PHỤC VỤ
PHỤC VỤ THEO GƯƠNG ÐỨC KITÔ
Ðức Giêsu là Chúa, là Thày và
cũng là Tôi tớ. Ngài đã mặc lấy thân phận tôi đòi như Phaolô nói (Pl 2,7). Ngài
đã lấy sứ mạng của người Tôi Tớ Giavê làm sứ mạng của mình. Ngài sống giữa các
môn đệ như một người tôi tớ phục vụ, và đã đi đến tận cùng các đòi hỏi của tình
yêu thúc đẩy Ngài phục vụ như thế, bằng cách hiến dâng cả mạng sống mình để cứu
chuộc các tội nhân.
Người môn đệ là chúng ta cũng
phải học và biết phục vụ theo gương Chúa, phục vụ Chúa qua việc phục vụ các anh
chị em, bằng chính tinh thần đã thúc đẩy Chúa phục vụ.
Ðó là mấy ý được khai triển
trong bài suy niệm này.
1. "Thày đã nêu gương cho anh em" (Ga
13,15)
Ðó là lời Ðức Giêsu nói với các
Tông đồ, sau khi đã rửa chân cho các ông. Chúa rửa chân là muốn nêu gương cho
các ông, để các ông noi theo đó mà làm cho người khác. Nhưng ý nghĩa đích thực
của mẫu gương này là như thế nào? Ở đây, tác giả Gioan muốn cho ta hiểu rằng có
một mầu nhiệm ẩn giấu trong đó, một mầu nhiệm vượt lên trên cử chỉ hữu hình làm
bên ngoài.
* Khi nói: "Thày đã làm
gương cho anh em", phải chăng Ðức Giêsu muốn dạy ta cũng rửa chân cho các
anh chị em mình, trước khi ngồi vào bàn ăn? (Bây giờ không ai nghĩ đến chuyện
rửa chân trước khi ăn. Chuyện đó xưa rồi. Nhưng rửa tay trước khi ăn thì vẫn
được khuyên làm. Vậy có thể diễn đạt ý trên như sau: Phải chăng Chúa muốn dạy
ta rửa tay cho các anh chị em mình, trước khi ngồi vào bàn ăn?). Hiểu như vậy
thì nông cạn quá. Ai chịu khó đọc Tin Mừng, nghiền ngẫm về Chúa và về lời Chúa,
hẳn phải hiểu Chúa muốn nói gì. Muốn nói rằng: cũng như Ngài "đã thí mạng
vì chúng ta, như vậy cả chúng ta nữa, chúng ta cũng phải thí mạng vì anh
em" (1Ga 3,16).
Gương Chúa đưa ra là ở đó. Bài
học Chúa dạy ta là ở đó. Là thí mạng mình vì anh chị em.
Câu truyện rửa chân có thể làm
chúng ta liên tưởng tới đoạn thư Philipphê nổi tiếng (Pl 2,5tt). Ðoạn này bắt
đầu bằng lời mời gọi: "Anh em hãy có những tâm tình như chính Ðức Kitô
Giêsu". Tiếp đến, Phaolô mô tả Ðức Giêsu, phận là phận một Thiên Chúa,
nhưng đã huỷ mình ra không, mang thân phận tôi đòi. Thì Gioan cũng cho ta thấy
Ðức Giêsu là Con Thiên Chúa, Ðấng được Chúa Cha trao ban mọi sự, Ðấng từ Thiên
Chúa mà đến và sẽ trở về cùng Thiên Chúa (tức cũng có phận là Thiên Chúa). Ðấng
ấy cởi áo mình ra, thắt dây lưng, mặc áo tôi tớ, rửa chân cho các môn đệ. Có
thể nói: điều Phaolô mô tả cách chung chung, thì Gioan vẽ lại bằng những hình
ảnh và cử chỉ cụ thể. Quả thực, cả Phaolô lẫn Gioan đã nói lên, tuy bằng cách
thức khác nhau, một đề tài xuyên suốt các sách Tân ước, đó là: Ðức Giêsu là tôi
tớ của Thiên Chúa và của con người.
Chúng ta còn bắt gặp trong Phúc
Âm Luca một câu hẳn được Ðức Giêsu nói sau lúc rửa chân: "Giữa người ngồi
ăn với kẻ phục vụ, ai lớn hơn ai? Hẳn là người ngồi ăn chứ? Thế mà Thày đây,
Thày sống giữa anh em như một người phục vụ" (Lc 22,27) Theo Luca, Chúa
nói câu này lúc các môn đệ đang tranh luận với nhau xem ai là người lớn nhất
trong nhóm. Chắc hẳn vì các ông tranh luận như vậy mà Chúa rửa chân cho các
ông, để dạy các ông một bài học bằng chính hành động của mình. Các môn đệ thì
muốn làm lớn. Còn Ngài, Ngài lại muốn làm một người rốt hết.
* Rửa chân là một cách thâu tóm
tất cả ý nghĩa cuộc đời của Chúa, nhằm giúp cho các môn đệ ghi khắc tận tâm
khảm ý nghĩa ấy. Lúc bấy giờ, các ông nào có hiểu việc Ngài làm. Nhưng không
sao. Sau này các ông sẽ hiểu. Cử chỉ rửa chân được thực hiện ở phần cuối sách
Phúc Âm giúp chúng ta hiểu rằng tất cả cuộc đời của Chúa, từ đầu đến cuối,
chính là một sự rửa chân, một cuộc đời phục vụ con người. Ðó là một cuộc đời
được hiến ban cho người khác, sống vì hạnh phúc của người khác. Một cuộc đời
trở thành "tấm bánh bẻ ra cho thế giới". Khi dạy ta làm như mình đã
làm, Ðức Giêsu đã coi sự phục vụ như một luật nền tảng, hoặc đúng hơn, một lối sống,
một gương mẫu cho mọi mối tương giao trong Giáo Hội và trong xã hội.
Chúa đã nói với Phêrô là sau này
ông sẽ hiểu việc Ngài làm. Quả thực, sau này Phêrô đã hiểu, các môn đệ đã hiểu,
cả Giáo Hội đã hiểu, và đã không ngừng nói đến phục vụ, cũng như bằng mọi cách muốn
cho các tín hữu sống phục vụ. Khi phác hoạ chân dung một người goá bụa lý
tưởng, để có thể vào hàng các bà goá, Phaolô bảo người đó phải biết "rửa
chân cho các thánh" (1Tm 5,10) ("Thánh" ở đây không có nghĩa như
ta quen hiểu là vị này vị kia được Giáo Hội tôn phong và kính nhớ, nhưng chỉ
tất cả mọi tín hữu, những người được thông phần sự thánh thiện của Thiên Chúa,
được Thiên Chúa tác thánh, làm nên một dân thánh, một đền thánh).
Tất cả giáo huấn của Phaolô về
đặc sủng đều quy về phục vụ, vì nếu ân sủng là dành cho cá nhân, thì đặc sủng
là dành cho cộng đồng. Phục vụ được coi là linh hồn và mục tiêu của đặc sủng.
Theo Phaolô, mọi cách biểu lộ đặc biệt của Thần Khí đều là "vì ích
chung" (1Cr 12,7). Những đặc sủng được ban để các tín hữu "được chuẩn
bị làm công việc phục vụ" (Ep 4,12). Khi khuyên các tín hữu phải có một
thái độ cần thiết trong thời cánh chung, Phêrô bảo: "Ơn riêng Thiên Chúa
đã ban, mỗi người trong anh em phải dùng mà phục vụ kẻ khác" (1Pr 4,10).
Ðặc sủng và phục vụ là hai yếu
tố có mối liên hệ sinh tử với nhau. Ðặc sủng mà không đưa tới phục vụ cũng
giống như nén vàng chôn dưới đất (Mt 25,25), chỉ tổ đem lại án phạt (Mt 25,30),
hoặc giống như một lưỡi cầy han rỉ, vì lâu ngày không được người nông dân sử
dụng.
2. Tinh thần phục vụ
Chúng ta cần đào sâu ý nghĩa của
từ "phục vụ", để nó trở thành hiện thực trong đời ta, chứ không chỉ
là lời nói trên cửa miệng.
* Tự nó, phục vụ không phải là
một nhân đức. Trong bản liệt kê của Phaolô về những nhân đức hay hoa quả của
Thần Khí, chúng ta không thấy nó. Thậm chí Phaolô còn nói đến việc phục vụ cho
tội lỗi (Rm 6,16), cho các ngẫu tượng (1Cr 6,9). Chắc chắn đây không phải là
những việc phục vụ tốt.
Tự nó, phục vụ không tốt cũng
không xấu. Nó nói lên một điều kiện sống là giúp nhau trong các mối tương quan
giữa người này người khác. Nó còn có thể là một hành vi tiêu cực nếu phục vụ vì
sợ hãi, vì ép buộc, hoặc vì những động lực vụ lợi.
Ngày nay, người người đều nói
đến phục vụ. Ai cũng cho rằng mình đang phục vụ. Một người bán hàng, nói thì
nói thách, chặt thì chặt đẹp, cũng cho là mình đang phục vụ khách hàng. Thậm
chí còn gọi khách hàng là Thượng đế nữa! Có thể nói: bất cứ ai có một chức năng
xã hội nào đó đều đang làm công việc phục vụ. Ðương nhiên sự phục vụ theo Tin
Mừng là chuyện hoàn toàn khác, cho dù tự nó, nó không nhất thiết khai trừ hay
hạ giá sự phục vụ mà người đời quen hiểu. Khác nhau là ở những lý do và thái độ
bên trong đưa đến phục vụ.
Chúng ta hãy đọc lại trình thuật
rửa chân, để thấy Chúa làm công việc này với tinh thần nào, và điều gì đã thúc
đẩy Ngài hành động. Gioan viết: "Ðức Giêsu. vẫn yêu thương những kẻ thuộc
về mình còn ở thế gian, và Người yêu thương họ đến cùng" (Ga 13,1). Phục
vụ không phải là một nhân đức, nhưng bắt nguồn từ các nhân đức, nhất là đức
mến. Nó là cách diễn tả cao đẹp nhất của điều răn mới. Cũng Gioan còn nói cho
ta điều ấy trong thư của ngài. Tính cách riêng của phục vụ là yêu không phải
nơi đầu môi chót lưỡi, nhưng là yêu thương cách chân thành và bằng việc làm
(1Ga 3,18).
Còn theo Phaolô, phục vụ là biểu
lộ tình yêu không ích kỷ (1Cr 13,5), không tìm tư lợi, nhưng tìm lợi ích của
người khác, không tìm kiếm mình, nhưng là hiến mình.
Tựu trung, đó là một cách thông
phần và bắt chước hành động của Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là Sự Thiện, tất cả
Sự Thiện, Sự Thiện tuyệt đối, chỉ có thể yêu và làm điều thiện một cách nhưng
không, không vì tư lợi nào.
Bởi vậy, khác với sự phục vụ của
người đời, sự phục vụ theo Tin Mừng không phải là công việc riêng của người
dưới, của người không có gì, nhưng đúng hơn, là công việc của người trên, người
có của, người có địa vị, quyền bính. Về sự phục vụ, thì ai nhận được nhiều hơn,
sẽ bị đòi hỏi nhiều hơn (Lc 12,48). Do đó, khi nói về Giáo Hội, Chúa dạy rằng
kẻ làm đầu, làm thủ lãnh, phải là người phục vụ (Lc 22,26). Người đầu hết phải
là tôi tớ mọi người (Mc 10,44). Cho nên, không phải vô lý mà một tác giả
(Spicq) đã viết: "Việc rửa chân là dấu chỉ quyền bính kitô giáo".
* Ngoài đặc điểm "nhưng
không", sự phục vụ còn diễn tả một đặc điểm khác của tình yêu. Ðó là khiêm
nhường. Khi dạy các môn đệ phải rửa chân cho nhau, Ðức Giêsu muốn nói rằng họ
phải phục vụ nhau trong tinh thần bác ái khiêm nhường. Bác ái và khiêm nhường
cộng lại làm nên sự phục vụ theo Tin Mừng.
Nhưng phải hiểu khiêm nhường cho
đúng. Nhiều người coi sự khiêm nhường như một cách nói về mình, tức là như một
nhân đức của cá nhân mình, trong đó những người khác chỉ có liên hệ gián tiếp
như là yếu tố để giúp xem mình có khiêm nhường không và, nếu có, thì khiêm
nhường ra sao. Sách Gương Chúa Giêsu viết: "Khiêm nhường là mình là sao
thì đánh giá mình là vậy, xem xét mình trong sự hèn mọn của mình, tủi hổ vì các
khiếm khuyết của mình, xác tín mình nhỏ nhất so với mọi người" (II,2;
III,8).
Nếu hiểu khiêm nhường như thế,
thì nó sẽ là nhân đức duy nhất không có nơi Thiên Chúa. Thế nhưng, có nhân đức
nào mà lại không có gương mẫu tối hậu nơi Thiên Chúa? Thiên Chúa đâu có hèn
mọn, cũng chẳng bao giờ nghĩ mình hèn mọn. Ngài không nói về mình với giọng
điệu đó, không nghĩ về mình theo cung cách đó.
Có thể có người sẽ bảo: khiêm
nhường là nhân đức riêng của tạo vật tội lỗi thôi, không mắc mớ gì với Thiên
Chúa hết. Có thật không? Cứ mở sách Phúc Âm mà coi. Ta thấy Ðức Giêsu quả
quyết: "Anh em hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm
nhường" (Mt 11,29). Ðức Giêsu luôn cho mình vô tội, không mắc lỗi nào.
Ngài luôn ý thức mình là Chúa. Ngài đã nói công khai: ở đây còn có người trọng
hơn Salomon, Ðavít, Abraham, Môsê. Dầu vậy, Ngài vẫn dạy các môn đệ học với
Ngài vì Ngài khiêm nhường. Như vậy, chắc hẳn sự khiêm nhường có một giá trị
hoàn toàn khác với điều người ta thường gán cho nó.
Thực ra, trong ý nghĩa cao cả
nhất của nó, khiêm nhường không ở chỗ là hèn mọn, vì người ta có thể hèn mọn
một cách khách quan, và như vậy không phải là nhân đức gì cả. Cũng không ở chỗ
cảm thấy mình hèn mọn, vì có thể thực sự là thế. Sự khiêm nhường đích thực là ở
chỗ làm cho mình thành hèn mọn, nhỏ bé. Theo nghĩa này, nó có nơi Thiên Chúa.
Hơn nữa, chỉ nơi Thiên Chúa, nó mới đạt tới mức độ cao nhất. Thiên Chúa không
phải là Ðấng hèn mọn, không nghĩ mình hèn mọn, nhưng làm cho mình thành hèn mọn
khi hạ cố xuống thế. Và Ngài làm như vậy không phải vì lợi lộc nào cho mình,
nhưng chỉ là để phục vụ, để làm sự lành, vì yêu thương con người.
Khiêm nhường là một nhân đức
tiên vàn là của Thiên Chúa, vì chỉ có Ngài không thể đưa mình lên. Ðâu còn gì ở
trên Ngài nữa mà lên! Ở địa vị Ngài, khi làm một hành vi nào hướng ngoại (ad
extra), thì chỉ có nước đi xuống.
Thánh Phanxicô Assisi đã đưa ra
một trong những định nghĩa đẹp nhất về Thiên Chúa: "Thiên Chúa là sự khiêm
nhường". Tất cả lịch sử cứu độ là lịch sử sự khiêm nhường của Thiên Chúa,
thậm chí lịch sử những hạ mình mà Thiên Chúa phải chịu. Trong một bản văn nói
về Thánh Thể, cũng thánh Phanxicô còn viết: "Anh em hãy xem: mỗi ngày Chúa
hạ mình như khi Ngài từ ngai vàng xuống trong lòng Ðức Trinh Nữ. Hàng ngày,
Ngài đến với ta dưới những hình thái khiêm tốn. Hàng ngày, Ngài từ cung lòng
Chúa Cha xuống trên bàn thờ, trong đôi bàn tay của linh mục".
Thế nên chúng ta hiểu vì sao Ðức
Giêsu có thể nói: Hãy học với tôi, vì tôi có lòng khiêm nhường. Ngài đã làm gì
để chứng tỏ là khiêm nhường? Ðã hạ mình. Kể từ lúc nhập thể thì chỉ có đi
xuống, xuống tới giới hạn cuối cùng như ta thấy, là quỳ gối rửa chân cho các
môn đệ. Rồng đến nhà tôm đã là chuyện khó tưởng tượng, huống hồ ở đây, Ðấng Tạo
Hoá quỳ dưới chân những tạo vật! Cho nên, thánh Bênađô đã tự nhủ với mình:
"Hỡi tro bụi, ngươi hãy xấu hổ vì sự kiêu ngạo của ngươi. Thiên Chúa hạ
mình xuống, còn ngươi, ngươi lại đưa mình lên".
Hiểu như vậy thì khiêm nhường là
một trong những con đường đẹp nhất đưa ta tới chỗ giống với Thiên Chúa, sao
chép hành vi của chính Thiên Chúa.
3. "Hãy đi và làm như thế" (Lc 10,37)
Ðây là lời Ðức Giêsu nói với nhà
luật sĩ, sau khi kể cho ông ta nghe dụ ngôn về người Samari nhân hậu. Còn với
các Tông đồ, khi đã cho các ông hiểu ý nghĩa của việc rửa chân rồi, Chúa nói
với các ông: "Anh em đã biết những điều đó, nếu anh em thực hành, thì thật
phúc cho anh em" (Ga 13,17).
Vấn đề chẳng qua là phải thực
hành. Người ta học hỏi sự phục vụ bằng cách tập phục vụ. Bài suy niệm có kết
quả hay không là tuỳ ta có can đảm rà soát lại đời sống, xem trong các thói
quen, công việc, thời biểu. có thực sự là phục vụ không, và trong sự phục vụ
này có tình yêu và lòng khiêm nhường không.
* Cần nhất là lưu ý điều này:
xem ta có thực sự phục vụ người khác, hay ngược lại, chỉ là cái cớ để phục vụ
mình.
Phục vụ mình là khi phục vụ
không hoàn toàn vô vị lợi, không hẳn là vì người khác, nhưng là muốn cho người
khác thấy mình đang phục vụ, mong cho người khác hiểu là mình đang làm ơn cho
họ. Về điểm này, Ðức Giêsu có những đòi hỏi triệt để: "Ðừng cho tay trái
biết việc tay phải làm" (mt 6,3). Một kiểu nói thật thú vị để diễn tả hành
động ngược với những kẻ giả hình. Chẳng những không tìm cách rao báo cho mọi
người biết, mà còn phải âm thầm khiêm tốn, không khoe khoang, không tự mãn,
không hãnh diện về việc mình làm. Làm cốt để cho người khác thấy, mong được
người khác ca ngợi, thì dù có tỏ ra tất bật với việc phục vụ, việc này cũng chả
còn mấy ý nghĩa. Phải luôn nhớ rằng: "Ðức Kitô đã không chiều theo sở
thích của mình" (Rm 15,3). Ðó là luật vàng của phục vụ.
Muốn phân biệt đâu là lý do thúc
đẩy ta phục vụ, cứ xem những việc phục vụ nào ta hăng hái vui lòng làm, và
những việc nào ta muốn tránh né. Khi được ai nhờ cậy, cứ xem ta có sẵn sàng bỏ
những việc phục vụ đem lại danh giá, để nhận một việc tầm thường ít ai chuộng
không. Việc phục vụ bảo đảm nhất, là việc ta làm mà không ai biết đến, nhưng
chỉ có Thiên Chúa ngự trong nơi bí ẩn thấu suốt mà thôi.
Trong một cộng đoàn, mỗi người
được phân công làm một hay những việc khác nhau, tuỳ theo khả năng riêng và nhu
cầu chung. Có việc xem ra nổi nang hơn. Có việc lại âm thầm hơn. Ðương nhiên là
vậy. Nhưng tất cả đều nhằm lợi ích chung của cộng đoàn, và lợi ích của từng người
cũng bao gồm trong đó. Nếu chỉ chăm chắm vào những việc nổi nang, mà lơ là với
những việc âm thầm, đó là thiếu khiêm nhường, là không có tình bác ái huynh đệ,
không có tinh thần chung. Một cộng đoàn mà không có những con người hy sinh,
bền bỉ trung thành với những công việc nhỏ mọn, ngày này qua ngày khác, thì
cộng đoàn đó khó mà ổn định, trật tự, thăng tiến. Và khó sống nữa.
[ Về điểm này, những người cao
tuổi trong cộng đoàn có thể nêu gương lắm. Nêu gương cho bọn trẻ. Trẻ thì chúng
nó còn khoẻ mạnh, nhi nhô nhí nhố, muốn có những hoạt động phục vụ này nọ cho
ra trò, chứ ba cái chuyện lặt vặt thì có mòi không ưa. Kệ chúng nó. Mà còn phải
hãnh diện nữa là khác khi chúng nó hoạt động được như thế, nếu đó là những hoạt
động phục vụ có ý nghĩa, có ích lợi. Còn đối với người già, các thể hiện sinh
hoạt bên ngoài dường như đã thu liễm cả vào trong. Vả lại, có muốn hoạt động
bên ngoài cũng không được nữa rồi, vì như lời Thánh vịnh nói: "Bệnh mục
xương đã nhập vào mình, và chân đi chẳng còn vững bước". Chưa kể trí khôn
có khi không còn đủ sáng suốt, minh mẫn. Bởi vậy, người già thường thích sống
âm thầm. Thế thì phục vụ trong những công việc âm thầm quả là thích hợp. Dĩ
nhiên là trong trường hợp còn khả năng để làm những công việc đó. Chính Tông
huấn Vita consecrata, số 44, khi khuyên Hội dòng tỏ ra tôn trọng ân cần đối với
những thành viên cao tuổi, thì cũng nhắc nhở những người này thực hiện những
việc phục vụ đại loại như vậy].
Hãy đọc lại Phúc Âm mà coi. Bên
cạnh Chúa, cần có những con người phục vụ âm thầm, nhất là phục vụ vật chất,
thì Chúa mới làm được việc của mình. Không phải vậy sao?
Trước hết là Giuse và Maria, khi
Ðức Giêsu còn sống trong gia đình ở Nagiaret. Ðó là hai con người đã nuôi dưỡng
Chúa, đã dạy dỗ Chúa, đã làm gương cho Chúa. Thời gian lại đâu có vắn vỏi.
Những 30 năm lận! Hai người có được ai nhắc tới không? Kể như không. Ðúng ra,
dân chúng có nhắc, nhưng sự nhắc nhớ của họ không mảy may đem lại danh giá cho
hai người, bởi một người chỉ được gọi bằng danh xưng bác thợ mộc, còn người kia
được biết đến vì đã cho Chúa bú. Dân chúng chỉ biết có thế, vì thực ra Giuse và
Maria đã không ồn ào trong việc phục vụ Chúa.
Rồi trong suốt thời gian Chúa
hoạt động công khai, ngoài nhóm môn đệ luôn theo sát Chúa, còn phải kể đến một
nhóm phụ nữ nữa. Phúc Âm Nhất Lãm có nhắc đến các phụ nữ này. Luca còn nói rõ:
không những họ lấy của cải mình có, để giúp đỡ Ðức Giêsu và các môn đệ Ngài, mà
còn cùng đi với Ngài (Lc 8,2-3). Ði theo Chúa, hẳn không phải để vui vầy. Có
thể theo vì cảm phục và tạ ơn Ngài đã chữa cho lành bệnh. Có thể theo vì muốn
được nghe lời hằng sống. Nhưng chắc chắn là đi theo để phục vụ. Lấy của cải
mình có để giúp đỡ đã là điều tốt, nhưng đi theo để hầu hạ còn là điều tốt hơn.
Cho cái mình có thì ai nấy ít nhiều có thể cho, nhưng cho chính mình, bằng sự
phục vụ của mình, lắm người không sẵn sàng đâu. Các phụ nữ này đã làm cả hai
việc, vừa cho cái mình có, vừa cho chính mình bằng việc phục vụ phái đoàn.
Tuy Phúc Âm không nói rõ, nhưng
chúng ta nghĩ là các bà đảm nhận những chuyện lặt vặt của Chúa và các môn đệ.
Lặt vặt nhưng cần thiết: lo lắng đồ ăn thức uống, may vá cái áo cái quần. Nghề
của các bà mà! Có thế Chúa mới yên tâm làm chuyện lớn. Những việc làm âm thầm
và vô danh của các bà, với tất cả lòng mến, quả đã góp một phần vào hành trình
truyền giáo của Chúa.
Chúng ta hãy học lấy tinh thần
phục vụ đó. Phục vụ cả trong những việc nhỏ mọn, không phô trương, không lấy
tiếng. Ðó thực sự là phục vụ người khác, chứ không phục vụ mình.
* Phục vụ trong yêu thương và
khiêm nhường còn ở chỗ không lấy cớ phục vụ để bắt người khác phục vụ mình.
Ðiều này dễ xẩy ra lắm, nhất là nơi những người lãnh đạo, những người có quyền
hành, những người đứng đầu một công tác nào. Khổ nỗi, thường thường chính đương
sự lại không nhận ra, hay không muốn nhận ra. Nó che giấu một tham vọng thống
trị, một thói quen áp đặt cho người khác ý muốn hành động hay cách thức hành
động của mình. Nói tắt là muốn tỏ uy quyền. Uy quyền trong tay một người như
thế cũng giống như một cái búa. Người đó có khuynh hướng coi mọi vấn đề như là
những cái đinh, chỉ biết lấy búa mà đóng, mà nện.
Tôi ra ví dụ: một người làm công
tác tông đồ, thấy một việc mình cho là hay, một phương pháp mình cho là hợp,
rồi chẳng bàn hỏi với ai, hoặc có hỏi mà chẳng nghe người nào, cứ thế bắt người
khác cùng với mình làm theo đó, cho dù người khác không đồng tình.
Phục vụ trong hoạt động tông đồ,
lại nhiệt thành nữa, là điều tốt chứ đâu có xấu. Nhưng vì cung cách làm như
vậy, người đó thực ra đã vô tình bắt người khác phục vụ mình, chứ không phải
mình phục vụ người khác. Người đó đã không lưu ý đến những đau khổ gây ra cho
người khác, từng cá nhân hay cả cộng đoàn. Thậm chí còn ngạc nhiên không hiểu
sao người khác lại không thích điều mình làm cho họ, không thấy những cố gắng
của mình phục vụ họ. Do đó mà đâm buồn, thấy nản, trách người khác vô ơn, bạc
bẽo. Thực ra, người khác không thấy, không thích cung cách của mình, vì mình đã
phục vụ mà thiếu khiêm tốn, chỉ chiều theo sở thích hoặc theo đầu óc độc đoán
áp chế của mình.
Con người này có thể là chính chúng
ta. Cứ hỏi người khác coi. Nếu họ dám trả lời thẳng thắn, không ngại, không sợ,
họ sẽ cho ta biết sự thật. "Cái gương tốt nhất để ta nhìn thấy ta, là cái
nhìn của kẻ khác về ta" (E. Mounier). Nếu thấy làm cho ai khó sống, khó
chịu vì sự phục vụ không thích hợp của ta, phải biết khiêm tốn kiểm điểm và
điều chỉnh lại sự phục vụ ấy.
* Dầu sao, cũng nên giữ sự tự do
của Tin Mừng. Khi phục vụ, đã đành chúng ta không coi mình hơn người khác,
nhưng không phải lúc nào cũng nhất thiết coi mình dưới người khác. Ðừng tự tôn
mà cũng đừng tự ti. Cứ coi mình như mọi người trong cuộc sống hàng ngày.
"Có những người tỏ ra rất khiêm nhường để đặt mình dưới người khác, nhưng
lại không khiêm nhường để giống như họ" (Manzoni). Một nhận xét thật tinh
tế.
Ðôi khi sự phục vụ tốt nhất
không ở chỗ phục vụ người khác, nhưng để người khác phục vụ mình. Ở đây, nhận
cũng quý như cho, cũng là một cách cho. Bởi vậy, có lúc Ðức Giêsu đã ngồi vào
bàn và để người khác rửa chân cho mình (Lc 7,38). Chúa có để cho các phụ nữ đi
theo hầu hạ mình trong suốt hành trình truyền giáo, cũng là theo ý hướng đó.
Trong thư thứ nhất, thánh Phêrô
đưa ra lời khuyên: "Ai phục vụ thì phục vụ bằng sức mạnh Thiên Chúa
ban" (1Pr 4,11). Chúng ta phục vụ anh chị em không chỉ bằng sức riêng, mà
con bằng sức mạnh Thiên Chúa ban cho ta. Sức mạnh ấy ở đâu? Ở trong tình yêu
của Chúa. Chính Chúa đã phục vụ ta bằng tình yêu từ Trái Tim Ngài.
Nhìn ảnh Thánh Tâm Chúa, ta thấy
Chúa mở Trái Tim Ngài ra, một Trái Tim bừng cháy lửa yêu mến.Và Chúa chỉ ngón
tay vào đó như muốn nói với ta rằng: chính nhờ Trái Tim này mà Ta đã yêu thương
và phục vụ con người.
Xin Chúa ban cho ta sức mạnh tứ
chính Trái Tim ấy, để chúng ta cũng biết phục vụ anh chị em theo gương Chúa,
với lòng yêu thương và khiêm nhường như chính Chúa. (*)
Lm Micae TRẦN ÐÌNH QUẢNG
(*) Lấy ý trong R.Cantalamessa,
LEucharistie notre sanc-tification, Centurion, 1989