp nơi ngày nay: sự tức
giận của tầng lớp này chống lại tầng lớp kia, đẳng cấp chống lại đẳng cấp, nhóm
chủng tộc chống lại nhóm chủng tộc, bộ tộc chống lại bộ tộc, nhóm tôn giáo chống
lại nhóm tôn giáo, ý thức hệ chống lại ý thức hệ, quan điểm thần học chống lại
quan điểm thần học, lợi ích kinh tế chống lại lợi ích kinh tế, tham vọng quốc
gia chống lại tham vọng quốc gia, liên minh chính trị chống lại liên minh chính
trị. Chúng ta có thể trở thành những con “Chiên Thiên Chúa”, những người cất đi
“sự Tức Giận của Thế Giới” được hay không? Ít ra là làm giảm thiểu sự tức giận
đó? Trong khi chúng ta ca lên với các thiên thần “Bình an cho người thiện tâm”
(Lc 2, 14), chúng ta có thể giúp làm sản sinh “thiện tâm” này, cái bona
voluntas dường như
đang thiếu vắng ấy hay không?
Luận cứ chính của Nghiên
cứu lịch sử đồ
sộ của Arnold Toynbee đã nói rất chính xác rằngbạo lực tập thể trong một chiều hướng
thường là một sự đáp lại bạo lực xảy ra trước đó theo hướng ngược lại. Chỉ có một sự
chữa lành các ký ức mới
có thể đem lại một thế giới ít mang tính hủy diệt hơn. Trong những năm gần đây,
những buổi cầu nguyện và tưởng niệm những người đã chết đã diễn
ra tại các địa điểm liên quan đến các cuộc
chiến, với những vết thương tập thể chưa được chữa lành hay không được nhận biết:
Verdun, Gettysburg, Auschwitz, Hiroshima (Russ Parker, Healing Wounded History,
Darton, Longman & Todd, London, 2001, 57). Chúng ta không thể thay đổi quá
khứ, nhưng chúng ta có thể thay đổi cách trả lời của mình đối
với quá khứ.
15. CHĂM LO CHO NỖI
ĐÓI KHÁT CỦA CON NGƯỜI ĐỐI VỚI THIÊN CHÚA
Chúng ta đã nhắc
đến chủ nghĩa cực đoan đang nổi lên dưới nhiều dạng khác nhau trên sân khấu thế
giới. Hiện tượng mới này ít nhất cho thấy một điều: rằng tôn giáo vẫn còn thích
hợp, còn đang sống, nó ảnh hưởng đến người dân và xã hội. Tạ ơn Chúa đã có một
sự hồi sinh nỗi đói khát Thiên Chúa ngay cả ở nơi mà
niềm tin tôn giáo xem ra đang bị suy yếu: sự quan tâm lớn đối với những cuộc
hành hương tới các đền thánh, những Ngày Giới trẻ thế giới, các cuộc hiện ra,
các sứ điệp huyền bí, kinh nghiệm cầu nguyện của Taizé; có sự năng động trong
các phong trào xã hội và các tổ chức bác ái. Đời sống thánh hiến đang tự đổi mới
cả trong những dạng thức truyền thống lẫn trong các hình thức mới được khởi hứng
nhờ bản chất triệt để của Tin Mừng. Người dân đang đông đảo kéo đến các nhà thờ
chính tòa và các đền thánh: tới Compostella, Lộ
Đức, Fatima hay Czestachwa (Taylor 59), Vailamkani hay Bandel.
Những vị lãnh đạo
Giáo Hội được đề cập trên tin thời sự. Tiếng nói của Kitô hữu được đưa lên
phương tiện truyền thông. Nhưng điều thực sự quan trọng, đó là sứ điệp có thể
khởi đi từnhững giả định
văn hóa và những thực tế xã hội của thời đại chúng ta. Người dân ở
Châu Á, một cách đặc biệt, cho thấy rằng họ yêu mến các nơi
thánh, tôn trọng các nhân vật tôn giáo, ngưỡng mộ chiều sâu
thiêng liêng. Rõ ràng là có hi vọng.
Những tình trạng nghèo đói, bất công, tham nhũng và xung đột đòi hỏi một tiếng
thầm thì hi vọng, một lời khích lệ, mộtlời hứa trợ giúp, một tầm nhìn về tương lai.
Đó là những điều mà người làm mục vụ sẽ cung ứng.
16. MỘT KHOA SƯ PHẠM TRUYỀN THÔNG
Rồi người ta
đang đòi hỏi thứ gì đó còn sâu xa hơn là sự sống còn chỉ về mặt kinh tế mà
thôi. Nhưng ta cần tự nhắc mình rằng khi chúng ta trao tặng món quà Lời Chúa
cho những loại người khác nhau, thì nhịp độ tiến triển và phương cách tiếp cận
sẽ khác nhau tùy theo tâm trí sẵn sàng, sự cởi mở hay sự đề kháng
trong tâm lý mỗi người. Chúng ta đừng bao giờ quên rằng có một khoa
sư phạm truyền thông trong việc trình bày Đức Tin, vốn cần phải
dựa trên tâm lý tôn giáo của mỗi cộng đồng hay mỗi người. Chúng ta cần phải
sáng tạo, dẫn đưa mỗi người đi từ những gì quen thuộc đến những gì
ít quen thuộc hơn, liên kết những ý tưởng mới mẻ với những điều
đã cũ trong truyền thống của mỗi người.
Những sự thay đổi
tận căn, được đưa vào một cách vội vàng, có thể gây ra một cảm thức bất an và sợ
hãi, và thậm chí những đề nghị tốt lành cũng có thể bị kháng cự hay bị vứt bỏ.
Nói chung, chúng ta sẽ thấy những ý tưởng mới dễ giành được sự chấp nhận, (1) nếu
chúng được trình bày bằng ngôn ngữ được rút ra từ lối nói bình thường hằng ngày và với những hình ảnh từ nền
văn hóa đang thịnh hành, (2) nếu chúng ta thiết lập một mối quan hệ
giữa cái cũ và cái mới, và (3) nếu chúng ta xây dựng những nhịp cầu liên
kết những ý tưởng được đề ra với các nhu cầu của người ta.
17. MỖI NGƯỜI ĐỀU ĐỘC ĐÁO
Trong sứ mệnh
cao cả này, chúng ta không thể áp dụng “cách tiếp cận mang tính bầy đàn” được.
Việc chúng ta công bố sứ điệp lớn tiếng và rõ ràng, với năng lực và sự xác tín,
với sự tin tưởng vào sự thật của mình thôi thì chưa đủ. Duy chỉ một sự tiếp cận
chuyên nghiệp cũng sẽ không thuyết phục: ví dụ thuyết giảng như những chính
khách, đi vận động như những nhân viên thương mại, tìm kiếm sự chú ý như những
nhà truyền thông chuyên nghiệp, sử dụng các thiết bị kỹ thuật như các nhân viên
truyền thông. Xã hội đã quen với những trò quảng cáo này. Người ta đã trở nên đề
kháng với những quảng cáo rẻ tiền rồi. Người ta có những khái niệm khác nhau về
sự thật và cảm thức khác nhau về nghĩa vụ làm thế nào để liên hệ với sự thật
đó; những khái niệm khác nhau về tôn giáo và nhận thức khác nhau về tính phù hợp
của tôn giáo với cuộc sống của họ; những hệ thống giá trị cá nhân khác nhau và
những chiều sâu khác nhau mà họ đã thủ đắc chúng.
Mỗi người là độc đáo. Chúng ta phải nương theo bước sóng của
mỗi người trong một cách thế hoàn toàn độc đáo.
Đức Giê-su bắt gặp Da-kêu tại thời điểm hiếu kỳ của ông, Matthêu tại đỉnh cao trong
thành tích kiếm tiền của ông, viên đội trưởng La Mã khi tham gia vào bổn phận
hành hình tội nhân. Philipphê bắt gặp viên thái giám người Êthiôpia đang đọc một
bản văn Thánh Kinh; Phaolô thuyết phục Lydia trong lúc cô quan tâm đến việc kiếm
được nhiều khách hàng mới cho sản phẩm của cô khi mà người ta đang lắng nghe vị tông đồ. Danh sách
còn dài, nhưng mỗi trường hợp đều có thể được nghiên cứu một cách thú vị. Hầu như không có hai trường hợp
nào có vẻ tương tự với nhau một cách hoàn toàn.
18. TRÌNH BÀY CHO DÂN CHÚNG KHÔNG PHẢI NHỮNG KỸ NĂNG NHƯNG LÀ ĐỨC
TIN CỦA CHÚNG TA
Nhưng dường như
trong mỗi trường hợp, tính cách và bản năng sáng tạo của người loan báo
Tin Mừng đóng một
vai trò to lớn. Nhiều khi một người loan báo Tin Mừng thấy bất an và e ngại việc
để cho người đối thoại với mình đến quá gần mình. Anh ta sợ ánh mắt dò xét của
người đối thoại sẽ đánh giá anh ta và theo đó mà đánh giá những lời của anh ta.
Anh ta cảm thấy tính cách của mình rất không lôi cuốn. Sự lo lắng của anh ta là
chính đáng, vì những lời nói của anh ta không thể có giá trị hơn chính anh ta.
Đó là lý do tại
sao chúng ta vui khi tỏ lộ cho người ta biết sự uyên thâm của mình, tài hùng biện
của mình, những kỹ năng giảng dạy của mình, những kỹ thuật tổ chức của mình, những
cơ cấu của mình, chứ không phải là chính chúng ta và đức tin của mình. Khi
chúng ta không đủ qui về Thiên Chúa, không đủ tận tâm, không đủ quên mình,
không đủ hướng về người khác, không đủ quảng đại, không đủ tốt bụng và sốt sắng,
thì chúng ta dường như là thứ gì khác chứ không phải là mẫu người theo Tin Mừng.
Đó là lý do chúng ta lúng túng. Đó là lý do tại sao những lời nói của chúng ta
không có sức thuyết phục và chúng ta đã đánh mất những kỹ năng thuyết phục từ
lâu. Lời thì thầm của Mẹ Têrêsa đã lay động hàng triệu người.
19. PHONG CÁCH ĐỨC GIÊSU TRONG VIỆC SỬ DỤNG CÁC HÌNH ẢNH - VIỆC
TỰ THÍCH ỨNG VỚI DÂN CHÚNG
Điều mà chúng
ta tìm kiếm trước hết là chính Đức Giê-su và phong cách diễn đạt của Người. Nơi
Người chúng ta tìm thấy sự đa dạng đến kinh ngạc khi truyền thông : những
hình thức kịch tính hóa khác nhau, rút ra một bài học sau một
sự chữa lành hay sau một phép lạ, khiển trách Phê-rô với một cái nhìn, sử dụng
những hình ảnh với hiệu quả tác động sâu sắc, đưa cuộc đối thoại với các cá
nhân đi đến chiều sâu. Khoa sư phạm Người sử dụng thật lạ lùng.
Trong những
phong cách truyền đạt của Người, chúng ta cảm nghiệm được sức mạnh. Chúng ta
hãy lưu ý sự đa dạng trong :
-những dụ ngôn
của Người,
-những dụ ngôn bằng hành
động (sự nguyền rủa cây vả, sự rửa chân),
-những sự so
sánh,
-những bột phát
trong bối cảnh các trạng huống đời sống thực,
-các trường hợp
Đức Giêsu lên giọng,
-những kiểu kịch
tính hóa (gọi một đứa trẻ vào giữa “Nếu anh em không nên giống em nhỏ này”, viết
xuống đất, trộn nước miếng với đất),
-giọng điệu thuyết
phục khi thách thức những kẻ mạnh (những đoạn “Khốn cho các người”),
-thái độ cởi mở với những kẻ bên ngoài đàn
chiên (người phụ nữa xứ Syrô-Phênêxi, viên đội trưởng La Mã).
20. ĐỨC GIÊ-SU CHÚ Ý ĐẾN CÁCH SUY NGHĨ, TÂM TƯ CỦA NHỮNG NGƯỜI
KHÁC
Điều thú vị cần
phải ghi nhận đó là Đức Giêsu hết sức chú ý đến thế
giới bên trong của
những người khác, cái thế giới làm cho Người có thể đối thoại với họ ở chiều
sâu. Vì Người có thể đọc được những cảm nghĩ và tư tưởng của những người khác
trước khi Ngài nói, nên những đáp ứng của Người rất phù hợp và có hướng
đích rõ ràng:
-Matthêu 9,4 cho biết “Đức Giêsu hiểu điều họ đang nghĩ”
-Luca 6,8: “Nhưng Đức Giêsu biết những suy nghĩ của
họ”
-Luca 9,47: “Đức Giêsu biết điều họ đang nghĩ…”
-Luca 11,7: “Nhưng Đức Giêsu biết điều họ đang
nghĩ nên đã nói với họ…”
-Matthêu 12,25: “Đức Giêsu biết điều họ đang nghĩ nên
đã nói với họ”
Vì vậy, những lời
nói của Người đã tạo một ấn tượng sâu sắc trên dân chúng.
Cũng vậy, một
Kitô hữu khi truyền đạt cần cố gắng thủ đắc một sự hiểu biết đầy tôn trọng về
tâm trí của những người khác, nếu
muốn thành công trong Sứ Mệnh Thuyết Phục: ví dụ trong việc loan báo Tin Mừng,
việc đào tạo, việc giáo dục, việc mời gọi thăng tiến đời sống. Anh ta phải phân
định và diễn dịch tâm tư và các thái độ của những người mà anh ta ao ước trao gởi
Sứ điệp của mình đến cho họ. Điều này là
cần thiết để tránh những phương
thức không phù hợp và thiếu khôn ngoan đối với những người khác nhau và để truyền
đạt một cách thuyết phục. Nhiều nhà giảng thuyết thấy hài lòng nếu họ tự tin về
nội dung sứ điệp của mình và hăng hái muốn nói lên cách mạnh mẽ, đôi khi họ chọn
một giọng điệu đối đầu và khiêu khích. Điều đó sẽ gây kết quả ngược lại.
21. SỰ NHẠY CẢM CỦA ĐỨC GIÊSU ĐỐI VỚI THẾ GIỚI
CẢM NGHĨ VÀ CẢM XÚC CỦA NGƯỜI KHÁC
Sự sắc sảo của
Đức Giêsu không chỉ trong địa hạt tư tưởng, nhưng còn trong địa hạt tình cảm nữa.
Người có thể thấu hiểu những cảm nghĩ và những khao khát kín ẩn của người khác,
nhờ đó Người đã đáp ứng và can thiệp một cách hữu ích. Người đi sâu vào trong thế
giới cảm xúc và đề cập đến chúng. Người có một cách tiếp cận “nhân văn” với người
ta và dùng âm giọng “cá vị” khi nói chuyện với từng người như người phụ nữ
Samari, người phụ nữ bị bắt quả tang đang ngoại tình, một phụ nữ đã rửa chân
cho Người, người phụ nữ xứ Syrô-Phênixi, Matta, Maria, Da-kêu, Nathanaen, Tôma.
Người bày tỏ
lòng trắc ẩn với đám đông dân chúng. Chẳng hạn, chúng ta đọc thấy trong Mc 8,2:
“Đức Giêsu gọi các môn đệ đến với Người và nói ‘Thầy thương những người này, vị
họ đã ở với Thầy được ba ngày rồi, và bây giờ không có gì để ăn’”. Người đã xao
xuyến quá đỗi khi nghĩ về Giuđa (Ga 13,21). Và còn nữa: “Người đến gần thành
hơn, và khi Người thấy thành, Người đã khóc thương thành” (Lc 19,41). Đức Giêsu
đã khóc tại mộ Ladarô (Ga 11,35).
Có những lúc
chúng ta có sứ mệnh phải khóc. Than khóc cũng là một phần của sứ vụ ngôn sứ, đặc
biệt khi chúng ta cảm thấy hoàn toàn bất lực trước một sự dữ hay một thảm kịch
quá mức đối với mình vào lúc nào đó; như ngày nay, khi chúng ta nghe hàng triệu
vụ phá thai, bạo lực ở khắp nơi, tham nhũng ở mọi cấp độ, sự sụp đổ các giá trị
luân lý. Đức Thánh Cha Phanxicô gần đây đã nói rằng cần phải khóc trước nạn bạo
lực đang lộ rành rành ra đó.
Nói về sự than
khóc ở đây, tôi muốn nói đến việc làm cho nỗi tiếc xót của chúng ta được trở
nên hiển nhiên. Ngay cả thinh lặng chịu đau khổ cũng có sức hùng biện. Sự hiện
diện thinh lặng của một Mẹ Têrêsa hay một Mahatma Gandhi đã làm thay đổi tình
trạng của một xã hội tại một thời điểm cụ thể.
22. LỜI DẠY CỦA ĐỨC GIÊSU THÍCH ĐÁNG VÌ NÓ LUÔN ĐÁP ỨNG NHỮNG VẤN
ĐỀ THỰC TẾ
Phần lớn sứ điệp
của Đức Giêsu được trao để đáp ứng những vấn đề vốn cho thấy tâm tư của những
người hỏi. Chẳng hạn, chúng ta thấy Đức Giêsu trả lời cho câu hỏi:
-Matthêu 15,2
“Tại sao môn đệ các ông không tuân giữ lời dạy do những bậc tiền nhân của chúng
ta truyền lại?”
-Macô 10,2 “Hãy
nói cho chúng tôi, Lề Luật chúng ta có cho phép một người chồng li dị vợ mình
không?”
-Luca 13,24
“Thưa Ngài, chỉ có ít người sẽ được cứu phải không?”
-Luca 18,18-19
“Thưa Thầy nhân lành, tôi phải làm gì tốt để được hưởng sự sống đời đời?”
-Mt 19,16; Mt
21,28; Mc 7,5; Lc 5,30; 10,29; 10,40; 11,45; 18,26; 20,33; Ga 1,48; 2,18
Có lẽ chúng ta
nên tự hỏi phải chăng việc chuyển giao đức tin của chúng ta chỉ là việc truyền
đạt những gói thông tin. Có phải chúng ta chỉ trao những câu trả lời trong sách
giáo khoa, được làm sẵn, rập khuôn, lạnh lùng, không có tính dấn thân, vô ngã vị,
những câu trả lời bị ảnh hưởng bởi ý thức hệ hay không? Chúng ta có đang biến
mình thành chuyên gia trong việc trả lời những câu hỏi mà không một ai ngày nay
đang hỏi (mặc dù đã được hỏi cách đây nhiều thế kỷ và đã đi vào trong các sách
giáo khoa, hay là những câu trả lời chỉ làm thỏa mãn giới hàn lâm) và không trả
lời được cho những câu hỏi đang thực sự được hỏi bởi các cá nhân người ta trong
nỗi thống khổ riêng của họ, và bởi những cộng đồng mắc kẹt trong nỗi cay đắng tập
thể?
23. ĐỨC GIÊSU CHẤT VẤN ĐỂ ĐÀO SÂU SỰ NHẬN HIỂU
Một đàng là để
hiểu một sứ điệp và nhận thấy nó thỏa đáng. Nhưng đàng khác là để làm cho nó chạm
đến cõi thâm sâu của người ta. Vì mầu nhiệm của Đức tin chúng ta thật là cao cả
(1Tm 3,16). Tác giả Thánh vịnh đã thốt lên: “Tư tưởng Ngài thâm thúy lắm thay!”
(Tv 92,5), và ít ai hiểu thấu những tư tưởng ấy. Nhưng ai thật sự hiểu được thì
sẽ có thể cung ứng một sứ điệp sâu thẳm cho kẻ khác. Sách Châm ngôn dạy: “Lời
miệng con người có thể là nguồn mạch khôn ngoan, là nước
sâu thăm thẳm, là dòng suối tràn trề” (Cn 18,4).
Người Á Châu chúng ta xem
trọng chiều sâu. Trọng tâm của việc Hội nhập Văn hóa ở Á châu
là làm việc hướng đến chiều sâu này, chứ không chỉ mở các Tu viện, hoặc mặc tu
phục theo kiểu người bản xứ (Mahatma Gandhi đã chủ ý né tránh điều này), hoặc tập
chú vào bất cứ sự thích nghi bề ngoài nào.
Đức Giêsu muốn
đào sâu sự nhận hiểu của thính giả Ngài bằng cách gợi suy tư qua việc đặt câu hỏi
cách thông minh. Nhiều bậc tôn sư trong quá khứ như Socrates và Đức Phật cũng
đã dùng cùng một phương pháp như thế. Thông thường Ngài tách các môn đệ riêng
ra và đặt cho họ những câu hỏi để mời gọi suy ngẫm và đào sâu suy tư.
Mác-cô 3,4: “Luật
cho phép chúng ta được làm gì trong ngày Sa-bát? Được giúp người hay làm hại
người?”
Lu-ca 12,42: “Vậy
thì ai là đầy tớ trung tín và khôn ngoan?”
Lu-ca 20,44:
“Vua Đa-vít gọi Người là ‘Chúa’; vậy, làm thế nào mà Đấng Mê-si-a lại là dòng
dõi của Đa-vít được?”
Lu-ca 7,42: “…
rồi ông ta xóa bỏ hết số nợ cho cả hai. Vậy thì ai sẽ yêu mến chủ nợ nhiều
hơn?”
Lu-ca 10,26:
“Kinh Thánh đã nói gì? Anh em hiểu những điều ấy ra sao?
Nhiều khi Ngài
trả lời một câu hỏi bằng cách đặt ra một câu hỏi khác: “Hãy cho chúng tôi biết
Lề luật của chúng ta có cho phép một người đàn ông rẫy vợ không?” (Mc 10,2-3).
Đức Giê-su trả lời với một câu hỏi: “Thế ông Mô-sê đã truyền dạy các ông điều
gì?” Cũng vậy, khi bị chất vấn trong Mc 11,28-29: “Ông có quyền gì mà làm những
điều này? Ai đã ban quyền này cho Ông?” Đức Giê-su trả lời: “Tôi chỉ hỏi các
ông một điều… Ông Gio-an đã lấy quyền làm phép rửa từ đâu vậy: từ Thiên Chúa
hay từ phàm nhân?”
Có những lúc có
sự “lên gân” trong những câu hỏi của Đức Giê-su. Chẳng hạn ta đọc Mc 8,17-20:
“Sao anh em lại bàn tán về chuyện anh em không có bánh? Anh em chưa hiểu chưa
thấu sao? Lòng anh em ngu muội thế! Anh em có mắt mà không thấy, có tai mà
không nghe ư? Anh em không nhớ sao: khi Thầy bẻ năm chiếc bánh cho năm ngàn người
ăn, anh em đã thu lại được bao nhiêu thúng đầy mẩu bánh? … Và khi Thầy bẻ bảy
chiếc bánh cho bốn ngàn người ăn, anh em đã thu lại được bao nhiêu giỏ đầy mẩu
bánh?”
24. ĐỨC GIÊSU HIỂU BẢN TÍNH MỎNG GIÒN VÀ BẤT QUYẾT CỦA CON NGƯỜI
Đức Giê-su có
thể thông hiểu những tư tưởng và tình cảm của người ta, vì Ngài đã ngẫm suy về
bản tính của con người. Điều này giúp Ngài có thể hành động, trong mỗi tình huống,
phù hợp với đòi hỏi của tình thế: “Nhưng chính Đức Giê-su không tin họ, vì Người
biết họ hết thảy. Không cần ai nói cho Ngài biết về họ, vì chính Người biết
trong lòng họ có gì” (Ga 2,24-25).
Những ai đoan
nguyền trở thành người rao giảng Tin Mừng và người Truyền đạt Đức tin Ki-tô
giáo phải là những chuyên gia về bản tính con người trong những bối cảnh đa dạng của sứ vụ,
nhằm đáp ứng cách khôn khéo trong từng trạng huống. “Chúng ta, những con người
vững mạnh (trong ngữ cảnh này nghĩa là: được chuẩn bị tốt, được giáo dục, được
khai phóng, được rèn luyện và đào tạo tốt, có quyền bính, là bậc trưởng thượng)
phải khoan thứ cho những thiếu sót của kẻ yếu đuối” (Rm 15,1). Sứ mạng có tính
cách ngôn sứ của những người được học hỏi nhiều hơn đích xác là: thấu hiểu,
khích lệ và giúp đỡ.
25. CỔ VÕ NHIỀU NẺO ĐƯỜNG KHÁC NHAU
Hơn nữa, trong
truyền thống Ki-tô giáo, có nhiều nẻo đường thiêng liêng dẫn đưa đến Thiên
Chúa. Không phải chỉ có một lộ trình độc nhất. Không bao giờ là điều tốt việc
xem thường những cách thức vươn đến Thiên Chúa của kẻ khác. Tôi xin nêu lên đây
một vài ví dụ.
Một số người thiên về một sự hiểu
biết tôn giáo có tính thuần trí năng giải nghĩa mọi sự bằng những thuật ngữ
đậm chất triết học và phi cảm tính, với một cảm thức cao độ về tính minh bạch
và tính khách quan. Họ khinh khi những thực hành đạo đức, những sự vật có tính
mộ đạo, việc tuân thủ luật lệ tôn giáo và các cách biểu lộ đức tin mang sắc
thái cảm tính.
Tuy nhiên, hiện nay có một sự nhận thức và sự trân trọng mới đối
với lòng đạo
đức bình dân và
những sự mộ đạo. Các nhà nhân học cho chúng ta biết rằng con người chỉ có thể
làm cho đời sống chung của mình nên ý nghĩa qua việc sử dụng các lễ nghi và các
biểu tượng, rằng họ được nối kết với nhau bởi thần thoại và huyền nhiệm; và rằng
họ cần sự trợ giúp của những vật cụ thể mà họ có thể trông thấy và đụng chạm để
nắm bắt những gì không thể thấy được.
Nhóm người thứ ba cảm thấy bị thu hút mạnh mẽ bởi sự dấn thân xã hội. Đối với họ, niềm
tin tôn giáo là vô nghĩa nếu nó không dấn thân cho các vấn đề công lý, quyền
con người, phát triển xã hội, sự phục vụ quảng đại, sự lên án có tính ngôn sứ,
những sự đấu tranh cho tự do và bình đẳng. Họ xem những thực hành đạo đức bình
dân là mê tín và xem cách tiếp cận tôn giáo theo tri thức triết học là cao xa.
Một nhóm khác nữa nghiêng chiều theo những điều thần bí. Họ được cuốn
hút vào đời sống
chiêm niệm, tránh xa khỏi những vấn đề thường nhật, và không thấy
cảm kích trước những thành quả của các nhóm khác. Họ quý chuộng sự cô tịch và
chiều sâu.
Ngoài bốn nhóm
người tôi vừa đề cập, cũng có những sự nhấn mạnh khác trong cách diễn tả đức
tin của chúng ta. Những người thuộc các nền văn hóa và văn minh khác nhau có thể
cảm thấy nghiêng theo hướng này hay hướng khác. Không chiều hướng nào là hoàn
thiện cả nếu thiếu những chiều hướng khác. Nếu mỗi nhóm cố gắng tránh những cường
điệu, luôn tự kiểm điểm và nhận ra sự đóng góp của các nhóm khác, thì Giáo Hội
thật sự sẽ là một nơi chốn hạnh phúc. Cuộc sống, rốt cục, là một cuộc thích
nghi không ngừng nghỉ với nhau.
26. PHÁT TRIỂN MỘT CẢM THỨC CHIẾN LƯỢC, MỞ LỐI CHO NHỮNG PHÉP MẦU
Trong hoạt động
tông đồ, chúng ta biết rằng chúng ta không thể làm bất cứ gì mình muốn. Nhiều
khi việc chúng ta làm thật rất nhỏ bé nhưng kết quả lại lớn lao vô ngần. Điều
này đã nhiều lần xảy đến trong đời của các nhà thừa sai vĩ đại và/hoặc ngay cả
trong chính cuộc sống cá nhân mỗi người chúng ta. Những sự việc như thế xảy đến
cách đặc biệt trong đời sống của những ai có một cảm thức chiến lược,
là điều sản sinh ra hoa trái vượt trội so với nguồn lực đã được họ đầu tư.
Trong bối cảnh truyền thông, nó giống việc sử dụng một cái micro: âm lực được
khuếch đại thêm lên. Chính Chúa làm nên những điều kỳ diệu,
và xem ra Người thường làm thế đến nỗi ta phải ngạc nhiên. Người khiến cho phần
đóng góp nhỏ bé của chúng ta thu được kết quả bất ngờ.
Liên quan tới
công cuộc sứ mạng thừa sai, tôi muốn nói đến địa điểm, thời gian, công việc… có
tính chiến lược và
cũng nói đến những con người với tiềm năng độc đáo, thường bị ẩn
khuất với chính bản thân họ và với người khác. Trong bối cảnh chúng ta bị hạn
chế về nguồn lực, khả năng và nhân sự, không còn cách nào khác hơn là tận dụng
những gì ta có, hầu sinh hiệu quả nhiều hơn so với cách ta thường làm chẳng có
mấy sáng kiến. Tôi xin miễn bàn về việc nên làm gì trong cục diện biến chuyển
chóng vánh này. Có tính sáng tạo theo chiều hướng đó, đó là cách mà ta nên sử dụng
những năng lực tốt nhất của mình. Tôi không đánh giá thấp những hình thức khiêm
tốn nhất của việc tông đồ được thực hiện nơi này nơi khác, tại những vùng cách
trở, hay cách tiếp cận cá nhân người ta và các phương thức giản đơn, vốn không
bao giờ thay thế được. Luôn luôn có chỗ cho sự sáng tạo làm cho những việc nhỏ ta làm trở
thành những việc kỳ diệu bất ngờ.
Những gì chúng
ta làm có thể nhỏ bé, nhưng kết quả nó mang lại thì “Kỳ diệu trước mắt chúng ta” (Tv 118,23). Phần
đóng góp của chúng ta có thể là năm chiếc bánh và hai con cá, nhưng một lúc nào
đó sẽ có đến năm ngàn người được đầy no. Có rất nhiều diễn ngữ trong truyền thống
Ki-tô giáo chỉ ra sự mọn hèn của phần đóng góp do bởi con người chúng ta, nhưng
cho thấy hiệu quả khôn lường mà Chúa sẽ ban cho khi Ngài khứng nhận. Chúng ta
cùng điểm qua những diễn ngữ như thế. Đn 3,39: Những gì chúng con dâng tiến là
một tâm hồn khiêm nhu thống hối, nhưng Đức Chúa chấp nhận như ngàn vạn của lễ
toàn thiêu chiên bò. 2Pr 3,8: Sau rốt, những suy tính của Thiên Chúa thì khác
biệt quá chừng so với những suy tính của chúng ta; với Người, ngàn năm ví tựa một
ngày mà thôi. “Một ngày tại khuôn viên thánh điện thì quý hơn cả ngàn ngày ở
nơi nào khác” (Tv 84,10). Tiếng thì thầm của một lời cầu nguyện thành tâm vào một
lúc nào đó có thể biến đổi cả thế giới; một lời khẽ nói bên tai hay một cái vỗ
nhẹ vào lưng có thể thay đổi chiều hướng của lịch sử, nếu chúng được thực hiện
đúng nơi, đúng cách và cho đúng người… Chỉ cần bạn tin điều này là có thể.
Ngài có thể “thực
hiện nhiều hơn những gì chúng ta xin, hay ngay cả chúng ta tưởng nghĩ tới”.
Nhưng đó sẽ là “nhờ quyền năng đang hoạt động nơi chúng ta” (Ep 3,20). Chúng ta
phải thực thi vai trò của mình. Sự sáng tạo của chúng ta phải mở lối cho những
phép mầu của Thiên Chúa. Chúng ta cầu nguyện rằng: Lạy Chúa, với lòng lân ái dạt
dào vượt quá công trạng và ước muốn của những kẻ khẩn cầu Ngài… xin ban phát những
gì mà kẻ khẩn cầu Ngài không dám nài xin” (Chúa Nhật 27 TN).
27. CHIA SẺ TIN MỪNG LÀ ĐIỀU ĐƠN GIẢN, KHÔNG PHẢI LÀ VIỆC CHỈ
DÀNH CHO CÁC CHUYÊN VIÊN
Chúng ta đã đi
khá xa và đã thảo luận nhiều điều. Tôi có thể đã gieo cảm tưởng rằng chia sẻ
Tin Mừng là một nhiệm vụ hết sức khó khăn, gần như là không thể. Nhưng ngược lại,
đó là một việc đơn giản. Mối bận
tâm chính yếu của việc Phúc-âm-hóa không phải là việc thông truyền một hệ thống
giáo lý phức tạp được gom góp qua ngót 20 thế kỷ. Đó sẽ là một dự phóng đáng
kinh sợ. Hơn nữa, sẽ chẳng có mấy ai đảm nhận điều đó. Những ai mà với họ Ki-tô
giáo còn xa lạ thì họ sẽ dễ dàng quay lưng bỏ đi. Ngay cả các tân tòng cũng cảm
thấy lúng túng. Còn những Ki-tô hữu lâu đời đã từ bỏ các truyền thống của mình
sẽ thấy mình càng bất lực hơn.
Số 23 trong Bản Câu Hỏi của Thượng hội đồng giám mục về Tân
Phúc-âm-hóa khẳng định với các nhà truyền giảng Tin Mừng rằng việc chuyển thông
đức tin không phải là sứ mạng duy chỉ của
các chuyên viên. Đó là trách vụ của tất cả mọi người. Liên quan
đến vấn đề này, những lời của ĐTC Benedicto XVI thật đầy khích lệ: “Ki-tô giáo
không phải là một sưu tập quá ư phức tạp của vô vàn những tín điều mà không ai
có thể đạt thấu; … nó là một cái gì đó rất đơn giản:
Thiên Chúa hiện hữu và Thiên Chúa rất gần gũi trong Đức Giê-su Ki-tô” (ĐTC
Bênêđictô XVI nói chuyện với các linh mục vào tháng 7 năm 2007, x. Collins
2010,11).
28. CHĂM SÓC MỤC VỤ LÀ CUỘC DẤN THÂN TRIỆT ĐỂ: LÒNG QUẢNG ĐẠI VỚI
NHỮNG NGƯỜI CUỐI CÙNG
Tại một lục địa
rộng lớn và đa dạng như Á châu, thật không dễ để xác định và gói ghém trong một
vài từ cách thế mà công việc “đơn sơ” này nên được thực thi. Có nhiều vùng lãnh
thổ ở Tây Á mà nơi đó ngay cả sự hiện hữu của cộng đoàn Ki-tô giáo cũng đang bị
đe dọa. Có nhiều nơi mà trong khi việc phượng tự tại nội vi thì được phép, còn
bất cứ hình thức chia sẻ Tin Mừng nào vượt quá khuôn viên thánh đường thì đành
không thể. Có nhiều khu vực/quốc gia mà trong đó cộng đồng Công giáo chỉ là một
thiểu số yếu ớt. Cũng có nhiều nơi các Ki-tô hữu thành lập được một nhóm thiểu
số vững mạnh. Chỉ có tại Philipines và Đông Timor các tín hữu Công giáo mới lập
thành một cộng đồng đông đảo. Dầu vậy, ngay cả nơi mà cộng đồng Công giáo là số
đông đáng kể, vẫn có những dị biệt: về
quyền tự do bị giới hạn theo nhiều cách, về các cơ chế đang hoạt động, về cách
điều hành quản lý chúng, về cách thức truyền bá đức tin, về khả năng tổ chức
các sự kiện công cộng, v.v…
Thật khó để tôi
có thể nói cụ thể về việc tổ chức giáo xứ đang khi thậm chí các vùng lân cận
nhau thôi cũng đã quá khác biệt về những hoàn cảnh và triển vọng (tín hữu Công
giáo lâu đời, tín hữu Công giáo tân tòng, thuộc thành thị, thuộc nông thôn, có
tính công nghiệp, có tính nông nghiệp, các bộ tộc, thuộc về cộng đồng thiểu số
hay đa số, thuộc về một giai cấp cụ thể, trong những thể chế dân chủ với nhiều
sắc thái dị biệt khác nhau, dưới những thể chế Ấn giáo/Hồi giáo/Phật giáo/toàn
trị).
Nhưng điều mà
tôi muốn nhấn mạnh trong mọi bối cảnh, đó là một giáo xứ Công giáo thì không chủ
yếu là một cơ cấu hành chính, một cơ quan kiểm soát và thi hành kỷ luật, nhưng
là một không gian để dấn thân triệt để cho một cộng đoàn, và qua đó dấn thân
cho toàn Giáo Hội và toàn nhân loại. Mỗi người làm mục vụ phải cẩn trọng ghi nhớ
những lời này của Đức Giê-su: “Tôi là mục tử tốt lành, sẵn sàng hy sinh tính mạng
vì đàn chiên… Tôi sẵn sàng chết vì chúng” (Ga 10,11.15). Và nếu hạt lúa mì “mà
chết đi, nó mới sinh nhiều bông hạt” (Ga 12,24).
Săn sóc mục vụ
nghĩa là, như lời ca của Paul Simon, ngã chính thân mình xuống làm nhịp cầu vắt
qua con nước xoáy (Nouwen 59).
29. CHÌA KHÓA CHO MỐI TƯƠNG QUAN MỤC VỤ THÀNH CÔNG, ĐIỀU GIA
TĂNG NIỀM VUI
Nếu có bất kỳ
điều gì mà tôi muốn nhấn mạnh hơn cả trong khung cảnh một xứ đạo thì đó chính
là Mối tương giao. Như
Đức Giê-su đã phán: “Chúa Cha và Thầy là một” (Ga 10,30), “Thầy ở trong Chúa
Cha và anh em ở trong Thầy…” (Ga 14,20); Ngài cũng nói: “Như Chúa Cha biết Tôi
và Tôi biết Chúa Cha, Tôi cũng biết chiên của Tôi và chiên của Tôi biết Tôi (Ga
10,14-15). Quả thật, toàn bộ Chương này của thánh Gio-an, toàn thể Diễn từ Tiệc
ly đậm đặc những quy chiếu đến các mối tương giao.
Chính trong bối cảnh tương quan nồng ấm này mà một cái nhìn, một
cử chỉ, một cái đụng chạm, một lời nói, một
giọt lệ, một tiếng thở dài và thậm chí cả sự thinh lặng của Đức
Giê-su cũng đã làm nên sự khác biệt lớn lao. Ngài đã cố kêu gọi những ai ở
ngoài ràn chiên hãy đi vào trong mối tương quan này (Ga 10,16). Chúng ta phải
thuộc về; loan báo Tin Mừng là lời mời gọi đi vào tình trạng thuộc
về này.
Trong bối cảnh
này, chúng ta hiểu ra tầm quan trọng của những cuộc viếng thăm mục vụđến
“vùng ngoại biên”:
các thôn xóm, các khu ổ chuột, những ngõ ngách của khu phố, những căn hộ bị bỏ
quên, các mái ấm gia đình; tầm quan trọng của việc gặp gỡ mọi người,đối thoại với những cá nhân, trao đổi cùng các
gia đình, gặp gỡ các nhóm mục vụ khác, các phụ nữ, giới trẻ, thiếu nhi. Chính
trong tinh thần củng cố, đa dạng hóa và gia tăng các mối tương quan, kích hoạt
mọi người trong các bối cảnh tương quan mà chúng ta tổ chức các hoạt động tại xứ
đạo: các dịp lễ, các việc đạo đức, những cuộc tĩnh tâm, những dịp gặp gỡ các
gia đình; giao lưu giữa các nhóm, các hội đoàn, các thành viên thuộc nhiều giới
khác nhau. Mặc cho ích dụng của công nghệ, các thủ thuật tăng tính hiệu quả,
các kỹ thuật điều hành, các kỹ năng tổ chức, sứ điệp của Đức Giê-su vẫn được
thông truyền cách hiệu quả là trong bối cảnh của những mối tương quan. Đó là lý
do tại sao ngay cả trong khung cảnh của những cơ cấu quản trị lớn và những cuộc
hội họp mục vụ đại qui mô, chúng ta cần tạo ranhững không gian cho việc gặp gỡ cá nhân,
việc chia sẻ, cầu nguyện và nêu chứng từ.
Vũ trụ tự thân
nó là một mạng lưới các tương quan: các nguyên tử, các hạt bên trong nguyên tử,
thái dương hệ, các dải ngân hà. Chính các hữu thể sống động cũng liên hệ hỗ
tương và lệ thuộc lẫn nhau. Cũng vậy trong các khung cảnh mục vụ chúng ta phải
tôn trọng các dạngtương
quan hữu cơ khác
nhau vốn đã tồn tại hoặc nảy sinh khi trả lời cho những nhu cầu mới, hoặc xuất
hiện nhờ cảm hứng của các cá nhân sáng tạo. Như vậy chúng ta tôn trọng các truyền
thống sống động, những việc đạo đức mang tính địa phương, những cách thức diễn
tả đức tin của người bản xứ, những mạng lưới tương quan tự nhiên; những cảm hứng
mới gợi mở các hình thức tự biểu đạt tâm linh đầy sáng tạo, các cách tổ chức
công việc từ thiện, sự liên đới, sự
tương trợ lẫn nhau và sửa sai cho nhau.
Chính bằng cách
này mà chúng ta phát triển kỹ năng Thuyết phục trong công việc Phúc-âm-hóa hay công
việc mục vụ tiếp theo sau. Chúng ta cẩn thận đừng bao giờ sử dụng những ngôn từ
và cách diễn đạt khả dĩ gây tổn thương, chúng
ta phải luôn bén nhạy, đừng bao giờ giữ thái độ tiêu cực đối với những người đã
từ bỏ các truyền thống Công giáo hay các giá trị Ki-tô giáo. Chúng ta giảng dạy
với lòng khiêm nhu. Chúng ta lôi kéo mọi người đến với Thiên Chúa bằng tình
thương mến. Chúng ta cởi mở với những ý kiến và tư tưởng mới,
chúng ta đừng bao giờ làm mếch lòng, đừng khi nào đặt bất kỳ ai ra ngoài mối
quan tâm mục vụ của mình. Chúng ta dùng lời lẽ tốt đẹp ngay cả với/về một đối
thủ.
30. MƯU CẦU “ĐIỀU BẤT KHẢ” NGAY CẢ KHI CHÚNG TA THẤT BẠI, ĐÓ LÀ
QUY LUẬT CỦA CUỘC SỐNG – “CUỘC SỐNG TRIỂN NỞ BẰNG CÁCH CHO ĐI”, EG 10.
Tôi biết tôi
đang mong đợi điều “bất khả”. Tuy nhiên, trừ phi chúng ta mưu cầu điều “bất khả”,
chúng ta sẽ chẳng thể nào theo chân Đấng đã dạy: “Anh em phải trở nên hoàn thiện,
như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt 5,48). Đúng vậy, không ước muốn
điều đó, mỗi ngày chúng ta mưu cầu “điều bất khả” khi cố công trở nên tốt lành
và chúng ta thất bại. Đó là điều làm tôi thấy thương cảm cho những người
trẻ bị kéo lôi một
mặt về phía các sản phẩm tiêu thụ và mặt khác về phía những ý thức hệ vớ vẩn.
Cũng thế, tôi
chạnh lòng trước những ai làm việc mục vụ mà bị lạc lối giữa một bên là những
trách vụ quản trị nặng nề và bên kia là những nền thần học không chắc chắn.
Ngoài ra nếu họ bị đè nặng quá sức bởi chính công việc mục vụ (với số giáo dân
đông đảo, trong bối cảnh những khác biệt về văn hóa và thiếu vắng sự hợp tác,
chia rẽ nội bộ, v.v..), thì họ càng cần đến sự cảm thông thật sự. Tuy nhiên
trong chính bối cảnh này mà chúng ta hiểu sứ điệp của ĐTC Phanxicô: “Cuộc sống
triển nở bằng cách cho đi… thật vậy, những người vui hưởng cuộc sống nhiều nhất
là những người bỏ lại sự an toàn trên bờ và trở nên phấn khích bởi sứ mạng
thông truyền sức sống cho người khác” (EG 10).
31. HỌC ĐỂ THÔNG CẢM VỚI NHỮNG ĐIỂM YẾU CỦA CON NGƯỜI NHƯ ĐTC
PHANXICÔ
Trong khi cần
phải luôn cẩn trọng với những yếu đuối nơi bản tính con người, chúng ta cần có
một sự nhận hiểu đồng cảm với tính mỏng dòn vốn luôn dính chặt với mỗi con người.
Ga 2,24-25 nói rằng Đức Giê-su biết có gì nơi bản tính con người, vì Ngài ý thức những xu hướng
sự dữ nơi bản tính họ. Điều này giúp Ngài có thể hành động phù hợp với đòi hỏi
của mỗi tình thế: “Chính Đức Giê-su không tin họ, vì Ngài biết họ hết thảy.
Không cần ai làm chứng về con người vì chính Ngài biết có gì trong dạ họ” (Ga
2,24-25).
Những ai tự nhận
mình là các nhà truyền giảng Tin Mừng và những người truyền đạt đức tin Ki-tô
giáo phải là những chuyên viên về bản tính con
người trong các bối
cảnh đa dạng của sứ vụ mình, nhằm đáp ứng cách khôn ngoan trong mỗi hoàn cảnh.
“Chúng ta, những người vững mạnh (trong ngữ cảnh này nghĩa là: được chuẩn bị tốt,
được giáo dục, được khai phóng, được rèn luyện và đào tạo tốt, có quyền bính,
là bậc trưởng thượng) phải
khoan thứ cho những sai lạc của kẻ yếu đuối” (Rm 15,1). Sứ mệnh có tính ngôn sứ
của người hiểu biết nhiều hơn là: thấu hiểu, khích lệ và giúp đỡ.
32. Ở Á CHÂU NHÀ TRUYỀN GIẢNG TIN MỪNG TỐT NHẤT LÀ MỘT NGƯỜI SÂU
SẮC, MỘT NGƯỜI LÀ NGUỒN CẢM HỨNG
Công cuộc
Phúc-âm-hóa tại Á châu là một lời mời gọi trở về với những nguồn cội tâm linh của
nó. Đó không phải là về sự hiện đại hóa công nghệ, nhưng là cá vị hóa và sống lời
khẩn nguyện được kêu lên bởi ConNgười Á Châu Đang Tìm Kiếm:
“Lạy Chúa, con tìm kiếm thánh nhan Ngài, xin Ngài đừng ẩn mặt”. Mô-sê đã thưa với
Đức Chúa diện đối diện (Dnl 34,10). Chỉ những ai đã kinh nghiệm cuộc tương ngộ
như thế với Đức Giê-su mới có thể chia sẻ Sứ điệp một cách đầy ý nghĩa. Họ có
thể thốt lên cách chân thật: “Điều chúng tôi đã nghe thấy, điều chúng tôi đã
chiêm ngưỡng tận mắt, điều chúng tôi đã đụng chạm tận tay… chúng tôi công bố”
(1Ga 1,1-3).
Những người
loan tin như thế trở nên nhữngdấu chứng cho mối quan tâm của
Thiên Chúa đối với con người. Họ nên giống Chúa Cha “Đấng cho mặt trời
của Người mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên người
công chính cũng như kẻ bất lương” (Mt 5,45). Họ là những
chứng nhân chứ
không chỉ là những thầy dạy. Đối với họ điều quan trọng nhất là những phẩm chất
bên trong. Ở những con người như thế lòng sùng mộ tôn giáo không bao giờ biến
thành chủ nghĩa cực đoan. Trái lại, họ vẫn mở lòng với mọi dân tộc, mọi nền văn
hóa, mọi ý kiến và mọi quan điểm. Trên hết, như ĐTC Phanxicô, họ nhiệt tâm khao
khát chăm lo cho những người nghèo khổ và túng quẫn nhất.
Họ tin tưởng mạnh
mẽ vào công cuộc Đại kết và Đối thoại. Họ tôn trọng sự đa dạng. Việc cổ võ cho
công lý của họ thì không bức xúc, việc bảo vệ cộng đoàn Ki-tô của họ thì không
khiêu khích, cách họ ứng xử với các vấn đề xã hội phức tạp thì không có tính đối
đầu. Họ hoạt động vì hòa bình và hòa giải ở cấp độ sâu xa nhất. Họ dấn thân cho
các mục tiêu xã hội: giáo dục, y tế, công lý, hòa bình, phát triển, xóa nghèo,
bảo vệ môi trường, loại trừ tham nhũng, bạo lực, lạm dụng phương tiện truyền
thông; với sự xói mòn của các nền văn hóa và sự đánh mất các giá trị. Nhưng mỗi
thành quả của họ ở mặt ngoài đều quy hướng về Đời sau.
Họ miệt mài cổ
võ những nỗ lực chung của mọi người thuộc mọi tín ngưỡng; họ ủng hộ việc cùng
tìm tòi, cùng khảo sát, cùng nghiên cứu. Họ ủng hộ sự thể hiện các quan điểm
cách tự do nhưng có trách nhiệm, ủng hộ sự phản tỉnh trong khiêm tốn, và ủng hộ
các vai trò có tính bổ trợ và tôn trọng nhau. Họ thông truyền cùng một tinh thần
cho các đồng sự của họ, các linh mục, tu sĩ, chủng sinh, giáo dân và cho các cộng
đoàn Ki-tô nhỏ bé (SCC). Họ không ngừng học hỏi nơi những người đã thành công
trên nhiều lĩnh vực khác nhau trong phạm vi hoạt động của họ. Họ dấn thân cho
việc bảo vệ các gia đình vốn đang bị đe dọa, thăng tiến các giá trị cộng đồng
đang bị mai một, họ làm mọi sự có thể để khôi phục các di sản đã bị hư hoại
trong các nền văn hóa Á
châu, gồm cả niềm khát khao chiêm niệm, cảm thức về thánh thiêng, khiếu cảm thụ
mầu nhiệm và điều kì diệu, khả năng giúp người khác suy nghĩ, đào sâu và tìm
tòi ý nghĩa.
Một thông điệp
mạnh mẽ nhất sẽ được chuyển cho xã hội khi người mang Sứ điệp của Đức Giê-su xuất
hiện như một sự gợi hứng giữa lòng thế giới. Cha David
May thuộc Madonna House chia sẻ rằng ‘hứng khởi’ không chỉ là để có giải pháp
cho các vấn đề, nhưng còn để tạo ra năng lực cần có. Nó đến từ việc vun trồng
niềm hy vọng. Đó là điều mà một con người sâu sắc, một tín hữu có tinh thần
chiêm niệm sẽ thực hiện.
Hy vọng đến từ
cầu nguyện và từ việc sống gần gũi với Thiên Chúa (Restoration, 10/2014).
TGM. Thomas Menamparampil, SDB.
Trần Đình Phước dịch – Lê
Công Đức biên
tập