Vai Trò Của Đức Giêsu Và Chúa Thánh Thần Đối Với Giáo Hội

 

DẪN NHẬP

Hiến chế Lumen Gentium của công đồng Vaticano II cho ta một cái nhìn về nguồn gốc, căn tính của Giáo hội: “Giáo hội phổ quát xuất hiện như một dân tộc được đoàn tụ nhờ sự hợp nhất giữa Chúa Cha, Chúa Con và Thánh Thần[1]. Ba Ngôi Thiên Chúa là cội nguồn mọi sự, là nền tảng xây dựng và thành trì bảo vệ Giáo hội. Qua lăng kính Thiên Chúa Ba Ngôi, chúng ta thấy rõ chỗ đứng độc đáo của Giáo hội trong kế hoạch cứu độ mà Thiên Chúa muốn tỏ hiện cho con người.

Thiên Chúa đã thông đạt cho Giáo hội chân lý vẹn toàn (x. Ga 16, 13), bằng nhiều ân huệ khác nhau theo ân sủng để không ngừng làm tươi trẻ, canh tân và dẫn đưa Giáo hội vững bước trên con đường chứng nhân. Như thế, Giáo hội là nơi kế hoạch Thiên Chúa được diễn tiến, là  nơi “hôi tụ” sứ mạng của Chúa con và Chúa Thánh Thần[2]. Vậy đâu là vai trò của Chúa Giêsu và Chúa Thánh thần trong lòng Giáo hội? Các vai trò này liệu có trùng lặp, lấn cấn hay mâu thuẫn nhau hay không?

Để giải gỡ những vấn nạn trên, chúng ta cùng nhau tìm hiểu những khía cạnh sau:

         I  Vài Nét Chung Về Giáo Hội.

         II  Vai Trò Của Chúa Giêsu Đối Với Giáo Hội.

         III  Vai Trò Của Chúa Thánh Thần Đối Với Giáo Hội.

         IV  Tương Quan Giữa Chúa Giêsu Và Chúa Thánh Thần.

Điều này giúp mỗi người có cái nhìn đúng về Giáo hội, về vai trò của Chúa Giêsu và Chúa Thánh Thần hầu gia tăng lòng mến và không ngừng góp phần xây dựng Giáo hội.

I  Vài Nét Chung Về Giáo Hội

1  Khái Niệm

Giáo hội vốn là một thực tại phức tạp, nên khi nhìn về Giáo hội, chúng thấy có nhiều hướng và gốc nhìn khác nhau.

Theo thánh Roberto Bellarmio: “Giáo hội là một xã hội gồm nhiều người liên kết với nhau qua việc tuyên xưng cùng một đức tin kitô giáo, và qua việc tham dự các bí tích, dưới quyền tài phán của những chủ chăn hợp pháp, nhất là của đức Giáo hoàng, vị đại diện duy nhất tại thế của Đức Kitô[3].

Ủy ban Giáo Lý Đức Tin trực thuộc Hội Đồng Giám Mục Việt Nam đưa ra khái niệm về Giáo hội: “Giáo hội là mầu nhiệm, là bí tích của Đức Giêsu Kitô. Do đó, mầu nhiệm Giáo hội liên kết trực tiếp với mầu nhiệm nhập thể và cứu độ của con Thiên Chúa- Đức Giêsu Kitô[4].

Với Công đồng Vaticanô II thì: “Giáo hội là một xã hội tổ chức theo phẩm thật và nhiệm thể Chúa Kitô, là đoàn thể hữu hình và cộng đoàn thiêng liêng, là Giáo hội tại thế và Giáo hội dư tràn của cải trên trời[5].

Dưới nhãn quan sách Giáo lý của  Hội Thánh Công Giáo: “Giáo hội vừa là con đường, đồng thời vừa là mục đích của kế hoạch của Thiên Chúa: được hình dung trước trong công trình tạo dựng, được chuẩn bị trong Cựu Ước, được thành lập do các lời và hành động của Chúa Giêsu Kitô, được thực hiện nhờ thập giá cứu chuộc và sự phục sinh của Người, Hội thánh được làm tỏ hiện như mầu nhiệm cứu độ qua việc tuôn đổ Chúa Thánh Thần[6].

2  Giáo Hội Được Chúa Giêsu Thiết Lập

Chúa kitô đã thiết lập Giáo hội để tiếp nối sứ mạng loan báo Tin Mừng cho nhân thế. Ngài thiết lập Giáo hội không theo một qui chế mà người đời thường áp dụng, hay chọn những vị cốt cán theo tiêu chuẩn thế gian. Nói cách khác, Ngài thiết lập Giáo hội không dựa trên nền tảng của khả năng con người, nhưng đặt để trên sự quan phòng của Thiên Chúa Cha. Bởi đó, Giáo hội không được cấu thành chỉ bởi một lời, một hành động nào đó, nhưng được đan dệt bởi toàn bộ cuộc sống và chương trình cứu độ của Chúa Giêsu. Đó cũng là ý kiến của Feuillet: “Không phải duy nhất một lời nào hoặc một động từ nào đó của Đức Giêsu đã làm nên hành động sáng lập Giáo hội, nhưng chính là toàn bộ hoạt động cứu độ của Ngài[7]. Ý tưởng này chúng ta cũng gặp nơi Lm. Hoàng Đức Toàn: “Giáo hội không được xây dựng hoặc thiết lập bởi một lời nói hay một hành vi riêng biệt của Đức Kitô. Giáo hội được xây dựng trên toàn thể lịch sử của Thiên Chúa với con người. Giáo hội phát sinh từ động lực toàn thể của cả lịch sử ơn cứu độ[8]. Hai lý chứng trên cũng đồng nghĩa với khẳng định rằng: “Đức Giêsu là nguyên nhân của những cấu tố tạo thành Giáo Hội[9].

Chúa Giêsu đã thiết lập giáo hội trong suốt cuộc sống dương thế của Ngài, nhưng trọng tâm vẫn là mầu nhiệm Vượt qua. Các nhà thần học đưa ra ba giai đoạn quan trọng chung quanh biến cố Vượt qua.

a  Giáo Hội Được Thiết Lập Trong Bửa Tiệc Ly

Nhà chú giải A. Feuillet đã nói về biến cố này như sau: “Như nhiều nhà chú giải từng nhận xét, thiết tưởng phải nhận là trong bửa tiệc ly có một biến cố gì khác hơn là việc đơn thuần thiết lập bí tích; chính thế, trong dịp này Đức Giêsu đã khai sinh một tôn giáo mới và đã thiết lập Giáo hội[10]. Đây là thời điểm quan trọng trong quá trình thiết lập Giáo hội. Bởi vì theo Filipe Gomez, trong bữa tiệc ly, Chúa Giêsu đã lập một giao ước mới, một chức tư tế mới và một bữa tiệc cánh chung[11].

*  Với giao ước mới không phải bằng máu chiên bò, nhưng chính máu của Ngài đổ ra để nhiều người được cứu chuộc (Mt 20, 28; Dt 9, 12). Đây là giao ước vĩnh cữu, giao ước chung quyết nên không cần đến một giao ước nào khác. Qua đó, Đức Giêsu đã thực sự thiết lập Hội thánh của Ngài như một dân mới, dân mà Ngài đã chuộc lấy bằng bữu huyết của mình.

*  Về phần chức tư tế: thư Do thái cho ta biết khi Đức Giêsu cử hành lễ vượt qua mới, Ngài đã tự trao hiến mình làm lễ vật cho nhiều người được tha tội; điều này nói lên chức năng của vị tư tế (x. Dt 9, 14). Nơi lá thư này cũng xác nhận Đức Kitô là Thượng tế duy nhất, chỉ dâng hiến lễ một lần là đủ và vĩnh viễn làm cho kẻ thuộc về mình được ơn cứu độ. Ngài là vị Thượng tế đích thực, biết cảm thương đến nỗi yếu hèn của con người (x. Dt 3, 1- 6, 20).

*  Bữa tiệc cánh chung: Nước Thiên Chúa được so sánh như một bửa tiệc (x. Mt 22, 1- 14). Trong bữa tiệc ly mà Chúa Giêsu đã qui tụ và cùng ăn uống với họ; đây là tâm điểm của cộng đoàn, là trọng tâm của thời gian cứu độ. Bởi vì, Chúa Giêsu đã lập nên Giáo hội, để nơi đó con người được ngồi vào bàn tiệc thân mật với Thiên Chúa, được chung chia sự sống với Người.

b  Giáo Hội Khai Sinh Từ Thập Giá

Công đồng Vaticanô II minh định: “Chính từ  cạnh sườn Chúa Kitô chịu chết trên thập giá, đã phát sinh ra bí tích lạ lùng là Giáo hội[12]. Các giáo phụ và truyền thống Giáo hội thường so sánh Giáo hội như “Eva mới” phát sinh từ “Adam mới” là Đức kitô yên nghĩ trên thập giá. Theo thánh Phaolô, nhờ máu đổ ra trên thập giá, Đức Kitô đã hoà giải và qui tụ mọi người thành một dân duy nhất (x. Cl 3, 28). Dân này đã được Thiên Chúa chuộc lấy để làm cho họ thành một vương quốc, thành những tư tế cho Thiên Chúa (x. Kh 5, 9); đó là “Hội thánh mà Ngài đã mua bằng chính máu của Ngài” (Cv 20, 28). Thật hữu lý khi nói từ trên thập giá, Đức Giêsu làm trung gian ký kết một giao ước mới bằng máu của Ngài; như vậy, Ngài đã thiết lập một Israel mới với một lề luật mới và một cách thức sống mới[13]. Theo quan điểm của cha Hoàng Đức Toàn: “Không thể tách thập giá ra khỏi phục sinh hoặc ra khỏi việc thành lập Giáo hội được[14]. Bởi chưng, từ nơi thập giá là đỉnh điểm của tình yêu cứu độ mà Thiên Chúa muốn trao ban cho nhân loại qua Đức Kitô và Giáo hội của Ngài.

c  Biến Cố Phục Sinh Và Sự Khai Sinh Giáo Hội

Trong thư Êphêsô thánh Phaolô cho ta ý tưởng về sự kiện này: Thiên Chúa đã làm cho Đức Kitô chỗi dậy từ cõi chết, và đặt ngự bên hữu Người trên trời. Người đã tôn Đức Kitô lên trên mọi quyền lực thần thiêng, đặt tất cả dưới chân Người và đặt Người làm đầu toàn thể Hội thánh, là thân thể Đức Kitô (x. Ep 1, 20- 23). Theo lời giải thích của cha Filipe Gomez: Khi Đức Giêsu sống lại, Ngài đã hoàn tất chính mình, tức là trở nên Đấng mà Thiên Chúa đã dự kiến từ đời đời. Ngài đã chiếm hữu hết mọi quyền bình dưới đất cũng như trên trời (x. Mt 28, 18). Ngài đã sát nhập mọi người vào trong Ngài để làm cho họ được sống và sống dồi dào (x. Ga 10, 10)[15].

Từ biến cố phục sinh, Đức Kitô đã chiến thắng sự chết, sự chia rẽ và nối kết tất cả nên một trong tình yêu. Cha Hoàng Đức Toàn trình bày cho ta về điều này: “Nhờ biến cố phục sinh mà nhóm môn đệ phân tán đã được qui tụ lại. Đồng thời, các chứng nhân của sự kiện phục sinh đã lãnh nhận sứ mệnh biến mọi dân nước thành môn đệ của Đức Giêsu và làm phép rửa cho họ (x. Mt 28, 19- 20)[16].

Như đã nói, Giáo hội được khai sinh không bởi một biến cố nào nhưng là toàn bộ con người và cuộc sống của Đức Giêsu. Tuy nhiên, biến cố vượt qua chiếm vị trí chiến lược và nổi bật trong tiến trình hình thành Giáo hội cũng như chương trình cứu độ của Thiên Chúa.

3  Các Đặc Tính Của Giáo Hội

a  Giáo Hội Duy Nhất

Sự duy nhất của Giáo hội không dựa trên phẩm trật và những cố gắng của các thành viên. Trên hết, sự duy nhất của Giáo hội khởi đi từ căn nguyên duy nhất của Thiên Chúa Ba Ngôi, vào Đấng sáng lập, vào Chúa Thánh Thần đang hiện diện, chi phối và hoạt động trong Hội thánh. Sách Giáo lý của Hội thánh Công giáo đã nói: “Căn cứ vào nguồn gốc Hội thánh phải duy nhất: mẫu mực tối cao và nguyên lý của mầu nhiệm này là sự hiệp nhất trong Ba Ngôi cũa một Thiên Chúa duy nhất: Chúa Cha và Chúa Con trong Chúa Thánh Thần[17]. Ngang qua con đường đức tin, chúng ta chân nhận rằng Giáo hội duy nhất, bởi vì Giáo hội tin một Thiên Chúa duy nhất, một Đấng Trung gian duy nhất là Đức Kitô và một Thần khí duy nhất. Trong thư gửi tín Hữu Êphêsô, thánh Phaolô viết: “Anh em hãy duy trì sự hiệp nhất mà Thần khí đem lại bằng cách ăn ở thuận hòa, gắn bó với nhau. Chỉ có một thân thể, một Thần khí... chỉ có một Chúa, một niềm tin, một phép rửa, chỉ có một Thiên Chúa là Cha của mọi người, Đấng ngự trên mọi người và trong mọi người” (Ep 4, 3- 6).

Sách Công vụ Tông đồ cho ta một bức tranh đẹp và sống động về Giáo hội sơ khai: “Các tín hữu chuyên cần nghe các Tông đồ giảng dạy, luôn luôn hiệp nhất với nhau, siêng năng tham dự lễ bẻ bánh và cầu nguyện không ngừng” (Cv 2, 42). Ở đây, sự hiệp nhất là một ân ban của Thiên Chúa. Bởi đó, để mối dây hiệp nhất được vững bền cần có thái độ đáp trả của con người bằng đức tin, được thể hiện nơi việc đón nhận Lời Chúa, các bí tích và việc phục vụ. Đức giáo hoàng Bênêđictô XVI cũng cố cho ta về lý chứng này: “Sự duy nhất của Giáo hội trước hết bởi Lời Chúa và bí tích: Giáo hội là một chỉ vì có một lời duy nhất và một tấm bánh duy nhất[18]. Sự duy nhất của Giáo hội không mang tính cào bằng hay ép vào một khuân thức duy nhất. Sự duy nhất không loại trừ khác biệt, những yếu đuối và tội lỗi nơi các thành viên. Đúng hơn, qua cái bất toàn, khuyết điểm ấy, tình yêu Thiên Chúa đã được biểu lộ cách trọn vẹn (x. 2Cr 13, 9), đồng thời nói lên sự hiệp nhất Giáo hội là một hồng ân tuyệt vời mà Thiên Chúa ban cho Hội thánh. Sự hiệp nhất Giáo hội không dựa trên nền tảng trần thế, nhưng đặt “trong sự hiệp nhất đức tin, trong các bí tích, trong việc phục vụ và các tác vụ ăn rễ sâu trong việc chia sẽ thần khí duy nhất của Đức Giêsu Kitô, được thực hiện trong vô số trao đổi, và trong sự chấp nhận những khác biệt của nhau[19].

Có thể nói, Giáo hội duy nhất trong tình yêu Thiên Chúa là một bằng chứng hùng hồn cho thế giới đang phải đối diện với sự chia rẽ, loại trừ và nghi kỵ nhau. Hơn bao giờ hết, Giáo hội là một dấu chỉ Nước trời tại thế.

b  Giáo Hội Thánh Thiện

Giáo hội thánh thiện không hệ tại ở sự thánh thiện của các thành viên. Giáo hội là thánh vì Giáo hội là của Chúa và cho Chúa. Giáo hội là thánh vì Thiên Chúa là thánh, Đấng yêu thương và giữ gìn Giáo hội cách vô điều kiện[20]. Sách Giáo lý của Hội thánh Công giáo đã tuyên xưng: “Chúng tôi tin Hội thánh... mãi mãi thánh thiện. Thật vậy, Chúa Kitô, Con Thiên Chúa, Đấng cùng với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần được ca tụng là ‘Đấng thánh duy nhất’, đã yêu dấu Hội thánh như hiền thê của mình và đã hiến thân để thánh hóa Hội thánh... Vì thế Hội thánh là ‘dân của Thiên Chúa’ và các thành viên của Hội thánh được gọi là ‘thánh’”[21]. Cùng với ý tưởng trên, nhưng đức Giáo hoàng Bênêđictô XVI hướng chúng ta nhìn về nột gốc cạnh khác: “Sự thánh thiện của Giáo hội hệ tại nơi quyền năng thánh hóa mà Thiên Chúa tác động trong Giáo hội, mặc cho mọi yếu đuối tội lỗi của con người... Chính nhờ Thiên Chúa đã hiến mình và không bao giờ rút lại nên Giáo hội mãi mãi được thánh hóa. Giáo hội là nơi mà sự thánh thiện của Thiên Chúa luôn hiện diện giữa loài người. Quả thật, sự thánh thiện của Chúa hiện diện trong Giáo hội. Đó là một tình yêu thật lạ lùng, vẫn chọn những bàn tay nhơ uế của con người như chiếc bình đựng sự thánh thiện của Người. Sự thánh thiện của Đức Kitô tỏa rạng giữa bóng tối tội lỗi của Giáo hội[22].

Chúa Giêsu đã kêu gọi mỗi người: “Anh em hãy nên hoàn thiện như Cha anh em ở trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt 5, 48). Như vậy, sự thánh thiện không phải là một đặc ân được ban cho một số người được tuyển chọn, nhưng dành cho hết mọi người. Nó là một ân ban, nhưng cũng là một đòi hỏi mỗi người bước tới sự thánh thiện cho dầu còn đó những bất toàn, yếu kém bản thân hay những cám dỗ từ thế gian, bởi vì: “Ý muốn của Thiên Chúa là anh em được nên thánh” (1Tx 4, 3). Công đồng Vaticanô II cũng đã mời gọi con cái mình: “Tất cả các kitô hữu, bất luận theo bậc sống hay địa vị nào đều được kêu gọi tiến tới sự viên mãn của đời sống kitô giáo và đến sự trọn lành của đức ái[23].

Thiên Chúa là nguyên lý của Giáo hội, và Ngài là Đấng thánh ((x. Is 6, 3). Ngài đã chọn và thiết lập cho mình một dân thánh (x. Xh 19, 6; 1Pr 2, 9). Do đó, Giáo hội là “dân mới”, dân thánh, dân riêng của Thiên Chúa, nên sự thánh thiện thuộc về bản chất của Giáo hội, bởi chưng Đức Kitô đã tự hiến mình vì Giáo hội ngõ hầu làm cho Giáo hội nên thánh thiện và tinh tuyền (x. Ep 5, 26).

c  Giáo Hội Công Giáo

Đặc tính công giáo của Giáo hội đặt nền trên Kinh Thánh: chính Thiên Chúa là thực tại bao trùm tất cả, Đấng đã đặt nơi Đức Kitô sự linh thánh viên mãn của Ngài để hòa giải tất cả nhờ Đức Kitô (x. Cl 1, 19- 20) và qui tụ tất cả nơi Ngài (x. Ep 1, 9- 10). Giáo hội là nơi đầy tràn Đức Kitô bởi Thánh thần, là nơi sứ mệnh cứu độ của Thiên Chúa được mạc khải cách phong phú giữa lòng nhân thế (x. Ep 3, 8- 12; Cl 1, 24- 28)[24]. Công đồng Vaticanô II xác tín: “Hội thánh là công giáo vì được Đức Kitô sai đến với toàn thể nhân loại: mọi người được mời gọi gia nhập dân Thiên Chúa. Vì thế, dân mới này, một dân hiệp nhất và duy nhất, có bổn phận phải lan rộng khắp thế giới trải qua mọi thế hệ, hầu hoàn tất kế hoạch của thánh ý Thiên Chúa... Đặc tính phổ quát này, rực sáng trong Dân Thiên Chúa, là một ân huệ do chính Thiên Chúa ban, nhờ đó Hội thánh Công giáo luôn nỗ lực cách hữu hiệu qui tụ toàn thể nhân loại cùng những gì tốt lành nơi họ dưới quyền một thủ lãnh là Chúa Kitô, trong sự hiệp nhất của Chúa Thánh Thần[25].

Giữa cảnh đời nghi kỵ và phân hóa thì tính công giáo của Giáo hội là dấu chỉ của sự hiệp nhất trong đa dạng. Nơi đây không còn chuyện phân biệt chủng tộc, màu da hay ngôn ngữ, nhưng tất cả chỉ là một trong Thiên Chúa, tất cả cùng nói một ngôn ngữ chung: Tình yêu. Nói cách khác, Giáo hội là khung trời tình yêu, nơi có sức nối kết tất cả, vượt lên trên biên giới quốc gia, chủng tộc. Về điểm này, chúng ta cùng nghe đức giáo hoàng Bênêđictô XVI trình bày: “Giáo hội phải là ‘Công Giáo’, nghĩa là, tuy nhiều nhưng vẫn hiệp nhất với nhau cách hữu hình, cụ thể, và như thế mới đáp ứng lại đòi hỏi của lời tuyên xưng trong Kinh Tin Kính. Trong thế giới phân hóa này, Giáo hội cần phải là dấu chỉ và phương tiện cho sự hiệp nhất có sức nối kết tất cả, vượt trên mọi biên giới quốc gia, chủng tộc và giai tầng xã hội[26].

Mặc dầu Giáo hội chưa qui tụ được hết mọi người và có khi thường xuất hiện như một đàn chiên nhỏ bé, Giáo hội vẫn là nền móng của sự hiệp nhất, hy vọng và ơn cứu độ cho toàn thề nhân loại[27]. Giáo hội có khả năng đem cho mọi người chân lý cứu độ và những phương thế để sống các chân lý đó. Như vậy, tính công giáo của Giáo hội luôn hàm chứa một sứ mệnh loan truyền tình yêu cứu độ khắp cùng trái đất (x. Mc 16, 15). Chúng ta cùng nghe cha Hoàng Đức Toàn trình bày ý tưởng này: “Khi nói Giáo hội đích thực là ‘công giáo’ ta hiểu rằng Giáo hội muốn rao giảng đức tin trọn vẹn mà không bỏ sót chi tiết nào và Giáo hội đem ơn cứu độ cho con người toàn diện và cho tất cả loài người; Giáo hội đem cho mọi người chân lý cứu độ và phương thế cần thiết để sống các chân lý đó[28].

Trong chiều hướng này, tính công giáo của Giáo hội là một ân huệ và cũng là một bổn phận. Bởi vì, Giáo hội mang nơi mình lệnh truyền làm chứng Tin Mừng của Đức Kitô cho nhân thế theo dòng lịch sử.

d  Tính Tông Truyền

Các Tin Mừng nhắc lại lệnh truyền của Chúa Giêsu cho các tông đồ về sứ mạng mà Ngài đã nhận lãnh từ Chúa Cha. Người nói: “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất. Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo cho họ tuân giữ mọi điều Thầy truyền cho anh em. Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” ( Mt 28, 18- 20). Trong Tin Mừng Luca, Chúa Giêsu nói lên vai trò tiếp nối sứ mạng tiếp nối của các tông đồ, đến nỗi những ai đón nhận hay khước từ các ông là đón nhận hay khước từ chính Chúa: “Ai nghe anh em là nghe Thầy và ai khước từ anh em là khước từ Thầy. Mà ai khước từ Thầy là khước từ Đấng đã sai Thầy” (Lc 15, 16).

Sách Giáo lý của Hội thánh Công giáo cho ta biết đâu là yếu tố làm nên Hội thánh tông truyền: “Hội thánh tông truyền vì Hội thánh được xây dựng trên những nền móng vững chắc là mười hai tông đồ của Con Chiên; Hội thánh không thể bị hủy diệt; Hội thánh được gìn giữ một cách không thể sai lầm trong chân lý; Đức Kitô điều khiển Hội thánh qua thánh Phêrô và các tông đồ khác, các ngài hiện diện nơi những người kế nhiệm các ngài, là Đức Giáo Hoàng và Giám mục đoàn[29]. Giáo hội là “ngôi nhà” được xây dựng trên viên đá gốc tường là chính Đức Kitô và trên nền móng vững bền các tông đồ. Bởi đó, chỉ là Giáo hội đích thực của Đức Kitô, khi được kiến thiết trên nền móng các tông đồ và luôn trung thành với nguồn gốc tông truyền của mình, cho dầu cảnh đời có đổi thay. Dưới cái nhìn của Ủy ban Thần học Quốc tế thì: “Thánh truyền là một thực tại sống động và tác sinh, một tiến trình liên tục trong đó mang tính duy nhất của đức tin được diễn tả qua nhiều ngôn ngữ khác nhau và trong những nền văn hóa đa dạng. Nhờ Thánh thần trợ giúp, thánh truyền khởi phát từ các tông đồ luôn tiến triển trong Giáo hội... Do đó, khi các thế kỷ cứ qua đi, Giáo hội vẫn luôn tiến lên hướng đến sự viên mãn của chân lý thần linh, cho tới tận cùng khi những lời của Thiên Chúa được thành toàn nơi Giáo hội... Giáo hội trung thành với cội rễ tông truyền, bảo toàn việc thông truyền đức tin, và thúc đẩy việc trình bày cách luôn mới mẻ về Tin Mừng dưới sự hướng dẫn của các chủ chăn là những người kế vị các tông đồ[30].

Như vậy, tính tông truyền của Giáo hội không chỉ dừng lại ở việc trung thành với các bản văn, lời giáo huấn cảu các tông đồ, mà đòi hỏi phải làm sinh động, mới mẽ các lời giáo huấn đó bằng chính đời sống của mình.

Tất nhiên, sự tông truyền của Giáo hội cũng như ba đặc tính khác vừa nêu trên không thể thực hiện được bởi khả năng của con người, nhưng cần đến bàn tay quan phòng và trợ giúp từ Thiên Chúa. Nói cách cụ thể, vai trò của Chúa Giêsu và Chúa Thánh Thần trong Giáo hội là yếu tố vô cùng quan trọng trong tiến trình xây dựng và thúc đẩy Giáo hội ra đi làm chứng cho tình yêu Thiên Chúa.

II  Vai Trò Của Chúa Giêsu Đối Với Giáo Hội

1  Đức Giêsu Là Đầu Của Giáo Hội

Theo quan niệm của Do thái, “đầu” tượng trưng cho quyền bính và uy thế trong gia tộc (x. Xh 4, 16) hay trong chi tộc (x. Ds 30, 2), trong quân đội (x. Tl 11, 8) hay nơi quốc gia (x. Is 8, 7)[31]. 

Là người con của dân tộc được Thiên Chúa tuyển chọn, chắc hẳn thánh Phaolô cũng ảnh hưởng về tư tưởng này. Tuy nhiên, thánh nhân đã nhìn dưới một lăng kính khác, lăng kính của niềm tin vào Đức Kitô. Bởi đó, trong thư Êphêsô, thánh Phaolô xác nhận Đức Kitô là đầu của Hội thánh: “Thiên Chúa đã đặt tất cả dưới chân Đức Kitô và đặt Người làm đầu toàn thể Hội thánh” (Ep 1, 22; Cl 2, 10). Như một thân thể cần có cái đầu để điều khiển các chi thể; cũng vậy, Giáo hội cần một cái “Đầu” để hiệp nhất và hướng dẫn Giáo hội bước đi trên bác ái, sự thật và không lớn lên về mọi phương diện. Như vậy, “Đầu” của Hội thánh không hành động một cách độc đoán cho bằng như một hướng đích giúp Hội thánh không ngừng vươn tới sự viên mãn. Điều này chúng ta gặp nơi ý tưởng của thánh Phaolô: “Sống theo sự thật và trong tình bác ái, chúng ta sẽ lớn lên về mọi phương diện, vươn tới Đức Kitô vì Người là đầu. Chính Ngài làm cho các bộ phận ăn khớp với nhau và toàn thân liên kết cách chặt chẽ, nhờ mọi thứ gân mạch nuôi dưỡng và mỗi chi thể hoạt động theo chức năng của mình. Như thế, Ngài làm cho toàn thân lớn lên và được xây dựng trong tình bác ái” (Ep 4, 15- 16).

Chúng ta thật khó hình dung cuộc đời và sứ mạng Giáo hội sẽ đi về đâu nếu không có một cái “đầu”. Nói khác đi, sự tồn tại và không ngừng lớn lên của Giáo hội được khởi đi từ Đức Kitô, tùy thuộc và tùng phục Người. Bởi chưng, Người là khởi nguyên, là trưỡng tử, là nguyên do cho sự tồn tại và sứ vụ của Giáo hội. Cha Hoàng Đức Toàn thật có lý khi nói: “Dù Giáo hội kết hiệp mật thiết với Đức Kitô, Người vẫn là đầu và là Chúa của Giáo hội, Giáo hội phải tùy thuộc và tùng phục Người. Giáo hội lãnh nhận sự sống từ Đức Kitô và chỉ sống cho Người. Được Đức Kitô dẫn dắt và ban đầy ơn phúc, Giáo hội sống quan hệ tình yêu với Đức Kitô[32].

Trong thư thứ nhất của thánh Phaolô gửi tín hữu Côrintô (1Cr 12, 12- 30) cho ta một bài ca tuyệt đẹp về thân thể mầu nhiệm của Hội thánh. Sống trong cộng đoàn được Thiên Chúa thiết lập, mỗi người luôn cần đến nhau và giúp nhau thăng tiến. Không một “chi thể” nào trong “thân thể” là dư thừa, hay sống độc lập mà không cần đến sự trợ giúp của các yếu tố khác. Trong vòng tay quan phòng của Thiên Chúa, những bộ phận xem ra yếu kém, tầm thường, thì lại cần thiết và được tôn trọng hơn cả (1Cr 12, 22- 23). Sự khác nhau không phải để so sánh hơn kém, cho bằng lo lắng lẫn nhau và hướng tới một đích chung. Do đó, “nếu một bộ phận đau thì mọi bộ phân khác cùng đau. Nếu một bộ phận được vẽ vang thì mọi bộ phận khác cùng vui chung” (1Cr 12, 26). Khi nói chúng ta là thân thể Đức Kitô (x. 1Cr 12, 27), có lẽ thánh Phaolô muốn nói rằng Giáo hội được sinh ra cách vẹn toàn từ Đức Kitô. Chỉ nơi Ngài và trong Ngài, Giáo hội mới đích thực là thân thể của Đức Kitô và minh giải cho sự tồn tại của mình. Chắc hẳn, đó cũng là ý mà Giáo hội muốn trình bày: “Khi so sánh Hội thánh với thân thể con người, chúng ta thấy rõ mối liên hệ mật thiết giữa Hội thánh với Đức Kitô. Hội thánh không chỉ được qui tụ quanh Đức Kitô, nhưng được thống nhất trong Ngài, trong thân thể Người. Trong Hội thánh là thân thể Đức Kitô... các chi thể hiệp nhất với nhau và kết hợp với Đức Kitô; Đức Kitô là đầu của Thân thể[33].

Trải qua biết bao thử thách từ các thế lực bên ngoài và những lỗi phạm của con cái mình, Giáo hội vẫn đứng vững và không ngừng làm chứng cho tình yêu tình yêu tinh tuyền của Thiên Chúa. Điều đó nói lên chính Đức Kitô đang hướng dẫn Giáo hội đi vào quĩ đạo tình yêu và nuôi dưỡng bằng ơn thánh của Người.

2  Đức Kitô- Đấng Trung Gian Duy Nhất

Khi nói đến vai trò trung gian của Đức Kitô, chúng ta nhớ đến ông Môsê trong thời Cựu Ước. Ông là một ngôn sứ vĩ đại, là người đại diện và làm trung gian giữa Thiên Chúa và dân. Trong hành trình tiến vào sa mạc, dân đã kêu trách ông khi không có nước uống, ông Môsê chuyển cầu và Thiên Chúa đã cho vọt ra một dòng nước giữa sa mạc khô cằn (x. Xh 17, 1- 7). Ông đã làm cho nét mặt Đức Chúa dịu lại, không giáng phạt dân như Ngài đã nói khi dân đúc một con bê vàng và thờ lạy chúng (x. Xh 32, 1- 14). Với những khó khăn trong sa mạc, dân đã mất hết kiên nhẫn, họ kêu trách Thiên Chúa và ông Môsê: “Tại sao lại đưa chúng tôi ra khỏi đất Ai Cập, để chúng tôi chết trong sa mạc, một nơi chẳng có bánh ăn, chẳng có nước uống? Chúng tôi đã chán gấy những thứ đồ ăn vô dụng này” (Ds 21, 5). Thiên Chúa đã cho rắn độc đến cắn khiến nhiều người phải chết. Thấy vậy, dân hối hận và xin Môsê khẩn cầu Thiên Chúa cho dân để Ngài đuổi rắn đi xa họ. Ông đã làm như lời họ xin và Thiên Chúa truyền đúc một con rắn đồng treo lên, ai bị rắn cắn mà nhìn lên đó thì sẽ được cứu (x. Ds 21, 6- 9). Qua ông Môsê, Thiên Chúa đã thiết lập một giao ước để nói lên sự trung thành của Ngài cho dầu dân có bất trung, phản loạn (x. Xh 34, 1- 25).

Mặc dầu là một ngôn sứ vĩ đại, đóng vai trò trung gian giữa Thiên Chúa và dân Người, ông Môsê cũng chỉ là hình bóng của một Đấng Trung gian giao ước mới tốt đẹp và hoàn hảo hơn. Thư Do thái viết: “Đức Giêsu là trung gian của giao ước mới tốt đẹp hơn; giao ước này căn cứ vào những lời hứa tốt đẹp hơn” (Dt 8, 6). Giao ước này không phải được thiết lập bằng máu chiên bò, được ghi khắc trên những bia đá, nhưng bằng máu của con một Thiên Chúa, và ghi khắc nơi chính tâm hồn mỗi người. Nó có sức thanh luyện tội lỗi và mang lại cho con người sự sống vĩnh hằng như Thiên Chúa đã hứa ban. Ý hướng này chúng ta cũng gặp nơi thư Do thái: “Người là trung gian của một giao ước mới, lấy cái chết của mình mà chuộc tội lỗi người ta đã phạm trong thời giao ước cũ, và đem lại cho những ai được Thiên Chúa kêu gọi lãnh nhận gia nghiệp vĩnh cữu Thiên Chúa đã hứa” (Dt 9, 15).

Thánh Phaolô nói về vai trò trung gian của Đức Kitô: “Chỉ có một Thiên Chúa, chỉ có một Đấng trung gian giữa Thiên Chúa và loài người: đó là một con người, Đức Kitô Giêsu” (1Tm 2, 5). Như vậy, ngoài Đức Kitô không có một trung gian nào khác có khả năng giúp con người lột bỏ tội lỗi, giao hòa với Thiên Chúa và chung phần vinh phúc cùng Ngài. Qua Đức Kitô, Thiên Chúa đã mạc khải chính Ngài cho nhân thế cách trọn vẹn, cho nên không cần một mạc khải nào khác nữa. Sách Giáo lý của Hội thánh Công giáo cũng cố cho ta lý chứng này: “Thiên Chúa đã tự mạc khải trọn vẹn khi sai chính con Ngài đến trần gian; nơi Chúa Con, Thiên Chúa đã thiết lập giao ước của Ngài đến muôn đời. Con Thiên Chúa là lời tối hậu của Chúa Cha với nhân loại, sau Người, không cần một mạc khải nào khác[34].

Đức Giêsu, Đấng trung gian duy nhất, cũng chính Người đã lập nên Giáo hội, không ngừng bảo vệ, thánh hóa và sai đi. Nơi Giáo hội, chúng ta dễ nhận ra một cộng đoàn thánh thiện, liên kết với nhau trong đức tin, cùng chung chia những cảm thức về đời sống thiêng liêng, những nỗi thăng trầm của kiếp người và cả những ân sủng mà mỗi người đã được nhận lãnh. Công đồng Vaticanô II minh định: “Chúa Kitô, Đấng trung gian duy nhất, đã thiết lập Giáo hội thánh thiện, một cộng đoàn đức tin, cậy và mến, như một cơ cấu hữu hình trên trần gian mà Người không ngừng bảo vệ, qua Giáo hội, Người đổ tràn chân lý và ân sủng xuống cho mọi người[35].

Thư Do thái còn cho ta biết, Đức Giêsu là trung gian biết cảm thương thương đến nỗi yếu hèn con người, vì Ngài cũng đã mang kinh nghiệm người phàm (x. Dt 4, 14- 16). Với vai trò trung gian, Ngài không chỉ là thầy, là ngôn sứ mà còn chính là Lời nhập thể. Ngài đã dâng hy lễ duy nhất trên thập giá để biến mình thành lương thực nuôi dưỡng Giáo hội nơi bàn tiệc Thánh thể (x. 1Cr 11, 23- 26)[36].

3  Trong Đức Giêsu- Giáo Hội Được Viên Mãn

Niềm tin đưa chúng ta tới xác tín rằng: Đức Kitô là sự viên mãn của Thiên Chúa, và Giáo hội là sự viên mãn của Đức Kitô. Đức Kitô vừa là trung gian sáng tạo vừa là cứu cánh của mọi tạo vật, nên tất cả chỉ có thể tồn tại và đạt được cứu cánh của mình trong Ngài. Thánh Phaolô đã nói: “Thiên Chúa đã muốn làm cho tất cả sự viên mãn hiện diện ở nơi Người, cũng như muốn nhờ Người mà làm cho muôn vật được hòa giải với mình” (Cl 1, 19- 20). Nơi Đức Kitô, Thiên Chúa đã cắm lều giữa con người, cùng chia sẽ kiếp sống và cứu độ họ. Nói cách khác, Đức Kitô là Đấng trung gian và cứu cánh mọi phàm nhân, nên tất cả phải nhờ Ngài để thiết lập mối giây giao hòa với Thiên Chúa.

Như vậy, Giáo hội đạt được sự viên mãn khi “đồng nhất” với Đức Kitô, chia sẽ cùng số phận và sứ mệnh. Bởi chưng, “chính Đức Kitô đã yêu thương Hội thánh và hiến mình Hội thánh; như vậy, Người thánh hóa thanh tẩy Hội thánh bằng nước và bằng lời hằng sống, để trước mặt Người, có một Hội thánh xinh đẹp lông lẫy, không tỳ ố, không vết nhăn hoặc bất cứ khuyết điểm nào, nhưng thánh thiện và tinh tuyền” (Ep 25- 27). Mặc dầu trong lòng Giáo hội vẫn còn đó những khuyết điểm, sự khác biệt, nhưng Giáo hội vẫn là một thân thể duy nhất. Bởi vì, các chi thể tuy khác nhau, nhưng được kết hợp với Đức Kitô là “Đầu”. Các chi thể vận hành theo chức năng của mình không phải bởi thân thể, nhưng do sự điều hướng của “Đầu”. Thiếu vắng “Đầu”, các chi thể sẽ mất đi sức sống. Do đó, Giáo hội thật sự được viên mãn trong Đức Kitô khi sống chiều kích qui hướng về Ngài[37]. Giáo hội chỉ được thành toàn trong Đức Kitô. Nhờ Người, Giáo hội Được đầy tràn mọi ân phúc để không ngừng kiện toàn và tiếp tục biểu lộ cho nhân thế tình yêu cứu độ mà chính Thiên Chúa đã trao phó (x. Mc 16, 16).

III  Vai Trò Của Chúa Thánh Thần Đối Với Giáo Hội

1  “Linh Hồn” Của Giáo Hội

Theo thánh Augustine, vai trò của Chúa Thánh thần trong Giáo hội được ví như vai trò của linh hồn trong thể xác. Ngài nói: “Linh hồn của chúng ta đối với các chi thể thế nào, thì Thánh linh cũng như vậy đối với chi thể của Đức Kitô, đối với thân thể của Đức Kitô là Giáo hội[38]. Sở dĩ thánh nhân đưa ra sự đối chiếu này, vì Chúa Thánh Thần là nguyên lý hợp nhất của Giáo hội (x. 1Cr 12, 12- 24; Ep 4, 3- 4), làm cho Giáo hội trở nên sống động và kiện toàn những gì Thiên Chúa đã hứa. Trong lòng Giáo hội, Chúa Thánh Thần khơi nguồn phát sinh mọi đoàn sủng bằng nhiều phương cách khác nhau để giúp mỗi phần tử canh tân và góp phần xây dựng Giáo hội. Sách Giáo lý của Hội thánh Công giáo cho ta biết về đểm này như sau: “Chúa Thánh Thần là nguyên lý của mọi hành động tác sinh và sự thật có giá trị cứu độ trong mỗi phần tử của thân thể. Ngài hoạt động bằng nhiều cách khác nhau để xây dựng toàn thân trong đức mến: bằng Lời Chúa, bằng bí tích Rửa tội, bằng ân sủng, bằng các nhân đức... giúp các tín hữu có khả năng và sẵn sàng đảm nhận các công việc và phận vụ khác nhau, để mưu ích cho việc canh tân, xây dựng và phát triển Hội thánh[39].

Thánh Giacôbê xác tín: “Một thân xác không hơi thở là một xác chết” (Gc 2, 26). Chúng ta cũng có thể nói rằng Giáo hội không có Chúa Thánh Thần thì cũng chẳng khác gì một cái “xác không hồn”, cằn cỗi và hao mòn theo năm tháng; khi ấy, Giáo hội đã mất đi chiều kích siêu việt và cứu cánh của mình. Cha Filipe Gomez cho ta hiểu hơn về quan điểm này: “Một xác không hồn là một thây ma. Giáo hội cũng như mỗi chi thể mà không có Thần khí thì cũng chẳng khác chi những thây ma: chẳng làm gì được, chẳng còn gì về mặt siêu nhiên trong kế hoạch cứu độ[40]. Khi hiểu Giáo hội là một thân thể, thì đương nhiên thân thể này sẽ mất đi khả năng sống nếu không có “Linh hồn”. Kiểu nói loại suy này đưa ta tới xác tín: Chúa Thánh Thần luôn đồng hành cùng Giáo hội, dạy dỗ, thanh luyện và giúp Giáo hội không ngừng làm chứng cho Đức Kitô (x. Ga 15, 26). Nói cách khác, Thiên Chúa cho chúng ta thông dự vào Thánh thần của Người, để chúng ta không ngừng canh tân trong Người (x. Ep 4, 23), được sống một đời sống mới (x. Rm 8, 11) và cho phép chúng ta mạnh dạn đáp lại tình yêu của Ngài bằng chính đời sống của mình[41]. Trong Tông huấn Evangelli Gaudium, đức thánh cha Phanxicô cũng nói lên ý hướng trên: “Ngài gửi Chúa Thánh Thần đến trong tâm hồn chúng ta để làm cho chúng ta thành con cái Ngài, để biến đổi chúng ta và cho phép chúng ta đáp lại tình yêu của Ngài bằng đời sống của mình[42].

Như vậy, Thần khí là nguồn mạch và chuẩn mực của đời sống Giáo hội. Thánh Phaolô kêu gọi: “Nếu chúng ta sống nhờ Thần khí thì cũng hãy nhờ Thần khí mà tiến bước” (Gl 5, 25). Giáo hội không bước đi một mình nhưng luôn có Thần khí cùng đồng hành, hướng dẫn và liên kết những khác biệt thành một thực thể duy nhất và thông chuyển sức năng sinh động cho Giáo hội. Nhờ Chúa Thánh Thần, Giáo hội tiến bước trong tin yêu, phó thác và không ngừng làm chứng tình yêu Thiên Chúa giữa lòng thế giới hôm nay.

2  Thần Khí Sự Thật Trong Giáo Hội

Chúa Giêsu xác quyết với các môn đệ: “Thầy là đường, là sự thật và là sự sống” (Ga 14, 6). Ngài cũng đã cầu nguyện với Chúa Cha cho các môn đệ, để Chúa Cha lấy sự thật mà thánh hiến họ (x. Ga 17- 17- 19). Ngài chân nhận rằng chỉ có sự thật mới có khả năng giữ gìn công đoàn sơ khai khỏi mọi cám dỗ của thế gian. Ngài nói với các môn đệ: “Thầy sẽ xin Chúa Cha, và Người sẽ ban cho anh em một Đấng Bảo Trợ khác đến ở với anh em luôn mãi. Đó là Thần Khí sự thật... Anh em biết Người, vì Người luôn ở giữa và ở trong anh em” (Ga 14, 16- 17). Chúa Giêsu không xin cho các ông được hưởng những vinh quang trần thế, nhưng xin cho họ được lãnh hội và sống theo sự hướng dẫn của sự thật; bởi vì, “chỉ có sự thật mới giải thoát các ông” (Ga 8, 32). Ngài cũng hứa gửi Thần Khí đến để gìn giữ và khai sáng chân lý mạc khải cách trọn vẹn: “Khi nào Thần Khí sự thật đến, Người sẽ dẫn anh em tới sự thật toàn vẹn” (Ga 16, 13).

Có thể nói, tự sức mình sở hữu chân lý cõi đời này là điều khó đạt được; điều đó lại càng không thể đối với chân lý thần linh. Nói vậy, chắc hẳn chúng ta sẽ đặt ra cho mình những vấn nạn: phải chăng ta đành để mình trôi theo sự nổi trôi của dòng đời? Ai là người nắm bắt được chân lý và đâu là phương cách để đạt tới nó? Cha Filipe Gomez cho ta câu giải đáp: “Phương cách hữu hiệu nhất giúp con người nắm bắt được chân lý là trở nên kẻ tìm kiếm chân lý[43]. Chúng ta chỉ thực sự trở nên kẻ tìm kiếm chân lý khi đặt mình dưới sự hướng dẫn của Thần khí Thiên Chúa. Nói cách khác, sống và bước đi trong Thần khí (2Tm 2, 13) giúp mỗi người tìm cho mình một định hướng, một sứ vụ trong lòng Giáo hội và nhân thế. Chúng ta không thể là người tím kiếm chân lý đích thực nếu đi ra ngoài quỷ đạo của Giáo hội; bởi vì Giáo hội là “kho tàng chân lý[44], là cột trụ và điểm tựa của chân lý. Thánh Phaolô cho ta xác tín mạnh mẽ: “Anh em phải biết ăn ở thế nào trong nhà của Thiên Chúa, tức là Hội thánh của Thiên Chúa, cột trụ và điểm tựa của chân lý” (1Tm 3, 15). Khi được Thần Khí hướng dẫn (Rm 8, 11) và được thánh hóa nhờ lòng tin vào chân lý (2Tx 2, 13), chúng ta trở nên con cái Thiên Chúa  và là chi thể trong thân thể mầu nhiệm Hội thánh.

Quả thực, Chúa Thánh Thần luôn đồng hành cùng Giáo hội và mỗi người trong hành trình chứng nhân. Cho nên, nơi đâu Giáo hội hiện diện, ở đó có Thần khí Thiên Chúa và mọi ân sủng của Người. Đàng khác, sự thật mà Chúa Thánh Thần hoạt động trong Giáo hội được lộ rõ qua “cảm thức đức tin” của tín hữu; một đức tin không thể sai lầm. Giáo hội biểu lộ đặc tính này nhờ cảm thức siêu nhiên về đức tin của toàn thể dân Chúa. Công đồng Vaticanô II minh định: “Nhờ cảm thức về đức tin của được Thần khí chân lý khơi dậy và duy trì, dưới sự hướng dẫn và giáo huấn thần linh của Giáo hội mà họ trung thành tuân theo, Dân Thiên Chúa lãnh nhận không còn là lời nói của loài người, nhưng thực sự là lời của Thiên Chúa[45]. Có lẽ, Những gì mà thánh Irênê diễn đạt cũng không nằm ngoài ý hướng này: “Hễ nơi nào Giáo hội có mặt, thì nơi đó có Thần Khí Thiên Chúa hiện diện; và ở đâu Thần Khí Thiên Chúa hiện diện, thì ở đó Giáo hội và ân sủng xuất hiện; tuy nhiên, chính Thần khí mới là chân lý[46].

Như vậy, Thần khí Thiên Chúa luôn kề vai sát cánh, thánh hóa và dẫn đưa Giáo hội tới sự thật toàn vẹn. Nhờ đó, Giáo hội trở nên dấu chứng cho sự thật được khởi đi từ Thiên Chúa, giữa một thế giới mà sự thật đang bị xào xáo bởi sự giả trá và bị lèo lái bởi cuộc sống tranh đua xua nịnh.

3  Thần Khí Kiện Toàn Giáo Hội

Với cái nhìn của công đồng Vaticanô II: ý dịnh Chúa Cha được thực hiện trong Đức Kitô đã thực sự trở nên trọn vẹn khi Chúa Thánh Thần đến. TRong lễ Hiện xuống, Thần khí được đổ tràn trên các tông đồ, giúp họ sống hiệp nhất với nhau nhờ sự hiệp nhất giữa Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Đồng thời, qua biến cố này, Giáo hội nhận lãnh một sứ mệnh rao truyền và thiết lập nước Thiên Chúa nơi mọi dân tộc.

Chúa Thánh Thần ngự giữa Giáo hội như chính đền thờ của Ngài để bảo toàn chân lý, các đặc sũng cũng như không ngừng canh tân, làm tươi trẻ bộ mặt Giáo hội hầu xứng đáng với Phu Quân của mình. Hiến Chế Tín Lý về Giáo hội cho ta thấy rõ điều này: “Chúa Thánh Thần ngự trong Giáo hội và trong tâm hồn người tín hữu như ngự giữa đền thờ... Ngài thông đạt cho Giáo hội toàn thể chân lý. Ngài thống nhất Giáo hội nơi việc kết hợp và phục vụ. Ngài xây dựng và dẫn dắt Giáo hội bằng những ân huệ khác nhau theo phẩm trật và đặt sủng, trang bị cho Giáo hội bằng hoa quả của Ngài. Nhờ sức mạnh Phúc Âm, Ngài làm tươi trẻ, không ngừng canh tân và dẫn đưa Giáo hội đến kết hợp hoàn toàn với Phu Quân của mình[47].

Sách Công vụ Tông đồ đưa ra cho ta một viễn cảnh thật đẹp về Giáo hội sơ khai. Nhờ niềm tin vào Đức Giêsu, nhóm môn đệ của Ngài trở thành một cộng đoàn đặc thù: Họ tin vào Đức Kitô đã chết nay phục sinh, có nghi thức đặc biệt là Phép rửa và lễ nghi Bẻ bánh. Họ chân thành sống theo giáo huấn của các tông đồ, đồng tâm nhất trí, để chung của cải và chuyên cần cầu nguyện với nhau (x. Cv 2, 42- 47; 4, 32- 35; 5, 12- 16). Các cộng đoàn này cho thấy những nét đặc trưng của Giáo hội: Các tông đồ hướng dẫn cộng đoàn, mỗi người sống tương thân tương ái và cùng nhau cầu nguyện. Các tín hữu không còn là một người xa lạ, nhưng là anh chị em của nhau và được gọi là “thánh” (x. CV 9, 13. 32. 41).

Chúng ta chân nhận rằng tự sức mình, Giáo hội không thể làm được những điều vượt quá khả năng con người như vậy. Chỉ có yếu tố siêu nhiên đến từ trên cao mới có khả năng làm cho những khác biệt, những cái “phi lý” được hiệp nhất bền vững và mang lại ý nghĩa. Theo cha Filipe Gomez, đây “là hoa quả của Thánh thần... Có lãnh nhận Thần khí, Giáo hội mới có được nguyên lý hoạt động, nghĩa là nguyên ủy các nhiệm vụ trong đời sống đối nội và đối ngoại[48]. Thần khí hoạt động trong Giáo hội để kiến tạo và “bổ khuyết” những thiếu sót hầu giúp Giáo hội sống xứng đáng là Dân Thiên Chúa, là thân thể nhiệm mầu của Đức Kitô và không ngừng loan giảng Tin Mừng cho muôn người.

IV  Tương Quan Giữa Chúa Giêsu Và Chúa Thánh Thần

1  Đức Kitô- Con Người Của Thần Khí

Sách Cônng Vụ Tông Đồ cho ta biết Đức Giêsu là Đấng được “Thiên Chúa đã dùng Thánh Thần và quyền năng mà xức dầu tấn phong Ngài” (Cv 10, 38). Chính thánh Gioan Tẩy Giả cũng đã làm chứng: “Tôi đã thấy Thần Khí tựa chim bồ câu từ trời xuống và ngự trên Người” (Ga 1, 32). Sự hiện diện này là một sự hiện diện vĩnh cữu, trở nên một dấu ấn riêng của Đức Kitô và không thể tách rời ra khỏi Ngài. Nói theo cách của Fx. Durrwell: “Thần Khí sở dĩ đến là để thực hiện sự có mặt của Đức Giêsu, giữa hai bên có một sợi giây chặt chẽ[49]. Thần Khí ngự trong Đức Kitô mang chiều kích thường hằng: trong lời nói đầy uy quyền, trong các hành động đầy quyền năng được thực hiện qua việc chữa bệnh, xua trừ ma quỉ (x. Lc 14, 20); quyền năng vốn mệnh danh là Thần Khí (x. Mt 12, 28). Với lập luận của J. Guillet thì: “Giữa Đức Kitô và Thần Khí có một cái gì mật thiết với nhau, chung với nhau, một sự chung lưng góp sức từng giờ từng phút[50].

Thánh Phaolô cũng đã triển khai chiều kích thần học giữa Đức Kitô và Thần Khí. Mối tương quan này giúp cho các tín hữu được “công chính hóa bởi Thần Khí nhân danh Đức Giêsu” (1Cr 6, 11). Các tín hữu được hưởng ân huệ của Thần Khí nhờ kết với Đức Kitô: “Trong Ngài... họ được đóng ấn Thần Khí, Đấng Thiên Chúa đã hứa” (Ep 1, 13). Mỗi tín hữu thuộc về thân thể Đức Kitô, nên cũng là đền thờ của Thánh Thần (x. 1Cr 6, 15. 17). Đàng khác, được cư ngụ bởi Thần Khí, họ thuộc về Đức Kitô, bởi vì “Ai không có Thần Khí của Đức Kitô, thì không thuộc về Đức Kitô” (Rm 8, 9). Thánh nhân xác tín chỉ có những ai ở trong Thần Khí mới có thể nói rằng: “Đức Giêsu là Chúa” (1Cr 12, 13).

Tách Đức Kitô ra khỏi Thần Khí là chúng ta đang bóp méo chân lý mạc khải, và có nguy cơ nhìn Đức Kitô như một con người “tầm thường”. Quả thực, chúng ta không hiểu gì về ơn cứu độ, về sự chết và sống lại, về ơn công chính nhờ Đức Kitô, nếu tách Ngài ra khỏi Thần Khí. Đó cũng là lập luận của Fx. Durrwell: “Người ta chẳng biết gì về Đức Kitô, chẳng ngờ được chiều sâu thẳm của Ngài, một khi tách Ngài ra khỏi Thần Khí: Bởi Ngài được thai ghén trong Thần Khí, hoạt động trong Thần Khí, sống lại bởi Thần Khí, và định liệu về Thần Khí. Ai nhận thức ra Thần Khí của Thiên Chúa là Thần Khí Đức Kitô, sẽ thấy Đức Kitô không đơn thuần là một con người[51]. Như vậy, giữa Đức Kitô và Thần Khí có một mối giây ràng buộc chặt chẽ đến độ người ta sẽ không nhận được Thần Khí khi Đức Giêsu chưa được tôn vinh (x. Ga 7, 39).

2  Thần Khí- Chứng Nhân Của Đức Kitô

Thánh sử Gioan cho ta điểm tựa khi nói về Thần Khí là chứng nhân Đức Kitô: “Khi Đấng Bảo Trợ đến, Đấng mà Thầy sẽ sai đến với anh em từ nơi Chúa Cha, Người là Thần Khí sự thật phát xuất từ Chúa Cha, Người sẽ làm chứng về Thầy” (Ga 15, 26).

Trong việc báo trước sai lầm của thế gian khi xét xử Đức Giêsu, vì họ không tin vào Ngài, Đức Giêsu nói đến một Chứng Nhân sẽ làm chứng Đức Giêsu là con Thiên Chúa, và Ngài sẽ chỉ ra sai lầm mà họ đã gán cho Đức Giêsu: “Khi Đấng Bảo Trợ đến, Người sẽ chứng minh rằng thế gian sai lầm về tội lỗi, về sự công chính và việc xét xử” (Ga 16, 8). Sự sai lầm lớn nhất là không nhận ra Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, điều mà Thần Khí đã làm chứng. Thánh Gioan đã nói trong thư của ngài: “Đức Giêsu là Con Thiên Chúa... Chính Thần Khí chứng thực điều đó” (1Ga 5, 5).  Chúng ta cùng nghe A. Jaubert trình bày quan điểm: “Chỉ có một chứng nhân duy nhất: Thánh Thần, Thánh Thần phản bác thế gian ngay trong những lương tâm mà Ngài chuyển hóa. Là trạng sư bênh vực Chúa Giêsu, Ngài chứng minh tội lỗi và dối trá nằm bên phía thế gian, còn Chúa Giêsu thì đã được siêu tôn lên cạnh Chúa Cha và tên lãnh chúa thế gian này đã bị kết án[52].

Thần Khí làm chứng về Đức Kitô bằng nhiều cách thức khác nhau: Ngài tuyên bố cuộc phục sinh qua các tông đồ. Thần Khí nói trong lòng các kẻ tin, nói bằng sự hiện diện của Ngài nơi những tâm hồn thánh thiện; tất cả đem lại một niềm tin vững chắc mà không một thế lực nào có thể đánh đổ được[53]. Có thể nói, Thần Khí đã làm “phong phú hóa” Đức Giêsu nơi những chứng nhân của Ngài. Các tông đồ đã mạnh dạn làm chứng về Đức Kitô, Đấng bị treo trên thập giá là Đức Chúa, Đấng cứu độ (x. Cv 2, 36). Thần Khí cũng không ngừng hoạt động trong các tín hữu sơ khai, giúp họ luôn đồng tâm nhất trí cũng như dẫn đưa họ tới sự thật toàn diện (x. Ga 16, 13).

Thật Vậy, Thần Khí đang làm cho khuôn mặt Đức Kitô được hiện thực nơi chính cuộc sống của con cái mình. Nhờ đó, Ngài cũng làm cho Đức Kitô được vinh hiển giữa lòng nhân thế, để ai nấy đều tuyên nhận Đức Giêsu là Thiên Chúa và là Đấng cứu độ trần gian.

 

KẾT LUẬN

Hoạt động của Thần Khí trong Giáo hội không gì hơn là giúp các tín hữu tháp nhập cách mật thiết với Đức Kitô, cùng chia sẽ cuộc khổ nạn và phục sinh của Người. Nhờ phép rửa, chúng ta được trở nên một thân thể duy nhất và cùng được đầy tràn một Thần khí duy nhất (x. 1Cr 12, 13). Bởi đó, cùng với thánh Phaolô, chúng ta nói lên xác tín: “Ai không có Thần khí, kẻ ấy không thuộc về Đức Kitô” (Rm 8, 9). Như vậy, vai trò của Thần khí trong Giáo hội là qui hướng về Đức Kitô, về sự hiện diện của Ngài nơi Giáo hội và giữa lòng nhân thế. Chúa Giêsu đã thiết lập Giáo hội, và Chúa Thánh Thần làm cho các ân huệ của Đức Kitô được thành toàn và sinh hoa kết quả nơi tâm hồn mỗi tín hữu.

Tuy nhiên, vai trò của Chúa Giêsu và Chúa Thánh Thần không làm cho chúng ta trở nên thụ động, chỉ ngồi chờ “sung rụng”. Vẫn còn đó những khoãng trống cho mỗi người tín hữu góp phần mình. Mặc dầu chân nhận rằng Giáo hội do Đức Kitô thiết lập và được kiện toàn bởi Chúa Thánh Thần, song Giáo hội cũng là của mỗi người và cho mỗi người. Là thành viên trong Giáo hội, chúng ta phải tích cực góp phần mình cộng tác với ân sủng Thiên Chúa để xây dựng, đổi mới và dẫn đưa Giáo hội vững bước trên con đường chứng nhân; bổn phận này dành cho mọi người tín hữu và không có “đặc ân miễn trừ”. Trong lòng Giáo hội, mỗi tín hữu luôn có một chỗ đứng xứng hợp. Bởi đó, không ai tự tách mình ra hay cho mình là người ngoài cuộc, vì tất cả chúng ta là con cái Thiên Chúa, là thành phần Giáo hội và anh em của nhau. Với niềm tin, chúng ta có thể nói được rằng: chúng ta đang cùng với Chúa Giêsu và Chúa Thánh Thần kiện toàn Giáo hội, làm cho Giáo hội sinh động, tươi trẻ và trở nên dấu chứng tình yêu cứu độ của Thiên Chúa giữa lòng nhân thế.

 

                                                                            Montfort Nguyễn Xuân Pháp CT

 

 


Mục Mục về Đức Kytô - simonhoadalat.com



[1] Công Đồng Vaticanô II, Hiến Chế Lumen Gentium, học vien Piô X dịch 1972, số 4.

[2] x. Filipe Gomez, Giáo Hội Học, tr 39.

[3] Sđd, tr 262.

[4] Hội Đồng GMVN- Ủy Ban Giáo Lý Đức Tin, Từ điển Công Giáo- 500 Mục Từ, Nxb: Hà Nội 2011, tr 132.

[5] Công Đồng Vatacanô II, Hiến Chế Lumen Gentium, Học viện Piô X- Đà Lạt năm 1972, số 8

[6] Sách Giáo lý của Hội Thánh Công Giáo, Ủy ban Giáo Lý Đức Tin trực thuộc Hội đồng Giám Mục Việt Nam dịch, Nxb: Hà Nội 2011, số 778.

[7] Trích lại Filipe Gomez, Giáo Hội Học, trang 74.

[8] Hoàng Đức Toàn, Giáo Hội Học- cao đẳng giáo lý, Nxb: Hà Nội, 2009, tr 19.

[9] Filipe Gomez, sđd, tr 74.

[10] Trích lại Filipe Gomez, Sđd tr 105.

[11] Filipe Gomez, Sđd, tr 106- 108.

[12] Công Đồng Vaticanô II, Hiến Chế Phụng Vụ Thánh, Học Viện Piô X dịch 1972, số 5.

[13] X. Filipe Gomez, Sđd, số 111.

[14] Hoàng Đức Toàn, Giáo Hội Học- cao đẳng giáo lý, Nxb: Hà Nội, 2009, tr 18.

[15] x. Filipe Gomez, Giáo Hội Học, tr 111- 112.

[16] Hoàng Đức Toàn, Giáo Hội Học- cao đẳng giáo lý, Nxb: Hà Nội, 2009, tr 18.

[17] Sách Giáo lý của Hội Thánh Công Giáo, Ủy ban Giáo Lý Đức Tin trực thuộc Hội đồng Giám Mục Việt Nam dịch, Nxb: Hà Nội 2011, số 813.

[18] Đức GH Bênêđictô XVI, Đức Tin Công Giáo Hôm Qua Và Hôm Nay, Lm. Athanasio Nguyễn Quốc Lâm và Phạm Hồng Lam dịch, Nxb: Hà Nội 2009, tr 59.

[19] Hoàng Đức Toàn, Sđd, tr 59.

[20] Hoàng Đức Toàn, Sđd, tr 64- 65.

[21] Sách Giáo lý của Hội Thánh Công Giáo, Ủy ban Giáo Lý Đức Tin trực thuộc Hội đồng Giám Mục Việt Nam dịch, Nxb: Hà Nội 2011, số 823.

[22] Đức GH Bênêđictô XVI, Đức Tin Công Giáo Hôm Qua Và Hôm Nay, Lm. Athanasio Nguyễn Quốc Lâm và Phạm Hồng Lam dịch, Nxb: Hà Nội 2009, tr 366- 367.

[23] Công Đồng Vaticanô II, Hiến Chế Lumen Gentium, Học Viện Piô X dịch 1972, số 40.

[24] Hoàng Đức Toàn, Sđd, tr 70.

[25] Công Đồng Vaticanô II, Hiến Chế Lumen Gentium, Học Viện Piô X dịch 1972, số 13.

[26] Đức GH Bênêđictô XVI, Đức Tin Công Giáo Hôm Qua Và Hôm Nay, Lm. Athanasio Nguyễn Quốc Lâm và Phạm Hồng Lam dịch, Nxb: Hà Nội 2009, tr 372.

[27] Công Đồng Vaticanô II, Hiến Chế Lumen Gentium, Học Viện Piô X dịch 1972, số 9.

[28] Hoàng Đức Toàn, Sđd, tr 70.

[29] Sách Giáo lý của Hội Thánh Công Giáo, Ủy ban Giáo Lý Đức Tin trực thuộc Hội đồng Giám Mục Việt Nam dịch, Nxb: Hà Nội 2011, số 869.

[30] Ủy ban Thần Học Quốc Tế, Thần Học Ngày Nay- Viễn Cảnh Nguyên Lý và Tiêu Chuẩn, Ủy ban Giáo lý Đức tin trực thuộc Hội Đồng Giám Mục Việt Nam dịch, năm 2012, số 26.

[31] Filipe Gomez, Giáo Hội Học, tr 206- 207.

[32] Hoàng Đức Toàn, Sđd, tr 49.

[33] Sách Giáo lý của Hội Thánh Công Giáo, Ủy ban Giáo Lý Đức Tin trực thuộc Hội đồng Giám Mục Việt Nam dịch, Nxb: Hà Nội 2011, số 789.

[34] Sđd, số 73.

[35] Công Đồng Vaticanô II, Hiến Chế Lumen Gentium, Học Viện Piô X dịch 1972, số 8.

[36] Filipe Gomez, Giáo Hội Học, tr 181- 182.

[37] Sđd, tr 209.

[38] Trích lại Filipe Gomez, Sđd, tr 212.

[39] Sách Giáo lý của Hội Thánh Công Giáo, Ủy ban Giáo Lý Đức Tin trực thuộc Hội đồng Giám Mục Việt Nam dịch, Nxb: Hà Nội 2011, số 789.

[40] Filipe Gomez, Giáo Hội Học, tr 211.

[41] x. Công Đồng Vaticanô II, Hiến Chế Lumen Gentium, Học Viện Piô X dịch 1972, số 7.

[42] ĐTC Phanxicô, Tông Huấn Evangelli Gaudium ban hành ngày 24/11/2013, Phạm Xuân Khôi dịch, số 112.

[43] Filipe Gomez, Chúa Thánh Thần, An Tôn & Đuốc Sáng 2009, tr 134.

[44] Sđd, tr 134.

[45] Công Đồng Vaticanô II, Hiến Chế Lumen Gentium, Học Viện Piô X dịch 1972, số 12.

[46] Trích lại Filipe Gomez, Chúa Thánh Thần, An Tôn & Đuốc Sáng 2009, tr 135.

[47] Công Đồng Vaticanô II, Hiến Chế Lumen Gentium, Học Viện Piô X dịch 1972, số 4.

[48] Filipe Gomez, Giáo Hội Học, tr 116.

[49] Fx. Durrwell. CSsr, Thánh Thần Thiên Chúa, P. Vũ Văn Thiện dịch, Nxb: Hà Nội 2001, Tr 66.

[50] Trích lại Fx. Durrwell. CSsR, Sđd, tr 65.

[51] Sđd, Tr 68.

[52] A. Jaubert, Thần Khí Trong Tân Ước, Paris 1979, Tr 26 tt.

[53] x. Fx. Durrwell. CSsR, Sđd, tr 111.