Lịch Sử Và Các Khuôn Mẫu Truyền Giáo
(catechesis.net) 03-12-2015
Tác giả: Mario Menin
Chuyển ngữ: Học Viện Đaminh
LTS: Mario Menin thuộc Dòng Thừa Sai
Thánh Phanxicô Xavier (Italia), với nhiều kinh nghiệm truyền giáo tại Châu Mỹ
Latin. Qua bài viết “Lịch Sử Và Các Khuôn Mẫu Truyền Giáo”,[1] tác
giả trình bày về bảy khuôn mẫu truyền giáo đã được Giáo Hội áp dụng trải qua 20
thế kỷ: 1/. Ba thế kỷ đầu tiên: sứ vụ của những Kitô hữu bình thường; 2/. Công
cuộc loan báo Tin Mừng cho các dân tộc Germanic và Slave: sứ vụ của các hoàng
thân và các Giám mục “peregrini pro fide”; 3/. Đời đan tu: “phong trào truyền
giáo” tiên khởi; 4/. Những cuộc lữ hành chinh chiến: sứ vụ “contra gentes” (chống
dân ngoại) và việc trở lại tinh thần Tin Mừng; 5/. Loan báo Tin Mừng tại Châu Mỹ:
độc quyền của chế độ bảo trợ (patronato); 6/. Vài cố gắng hội nhập văn hoá ở Á
Đông; 7/. Châu Phi: việc loan báo Tin Mừng tại các nước thuộc địa giữa ánh sáng
và bóng tối.
***
DẪN NHẬP
Ý thức truyền giáo của Giáo Hội đã tăng trưởng trong thế kỷ vừa
qua,[2] nhờ các trường truyền giáo, nhất là tại
Münster và Louvain, cũng như nhờ các Thông điệp về Truyền Giáo:”Maximum
Illud” (1919) của Đức
Giáo Hoàng Benedict XV; ”Rerum
Ecclesiae” (1926) của
Đức Giáo Hoàng Piô XI; ”Evangelii
Praecones” (1951) và ”Fidei Donum” (1957) của Đức Giáo Hoàng Piô XII; ”Princeps Pastorum” (1959) của Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII.
Các nhà nghiên cứu lịch sử Giáo Hội cũng thay đổi phương pháp làm việc: trước
đây họ thiên về việc thuật lại tiểu sử các vị thừa sai anh hùng xuất phát từ
Châu Âu, bây giờ họ chuyển sang lịch sử việc loan báo Tin Mừng và chú ý đến các
dân tộc và các nền văn hóa.
Thật ra vấn đề ý thức truyền giáo cũng đã trải qua nhiều thăng
trầm trong những năm gần đây. Phong trào giải phóng tại nhiều quốc gia Á-Phi đặt
lại vấn đề tương quan giữa truyền giáo và thuộc địa. Các văn kiện của Công Đồng
Vatican II (Hiến chế
Lumen Gentium và Sắc lệnh Ad Gentes) và Tông huấn ”Evangelii Nuntiandi” (1975) của Đức Giáo Hoàng Phaolô VI đặt
lại vấn đề biên cương truyền giáo. Mặt khác, Thông điệp ”Redemptoris Missio” (1990) của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô
II tái khẳng định giá trị của việc truyền giáo trong sứ mạng của Giáo Hội. Những
văn kiện vừa nói đã giúp thanh lọc khái niệm truyền giáo, và đồng thời gắn liền
sứ mạng truyền giáo với bản tính của Giáo Hội. Từ đó ”lịch sử truyền giáo”cũng là một thành
phần chính yếu của lịch sử Giáo Hội, tức là ”lịch sử
việc loan báo Tin Mừng”.[3] Lịch sử truyền giáo không còn được viết
theo kiểu ”anh hùng
ca”, nhưng theo sát phương pháp sử học hơn,[4] cách riêng nhân dịp vài kỷ niệm đặc biệt,
chẳng hạn như 500 năm loan báo Tin Mừng tại Châu Mỹ Latin,[5] hoặc những bách chu niên của các vị thừa
sai Matteo Ricci, Phanxicô Xavier, Alessandro Valignano. Lịch sử truyền giáo
cũng trở thành cơ hội để các Giáo Hội tại Châu Âu tái khám phá phương pháp loan
báo Tin Mừng trong một thời buổi mà việc rao giảng Lời Chúa đang gặp nhiều trở
ngại.[6]
I. VIỆC THAY ĐỔI PHƯƠNG PHÁP BIÊN SOẠN
LỊCH SỬ TRUYỀN GIÁO
Hồi đầu thế kỷ XX, bắt đầu xuất hiện một vài tác phẩm sử học được
soạn theo phương pháp khoa học và đã làm thay đổi lối tiếp cận lịch sử truyền
giáo. Trước đó, các tác phẩm viết hồi thế kỷ XIX thường mang tính cách hộ giáo,
ca ngợi những thành công của công cuộc mở mang nước Chúa, và ít quan tâm đến
các dữ kiện lịch sử.[7] Adolf von Harnack (một sử gia Tin Lành), với tác phẩm về ”Công cuộc truyền giáo và bành trướng Kitô giáo
trong ba thế kỷ đầu tiên”[8] (1902) đánh dấu một khuôn mẫu mới
trong việc nghiên cứu việc truyền giáo vào thời xưa. Ngoài ra cũng nên kể đến
công trình của người khai sinh môn truyền-giáo-học phía Tin Lành, G. Warneck, Abriss einer Geschichte der protestantischen
Missionen von der Reformation bis zur Gegenwart.[9]
Về phía Công Giáo, các sách sử học biên soạn theo phương pháp
khoa học được tiến hành nhờ trường Münster. Thật vậy, quyển thủ bản đầu tiên về
lịch sử truyền giáo được xuất bản năm 1924 do cha J. Schmidlin, giáo sư truyền-giáo-học
tại đại học Münster.[10] Cuốn sách được soạn theo lời yêu cầu của
nhà sử học Ludwig von Pastor, ước mong rằng trong bộ sách Lịch sử các Giáo
hoàng, sẽ có một cuốn ”Lịch sử
truyền giáo dựa trên các nguồn mạch”.[11] Sau cha Schmidlin, nhiều học giả khác,
cả phía Công Giáo lẫn phía Tin Lành, đã sạon nhiều thủ bản theo phương pháp
khoa học. Về phía Công Giáo, nên kể đến Mulders,[12] giáo sư truyền-giáo-học ở Nimega (Hà Lan), Villoslada,[13] Deschamps,[14]Moltmann[15] và Delacroix.[16] Vài tác phẩm khác, ngắn gọn hơn, có thể
được sử dụng làm sách giáo khoa.[17]
Về phía Tin Lành, cần phải nhắc đến tác phẩm của K. S.
Latourette, A History
of the Expansion of Christianity, kết quả của những nghiên cứu uyên
bác, tuy đôi khi không mấy khách quan khi bàn về công cuộc truyền giáo của Giáo
Hội Công Giáo.[18]
Dưới khía cạnh phương pháp, cuộc tranh luận vẫn tiếp diễn liên
quan đến mối tương quan giữa lịch sử Giáo Hội với thần học và với lịch sử thế
giới, với hai chủ trương khác biệt giữa Jedin và Aubert về vai trò của sử gia.
Aubert cho rằng nhà giáo sử cần phải sử dụng phương pháp sử học tổng quát, và bỏ
ra ngoài các ý định hộ giáo.[19] Mặt khác, không thể nào hoàn toàn bỏ
qua mối liên hệ giữa thần học với lịch sử Giáo Hội, như Jedin đã nhấn mạnh. Các
tác phẩm cổ điển về thần học truyền giáo đã chứng tỏ điều ấy, chẳng hạn
Severino Dianich,Chiesa in missione. Per una ecclesiologia dinamica (Paoline, Cinisello Balsamo 1985) và
David J. Bosch, La
trasformazione della missione. Mutamenti di paradigma in missiologia(Queriniana,
Brescia 2000 – nguyên bản tiếng Anh năm 1991), và mới đây hội nghị các giáo sư
lịch sử Giáo Hội họp ở Palermo năm 2000 về đề tài ”Il cammino dell’evangelizzazione: problemi
storiografici”.[20]
II. NHỮNG KHUÔN MẪU HIỆN DIỆN TRUYỀN
GIÁO CỦA GIÁO HỘI
Trong cuộc xét lại lịch sử truyền giáo dưới khía cạnh thần học,
S. Dianich đã đưa ra 6 khuôn mẫu (modelli) sứ vụ:[21] sứ
vụ hoàn tất, sứ vụ đình hoãn, sứ vụ giấu ẩn, sứ vụ chống dân ngoại, sứ vụ đến
dân ngoại, sứ vụ lịch sử cứu độ.[22] Dựa
theo khái niệm mô hình(paradigm) của Thomas Kuhn, Bosch mô tả ít là năm
mô hình sứ vụ:[23] mô
hình của Giáo Hội Đông Phương, mô hình của Giáo Hội Công Giáo thời Trung cổ, mô
hình của cuộc Cải cách Tin Lành, mô hình thời Khai sáng, mô hình đại kết.
1. Ba thế kỷ đầu tiên: sứ vụ của những
Kitô hữu bình thường
Khi đề cập đến những thế kỷ đầu tiên của Giáo Hội, không sử gia
nào có thể bỏ qua công trình của Harnack bàn về sự bành trướng của Kitô giáo, bởi
vì là một tác phẩm tham chiếu vẫn còn giá trị. Vào thời ấy, bất chấp những cuộc
bách hại, người ta chứng kiến một sự bành trướng Giáo Hội cách tự nhiên và
không thể nào cản được, mặc dù chẳng có kế hoạch hoặc cơ quan điều hành nào cả.
Có những bằng chứng cho thấy rằng vào cuối thế kỷ I, các cộng đoàn Kitô hữu đã
hiện diện tại hơn 40 trung tâm. Những miền đông đảo hơn cả là: Samaria, Arabia,
Syria, Cilicia, Galatia, Cappadocia, Bitinia và Ponto ở Tiểu Á, Creta và các đảo,
rồi thêm Illiria, Mesopotamia, Ai Cập, Gaule, Germania, Tây Ban Nha, đó là
không kể Italia. Thậm chí công cuộc loan báo Tin Mừng đã vượt ra khỏi biên
cương đế quốc Roma, tiến sang Mesopotamia, đế quốc Ba Tư và hướng về Ấn Độ,
Georgia và Ethiopia.
Theo Harnack, những nguyên nhân bên ngoài giúp cho đạo Kitô bành
trướng là sự phổ biến của đạo Do Thái (dọn đường
cho Kitô giáo), tiến trình Hy-lạp-hóa các dân tộc ven Địa Trung Hải,
cũng như sự thống nhất chính trị nhờ hòa bình trong đế quốc Roma. Những nghiên
cứu gần đây cho thấy đạo Kitô gần gũi với đạo Do Thái hơn là với các truyền thống
tín ngưỡng Hy Lạp,[26] và
như vậy đã lật ngược những lối giải thích ở các thế kỷ trước đây, cho rằng đế
quốc Roma hoặc văn hóa Hy Lạp đã được ”quan
phòng” dọn đường cho
Kitô giáo,[27] nhờ
sự thuận lợi của hệ thống giao thông hoặc ngôn ngữ giao tiếp.
Dù sao bên cạnh các yếu tố bên ngoài, cần phải tìm hiểu những đặc
tính nội tại của sứ điệp Kitô giáo. Tuy nhiên, đến đây, ý kiến các tác giả
không đồng nhất. Chẳng hạn như về sức thu hút của chân lý và các vị tử đạo,
Joseph Lortz, trưng dẫn lời nói của Tertulliano,[28] cho
rằng sự bành trướng lạ thường của Kitô giáo là một điều huyền nhiệm, khó lòng
giải thích bằng những yếu tố thuận lợi.[29] Có
lẽ lý do của sự thu hút nằm ờ việc đề cao tự do lương tâm, kêu gọi trách nhiệm
cá nhân, sự phân biệt giữa lãnh vực tôn giáo và lãnh vực chính trị.[30]
Liên quan đến các chủ thể của công cuộc loan báo Tin Mừng, theo
Harnack, những thừa sai đông đảo nhất ”không phải
là những bậc thầy về đường trọn lành, nhưng là những những tín hữu bình thường
nhưng nêu gương sáng cho người đời về lòng trung tín và sức mạnh”.[31]Vào thời ấy không có sự phân biệt giữa
người sai đi và người được sai đi, bởi vì tất cả đều ra đi: ”Tất cả Hội Thánh nguyên thủy đều là thừa sai”.[32] Nói
cách khác, nhà sử học có cảm tưởng rằng tất cả các Kitô hữu đều ở trong tình trạng
truyền giáo. Theo nghĩa này, việc loan báo Tin Mừng ra như diễn ra cách tự phát
nhờ những cuộc tiếp xúc, qua ”những mối
tương quan cá nhân hay xã hội của mỗi người tín hữu”.[33] Tác
vụ được ủy thác cho nam giới cũng như cho nữ giới, như ta thấy vào giữa thế kỷ
I, thánh Phaolô trong thư gửi cộng đoàn Roma (16,7) đã gọi Andronico và Giunia
là ”tông đồ”. Vào
giữa thế kỷ II, dịch vụ của các ”tông đồ”lưu
động xem ra đã dần dần biến mất, bởi vì nó được quy tụ vào tác vụ của Giám mục.
Thánh Irênêô là chứng nhân cho sự biến đổi tình thế. Nhưng đây cũng là thời điểm
của những chứng nhân tử đạo, mà chúng ta đọc thấy trong các sử liệu: Acta et Passiones martyrum, Vitae sanctorum.
Vào những thế kỷ tiếp theo, xuất hiện các đan sĩ, những người này khởi đầu cho ”phong trào tông đồ” trong lịch sử Giáo Hội.
Kết luận, bức thư gửi ông Điôgnêtô đã mô tả chính xác thời cơ
truyền giáo trong ba thế kỷ đầu như sau: ”Nói vắn
tắt, cũng như linh hồn ở trong thân xác thế nào, thì các Kitô hữu cũng ở trong
thế gian như vậy (…). Họ ở trong thế gian như là ở trong tù, nhưng chính họ
nâng đỡ thế gian (V,1s.).
2. Công cuộc loan báo Tin Mừng cho
các dân tộc Germanic và Slave: sứ vụ của các hoàng thân và các Giám mục “lữ
hành vì đức tin” (peregrini pro fide)
Môn sử học cổ điển đề cập đến sự khai sinh của ”xã hội Kitô giáo” (christianitas) tại Châu Âu từ thế kỷ IV, nhơ việc thu
nhận của những dân ”man di” vào một hệ thống dân sự và Giáo Hội đã
được tổ chức quy mô (các bộ
luật Roma của các hoàng đế Theodosiô và Giustinianô). Tuy nhiên, từ
lâu, các sử gia đã thay thế quan niệm ”sự xâm
nhập của dân man di” bằng
một quan niệm chính xác hơn, đó là ”cuộc di
cư của các dân tộc”, trong đó một số đã là Kitô hữu và đã có hàng
giáo phẩm bản xứ (chẳng hạn
trường hợp của dân Gothic đã đón nhận Tin Mừng nhờ Giám mục Ulfila).
Vì thế không thể nào chấp nhận những lý thuyết trước đây, đối chọi một bên là
các dân tộc văn minh theo Kitô giáo và các dân tộc man di ngoại đạo, rồi sau đó
các dân ngoại dần dần trở lại đạo.[34]
Thật khó dựng lại chi tiết lịch sử của việc các dân tộc Germanic
gia nhập Kitô giáo, bởi vì tài liệu hiếm hoi. Tuy nhiên, khác với tình hình ở
ba thế kỷ đầu tiên, có thể nói rằng việc trở lại này không xảy ra do những cuộc
tiếp xúc cá nhân, nhờ những đường lối thuyết phục và đạo đức. Trái lại, vào thời
này, việc trở lại đạo hàng loạt thường là do sự lôi cuốn (đôi khi cưỡng bách) theo gương của các người lãnh đạo. Sự
cấu kết chặt chẽ giữa đời sống chính trị và đời sống tôn giáo của các dân tộc
Germanic khiến cho việc trở lại đạo Kitô giáo không những là một hành động tôn
giáo, mà còn là hành động xã hội và chính trị nữa.
Bộ tộc Germanic đầu tiên theo Kitô giáo trên đường di dân xuống
Địa Trung Hải là nhóm Visigothic. Cuộc trở lại này đã tiến triển nhanh chóng nhờ
Ulfila, sau khi thụ phong Giám mục, đã trở về quê hương và giảng đạo cho đồng
bào trong vòng hơn 40 năm trường (341-383). Ngài đã dịch Kinh Thánh sang tiếng
Gotic, một công trình ngôn ngữ và văn hóa làm cho việc truyền bá Kitô giáo
nhanh chóng. Trên đất nước Italia, người ta đã chứng kiến hiện tượng một bên là
các Giáo Hội được tổ chức rập theo khuôn mẫu của văn hóa Roma và nghi điển
Latinh, bên kia là các Giáo Hội của người Gothic với hàng Giám mục và nghi điển
riêng: cả hai Giáo Hội chung sống với nhau, tuy dù Giáo Hội Gothic bị nhiễm lại
giáo Ariô và hàng Giám mục không có trú sở nhất định.[35]
Một bộ tộc khác, mà cuộc trở lại đã ảnh hưởng đến lịch sử Châu
Âu, là nhóm người Franc. Việc vua Clovis lãnh bí tích Rửa Tội đã chuẩn bị xa
cho một lớp lãnh đạo mới ở Tây Âu, với sự kết hợp các dân tộc Germanic dựa trên
đức tin Kitô giáo, cũng như tạo ra một văn hóa mới, kết tụ giữa văn hóa Roma và
văn hóa Germanic. Các tộc Lombardi trở lại nhờ Giáo Hoàng Grêgôriô Cả: ngài sẵn
sàng đón nhận họ vào Hội Thánh, bất chấp tính tình hung hăn khiến cho triều
đình Constantinopolis khó chịu.
Việc loan báo Tin Mừng cho các dân Germanic thì lâu dài và cam
go hơn, cách riêng đối với dân Saxon. Cuộc chiến với dân này do Hoàng đế
Charlemagne mở ra vào năm 722 chỉ kết liễu sau đó 30 năm. Chỉ dụ ”Capitulatio de partibus Saxoniae” (năm 782?) lên án tử hình cho những ai
xúc phạm đến đạo Kitô và hàng tư tế của đạo. Vũ lực không phải là một sự kiện lẻ
loi và khác thường, nhưng nó được sử dụng qua một thời gian lâu dài. Mô hình
này quy chiếu vào đoạn văn Lc 14,23: ”Hãy cưỡng
bách họ vào” (compelle intrare). Tuy vậy người ta cũng ghi nhận những
chủ trương không sử dụng vũ lực, như trường hợp của đan sĩ Alcuinô, cố vấn cho
hoàng đế Charlemagne: ông ca ngợi hoàng đế vì đã cử đi những nhà giảng thuyết
tài đức, nhưng ông không tán thành việc cưỡng bách trở lại đạo, với lý do là một
người có thể bị cưỡng bách lãnh phép rửa tội nhưng không thể bị ép phải tin.
Việc loan báo Tin Mừng cho các dân tộc Slave diễn ra trong khung
cảnh cạnh tranh giữa triều đình Constantinopolis và triều đình Charlemagne. Sứ
vụ của Cyrillô và Metodiô vào lúc đầu hướng về Roma để cổ võ sự hợp nhất hữu
hình giữa hai toà Giám mục Roma và Costantinopolis. Dự án này đã được hoàng đế
và nhiều hoàng thân hưởng ứng, bởi vì họ thấy Kitô giáo có ảnh hưởng xã hội,
xét về chính trị cũng như tôn giáo. Chính quyền muốn áp đặt đức tin cũng giống
như khi ban hành một sắc luật quốc gia. Việc lựa chọn một khuôn mẫu Giáo Hội,
bên Tây hoặc bên Đông, cũng mang theo việc chấp nhận triều đình thuộc về mỗi
bên.
Trong bối cảnh này, người ta hiểu được những khó khăn mà hai anh
em Cyrillô và Metođiô phải đương đầu với hàng giáo sĩ bên Tây, bởi vì những người
này đang muốn mở mang ảnh hưởng sâu rộng ở mạn Đông Âu. Tuy vậy, vào lúc ấy,
tương quan giữa hai Giáo Hội Đông và Tây chưa căng thẳng, mặc dù đã có những cuộc
đụng độ xảy ra vào thời thượng phụ Phôtius.
Câu chuyện ngôn ngữ cho thấy quan điểm khác nhau giữa Đông và
Tây. Vào thời ấy, việc chấp nhận ngôn ngữ Latin là một dụng cụ quan trọng không
nhỏ đế nói lên mối dây liên kết với Roma và Giáo Hội phổ quát. Dù vậy, đường lối
của hai thánh Cyrillô và Metôđiô muốn bảo vệ nét đặc trưng của mỗi dân tộc sau
khi trở lại Kitô giáo, với nguy cơ là gắn liền đức tin với chủng tộc. Chủ
trương của Giáo Hội Roma muốn đề cao tính cách phổ quát và siêu quốc gia của
Kitô giáo, nhưng có nguy cơ là xóa bỏ những cách thức diễn tả đức tin đặc thù của
mỗi dân tộc.
Ở giai đoạn này, Giáo Hội đã trải qua nhiều sự thay đổi: ”Từ điều kiện của một thiểu số bị bách hại, Giáo Hội
trở thành một tổ chức to lớn và thế lực; từ một giáo phái gây rối sang một kẻ
trừng trị các giáo phái; mọi liên lạc giữa đạo Kitô với đạo Do Thái đã bị cắt đứt;
mối liên kết giữa triều đình và bàn thờ thêm thắt chặt; việc theo đạo Kitô được
xem như chuyện đương nhiên; sứ vụ truyền giáo của mỗi tín hữu hầu như bị lãng
quên; các tín điều được định nghĩa với giá trị vĩnh viễn; việc truyền giáo
không dựa trên việc chuẩn bị biến cố Chúa quang lâm cho bằng dựa trên sự bành
trướng Giáo Hội”.[36] Từ
Giáo Hội nhắm đến sứ vụ, chuyển sang sứ vụ nhắm đến Giáo Hội. Từ Giáo Hội truyền
giáo chuyển thành những vùng truyền giáo của Giáo Hội.
3. Đời đan tu: “phong trào truyền
giáo” tiên khởi
Thoạt tiên, xem ra đời đan tu hoàn toàn xa lạ với việc truyền
giáo; thế nhưng thực tế cho thấy rằng các đan sĩ lại là chủ thể của việc loan
báo Tin Mừng cho Châu Âu trong suốt hơn bảy thế kỷ, từ thế kỷ V đến thế kỷ XII,
và là động cơ cho văn hóa và văn minh của lục địa này.[37]Các đan tu Ireland đã giữ một vai trò
quan trọng trong việc truyền giáo. Được thúc đẩy bởi lòng ước ao nên thánh dưới
thình thức ”tử đạo
trắng (khổ chế),[38] các
đan sĩ từ bỏ đan viện gốc và ra đi loan báo lời Chúa. Họ trở thành những ”người lữ hành vì lòng yêu mến Chúa Kitô”,
không bao giờ quay lại, giống như kẻ tình nguyện đi lưu đày. Các ”đan sĩ du hành” (điều mà thánh Biển Đức không ưa) đã dùng việc ”lữ hành vì lòng mến Chúa” (peregrinatio pro Dei
amore), hoặc ”lữ hành
vì Đức Kitô” (peregrinatio pro Cristo) như một phương tiện để thánh hóa bản
thân và đồng thời để loan báo Tin Mừng cho các dân ngoại giáo.
Cha Columba đáp tàu sang Scotland năm 563, định cư tại đảo Iona,
và đan việc tại đây trở nên trung tâm truyền giáo cho tất cả vùng Scoltand và
các đảo Bắc Âu. Một viện phụ khác đã sống tinh thần lữ hành truyền giáo là
thánh Columban: ngài lên đường theo gương tổ phụ Abraham, băng qua miền
Bretagne (Pháp) và Bắc Italia, rồi đến lập đan viện ở Bobbio, nơi mà ngài qua đời
năm 615, hưởng thọ 70 tuổi.[39]
Công cuộc tông đồ truyền giáo của thánh Columban và các đồ đệ đã
mang lại nhiều điều đổi mới. Tác dụng của ngài vào đời sống tôn giáo và tu trì
đương thời có thể ví như một đợt sóng mạnh ập lên cánh đồng khô cằn. Mang theo
những truyền thống của Giáo Hội Ireland, ngài đã du nhập vào lục địa những tục
lệ mới về đan tu và phụng vụ, chẳng hạn như việc xưng tội và thống hối riêng.
Hơn thế nữa, ngài đã nặn hình cho một Châu Âu Kitô giáo, nơi đó kết hợp lý tưởng
đan tu, tinh thần truyền giáo, gắn bó với Giám mục Roma, yêu chuộng Kinh Thánh
và văn hóa; nhờ thế Hội Thánh vừa mang tính phổ quát vừa tôn trọng sự đa dạng
các nền văn hóa khác nhau.[40] ”Các người
Ireland từ chỗ là nhà giảng thuyết lưu động đã trở thành các nhà truyền giáo;
các người Anh từ chỗ là nhà truyền giáo đã trở thành những nhà tổ chức Giáo Hội”
(Rosenkranz).[41]
4. Những cuộc lữ hành chinh chiến: sứ
vụ “contra gentes” (chống dân ngoại) và việc trở lại tinh thần Tin Mừng
Giai đoạn truyền giáo nhờ ”Thập Tự
Quân”, nghĩa là bằng việc sử dụng vũ khí để chống lại Hồi Giáo tại
Thánh địa, không chỉ đánh dấu một tình huống bắt buộc, nhưng phần nào biểu lộ một
tâm thức về thánh chiến sẽ còn chi phối nhiều chặng đường khác trên hành trình
của Giáo Hội.[42] Điều
này không chỉ dừng lại ở các cuộc viễn chinh do các Giáo Hoàng và hoàng thân tổ
chức vào các thế kỷ XI-XII để chống lại Hồi Giáo, mà còn vượt quá thời Trung cổ
và ảnh hưởng những cuộc chiến đấu với Đế quốc Ottoman của Thổ Nhĩ Kỳ, và cuộc
chinh phục của người Tây Ban Nha tại Châu Mỹ.
Các tu sĩ Phansinh và Đaminh đã sớm nhận thấy rằng lòng can đảm
và nhiệt huyết chưa đủ. Cần phải hiểu biết Hồi Giáo, chiếm được cảm tình của họ,
trả lời những vấn nạn của họ bằng những chứng cớ thuyết phục. Do đó cần có dụng
cụ đối thoại và hiểu biết, bao gồm việc học ngôn ngữ Arabia. Cha Raymond de
Peñafort, Dòng Đaminh, mở ra một trường học ngôn ngữ, và do lời yêu cầu của
cha, thánh Tôma Aquinô soạn bộ sách Summa
Contra Gentiles, cung cấp cho các Kitô hữu và các nhà thừa sai những
luận cứ thích hợp trong cuộc tranh luận với những người Hồi Giáo. Ông Raymon
Lull, một giáo dân Dòng Ba Phansinh đã ủng hộ việc học các ngôn ngữ Đông phương
để hiểu biết thế giới Trung đông và Hồi Giáo. Ông đã mở một trường truyền giáo
Phan Sini ở đảo Mallorca. Nói cách khác, nên sử dụng các phương tiện tình thần
hơn là khí giới và vũ lực.
Trong một đoạn văn sách Tổng Luận Thần Học,[43] thánh
Tôma Aquinô đặt câu hỏi: có được phép sử dụng vũ lực đối với những người không
tin (infideles) hay không, và ngài trả lời như sau: ”Có những không tin, nghĩa là bao giờ tin theo đạo
Kitô, tựa như người Do Thái và người ngoại đạo: đối với những người này thì
không được phép cưỡng bách. (...). Có những người hiện giờ không tin nhưng trước
đây họ đã chấp nhận và tuyên xưng đức tin, tựa như những người lạc giáo và bội
giáo, thì cần phải cưỡng bách họ phải thực hiện điều mà học đã hứa”.
Như vậy, không thể xem vũ lực như là phương pháp để truyền đạo cho người ngoại
giáo!
5. Loan báo Tin Mừng tại Châu Mỹ: độc
quyền của chế độ bảo trợ (Patronato)
Việc khám phá những lục địa mới đã mở rộng những chân trời mới
cho việc truyền giáo. Tại tân thế giới, các thừa sai gặp những dân tộc xa lạ, với
những ngôn ngữ khó hiểu, những tôn giáo và phong tục khác biệt. Hơn nữa, qua định
chế ”bảo trợ” (“Patronato” - tiếng
Tây Ban Nha, “Padroado” tiếng Bồ Đào Nha), công cuộc tông đồ của
các thừa sai bị lệ thuộc vào chính sách của các nước thuộc địa, trong đó, việc
trở lại đạo nằm trong kế hoạch bành trướng của chế độ.
Trong các lãnh thổ “bảo trợ” của Tây Ban Nha ở Châu Mỹ, việc xâm
lăng trở thành cuộc chiến đấu chống ngoại giáo, cũng như trước đây, việc khởi
nghĩa giành độc lập cũng là việc xua đuổi người Hồi Giáo. Cuộc xâm lăng diễn ra
nhân danh đức tin. Khi đi đến một vùng nào đó, quân đội ban hành một tuyên cáo,
trong đó nhân dân được lệnh phải chấp nhận Kitô giáo và nhìn nhận chủ quyền của
quốc vương nước Tây Ban Nha. Ai khước từ sẽ bị mất tự do hoặc mạng sống. Ngoài
ra, những người đô hộ còn nhận được đát đai làm đồn điền của nhà vua (encomienda) và có quyền cưỡng bách thổ dân phải
làm việc tại đó.
Các thừa sai đi theo chân quân đô hộ và không có gì để nói. Họ
không được chuẩn bị cho môi trường tông đồ mới, và họ không có kinh nghiệm về
các nền văn hóa của các dân tộc khác. Phương pháp của họ là cào bằng (tabula rasa) và dùng vũ lực nếu cần. Tuy nhiên điều
hạn chế công cuộc truyền giáo qua chế độ ”bảo trợ” là triều đình nắm giữ độc quyền để chiếm
đất và buôn bán cũng như để truyền giáo. Triều đình Bồ Đào Nha cương quyết bảo
vệ độc quyền truyền giáo cho đến khi đế quốc thuộc địa sụp đổ vào thập niên 70
của thế kỷ XIX.
Chế độ bảo trợ đã mang lại kết quả là sự bành trướng Kitô giáo
nhất là tại Châu Mỹ và nước Philippines, nhưng đối lại là một thứ nhà tù không
thể vượt ra được. Trên thực tế, Tòa Thánh Roma bị loại trừ ra khỏi việc điều
hành các vùng đất mới được truyền giáo. Không văn kiện của Tòa Thánh có giá trị
nếu không được duyệt y bởi Hội Đồng đặc trách Châu Mỹ. Ngay cả thư từ liên lạc
với Roma cũng bị kiểm soát.
Cuộc loan báo Tin Mừng tại Mỹ châu đã phải trả giá đắt vì những
cuộc tàn sát thổ dân,[44]Tuy nhiên cũng có những nhà thừa sai lên
tiếng bảo vệ quyền lợi của thổ dân. Người đầu tiên là cha Antonio de Montesinos
Dòng Đaminh, đã trở về nước năm 1511 để đòi quyền cho các thổ dân tại triều
đình của Ferdinando. Dù sao, người nổi tiếng nhất trong vụ này là cha Bartolomé
de Las Casas, cũng Dòng Đaminh, một người đã vượt trùng dương bảy lần để tranh
đấu quyền lợi của các thổ dân trước mặt các vua Ferdinando, Carlos V, Filipe II
và trước các giáo sư đại học Sepúlveda và Vitória.[45]
Cha Bartolomé de Las
Casas đã say mê Châu Mỹ từ thuở thiếu niên khi nghe các bản tường thuật của ông
Cristoforo Colombo. Tất cả các tác phẩm của cha đều chứng minh cho lòng say mê ấy.
Từ khi còn trẻ, cha đã yêu mến Châu Mỹ như là một kẻ mạo hiểm, thống trị, thuỷ
thủ, linh mục chủ đồn điền, sử gia, luật sư, dân tộc học. Sau khi nghe bài giảng
của cha Antonio de Montesinos vào Chúa Nhật cuối mùa Vọng năm 1511, cha đã hoán
cải và bắt đầu yêu mến các thổ dân Châu Mỹ. Bị rơi vào cơn khủng hoảng do những
kêu gào của cha Montesinos: ”Các thổ
dân không phải là con người hay sao? Họ không có linh hồn hay sao? Anh chị em
không có nghĩa vụ phải yêu thương họ như chính mình hay sao?”, cha
Las Casas đã từ bỏ địa vị của một kẻ thực dân để trở thành kẻ bảo vệ những thổ
dân bên Châu Mỹ và Châu Âu (Tây Ban
Nha). Cha dốc hết tâm lực và khả năng kiến thức – pháp luật, lịch sử,
dân tộc học, thần học – để phục vụ các người nghèo. Trong một bản thảo bức thư
đệ lên Đức Thánh Cha Piô V (và người
ta chỉ tìm thấy sau khi cha đã qua đời), có đoạn viết: ”Con khiêm tốn thành khẩn xin Đức Thánh Cha hãy ban
hành một sắc lệnh tuyên bố tuyệt thông cho bất cứ ai biện minh một cuộc chiến
chống người ngoại giáo dưới danh nghĩa là tại vì những dân này thờ bụt thần, và
cho rằng cuộc chiến sẽ giúp cho việc loan báo Tin Mừng... Xin Đức Thánh Cha
cũng hãy ra vạ tuyệt thông cho kẻ nào nói rằng các thổ dân không phải là sở hữu
chủ hợp pháp đất đai của họ, hoặc kẻ nào nói rằng dân ngoại không có khả năng
đón nhận Tin Mừng và vì thế không đáng được hưởng hạnh phúc vĩnh cửu, vì họ xấu
xí và lười biếng. Điều này chắc chắn là không thể áp dụng cho các người thổ dân
mà con đang bênh vực họ, đương đầu với mọi gian nan, vì vinh quang của Thiên
Chúa và của Hội Thánh Người”.[46] Bức
thư làm tôi liên tưởng đến một bức thư gần đây của Edith Stein đệ lên Đức Giáo
Hoàng Piô XI để xin ngài phá tan sự im lặng của Giáo Hội trước cuộc bách hại
người Do Thái do chính quyền Đức quốc xã: một lá thư sáng suốt, tràn đầy lòng
yêu mến với Đức Kitô, với Giáo Hội, với dân Do Thái.
Một thí dụ quan trọng khác của việc truyền giáo là các ”khu tự trị” (reducciones) của các Dòng Tên thiết lập trên sống
Paraná cho các thổ dân Guarani, ở nước Paraguay. Đây là một thử nghiệm kéo dài
150 năm, từ 1609 cho đến 1768, khi chúng bị Roma dẹp bỏ vì lý do chính trị.
Paraná không phải là cuộc thử nghiệm duy nhất dành cho các thổ dân, nhưng đó là
nơi đạt được thành công nhất, một phần cũng vì được Hoàng triều Tây Ban Nha phê
chuẩn. Người ta đã tranh luận: phải chăng các khu tự trị này nhằm giúp cho các
thổ dân biết lãnh trách nhiệm, tạo ra các cộng đồng tự quản tự trị, tiến đến quốc
gia thổ dân Kitô giáo? Không thể bảo rằng đó là các cộng đồng được thành hình
do vũ lực; cùng lắm chỉ có thể nói rằng các thừa sai đã áp đặt sự giám sát quá
chặt chẽ. Dù sao đi nữa, cuộc thử nghiệm kết thúc không do những khiếm khuyết
bên trong, nhưng là bởi những lý do chính trị, do sự chống đối của nhóm thực
dân và đôi khi do chính hàng giáo sĩ đã không có thiện cảm với nó. Những nguyên
nhân trực tiếp của sự kết liễu là sự chấm dứt bảy khu tự trị mà người Bồ Đào
Nha thiết lập ở nước Brasil láng giềng; những vu khống các cha Dòng Tên do ông
bộ trưởng Pombal người Bồ, việc giải tán Dòng Tên năm 1773 và, trước đó, những
kẻ buôn bán nô lệ từ Brasil tràn qua, buộc lòng phải trang bị khí giới cho các
thổ dân để chống trả.[47]
6. Vài cố gắng hội nhập văn hoá ở Á
Đông
Khi ôn lại các chặng đường loan báo Tin Mừng tại Châu Á vào thời
cận đại, giữa thế kỷ XVI-XVII, chúng ta có cảm giác là đọc lại lịch sử của một
cuộc thất bại nặng nề khi so sánh với những thành quả thâu lượm được tại Châu Mỹ.
Tại sao vậy? Bởi vì các nước Châu Á (ngoại trừ
nước Philippines) không
phải là thuộc địa của Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha, cho nên không chịu ảnh hưởng của
đường lối cưỡng bách cải đạo? Hay là tại vì những cuộc bách đạo dữ dội tại Châu
Á đã làm ngăn cản việc trở lại đạo? Hay là vì kế hoạch ”hội nhập văn hóa” của vài thừa sai đã thất bại?.[48]
Vấn đề hội nhập văn hóa đã được nêu lên trong huấn thị của vị tổng
thư ký Bộ Truyền Giáo, Đức Cha Ingoli, gửi cho hai vị đại diện tông tòa tiên khởi
tại Đông Dương: ”Xin quý
vị đừng nóng lòng thúc giục các dân tộc này hãy thay đổi nghi lễ, phong tục, lề
thói của họ, trừ khi nào rõ ràng là chúng trái nghịch với tôn giáo và luân lý.
Còn chi phi lý cho bằng đem sang Trung Hoa, Pháp, Tây Ban Nha, Italia hoặc một
nước Châu Âu nào khác? Quý vị đừng du nhập quê hương chúng ta cho họ, nhưng hãy
du nhập đức tin, đức tin không đẩy lui cũng không làm tổn thương các lễ nghi hoặc
tập tục của dân nào, miễn là chúng không xấu (...) Quý vị đừng bao giờ so sánh
các tập tục của các dân này với tập tục của Châu Âu; nhưng hãy nhanh chóng làm
quen với chúng”. Dưới đây chúng tôi chỉ muốn thuật lại một vài
khuôn mặt điển hình: Roberto De Nobili, Phanxicô Xavier, Alessandro Valignano,
Matteo Ricci.
a/. Roberto de Nobili
Năm 1605 một người đặt chân lên hải cảng Goa mang một đường hướng
tiếp cận Ấn Độ mới mẻ. Cho đến nay, người Bồ Đào Nha chỉ đi giảng đạo cho những
giai tầng thấp kém bị khinh miệt. Cha de Nobili muốn đảo lộn hướng truyền giáo
dựa theo phương pháp của cha Matteo Ricci ở Trung Hoa. Được phép của các bề
trên, cha cải trang thành một Sanyassy(một giáo sĩ bà-la-môn khổ hạnh và độc thân),
theo học tiếng phạn, và các sách thánh của Ấn giáo, biên soạn nhiều sách bằng
tiếng Tamil, tuy vẫn không bỏ qua nhiệm vụ của nhà thừa sai. De Nobili đi từ nhận
xét là trong một xã hội phân chia đẳng cấp chặt chẽ, các nhà thừa sai tiếp xúc
với tầng lớp cùng đinh thì sẽ trở thành ô uế. Vì thế, nếu không muốn để cho
Kitô giáo bị khinh miệt vì gắn bó với những người bần cùng, cần phải hướng đến
các đẳng cấp danh giá hơn. Những sự chống đối đã nổi lên: cha đã gặp phải sự phản
kháng của hàng giáo phẩm và sự khiển trách của Hồng y Roberto Bellarmino. Việc
chấp nhận các đẳng cấp đi ngược lại sứ điệp Tin Mừng. Trong sách Apologia (biện hộ), cha tuyên bố rằng mình đã chủ
ý loại trừ các đẳng cấp cùng đinh ra khỏi nhà nguyện, ngõ hầu Kitô giáo không bị
khinh rẻ. Kể cả thánh Phanxicô Xavier cũng thú nhận rằng, sự nghèo khó không phải
là một giá trị bên Nhật Bản. Những kết quả ban đầu không có gì khả quan. Phải
sau một thời lâu dài, năm 1629, mới thấy được vài thành quả, và năm 1644 con số
người trở lại là bốn ngàn, trong đó chỉ có 26 giáo sĩ Balamon. Cha de Nobili thật
là lẻ loi: chỉ có 6 thừa sai đi theo cha, và từ năm 1675, chiến lược này hoàn
toàn bị loại bỏ. Năm 1703, khi đặc sứ Tòa Thánh Charles Maillard de Tournon đến
Ấn Độ, ngài đã nghiêm cấm các nghi điển Malabar mà các cha Dòng Tên đã gây dựng.
Cuộc đụng độ tiếp diễn với các cha Dòng Cappucinô, những người đã công bố một đống
tài liệu chống lại Dòng Tên.[49]
b/. Phanxicô Xavier[50]
Cha đã được tổng trấn
Kagoshima tiếp đón niềm nở và được cấp phép tự do giảng đạo; điều này làm cho
cha hết sức lạc quan. Qua các bức thư, người ta nhận thấy cha rất tôn trọng người
Nhật: một dân tộc thông minh, có tính tự trọng, lễ độ, hiền hòa, uyên bác. Đối
lại với những đức tính của người dân, ta cũng được biết phong hóa suy đồi nơi
các nhà sư. Tuy vậy, cha Phanxicô không dám đối chiếu với các thành quả thu lượm
ở bên Ấn Độ. Thực ra, thiện cảm của nhà cầm quyền được thúc đẩy không do lòng vị
tha hoặc cởi mở đối với đạo mới, nhưng là vì tò mò muốn hiểu biết têm về một nền
văn minh tiến bộ như Châu Âu, cũng như vì những món quá hiếm có từ Tây Phương
mang đến. Tiếc rằng lòng nhiệt thành của vài người tân tòng đã gây phản ứng bất
bao dung về phía chính quyền. Một vị tướng quân tức giận đã triệt hạ cả những đền
thờ cổ truyền của Phật giáo và Thần đạo nữa. Thái độ bất bao dung, cùng với lời
tố cáo buôn bán các nô lệ, đã trở thành lời cáo buộc của Hideyoshi chống lại
các thừa sai, mở màn cho chính sách thù nghịch với Kitô giáo.
c/. Alessandro Valignano[51]
Khi cha Alessandro Valignano đặt chân lên đất Nhật năm 1579, vào
lúc các thừa sai đang nóng lòng chờ đợi, và trong vòng ba năm cha đã hoàn thành
một Chỉ nam, hướng dẫn thái độ cư xử đối với các phong tục địa phương. Tập chỉ
nam này có thể xem như một thủ bản mà các thừa sai phải học hỏi để cư xử hợp với
tâm thức của người Nhật. Chẳng hạn như không nên đi theo khuôn mẫu nghèo khó khắc
khổ của các Dòng Hành Khất. Tại Châu Âu, đó là điều tốt, nhưng ở Nhật thì lại bị
coi khinh. Tại một xứ mà người ta trọng danh giá địa vị, ta phải hết sức tránh
những kiểu cách gây xúc phạm, chẳng hạn như phải nhường bước khi đi đường, đặt
chỗ ngồi theo đúng vị thứ, hoặc chào hỏi theo phép lịch sự lúc đến hoặc lúc ra
về.
Để bảo vệ phương pháp truyền giáo của mình, Dòng Tên tìm cách
thuyết phục Roma để được giữ độc quyền truyền giáo tại Nhật, vì sợ rằng Dòng
Phansinh sẽ mang lại nhiều khác biệt cho hại cho việc loan báo Tin Mừng. Cha
Valignano cử một phái đoàn, gồm bốn nhà quý tộc trẻ được đào tạo ở chủng viện
Dòng Tên tại Arima. Việc gửi phái đoàn sang Châu Âu đã gây nghi ngờ cho chính
quyền trung ương, sợ rằng các lãnh chúa Kitô hữu liên minh với lực lượng nước
ngoài. Năm 1587, Hideyoshi ra sắc lệnh cho giám tỉnh Dòng Tên, Gaspar Coelho,
truyền tất cả các tu sĩ của Dòng phải rời nước này. Thái độ thiếu thận trọng của
cha Coelho, quy tụ một liên minh các lãnh chúa Kitô hữu bất chấp sắc lệnh này,
đã làm cho tình thình thêm căng thẳng. Khi trở lại Nhật, cha Valignano đã tìm
giải pháp hòa hoãn hơn, nhờ vậy số tín hữu cũng gia tăng đôi chút. Tiếc rằng,
do sự cạnh tranh giữa các Dòng tu cộng thêm âm mưu của ngoại bang, thập niên cuối
thế kỷ XVI đã xoay vần tất cả dòng lịch sử của Giáo Hội tại Nhật. Một cuộc bách
hại đã bùng nổ: ngày 5 tháng 2 năm 1597, 6 tu sĩ Phansinh, 3 tập sinh Dòng Tên,
17 tân tòng bị đóng đinh vào thập giá tại Nagasaki. Năm sau, Hideyoshi tạ thế.
Đạo Công Giáo, sau một thời gian phục hồi (năm 1606
đã được 750.000 tín hữu), đã bước vào giai đoạn đi xuống.
Năm 1616, người ta đặt giá treo để bắt các thừa sai và giáo lý
viên. Nhưng bất chấp những cuộc bách hại, các thừa sai tiếp tục hoạt động lén
lút, nhờ sự bao che của các tân tòng. Năm 1622, cuộc tử đạo tại Nagasaki tái diễn.
Danh sách các vị tử đạo tiếp tục kéo dài ở những năm kế tiếp. Có thể xem tiến
trình thống nhất đất nước như là một nguyên nhân đưa đến sự suy tàn của Giáo Hội
tại Nhật bản. Sự thống nhất được thực hiện bằng cách nhấn mạnh đến những yếu tố
cổ truyền của dân tộc, và như thế, các thừa sai nước ngoài bị xem như những yếu
tố phá hủy truyền thống này. Các sử gia còn nêu lên một nguyên nhân khác nữa:
các thương gia Hà Lan (theo Tin
Lành) đã rỉ tai về sự
hiện diện của các nhà truyền giáo (Công
Giáo) như là một hiểm
hoạ chính trị sẽ tiếp tay cho đế quốc Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha.
d/. Matteo Ricci
Con người của cha có liên hệ đến chuyện ”lễ nghi Trung Hoa”: cha bênh vực cho
tính hợp pháp các lễ nghi này, và cha đã gặp sự chống đối của các thừa sai thuộc
các Dòng khác. Thực ra, kinh nghiệm của cha Matteo Ricci diễn ra trong một thời
buổi khó khăn.[52] Đàng
sau lập trường của đôi bên là các quan điểm khác nhau về phương pháp truyền
giáo. Sự hiện diện của các cha Dòng Tên tại triều đình Bắc Kinh, chăm chú vào
thiên văn, địa lý, toán học, khiến cho những nhà quan sát của Bộ Truyền giáo
đâm ra sốt ruột, vì coi những công tác ấy không trực tiếp góp phần vào việc
truyền giáo và không mang đến kết quả nào hết. Nhà sử học Giacomo Di Fiore nhận
xét rằng, có lẽ người ta quên rằng việc chinh phục đế quốc Roma phải mất ba thế
kỷ.[53] Tất
cả những yếu tố này đưa đến sự thất bại của cuộc truyền giáo tại Trung Hoa, tuy
đầy hứa hẹn vào lúc đầu, nhưng cuối cùng đã kết thúc với những cuộc bách hại,
trục xuất, và xóa bỏ mọi di tích Kitô giáo.
Cha Matteo Ricci đặt ”tình bạn” như là định hướng cho công cuộc truyền
giáo tại Trung Hoa. Vì thế, cha đã viết một khảo luận ngắn về tình bạn (De amicitia), xuất bản tại Nam Kinh
năm 1595 và đã thu lượm được nhiều thành công. Công cuộc truyền giáo phản ánh
tình bạn, được diễn tả thành tính trung thực, tình hữu nghị đối với dân tộc
Trung Hoa. Trong suốt 28 năm sống tại đây, cha cố gắng khuếch trương tình bạn hữu,
qua thái độ trân trọng văn hóa ngàn năm của dân tộc này, qua việc thinh lặng
nghiên cứu học hỏi các tác phẩm cổ điển, ngõ hầu khám phá ra cái gì là tốt là đẹp,
để rồi quảng bá truyền thụ lại cho người ngoài. Tình bạn này được thể hiện qua
việc không đặt điều kiện nào cho người Trung Hoa, khác với các thỏa ước thương
mại của các đế quốc sau này vào hồi thế kỷ XIX và XX. Đây là một kinh nghiệm
quý giá vẫn còn thách thức chúng ta ngày hôm nay.
7. Châu Phi: Việc loan báo Tin Mừng tại
các nước thuộc địa giữa ánh sáng và bóng tối
Cuộc truyền giáo tại Châu Phi kể từ Hiệp định Berlin (1884-1885)
cho đến những năm sau thế chiến thứ hai đã trải qua nhiều gian truân nhưng đã
thâu lượm được nhiều thành quả. Năm 1920, có 31 Dòng nam (trong số này có 14 dòng truyền giáo vừa được thành
lập) và 24 Dòng nữ
làm việc tại Phi Châu. Các giáo lý viên bản xứ lên tới số hơn 9.500 người.[54]Người ta nhận thấy một sự gia tăng hoạt động
truyền giáo chưa từng thấy tại Châu Phi, với những đặc tính sau đây:
a/. Tiến sâu vào trong nội địa;
b/. Phương pháp truyền giáo khá đồng nhất, tìm cách phối hợp việc
loan báo Tin Mừng với sự thăng tiến con người;
c/. Học tiếng địa phương, chuyển dịch sách giáo lý và Kinh
Thánh;
d/. Dạy chữ, mở trường học và các cơ sở bác ái, đào tạo các giáo
lý viên và hàng giáo sĩ bản xứ.[55]
Một mẫu truyền giáo mới ra đời, xét về vị trí lãnh thổ, cách xây
dựng, kỷ luật hàng ngày, rập theo mô hình đan tu. Vào thời ấy, chưa ai đề cập đến
việc Phi-hóa các cơ cấu Giáo Hội, tuy đã hé ra vài khuynh hướng tiến đến chỗ
đó.
Vài khía cạnh đặc trưng của việc truyền giáo tại Châu Phi. Việc
thành lập các Giáo Hội địa phương thường gắn liền với lịch sử của mỗi Dòng tu,
linh đạo cũng như phương pháp truyền giáo của các Dòng ấy. Vì thế các Giáo Hội
địa phương lắm lần họa lại những sinh hoạt văn hóa chính trị của Châu Âu, tùy
theo xuất xứ của các thừa sai. Việc gầy dựng các Giáo Hội Châu Phi cũng gặp
không ít trở ngại: do thủy thổ, do tương quan với chính quyền thuộc địa, do sự
thù nghịch từ phía Hồi Giáo và những nhóm buôn bán nô lệ, do sự canh tranh của
các nhà truyền giáo Tin Lành.
Vài bóng tối. Tại vài nơi, công cuộc truyền giáo (về phía Công Giáo cũng như về phía Tin Lành) gắn liền với chế độ thuộc địa, gây ra
sự lẫn lộn giữa truyền giáo và thực dân. Đó là trường hợp của các các vùng truyền
giáo Tin Lành tại Uganda, Kenya, Rhodesia, Nam Phi, hoặc các vùng truyền giáo
Công Giáo tại Congo Bỉ, một vài lãnh thổ Pháp và Bồ Đào Nha.
Chế độ ủy thác của Tòa Thánh (ius
commissionis: nghĩa là giao một lãnh thổ truyền giáo cho một Dòng tu),
một đàng đã giúp phát triển công tác truyền giáo, nhưng đàng khác đã hạn chế
lãnh thổ ấy vì không được đón tiếp những sự phong phú thiêng liêng mà những
Dòng khác có thể mang đến. Ngoài ra chế độ uỷ thác hầu như do chế độ thuộc địa
áp đặt. Thường chính quyền thuộc địa đòi hỏi các dòng thừa sai phải có trụ sở tại
cùng một nước, và các thừa sai phải là công dân của chính quyền nước ấy. Điều
này giúp chính quyền thuộc địa dễ kiểm soát hoạt động truyền giáo. Chính sách ấy
dẫn đến việc trục xuất các thừa sai người Đức khi các thuộc địa nước Đức cáo
chung sau thế chiến thứ nhất. Các nước thuộc địa Pháp và Bỉ không cho phép các
thừa sai thuộc Tây Ban Nha, Italia, Đức hoặc các nước khác đến giảng đạo. Các
nước thuộc địa Tây Ban Nha và Italia chỉ chấp nhận các thừa sai người Pháp, Bỉ,
Đức, Bồ Đào Nha, Anh, Tây Ban Nha và Italia. Đó là vài thí dụ.
Sau đệ nhất thế chiến, Châu Phi bắt đầu thu lượm những điều tiện
ích cũng như những điều hàm hồ do việc tiếp xúc với Tây phương. Nếu một đàng, kỹ
thuật tràn vào, thì đàng khác, nhiều truyền thống cha ông cũng bị mai một. Bất
chấp những mâu thuẫn ấy, Kitô giáo tăng gia đều đặn.
Xét về phương diện phương pháp truyền giáo, giai đoạn này được
đánh dấu bởi tầm quan trọng dành cho thời kỳ dự tòng, các giáo lý viên, và
phương pháp truyền giáo gián tiếp qua các trường học, các cơ sở bác ái và thăng
tiến nhân sinh. Xét về thế giới văn hóa của Châu Phi, người ta thấy những thái
độ trái ngược: nhiều thừa đi thâu lượm tát các dữ kiện có ích lợi cho nhân học;
trong khi phần lớn thừa sai có cái nhìn tiêu cực đối với các phong tục, tôn
giáo cổ truyền của Châu Phi. Thái độ này dần dần được thay đổi từ sau Công Đồng
Vatican II.
Kể từ thập niên 50 của thế kỷ XX, người ta chứng kiến những cuộc
tranh đấu giành độc lập: không có gì khó hiểu khi việc gia tăng ý thức về quốc
gia và văn hóa bản địa đưa đến thái độ bài ngoại. Những truyền thống văn hóa và
tôn giáo được phục hồi đặt Giáo Hội trước nhiều vấn đề mới, đòi hỏi thay đổi
phương pháp truyền giáo. Vai trò lãnh đạo Giáo Hội được giao cho người bản xứ;
các Giám mục tụ họp nhau trong các Hội Đồng Giám Mục ở cấp quốc gia và lục địa (SECAM: Simposium of Episcopal Conferences of
Africa and Madagascar), những hội nghị truyền giáo,v.v... Năm 1969,
Đức Thánh Cha Phaolô VI đã nói với đại hội các Giám mục Châu Phi họp tại
Kampala rằng: ”Quý vị
hãy trở thành các thừa sai cho quốc gia quý vị”. Giáo Hội Châu Phi
đã có những mục tử, những vị thánh người bản xứ, cũng như nền thần học riêng,
tuy không tránh khỏi những hàm hồ mò mẫm trong giai đoạn khởi đầu.[56]
Để kết luận giai đoạn thuộc địa này, tôi muốn giới thiệu khuôn mẫu
của anh Charles de Foucauld. Giữa thời thuộc địa cực thịnh, anh đã mang Đức
Kitô đến với những người ngoại đạo với phương pháp mà anh đặt trên môi miệng của
Chúa như sau: ”Con hãy
đặt mang nhà tạm và bàn thờ của Ta đến ở giữa những người không biết Ta. Con
hãy mang Tin Mừng không phải qua việc giảng thuyết bằng lời nói mà qua gương
sáng, không phải qua việc công bố Tin Mừng mà qua việc sống Tin Mừng”.
Khuôn mẫu ”sứ vụ ẩn
dật” này đã được tiếp
tục nơi chị Annalena Tonelli, một giáo dân thừa sai ở Somalia, bị ám sát ở
Somalia vào đầu tháng 10 năm 2003, mà cho đến nay người ta chưa rõ nguyên nhân.
Chị Annalena bị thu hút vởi linh đạo của anh Foucauld: chị rời bỏ quê hương
Italia đi Phi châu như một giáo dân (chứ
không làm nữ tu), chấp nhận cảnh khó nghèo (không được ai hỗ trợ), chia sẻ cuộc đời
phục vụ giữa những người nghèo thuộc Hồi Giáo, lúc đầu tại Kenya và sau đó tại
Somalia. Một năm trước khi qua đời, nhân dịp ngày quốc tế chí nguyện viên họp ở
Vatican, chị đã miễn cưỡng lên phát biểu chứng tá của mình như sau: ”Tôi muốn đi theo Đức Giêsu, và tôi lựa chọn sống
nghèo giữa người nghèo. Vì Người, tôi chọn lựa một đời sống nghèo triệt để mặc
dù tôi biết rằng mình không thể thực sự hoàn toàn nghèo giống như một người
nghèo. Tôi làm một công tác không tên tuổi, không có sự an toàn của một Dòng
tu, không thuộc về một tổ chức nào không có tiền lương, không có bảo hiểm tuổi
già. Tôi không lập gia đình bởi vì tôi đã vui vẻ chọn lựa như vậy hồi còn trẻ.
Tôi muốn thuộc trọn về Thiên Chúa. Tôi ra đi để loan báo Tin Mừng bằng cuộc sống
theo gương của anh Charles de Foucauld, một người đã nung nấu trót đời tôi. Sau
ba mươi năm, tôi chỉ loan báo Tin Mừng bằng đời sống của mình, mà tôi ước ao tiếp
tục như vậy cho đến cùng. Đó là động lực thâm sâu trong tôi, cộng thêm sự say
mê con người bị tổn thương và bị loại trừ mặc dù không đáng phải chịu như vậy,
dù con người ấy thuộc về bất cứ chủng tộc, văn hoá, tín ngưỡng nào đi nữa”.
KẾT LUẬN
Lịch sử công cuộc loan báo Tin Mừng, với những khuôn mẫu khác biệt
hoặc tương phản nhau, cho ta thấy rằng không có một phương pháp nào có giá trị
cho mọi nơi mọi thời. Từ phương pháp tiếp xúc trong những thế kỷ đầu tiên, cho
đến phương pháp bành trướng nhờ cuộc trở lại của các lãnh tụ, từ khuôn mẫu các
đan sĩ cho đến khuôn mẫu của Dòng Hành Khất (thánh
Phanxicô Assisi) giữa
thời buổi Thập Tự Quân, từ khuôn mẫu tàn phá di tích ngoại giáo ở Mỹ Châu đến sứ
vụ thuộc địa tại Châu Phi và sứ vụ hội nhập hóa tại Châu Á: chúng ta hiểu rằng
sự hiện diện truyền giáo của Giáo Hội chỉ chinh phục thực sự thế giới khi trở về
với Tin Mừng của Chúa Giêsu, nghĩa là khi chứng tỏ sự ”khác biệt của Kitô giáo”,[57]vẻ đẹp của Tin Mừng được ẩn giấu trong những
chiếc bình sành dòn mỏng.
[1] Nguyên bản: Historia e modelli della presenza missionaria della
Chiesa. AD GENTES, 12 (2008) 2, pp. 209-232.
[2] Xc. G. MARTINA, “La coscienza che la
Chiesa ha avuto della sua missione dall’Ottocento al Vaticano II”, in ATI, Coscienza e missione di Chiesa. Atti
del VII Congresso nazionale, Cittadella, Assisi 1977, pp. 15-98.
[3] Xc. J. COMBY, Duemila anni di evangelizzazione, SEI,
Torino 1994. Xem thêm J. METZLER, La Santa
Sede e le missioni. La politica missionaria della Chiesa nei secoli XIX e XX,
San Paolo, Cinisello Balsamo 2002.
[4] Về lịch sử truyền giáo tại châu Phi,
xem bộ lịch sử đồ sộ của B. SUNDKLER – CH. STEED, A History of the Church in Africa,
Cambridge University Press, Cambridge 2000 và của giáo sư A. HASTINGS, A History of African Cristianity (1950-1975),
London 1979; The
Church in Africa (1450-1950),
London 1994.
[5] Xc. E. DUSSEL, Storia della Chiesa in America Latina (1492-1992), Queriniana, Brescia 1992.
ID. História da Igreja
Latino/americana (1930-1985), Paulinas, São Paulo 1989. AA. VV., América Latina: 500 anos de evangelização,
Paulinas, São Paulo 1990; L. BOFF,América Latina: da conquista à nova evangelização,
Aditora Ática, São Paulo 1992.
[6] Thí dụ thư mục vụ của Hội đồng giám mục
Italia Comunicare
il Vangelo in un mondo che cambia. Orientamenti pastorali dell’Episcopato
Italiano per il primo decennio del 2000, EDB, Bologna 2001, n. 32: “Việc
truyền giáo cho dân ngoại không chỉ là kết thúc một giai đoạn dấn thân, mà luôn
vẫn là mô hình cho hoạt động mục vụ”.
[7] Xc.
P. WITTMANN, Die
Herrlichkeit der Kirche in ihren Missionen seit der Glaubenspaltung. Eine allgemeine Geschichte
der katholischen Missionen in den letzten drei Jahhunderten, 2
voll., Augsburg 1841 (bản dịch tiếng Ý: La gloria della Chiesa nelle sue
Missioni dall’epoca dello scisma nella fede, ossia Una Storia Universale delle
cattoliche Missioni negli ultimi tre secoli, Milano 1842-1843)
[8] Cuốn sách còn được tái bản năm 1924.
[9] Tác phẩm được xuất bản ở Berlin năm
1910, được tái bản lần thứ mười vào năm 1913, và được dịch sang tiếng Anh. Một
tác phẩm khác về lịch sử truyền giáo về phía tin lành cũng được xuất bản vài
năm sau: CH. H. ROBINSON, History
of Christian Missions (Clark,
Edinburgh 1915).
[10] Xc.
J. SCHMIDLIN, Katholische
Missionsgeschichte, Steyl, 1924.
[11] Về
các nguồn mạch lịch sử, Schmidlin đã xuất bản cùng với Streit, một bộ sách khổng
lồBiblioteca Missionum, quyển thứ nhất được phát hành năm 1916
và nay đã lên đến 30 quyển. Để cập nhật thư mục hằng năm, tập san Bibliographia Missionaria được xuất bản từ năm 1935. Một thư mục
quý giá về lịch sử truyền giáo cũng được cung cấp bởi A. SANTOS,Bibliografia
Misional II: Parte Histórica, Santander 1965 (với 3633 đầu sách kèm
theo lời phê bình, chưa kể các bài báo của các tập san).
[12] Xc.
A. MULDERS, Missiegeschiedenis,
Bussum 1957, cập nhật và bổ túc Schmidlin.
[13] Xc.
R. G. VILLOSLADA, Los
historiadores de las misiones. Origen y desarrollo de la bibliografía misional,
Bilbao 1956. Tác giả cung cấp nhiều thư mục.
[14] Xc.
B. DESCHAMPS, Histoire
générale des missions, AUCAM, Louvain 1932. Bộ sách nhiều tác giả,
với giá trị không đồng đều.
[15] Cf.
F. J. MOLTMANN, Manual de
Historia de las Misiones, Bilbao 1952 (ấn bản lần thứ nhất bằng tiếng
Latin, Shangai 1935). Tác giả cung cấp nhiều thông tin quý giá về công cuộc
truyền giáo ở Trung hoa và châu Mỹ Latin.
[16] Xc.
S. DELACROIX (dir.), Histoire
universelle des Missions Catholiques, 4 voll., Editions de
l’Acanthe-Grund, Monaco-Paris 1956-1959. Tác phẩm mang một tầm nhìn rộng rãi,
không những thuật lại những sự kiện và còn trình bày những nhà thừa sai nổi tiếng
cùng với tư tưởng và phương pháp của họ (T. Bonifaxiô, Raimondo Lullo, T.
Phanxicô Xavier, Valignano, Ricci, de Nobili, de Rhodes, ecc.). Ngoài ra, tác
phẩm cũng lưu tâm đến việc tiếp xúc với các tôn giáo cũng như hoạt động đại kết.
[17] Xc. B. DE VAULX, Le Missioni: loro storia. Dalle origini a Benedetto
XV, Paoline 1961. T. OHM, Les
principaux faits de l’histoire des missions, Casterman, Tournai
1961 (nguyên văn tiếng Đức xuất bản năm 1956, Münster).
[18] Xc.
K. S. LATOURETTE, A History
of the Expansion of Christianity, 7 voll., New York 1937-1945 (được
tóm lược thành một cuốn The
Christian Outlook, năm 1948).
[19] Theo
S. Tanzarella, đối với người tín hữu, khó lòng gạt bỏ ý định hộ giáo trong các
cuộc nghiên cứu và giảng dạy lịch sử. Xc S. TANZARELLA, La purificazione della memoria. Il compito della
storia tra oblio e revisionismo, EDB, Bologna 2001, pp. 29-39.
[20] Xc G. MARTINA & U. DOVERE (a cura
di), Il cammino
dell’evangelizzazione. Problemi storiografici (Atti del XII Convegno di studio
dell’Associazione Italiana dei Professori di Storia della Chiesa, Palermo 19-22
settembre 2000), Il Mulino, Bologna 2001; S. TANZARELLA, “Problemi
storiografici dell’evangelizzazione”, in Rassegna di
Teologia 42 (2001)
567-583.
[21] Đối với Dianich, các khuôn mẫu là những
“hình ảnh và khuôn khổ được dùng để thu gọn những thực tại rộng lớn và phức hợp,
ngõ hầu có thể sử dụng để đối phó với những vấn đề chi tiết gói ghém trong đó”:
S. DIANICH, Chiesa in
missione. Per una ecclesiologia dinamica, Paoline, Cinisello
Balsamo 1985, p. 80. Các khuôn mẫu có thể tương ứng với các giai đoạn khác
nhau, nhưng cũng có thể nhiều khuôn mẫu khác nhau cùng hiện diện trong một giai
đoạn. Khái niệm “khuôn mẫu” lấy từ A. DULLES, Models of
the church, Gill and Macmillan, Dublin 1977.
[22] Xc. IBID.,
pp. 81-133.
[23] Theo Bosch,
mô hình là cái khung dùng để quy chiếu vào một thời đại. Xc. D. BOSCH, La trasformazione della missione. Mutamenti di
paradigma in missiologia, Queriniana, Brescia 2000, pp. 257ss.
[24] Xc. S. DIANICH, op. cit., pp. 104-113.
[25] Xc. F. DE LELLIS, Magdaleine di Gesù e le Piccole Sorelle nel mondo
dell’Islam, EMI, Bologna 2006.
[26] G. FILORAMO & D. MENOZZI (a cura
di), Storia del cristianesimo.
L’antichità, Laterza, Roma-Bari 1997.
[27] Xc. P. SINISCALCO, “L’evangelizzazione
dei popoli del Mediterraneo nei primi secoli cristiani”, in G. MARTINA & U.
DOVERE, Il
cammino dell’evangelizzazione. Problemi storiografici, Il Mulino,
Bologna 2001, p. 70.
[28] ”Máu các vị tử đạo là mầm sinh sản
các Kitô hữu” (Apologeticum 50,13).
[29] J. LORTZ, Storia della Chiesa nello sviluppo delle sue idee,
Paoline, Alba 1958, p 36.
[30] Xc. P. SINISCALCO, art. cit., in G. MARTINA e U. DOVERE (a
cura di), op. cit.,
p. 63.
[31] Missione
e propagazione del cristianesimo nei primi tre secoli, p. 276.
[32] V. C. VANZIN, Il fermento del regno, UMdC, Roma 1946,
p. 52.
[33] Xc. S. DIANICH, op. cit., p. 84.
[34] Xc. G. MARTINA, “Evangelizzazione e
inculturazione”, in G. MARTINA e U. DOVERE (a cura di), op. cit., pp. 11-16.
[35] Xc. V. PERI, “L’adesione al
cristianesimo dei popoli germanici e slavi”, in G. MARTINA e U, DOVERE, Il cammino dell’evangelizzazione. Problemi
storiografici, Il Mulino, Bologna 2001, pp. 73-74.
[36] D. BOSCH, op. cit., p. 333.
[37] Xc. D.
BOSCH, op. cit.,
p. 325. Cf. G. CASIRAGHI, Storia e
futuro della missione. La purificazione della memoria, EMI, Bologna
2001, pp. 49-59.
[38] D. BOSCH, op. cit., p. 325.
[39] Cf. G. CASIRAGHI, op. cit., pp. 60ss.
[40] Cf. IBID.,
pp. 65-69.
[41] G.
ROSENKRANZ, Die
christliche Mission. Geschichte und Theologie, Chr. Kaiser Verlag,
München 1977, p. 130.
[42] S. DIANICH, op. cit., pp. 109-110.
[43] Summa
Theologiae II-II, q.10,
a.8.
[44] Xc. M. LEÓN-PORTILLA, A conquista da América Latina vista pelos índios. Relatos astecas, maias e
incas, Vozes, Petrópolis 1987.
[45] G. GUTIÉRREZ, Alla ricerca dei poveri di Gesù Cristo. Il pensiero
di Bartolomé de Las Casas, Queriniana, Brescia 1995. Xc. B. DE LAS
CASAS, Brevissima
relazione dela distruzione delle Indie, ECP. Fiesole 1991.
[46] Được trích dẫn trong: F. C. JOSAPHAT, Contemplação e libertação, Editora
Ática, São Paulo 1995, p. 143.
[47] Xc. A. TRENTO, Il cristianesimo felice. Riduzioni gesuitiche,
Marietti, Genova-Milano 2003.
[48] Xc. G. DI FIORE, “Strategie di
evangelizzazione nell’Oriente asiatico”, in G. MARTINA e UGO DOVERE, Il cammino dell’evangelizzazione. Problemi storiografici,
Il Mulino, Bologna 2001, pp. 97-162.
[49] Xc. S. DELACROIX (dir.), Histoire universelle des Missions Catholiques,
vol. II., Editions de l’Acanthe-Grund, Monaco-Paris 1957, pp. 44-49.
[50] Xc. J. BRODRICK, San Francesco Saverio apostolo delle Indie e del
Giappone (1506-1552), EMI, Bologna 20062.
[51] Xc. A. LUCA, Alessandro Valignano. La missione come dialogo con
i popoli e le culture, EMI, Bologna 2005.
[52] Sự khác biệt trong phương pháp truyền
giáo được P. Lécrivain mô tả như sau: “Các cha Dòng Tên thế kỷ XVII, muốn thâu
nhận tất cả các giá trị nhân bản, và lợi dụng danh tiếng đã có về kiến thức
khoa học, cho nên tìm cách Kitô hóa những gì đang có. Các Dòng khác và các giáo
sĩ giáo phận thì tỏ ra dè dặt hơn, nhạy cảm đối với những nguy cơ sẽ xảy đến
cho Kitô giáo nếu tách ra khỏi văn hóa châu Âu (vì đối với họ, đức tin và văn
hóa là một)” (“Le grandi tappe dell’inculturazione”), in G. LANGEVIN – R. PIRRO
(edd.), Gesù
Cristo e le culture nel mondo e nella storia, Cittadella, Assisi
1993, p. 48.
[53] Xc. G. DI FIORE, “Strategie di
evangelizzazione nell’Oriente asiatico”, in G. MARTINA & UGO DOVERE, Il cammino dell’evangelizzazione. Problemi storiografici,
Il Mulino, Bologna 2001, pp. 139ss.
[54] Compendio
di storia della Sacra Congregazione per l’Evangelizzazione dei Popoli, PUU, Roma
1974, p. 163.
[55] Cf. F. GONZÁLEZ FERNÁNDEZ, “L’attività
missionaria in Africa tra Ottocento e Novecento”, in G. MARTINA & UGO
DOVERE, Il
cammino dell’evangelizzazione. Problemi storiografici, Il Mulino,
Bologna 2001, pp. 244ss.
[56] E. NTAKARUTIMANA, Vers une théologie africane, Editions
Universitaires, Fribourg Suisse 2002.
[57] Xc. E. BIANCHI, La differenza cristiana, Einaudi, Torino
2006.