HƯỚNG VỀ
ÐỨC KITÔ THÁNH THỂ
HƯỚNG VỀ ÐỨC KITÔ THÁNH THỂ
Yêu ai thì nhớ đến người đó.
Càng yêu càng nhớ, nhớ quay nhớ quắt. Và nếu có dịp để gặp gỡ, càng tranh thủ
để gặp. Người môn đệ yêu Chúa sẽ thường xuyên tưởng nghĩ tới Ngài và muốn gặp
Ngài. Có một cách hiện diện thật đặc biệt của Chúa, để ta có thể dễ dàng tìm
đến và gặp gỡ thân tình, diện đối diện. Ðó là sự hiện diện của Chúa trong Thánh
Thể.
Ðức tin công giáo cho hay: Chúa
hiện diện ở đó là hiện diện thực sự, không phải hiện diện tượng trưng. Cũng
không chỉ hiện diện một khoảnh khắc trong Thánh Lễ, để người ta chịu lấy, nhưng
là hiện diện kéo dài. Thế nên mới có chuyện lưu giữ Thánh Thể trong Nhà Tạm. Ðể
làm gì? Ðể Chúa ở giữa con cái loài người một cách thật cụ thể; Ðể người ta có
thể dùng làm Của Ăn Ðàng; Và để tôn thờ chiêm ngắm nữa. Chính ý nghĩa cuối cùng
này mà chúng ta muốn đặc biệt đề cập ở đây, khi nói về tâm tình của ta hướng
tới Chúa Kitô Thánh Thể.
1. "Hãy làm việc này mà tưởng nhớ đến Thày"
(Lc 22,19)
* Hàng ngày, trong Thánh Lễ, ta
vẫn nghe linh mục chủ tế lặp lại lời trên đây của Chúa Kitô, trong phần truyền
phép trên rượu. Nhớ đến Chúa là một điều quan trọng khi cử hành Thánh Thể đến
nỗi, khác với các tác giả Phúc Âm Nhất Lãm, thánh Phaolô hai lần nhắc lại lệnh
truyền này, trong trình thuật của ngài về việc Chúa lập phép Thánh Thể (1Cr
11,24-25). Không những nhớ đến một cách chung chung, Phaolô còn xác định rõ nội
dung của việc tưởng niệm này như sau: "Cho tới ngày Chúa đến, mỗi lần ăn
Bánh và uống Chén này là anh em loan truyền Chúa đã chịu chết" (1Cr
11,26). Nội dung việc tưởng niệm và lời loan báo chính là cái chết của Chúa.
(Trong câu tung hô sau Truyền phép, Phụng vụ thêm vào một ý nữa: "và tuyên
xưng Chúa đã sống lại". Ðó là hai khía cạnh của Mầu Nhiệm Vượt Qua, mà
Thánh Lễ tưởng niệm và loan báo, vì chính nhờ sự chết và sự sống lại của mình
mà Ðức Kitô hoàn tất công trình cứu độ).
Trong Thánh Thể, việc tưởng niệm
có hai chiều kích, một liên hệ với Chúa, một liên hệ với con người. Vậy có thể
nói: tưởng niệm có một ý nghĩa thần học và một ý nghĩa nhân học.
Theo ý nghĩa thần học, tưởng
niệm là nhắc cho Chúa Cha nhớ đến Ðức Giêsu. Ðó là lời mời gọi ta hướng lên
Chúa Cha, để Người nhớ đến những gì Ðức Giêsu đã làm cho ta. Nhắc nhớ như thế
là nhằm một mục tiêu rõ rệt, tức là: để Chúa Cha, vì yêu Chúa Con, mà tha thứ
tội ta và cho ta được hạnh phúc. Nói khác đi, chúng ta nhắc cho Chúa Cha nhớ
đến Ðức Giêsu, để Chúa Cha nhớ đến ta. (Nhà chú giải J. Jeremias đã cắt nghĩa
lệnh truyền của Ðức Giêsu như sau: "Hãy làm việc này để Chúa Cha nhớ đến
anh em").
Trong Cựu ước, khi gặp thử thách
nặng nề, dân Chúa đã hướng về Giavê mà kêu lên đại khái: Xin Ngài hãy nhớ đến
Abraham tổ phụ chúng tôi. Xin nhớ đến các tôi tớ Ngài là Isaac và Giacóp. Khởi
đầu Thánh vịnh 131/132, tác giả đã thưa lên: "Lạy Chúa, xin Ngài nhớ đến
vua Ðavít, và mọi công lao vất vả của người". Dân cũ đã nại đến những
Abraham, những Ðavít, những người được Thiên Chúa yêu mến, để xin Chúa đừng rút
lại lòng nhân từ của Ngài đối với họ (Ðn 3,5). Còn chúng ta hôm nay là dân của
Giao ước mới, có thể kêu cầu Thiên Chúa theo cách thức hữu hiệu hơn nhiều, vì
chúng ta nại đến chính Con yêu dấu của Thiên Chúa mà thưa với Người: Xin Cha
nhớ đến Con yêu dấu của Cha. Xin Cha đừng quên công nghiệp và hy tế của Con
Cha.
Cái kiểu nhắc nhớ trên đây,
Phụng vụ có làm, và cung cấp cho ta những hình thức rất hay. Những Kinh Nguyện
Thánh Thể trong Thánh Lễ, đặc biệt Kinh Nguyện Thánh Thể IV, chính là những lời
tưởng niệm (anamnèse), một hình thức nhắc nhớ về Ðức Giêsu trước mặt Chúa Cha.
Giáo Hội kể cho Chúa Cha nghe những điều Ðức Giêsu đã nói và làm trong cuộc đời
dương thế: "Người đã nhập thể. đã loan Tin Mừng cứu độ cho người nghèo
khó. đã hiến thân chịu khổ hình. đã sai Chúa Thánh Thần đến với các tín hữu. đã
yêu thương họ đến cùng.".
Thoạt nghe, có thể có người cho
đó là những lời ngây ngô, làm như Chúa Cha không biết gì về những việc Ðức
Giêsu đã thực hiện không bằng. Người đó tự đặt mình vào chỗ Chúa Cha đang nghe
mà nói: "Biết rồi, khổ lắm, nói mãi!" (lời thốt ra thường xuyên của
cụ cố Hồng trong tác phẩm Số Ðỏ của Vũ Trọng Phụng). Thật sự, nếu am tường
đường lối cầu nguyện của Kinh Thánh, ta sẽ thấy đó là lời kinh tuyệt đẹp.
Tính chất thuật truyện còn thấy
trong chính những lời truyền phép. Những lời này không khác một cách kể cho
Chúa Cha nghe điều Ðức Giêsu đã nói, khi Ngài cầm bánh và chén rượu trao cho
các môn đệ trong Bữa Tiệc Ly.
Chỉ sau khi đã nhắc nhớ nhiều về
Ðức Giêsu cho Chúa Cha, chúng ta mới xin Chúa Cha nhớ đến chúng ta, nhớ đến
Giáo Hội và các thành phần trong Giáo Hội.
Ý nghĩa của tưởng niệm liên hệ
với Chúa Cha là thế. Còn liên hệ với chúng ta, tức theo nghĩa nhân học, thì
tưởng niệm là nhắc nhớ về Ðức Giêsu, không phải cho Chúa Cha, nhưng là cho
chúng ta. Hết thảy chúng ta cử hành Thánh Thể đều phải nhớ đến Ðức Giêsu.
Kể từ khi Kinh Nguyện Thánh Thể
hình thành, những lời đầu tiên được linh mục đọc sau truyền phép vẫn là:
"Vì vậy, giờ đây chúng con tưởng nhớ Con Cha đã chịu chết và sống
lại." Có bao giờ chúng ta thực sự hợp ý với những lời này không? Việc tưởng
nhớ Ðức Giêsu, Ðấng đã chết và sống lại vì ta, phải làm cho ta cảm thấy vui
mừng và đầy sức mạnh trong cuộc lữ hành ở trần gian này. Rập theo lời thánh
Bênađô, Phụng vụ trước đây đã ca lên: "Tưởng nhớ Ðức Giêsu thì êm dịu, làm
cho tâm hồn được vui thật".
* Thực sự, tưởng nhớ, hoài niệm
hay ký ức, một khi xuất hiện trong trí, có khả năng khuấy động tất cả thế giới
nội tâm của ta, hướng nó tới đối tượng mà ta nhớ, đặc biệt khi đối tượng này
không phải là một vật hay một sự việc, nhưng là một con người được ta yêu thương.
(Nàng Kiều nhớ chàng Kim thì:
"Ngổn ngang trăm mối bên lòng". Chàng Kim nhớ nàng Kiều thí:
"Nỗi nàng canh cánh bên lòng biếng khuây". Phim "Ở nhà một mình
I" cho thấy một gia đình trong đó người cha người mẹ thật lơ đễnh, cùng
với các con khác đi du lịch mà lại quên bẵng đức con trai út ở nhà. Sự nhớ
nhung và lo lắng đã làm cho hai người, nhất là người mẹ, bồn chồn như thế nào.
Cũng may, thằng bé này khá thông minh, ranh mãnh. Tuy gặp nhiều nguy cơ, nhưng
khéo xoay xở, rốt cuộc mọi việc cũng đâu vào đấy, cho đến khi cả gia đình trở
về. Có những bà mẹ Việt kiều về thăm quê hương, nhưng không mang theo con dại.
Chỉ mấy ngày sau đã ủ ê âu sầu vì nhớ con). Khi tưởng nhớ đên Chúa, các thánh
cũng có một tâm trạng tương tự, tuy một cách thiêng liêng hơn. Tác giả Thánh
vịnh nói: "Con tưởng nhớ Chúa trên giường ngủ, suốt năm canh thầm thĩ với
Ngài" (Tv 62/63,7).
Nơi con người, ký ức là một
trong những cơ năng mầu nhiệm nhất, và cũng gây ấn tượng nhất. Không phải sao?
Thử nghĩ coi: những gì ta đã nghe, đã thấy, đã nghĩ, đã nói, đã làm, từ hồi còn
bé lúc đã có trí khôn, tất cả nằm im chỗ nào trong đầu không rõ, nhưng khi ta
nhớ được và muốn nhắc đến, là chúng hiện ngay lên trong trí, nhanh hơn cả vận
tốc ánh sáng.
Augustinô đã viết những trang
rất hay về ký ức, trong đó có ký ức về Thiên Chúa: "Lạy Thiên Chúa của
con, sức mạnh của ký ức lớn biết chừng nào. Ai có thể chạm tới đáy của nó?...
Từ khi con biết Chúa, Chúa ở trong ký ức của con. Chính ở đó mà con tìm thấy
Chúa, khi con nhớ tới Chúa và khi con vui mừng trong Chúa" (Conf.
X,8.17.24). Thiên Chúa mà các tầng trời không chứa nổi, lại có thể ở ngay trong
ngôi đền ký ức bé nhỏ của con người. Lạ thay!
Ðộng từ "nhớ lại",
theo tiếng la tinh (recordari), có nghĩa là đưa lên lại (re) trong tâm hồn
(cor). Vậy nhớ lại hay tưởng niệm không chỉ là hoạt động của trí khôn, nhưng
còn là hoạt động của ý muốn, của con tim. Nhớ lại là tưởng nghĩ với lòng yêu
mến (dĩ nhiên phải là đối tượng ta yêu mến, và ở đây là Ðức Kitô). Hành vi này
một phần là do nỗ lực của ta, nhưng chủ yếu là do hoạt động của Thánh Thần, như
lời Ðức Giêsu nói với các môn đệ: "Ðấng Bảo Trợ là Thánh Thần Chúa Cha sẽ
sai đến nhân danh Thày, Ðấng đó sẽ dạy anh em mọi điều, và sẽ làm cho anh em
nhớ lại mọi điều Thày đã nói với anh em" (Ga 14,26).
* Dựa vào lệnh truyền của Chúa
"Hãy làm việc này mà tưởng nhớ đến Thày", được Phụng vụ không ngừng
lặp lại, các Giáo phụ đã đề ra cả một linh đạo Thánh Thể rất phong phú. Theo
các ngài, hiệu quả thiêng liêng của Thánh Thể là giúp cho người ta không ngừng
nhớ đến Ðức Giêsu. Trung thành nhớ đến Chúa thì Thiên Chúa sẽ đến ở trong linh
hồn ta, biến ta thành đền thờ của Người. Thánh Basiliô cho biết, khi lập phép
Thánh Thể, Chúa muốn cho ta "khi ăn Thịt và uống Máu Ngài, ta luôn nhớ tới
Ngài là Ðấng đã chết và sống lại vì ta". Nhớ, và miệt mài suy niệm các mầu
nhiệm này, để tâm hồn có thể đam mê chúng. Ký ức của ta về Chúa phải làm cho
con đường của Chúa trở thành con đường của ta, thấm nhiễm tư tưởng của ta. Ðiều
này tuy khó, nhưng không phải là không thể thực hiện, ngay cả cho những kitô
hữu sống giữa đời.
Ðể cho việc nhớ tới Chúa được dễ
dàng hơn, ít nhất trong bước đầu, chúng ta hãy tập, chẳng hạn, thường xuyên kêu
cầu danh Chúa, lặp lại trong trí hoặc lắp bắp trên môi. Một việc rất đơn sơ dễ
dàng, ai làm cũng được. Một phương thế bình thường, tưởng không có gì đặc biệt,
thực ra lại đem đến cho ta những hiệu quả bất ngờ.
Nói thế có quá chăng? Không đâu.
Vì danh Ðức Giêsu mà chúng ta nại đến, không chỉ là một danh xưng thuần tuý,
một cái tên để gọi như ai nấy đều có. Nó chứa đựng mầu nhiệm của con người Ðức
Kitô và quyền năng của Ngài. Trước danh xưng đó, "muôn vật phải bái
quỳ" (Pl 2,10). Thế thì khi thành tâm kêu cầu Danh đó, chúng ta phải có
tâm tình tôn phục đã đành, mà con người cũ của ta cũng phải "khúm núm quy hàng".
Quyền năng của danh xưng này sẽ giúp ta cắt đứt những tư tưởng kiêu căng, tự
mãn, giận ghét, những ý nghĩ không trong sạch. Ngược lại, nó khơi dậy nơi ta
những tư tưởng và hành vi tốt, dần dần làm cho ta thủ đắc "những tâm tình
của chính Ðức Kitô Giêsu" (Pl 2,5), nghĩ theo cách của Thiên Chúa chứ
không theo cách của loài người (Mt 16,23).
2. "Hãy đến cùng tôi." (Mt 11,28)
* Kêu cầu Danh Ðức Giêsu là
mộtcách giúp ta nhớ tới Chúa, hướng về Ngài. Thế nhưng có một hình thức khác, ý
nghĩa hơn, hiệu quả hơn, đó là đến với Chúa tại nơi Ngài hiện diện một cách đặc
biệt. Nói rõ hơn, là Thánh Thể tại Nhà Tạm. Trước Nhà Tạm, không những ta như
trực diện với Chúa, mà còn có điều kiện hơn để suy niệm về Ngài và chiêm ngắm
Ngài.
Chắc chắn ta có thể tưởng nhớ và
chiêm ngắm Chúa ngay trong nhà tạm là tâm trí ta. Về điều này, ta có một mẫu
gương tuyệt vời là Ðức Maria. Ðức Maria chiêm ngắm Ngôi Lời nhập thể ngay trong
lòng mình, Hơn thế nữa, như Augustinô nói, Người còn cưu mang Ngôi Lời trong
trí trước khi cưu mang Ngôi Lời trong thân xác (Prius concepit mente quam
corpore). Nghĩa là tâm trí đã hướng về Chúa trước rồi. Sau khi nhập thể, Ðức
Giêsu không chỉ cư ngụ trong thân xác Ðức Mẹ, mà còn chi phối tất cả tâm trí
Người, trong mọi tư tưởng và tình yêu của Người. Thế nên cái nhìn của Ðức Mẹ
không hướng ngoại cho bằng hướng nội, nhìn vào chính cung lòng của mình, vì tất
ca kho tàng của mình là ở đó. Một sự tưởng nhớ và chiêm ngắm Chúa như vậy thật
đáng cho ta bắt chước, khi ta tưởng nhớ và chiêm ngắm Chúa ngự trong ta, cách
riêngsau khi rước lễ.
Tuy vậy, chiêm ngắm Chúa hiện
diện trong Nhà Tạm, mặt đối mặt, ở một nơi yên tĩnh và như đã chan hoà sự hiện
diện của Ngài, còn đem lại cho ta nhiều ích lợi hơn. (Người tu sĩ sống đời sống
cộng đồng dễ có điều kiện này, vì thường ra trong mỗi nhà, dù nhỏ, vẫn có Nhà
Tạm lưu giữ Thánh Thể).
Chính Ðức Kitô cũng mời gọi:
"Hãy đến cùng tôi.". Ðó là lời mời gọi chung chung đến với Chúa. Ðó
còn là lời mời gọi đặc biệt đến với Thánh Thể. Chúa sẽ ban cho ta một điều đáng
mong ước như lời Ngài hứa: "Tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng".
* Trong bài này, chúng ta không
bàn về việc đến với Chúa trong Thánh Lễ, một đề tài đáng để ta suy niệm lắm, mà
chỉ giới hạn trong những hình thức khác liên hệ đến việc tôn sùng Thánh Thể.
Trong Tông thư về mầu nhiệm và việc tôn sùng Thánh Thể (24/2/1980), Ðức Gioan
Phaolô II có nói (đại ý): Việc tôn thờ Ðức Kitô trong bí tích tình yêu này phải
được diễn tả bằng những hình thức khác nhau: cầu nguyện riêng trước Thánh Thể,
cầu nguyện chung, Chầu Phép Lành. Huy động và đào sâu việc tôn sùng Thánh Thể
là bằng chứng cho thấy sự canh tân chính thực mà Công đồng đã coi là mục đích.
Những việc đó là tâm điểm của sự canh tân này. Ðức Giêsu chờ đợi ta trong bí
tích tình yêu này. Ðừng tính toán thời giờ đi gặp gỡ, tôn thờ và chiêm niệm
Ngài.
Nhắc lại những lời khuyến cáo
trên đây không phải là chuyện thừa, cho dù chúng là những nguyên tắc rất thông
thường trong đời sống thiêng liêng.
Phải nhận rằng việc tôn sùng
truyền thống dành cho Thánh Thể ít nhiều bị quên lãng. Lý do? Có thể nhận ra
không khó lắm. Một khía cạnh được làm nổi bật dễ làm lu mờ một khía cạnh khác.
Trong nỗ lực canh tân Phụng vụ, người ta chú trọng lãnh vực cộng đoàn và dấu
chỉ phụng vụ, hơn là những việc đạo đức thuần tuý, dù làm chung hay làm riêng,
ngay cả những việc đạo đức liên hệ với Thánh Thể. Nhấn mạnh hành động phụng vụ
và bí tích là điều phải lẽ, nhưng từ đó lơ là với việc tôn sùng Thánh Thể thì
lại là điều tai hại.
Ngoài ra, rập theo lời kêu gọi
của Công đồng, người ta dấn thân vào xã hội, hướng tới người nghèo, mà lắm khi
quên đi cái là "tột đỉnh quy hướng mọi hoạt động. và nguồn mạch tuôn trào
mọi năng lực của Giáo Hội" (PV 10). Cái tột đỉnh đó, cái nguồn mạch đó,
chính là Phụng vụ, đặc biệt là Thánh Thể. Hoạt động ly tâm trên đây cần được
quân bình hoá bằng hoạt động hướng tâm, hướng về Thánh Thể là trọng tâm của đời
sống kitô giáo.
Qua bao nhiêu thế kỷ trong suốt
dòng lịch sử Giáo Hội, đặc biệt mấy trăm năm trở lại đây, không một vị thánh
nào mà đời sống lại không ghi đậm ảnh hưởng của Thánh Thể. Một Gioan Maria
Vianey bận bịu tối ngày với công việc mục vụ, vẫn có thể dành nhiều thời gian
quỳ trước Nhà Tạm.
Quả thực, đúng như Công đồng
nói, việc tôn sùng Thánh Thể đã là nguồn mạch làm phát sinh những năng lực
thiêng liêng lớn lao. Nếu đạo Tin Lành nhấn mạnh lời Chúa, Chính Thống giáo tôn
sùng ảnh thánh (icône), thì nét riêng của Giáo Hội Công giáo là Chúa Kitô Thánh
Thể, tôn sùng sự hiện diện của Chúa trong Thánh Thể. Ðây là ân huệ đặc biệt
Chúa dành cho chúng ta. Phải phát huy tối đa giá trị của nó.
Ðương nhiên có một vài hình thức
tôn sùng trước đây, nay cần xét lại. Hoàn cảnh bây giờ khác xưa. Ngay cả cách
thực hành lắm khi đã làm méo mó ý nghĩa của chúng. Một ví dụ: việc kiệu Thánh
Thể qua các làng mạc và đường phố. Không những nó đụng chạm nhiều chuyện của xã
hội mà còn, thay vì biểu dương danh Chúa, có khi lại biểu dương tâm trạng hãnh
tiến (triomphalisme).
Cũng may, có thể nói là hiện giờ
Chúa Thánh Thần thúc đẩy Giáo Hội lập lại hoặc khuyến khích một số hình thức
tôn sùng Thánh Thể. Lập lại, nhưng đồng thời cũng thanh tẩy chúng, khoác cho
chúng bộ mặt mới, dựa vào Kinh Thánh và Phụng vụ. Ở nhiều nơi, người ta cũng
thấy tái hiện nhu cầu sâu xa này: nhu cầu tôn sùng Thánh Thể, nhu cầu ở bên
chân Thày như Maria người Bêtania (Lc 10,39). Quả thực, Thân Thể Ðức Kitô là
Giáo Hội chỉ có thể phát triển và sống chung quanh Thân Thể đích thực là Thánh
Thể (MK 26). Ðiều xẩy ra cho cả thân thể thế nào, cũng xẩy ra cho từng chi thể
thế ấy.
* Trước Thánh Thể Chúa, trong
thinh lặng và bình an, ta cảm thấy tình yêu của Ngài dành cho ta, tình bạn của
một Thiên Chúa nhờ Thánh Thể mà cụ thể hoá việc thường xuyên thăm viếng dân
mình. Ta cảm thấy những ước muốn của Ngài đối với ta. Trên Thập giá, qua tiếng
kêu "Tôi khát" (Ga 19,28), lòng Chúa Giêsu khao khát thực hiện ý muốn
của Thiên Chúa, hoàn tất công trình Chúa Cha đã trao phó. Khát vọng của Chúa
đối với ta cũng là muốn cho ta thi hành thánh ý Thiên Chúa, cộng tác vào công
trình cứu độ này. Ta từ bỏ những dự phóng của ta, nhường chỗ cho những dự phóng
của Thiên Chúa. Ánh sáng và sức mạnh của Thiên Chúa dần dần thấm nhập vào tâm
hồn ta, làm cho nó sống và tăng trưởng.
Có một cái gì đó xẩy ra tương tự
như những cây cành khi mùa xuân tới, với chất diệp lục tố. Lá xanh trổ ra từ
các cành, hấp thụ những yếu tố từ bầu khí quyển. Dưới tác động của ánh sáng mặt
trời, những yếu tố này biến đổi thành nhựa nuôi cây. Không có lá xanh thì cây
không phát triển, không thể sinh hoa kết trái, không góp phần vào việc tái tạo
chất ôxy mà chính chúng ta cần để thở. Những lá xanh này là biểu tượng cho
những tâm hồn tôn sùng Thánh Thể, hướng tới Mặt Trời Công Chính là Ðức Kitô,
hấp thụ những yếu tố tốt là Thánh Thần, để sinh ích cho cả cây lớn là Giáo Hội.
Nói như Phaolô, "Tất cả
chúng ta, không màn che mặt, chúng ta phản chiếu vinh quang của Chúa như một
bức gương; như vậy, chúng ta được biến đổi nên giống cũng một hình ảnh đó, ngày
càng trở nên rực rỡ hơn, như do bởi tác động của Chúa là Thần Khí" (2Cr
3,18). Ta được chiêm ngắm vinh quang của Thiên Chúa rạng ngời trên Chúa Kitô
Thánh Thể, để rồi chiếu toả vinh quang đó ra, và ngày càng trở nên rực rỡ.
3. "Tôi nhìn Chúa và Ngài nhìn tôi"
Chúng ta vừa nói đến chiêm ngắm
Chúa Kitô Thánh Thể. Nhưng chiêm niệm Thánh Thể thực sự là gì? Tự nó, đây là
một ân huệ tạo ra sự tiếp xúc giữa hai tâm hồn, giữa ta với Chúa Kitô Thánh
Thể, và qua Ngài mà lên tới Chúa Cha, trong Chúa Thánh Thần. Tất cả đều diễn ra
trong thinh lặng hoàn toàn, cả bên ngoài lẫn bên trong. Ðối với chiêm niệm,
thinh lặng là người bảo vệ, như Giuse thinh lặng bảo vệ Ðức Maria chiêm niệm.
Chiêm niệm là nhìn thẳng bằng
trực giác vào thực tại Thiên Chúa. Thực tại này có thể là chính Thiên Chúa, có
thể là một trong các thuộc tính của Ngài, có thể là một mầu nhiệm của cuộc đời
Ðức Kitô. Không chỉ nhìn mà còn vui hưởng sự hiện diện của Chúa nữa. Khi suy
gẫm, ta dành ưu tiên cho việc tìm kiếm chân lý. Khi chiêm niệm, ta vui hưởng
chân lý đã tìm thấy, tức Thiên Chúa. Chiêm niệm luôn hướng về cả con người, về
toàn bộ chứ không phải từng phần.
Thánh Bonaventura định nghĩa:
"Chiêm niệm là cái nhìn âu yếm hướng tới Thiên Chúa". Nhưng đúng nhất
có lẽ là câu nói, không phải của một nhà thông thái nào, nhưng là của một nông
dân ở họ đạo Ars. Ông ngồi thinh lặng hàng giờ trong nhà thờ, mắt đăm đăm nhìn
lên Nhà Tạm. Cha thánh Gioan Maria Vianey lấy làm thắc mắc, hỏi xem ông đã làm
gì trong thời gian lâu như vậy. Ông đáp gọn: "Tôi nhìn Chúa và Ngài nhìn
tôi".
Câu trả lời xác định rõ điều
này: cái nhìn của ta không bao giờ hướng tới hư vô. Nó có đối tượng rõ rệt. Ðối
tượng là Chúa. Nhưng chưa hết. Còn chuyện khác nữa. Nó cho biết thêm một khía
cạnh lẽ ra là hiển nhiên, nhưng thực tế ít ai để ý. Khía cạnh này là Chúa nhìn
ta. Chiêm niệm kitô giáo không bao giờ chỉ có một chiều độc nhất. Nó luôn là sự
trao đổi hai chiều. Luôn có hai cái nhìn gặp gỡ nhau: ta nhìn Chúa và Chúa nhìn
ta. Nếu có giây phút nào đó ta hướng tới đối tượng khác, thì Chúa vẫn nhìn ta.
Chiêm niệm Thánh Thể đôi khi chỉ
là thuần tuý hiện diện trước mặt Chúa, để Chúa nhìn ta, vui mừng được nhìn thấy
ta. Vì sao? Vì tuy là tạo vật tội lỗi, ta vẫn là hoa quả của công trình cứu
chuộc Ngài đã thực hiện. Vì sao nữa? Vì ta là người Ngài yêu thương và hiến
thân cho.
Niềm vui của Chúa được gặp ta,
trộm nghĩ, là điều cần nhấn mạnh. Không một người chiêm niệm nào lại chiêm niệm
mình, nhưng cũng rất nhiều người nghĩ đến mình khi chiêm niệm. Thành ra, có
những lúc cảm thấy khô khan, hay chia trí, hoặc không cảm nghiệm được lợi ích
của chiêm niệm trong đời sống thiêng liêng, ta dễ có nguy cơ bỏ cuộc. Hãy nghĩ
đến Chúa. Hãy làm cho Chúa được hạnh phúc vì gặp ta. Hãy biết nói như Charles
de Foucauld: "Lạy Chúa, hạnh phúc của Chúa là đủ cho con!". Từ đời
đời, Chúa hằng sẵn sàng làm cho ta được hạnh phúc. Còn ta, để làm cho Chúa hạnh
phúc, ta chỉ có một khoảng thời gian nào đó. Ðừng nhẫn tâm làm mất đi cơ hội.
Khi ta dành thời giờ chiêm ngắm
Chúa Kitô Thánh Thể, ta thực hiện lời tiên tri đã được nên trọn trên Thập giá:
"Họ sẽ nhìn lên Ðấng mà họ đã đâm thâu" (Ga 19,37). Hơn nữa, một sự
chiêm niệm như thế, tự nó, cũng là một lời tiên tri, mà chúng ta có thể thực
hiện trong Giáo Hội. Theo nghĩa nào? Theo nghĩa này: ngày tận thế, Chiên Con sẽ
không còn bị sát tế. Không còn truyền phép. Không còn hiệp lễ. Không còn ăn
Mình và uống Máu Chúa. Cái còn lại và còn mãi, là việc chiêm niệm Chiên Con bị
sát tế vì ta.
Ðó là điều các thánh đang làm
trên trời. Ðó là kho tàng quý báu các ngài đang chiếm hữu. Vậy ở trước Nhà Tạm,
chúng ta đã làm thành một với các thần thánh. Chỉ khác một điều: đối với các
ngài. chiêm niệm là hưởng kiến, diện đối diện; đối với chúng ta, chiêm niệm
được thực hiện trong đức tin.
Nhớ tới người yêu, mặt mũi lòng
dạ ta có biến chuyển. Gặp gỡ người yêu, biến chuyển còn mạnh hơn, lộ rõ hơn.
Người nào nhớ tới Chúa, nhất là gặp gỡ Chúa, cũng vậy. Sách Xuất hành kể: Khi
Môsê xuống núi sau cuộc hội kiến với Thiên Chúa, mặt ông sáng lên (Xh 34,29).
Sáng, vì ánh vinh quang của Thiên Chúa còn đọng lại nơi ông. Biết đâu khi gặp
Chúa Kitô Thánh Thể rồi, ta trở lại với các anh chị em, và họ cũng nhìn thấy ta
thay da đổi thịt, mặt mũi ta bừng lên ánh sáng của Thiên Chúa. Có thể ta không
thấy điều đó, như Môsê ngày xưa cũng đã không biết hình dạng thay đổi của mình.
Như thế càng tốt.Và đó là món quà quý nhất mà ta có thể dành cho người khác.
(*)
Lm Micae TRẦN ÐÌNH QUẢNG
(*) Lấy ý trong R.Cantalamessa,
LEucharistie notre sanc-
tification, Centurion, 1989