HƯỚNG VỀ ÐỨC MARIA
MẸ CÁC MÔN ÐỆ CHÚA
Nói đến con, không thể không
nghĩ đến mẹ. Chúng ta đã có nhiều suy nghĩ về người con là Ðức Giêsu, thì suy
nghĩ lúc này của chúng ta là hướng về Ðức Maria, Mẹ Ngài. Ðức Maria là Mẹ Chúa,
đồng thời cũng là Mẹ chúng ta. Ðàng khác, Người còn là môn đệ của Chúa.
Augustinô viết: "Ðối với Ðức Maria, so với việc làm Mẹ Ðức Kitô thì việc
làm môn đệ Ðức Kitô là điều đáng yêu thích hơn nữa. Ðức Maria sung sướng hạnh
phúc, vì trước khi sinh hạ con mình, Người đã được mang vị Thày trong lòng
dạ". Trong Thông điệp Mẹ Ðấng Cứu Thế, số 20, Ðức Gioan Phaolô II cũng
viết: "Tuy là Mẹ, Ðức Maria, theo một nghĩa nào đó, trở thành người môn đệ
đầu tiên của Con mình". Thế nên, dù trong tư cách là Mẹ, Người có thể giúp
ta suy nghĩ và sống sâu sắc hơn vai trò của một người môn đệ Chúa.
Ðức Maria làm Mẹ chúng ta thế
nào? Chúng ta làm con của Người ra sao? Ðó là mấy điểm vắn tắt được khai triển
trong bài suy niệm này.
1. "Thưa Bà, đây là con của Bà" (Ga
19,26)
* Ðây là lời trối của Ðức Giêsu trên
Thánh giá, gửi gắm Gioan cho Ðức Mẹ. Sự hiện diện ở đây và lúc này của Ðức Mẹ
thật có ý nghĩa. Nó cho thấy Ðức Mẹ, dù không được các Phúc Âm đề cập nhiều
lắm, vẫn có mặt ở những thời điểm then chốt trong công cuộc cứu thế của Ðức
Giêsu. Mẹ có mặt trong biến cố Nhập thể. Ðương nhiên rồi, vì Chúa nhập thể
trong lòng Mẹ. Mẹ có mặt lúc Chúa bắt đầu cuộc đời công khai, khởi sự tỏ vinh
quang của Ngài (Cana). Hôm nay, Người hiện diện dưới chân Thập giá. Mai kia,
Người còn hiện diện cùng với các môn đệ trong nhà Tiệc ly, chờ đợi Chúa Thánh
Thần xuống.
Riêng về cảnh Ðức Mẹ đứng dưới
chân Thập giá, chỉ có một Phúc Âm Gioan ghi lại. Theo các tác giả Phúc Âm Nhất
Lãm, có những phụ nữ theo Chúa lên đồi Canvê, nhưng đứng xa xa mà nhìn. Không
thấy kể tên Ðức Mẹ (Mt 27,55; Mc 15,40; Lc 23,49). Riêng Gioan thì nêu đích
danh Người, và cho biết Người đứng gần Thập giá. Sự kiện này chắc chắn có thật,
như lời viết trong sách của ông rằng: lời chứng của ông là xác thực (Ga 21,24).
Gioan lại là người trong cuộc, cùng đứng dưới chân Thập giá, tất phải biết rõ.
Ðiều Gioan ghi nhận, nó quan
trọng như thế, sao các tác giả Phúc Âm Nhất Lãm lại ơ hờ mà bỏ qua? Không ơ hờ
đâu. Hẳn là có dụng ý. Nếu để ý, ta thấy các phụ nữ đứng ở đồi Canvê cũng chính
là những phụ nữ sẽ chứng kiến cảnh mai táng Chúa, và cũng là những người sẽ đến
mộ từ sáng sớm. Có thể ngờ rằng, vì họ là những chứng nhân đầu tiên của sự Phục
sinh, nên cũng phải là những chứng nhân về cái chết của Chúa và việc an táng
Ngài. Các tác giả kể tên họ ở đồi Canvê, vì sẽ kể tên họ vào sáng Phục sinh.
Thế thôi. Sở dĩ Ðức Mẹ không được nói đến, vì không thể đảm nhận vai trò làm
chứng Chúa sống lại (Mẹ đâu có thể làm chứng về con. Có làm chứng cũng chẳng ma
nào tin!).
* Dù sao, Ðức Mẹ cũng đã đứng
gần Thập giá, và nhận được lời trối của Chúa. Lời trối này có ý nghĩa gì?
Trước tiên, nó có một ý nghĩa
trực tiếp và cụ thể, tưởng không nên bỏ qua. Dựa vào ý nghĩa này, ta có thể
khám phá ra một khía cạnh trong hành trình thiêng liêng của Ðức Mẹ. Ðức Mẹ là
hình ảnh của một người kiều cư trên trần gian. Người để cho Thiên Chúa đặt định
mọi sự. Trong biến cố Nhập thể, khi Ðức Mẹ còn ở trong hoàn cảnh đơn chiếc,
Thiên Chúa đã yêu cầu Giuse đón nhận Người về nhà mình cho có đôi (Mt 1,20).
Giờ đây, cũng trong hoàn cảnh đơn chiếc, lúc Người sắp mất người Con yêu dấu,
Thiên Chúa lại yêu cầu Gioan đem Người về nhà mình. Từ đầu đến cuối, Maria chỉ
là người nương tựa vào Thiên Chúa, để Thiên Chúa quyết định về cuộc đời của
mình. Chúng ta có dám để Thiên Chúa hành động như thế trên cuộc đời chúng ta
chăng?
Tuy nhiên, vượt lên trên ý nghĩa
trực tiếp và riêng tư này, lời trối của Chúa còn có một ý nghĩa sâu xa khác: ý
nghĩa thuộc bình diện cứu độ, bình diện ân sủng, bình diện phổ quát.
"Ðây là con của Bà",
"Ðây là Mẹ của con", những câu này trình bầy một cấu trúc thường thấy
trong các bản văn của Gioan về việc mạc khải. Khi thấy Ðức Giêsu đi ngang qua,
Gioan Tẩy Giả đã nói với các đồ đệ: "Ðây là Chiên Thiên Chúa" (Ga
1,35-36). Một công thức minh xác sứ vụ của Ðức Giêsu. Còn Ðức Giêsu, khi thấy
Natanael đến với mình, thì nói: "Ðây đích thật là một người Israel, lòng
dạ không có gì gian dối" (Ga 1,47). Lại cũng là một cách minh xác con
người của một môn đệ mới. Tác giả Gioan đã dùng những công thức như vậy để
trình bầy ơn gọi và địa vị của một người, trong ý định của Thiên Chúa. Lời trối
của Chúa hôm nay, liên hệ đến Ðức Mẹ và Gioan, cũng có một ý nghĩa tương tự.
Chúa đã gọi Mẹ mình bằng
"Bà". Có lần nào Chúa đã sử dụng ngôn từ như thế đối với Mẹ Ngài
không? Có đấy. Chính là ở tiệc cưới Cana, khi Ðức Mẹ cho Chúa biết nhà đám hết
rượu. Tiếng đó có liên hệ với Giờ của Chúa. Lúc ấy, Giờ này chưa đến. Còn lúc
này, trên đồi Canvê, nó được thực hiện. Ðây cũng là Giờ Chúa chỉ định cho Mẹ
mình một vai trò trong công cuộc cứu thế. Giống như ở tiệc cưới Cana, Chúa
không nói theo tư cách một người con, nhưng trước hết theo tư cách một người
chủ Nước Trời, chỉ định cho Ðức Mẹ vai trò mới ấy.
Hình ảnh Ðức Mẹ dưới chân Thập
giá, với lời trối của Chúa, có thể đưa suy nghĩ của ta ngược trở lại thuở hồng
hoang, thời Sáng thế. Trong vườn Ðịa Ðàng, Evà đứng bên cây trái cấm, chào thua
trước cám dỗ của con rắn, khiến cho cả loài người đi vào con đường vô phúc (St
3,1tt). Trên đồi Canvê, Ðức Mẹ cũng đứng gần một cây, nhưng là cây Thập giá.
Trên cây đó không phải là con rắn hay Satan cám dỗ, nhưng là Ðức Kitô bị treo
lên, mà con rắn đồng của Môsê xưa biểu thị (Ds 21,49). Ngài đang làm công việc
cứu thế, kéo mọi người lên cùng Thiên Chúa (Ga 12,31-32). Ðức Mẹ cộng khổ với
Con, cũng là cộng tác đưa loài người trở lại con đường ân phúc.
Từ thuở tạo dựng mà đi suốt tới
thời kỳ cuối cùng, ta còn thấy lời của Chúa có liên hệ với người đàn bà sinh
con nói trong sách Khải huyền, chương 12. Thực ra, đúng hơn, lời của Chúa gợi
nhắc điều Ngài đã từng nói: "Khi sinh con, người đàn bà lo buồn, vì đến
giờ của mình" (Ga 16,21). Chính lời này ám chỉ những gì sách Khải huyền
nói về người đàn bà. Người đàn bà đang trong cơn đau sinh con, trước tiên là
chính Giáo Hội sinh ra những người con mới. Nhưng nếu Ðức Mẹ là khuôn mẫu và
hình bóng của Giáo Hội (GH 63), thì người đàn bà đó cũng ám chỉ về Ðức Mẹ. Dưới
chân Thập giá, bằng niềm tin và đau khổ của mình, Ðức Mẹ sinh ra các con cái
của Giáo Hội.
Vậy khi Ðức Giêsu trối Gioan cho
Ðức Mẹ và Ðức Mẹ cho Gioan, thì ý nghĩa phổ quát của lời trối này là gì? Ðó là:
Người môn đệ ở đây không chỉ là Gioan, nhưng là người môn đệ trong tư cách là
môn đệ Ðức Giêsu. Thực tế là mọi môn đệ. Ðức Giêsu trong cơn hấp hối trao họ
cho Ðức Mẹ, để họ nên con của Người, và trao Ðức Mẹ cho họ, để Người nên Mẹ của
họ.
Như vậy, lời trối một trật cũng
là lời chỉ định cho Ðức Mẹ một sứ mệnh mới để thi hành, sứ mệnh làm Mẹ các môn
đệ Chúa. Dưới chân Thập giá, một nữ tử Sion là Maria mất người Con một, thì lại
được Thiên Chúa ban cho vô số con cái mới, không theo xác thịt, nhưng theo Thần
Khí.
Trong Thánh vịnh 86/87, ta đọc
được những câu: "Kìa xứ Philitinh, thành Tia cùng xứ Cút, tại đó kẻ này
người nọ sinh ra. Nhưng nói về Sion, thiên hạ bảo: người người sinh tại
đó". Phải, dòng dõi cũ của Evà sinh ra ở những miền đâu khác. Chỉ riêng ở
Sion, ở đồi Canvê, một dòng dõi mới đã được Evà mới là Ðức Mẹ sinh ra. Tất cả
chúng ta đều đã được sinh ra tại đó.
Thế, phải chăng chúng ta không
"được tái sinh nhờ lời Thiên Chúa hằng sống và tồn tại mãi mãi" (1Pr
1,23)? Không phải chúng ta được sinh ra " do bởi Thiên Chúa" (Ga
1,13) hay sao? Chắc chắn là thế. Chính Ðức Kitô, trong mầu nhiệm Tử Nạn, đã
sinh ra chúng ta. Chúng ta là con cái Thiên Chúa. Nhưng Ðức Mẹ, nhờ kết hợp với
sự đau khổ của Ðức Kitô, cũng sinh ra chúng ta theo một nghĩa khác, nghĩa tuỳ
thuộc và dụng cụ. Ðức Mẹ là dụng cụ để Thiên Chúa sinh chúng ta. Việc Ðức Mẹ
sinh chúng ta tuỳ thuộc việc Thiên Chúa sinh chúng ta. Tất cả hoàn toàn là do
ân sủng và ý muốn của Thiên Chúa.
Những lời sau đây của Phaolô có
thể minh giải thêm điều chúng ta vừa nói. Phaolô viết cho các tín hữu của mình
thế này: "Trong Ðức Kitô Giêsu, nhờ Tin Mừng, chính tôi đã sinh ra anh
em" (1Cr 4,15), hoặc: "Hỡi anh em, những người con bé nhỏ của tôi, mà
tôi phải quặn đau sinh ra một lần nữa" (Gl 4,19). Phaolô còn nói như vậy,
thì nghĩ sao về Ðức Mẹ. Nếu không phải Phaolô, mà là chính Ðức Mẹ nói ra những
lời đó, càng phải đúng hơn. Ðức Mẹ đã sinh chúng ta lần đầu. Lúc nào? Chính là
lúc Người sinh Ðức Kitô. Người sinh Ðức Kitô cũng là sinh chúng ta, vì chúng ta
được tái sinh trong Ðức Kitô, để trở thành phần thân thể của Ngài. Bây giờ,
Người sinh chúng ta lần nữa dưới chân Thập giá. Khác chăng là lần sinh này
không phải trong vui mừng, nhưng trong nỗi quặn đau.
* Người ta có thể thắc mắc: Sao
Chúa không nói trắng ra sứ mệnh phổ quát của Ðức Mẹ, sứ mệnh làm Mẹ các tín
hữu, mà lại chỉ định Người làm Mẹ Gioan thôi? Chắc phải có một chủ ý. Có thể
nghĩ rằng Chúa muốn cho thấy rõ khía cạnh cá nhân của tình yêu nơi Ðức Mẹ. Tuy
là Mẹ chung của mọi người, nhưng tình yêu của Người không phải là một tình mẹ
chung chung dành cho các con. Không có thứ tình mẹ nào chung chung hết. Nó là
tình yêu dành cho từng đứa con một. Ðức Mẹ yêu Gioan thế nào, thì cũng yêu từng
môn đệ Chúa thế ấy. Mỗi môn đệ sẽ nhận được từ Ðức Mẹ tất cả tình thương đặc
biệt mà người ta có thể nhận được từ một người mẹ.
Có thể kiểm chứng điều này ngay
trong mối liên hệ mẹ con nơi các gia đình. Có người mẹ nào lại không yêu con?
Nhưng còn hơn thế nữa, tình yêu này là dành cho từng đứa con, con lớn cũng như
con bé ("Con yêu con ghét": đúng ra là thương con này hơn con kia
thôi). Dù mẹ có "quen dạ đẻ cách năm đôi" (Trần Tế Xương) mà đông con
đi nữa, từng đứa con vẫn được mẹ lưu tâm cách riêng, tuỳ theo điều kiện cụ thể
của chúng. Liên hệ mẹ con phải là liên hệ cá nhân.
Nói về các chiên của mình, Ðức
Giêsu bảo: "Tôi biết chiên của tôi, và chiên của tôi biết tôi" (Ga
10,14). Theo một nghĩa nào đó, liên hệ giữa Ðức Mẹ và các môn đệ Chúa cũng thế.
Mẹ biết và yêu thương từng người.
* Ðây quả là một vinh dự và diễm
phúc cho ta. Chúng ta có một người mẹ biết và yêu thương các con cái của mình.
Biết, không chỉ là một kiến thức, như khi nghe nói về người này người nọ mà ta
bảo rằng có biết người đó. Ðây là một sự biết vào sâu, một sự hiệp thông giữa
hai người. Do sự hiệp thông này, Ðức Mẹ biết rõ những nhu cầu và ưu tư khắc
khoải của ta. Tất cả đều mong đợi một sự đáp ứng từ phía Mẹ. Và quả thực chúng
ta được đáp ứng.
Một chỉ dẫn trong Phúc Âm cho
thấy sự đáp ứng này. Ðó là hành vi can thiệp của Ðức Mẹ tại tiệc cưới Cana. Hành
vi này có ý nghĩa như sự can thiệp của một người mẹ, khi thánh Gioan (chỉ mình
Gioan ghi lại câu truyện) muốn đối chiếu trình thuật này với cảnh Ðức Mẹ trên
đồi Canvê, nơi Người được trao sứ mệnh làm Mẹ các môn đệ.
Thấy tiệc cưới hết rượu, Ðức Mẹ
nói với Chúa: "Họ hết rượu rồi" (Ga 2,3). Thông tin cho Chúa chăng?
Không hẳn chỉ có thế, nhưng chính là một lời thỉnh nguyện kín đáo. Khi hai bà
chị của Lazarô nhờ người đi nói với Chúa: "Thưa Thày, người Thày thương
mến đang đau nặng" (Ga 11,3), thì không phải chỉ là báo cáo suông về cơn
bệnh của Lazarô, nhưng hàm ý xin Chúa đến chữa. Ở Cana cũng vậy. Ðức Mẹ mong
đợi Chúa làm một điều gì đó, để chủ nhà khỏi hổ thẹn và thực khách khỏi cụt
hứng. Một lợi ích vật chất, một điều thừa thãi hơn là một sự cần thiết, một
niềm vui thế tục, cả khi người ta chưa ngỏ ý, còn được Ðức Mẹ lưu tâm đáp ứng,
huống hồ là những nhu cầu thực sự và hữu ích cho đời sống thiêng liêng của con
người.
Ðức Mẹ đáp ứng vì yêu thương
chúng ta. Thực ra, tình yêu này chỉ là nối dài tới các chi thể tình yêu mà
Người đã dành cho Ðầu, cũng là Con yêu dấu của Người, tức Ðức Giêsu. Tình yêu
cao cả nhất, thể hiện trong hành vi cao cả nhất, là ban cho ta Ðức Giêsu, nguồn
ơn cứu độ. Trước đây, ngày thụ thai, Người đã đem Chúa đến trong thế gian. Từ nay,
Người tiếp tục đưa Chúa đến với ta và đưa ta đến với Chúa, giúp ta nhìn lên
Ðấng bị đâm thâu, để hưởng ơn cứu độ chảy ra từ cạnh sườn Chúa. Người còn lôi
kéo ơn Thánh Thần xuống cho ta, như Người đã hiệp công trong việc tuôn đổ Thánh
Thần vào dịp lễ Ngũ Tuần. Trước sau, Ðức Mẹ vẫn là người ban Ðức Giêsu cho ta,
nhớ quyền năng của Thánh Thần.
Tóm tắt mối liên hệ giữa Ðức Mẹ
và chúng ta, Công đồng Vaticanô II viết: "Sau khi về trời, vai trò của
Người trong việc cứu độ không chấm dứt, nhưng Người vẫn tiếp tục liên lỉ cầu
bầu, để đem lại cho chúng ta những ân huệ giúp chúng ta được phần rỗi đời đời.
Với tình từ mẫu, Người chăm sóc những anh em của Con Người đang lữ hành trên
dương thế, và đang gặp bao nguy hiểm thử thách, cho đến khi họ đạt tới hạnh
phúc quê trời" (GH 62). Công đồng cũng không ngần ngại lặp lại những tước
hiệu mà các tín hữu xưa nay vẫn nại đến khi kêu cầu cùng Mẹ: Trạng sư, Ðấng Bảo
Trợ, Ðấng Phù Hộ, Ðấng Trung Gian (Tuy nhiên, Công đồng cũng lưu ý phải hiểu
các tước hiệu này thế nào để không xúc phạm vai trò của Ðức Kitô là Ðấng Trung
Gian duy nhất).
Cả con người của Ðức Mẹ lẫn vai
trò của Người là Mẹ chúng ta quả là một sáng kiến vĩ đại của Thiên Chúa. Sáng
kiến này không làm tổn hại tí nào vinh quang và lòng nhân hậu của Thiên Chúa.
Ngược lại, qua Ðức Mẹ, vinh quang và lòng nhân hậu này lại được biểu lộ dưới
một bộ mặt dường như thân quen hơn, gần gũi hơn, lôi cuốn hơn. Qua mẹ thì dễ
đến với cha. Ấy là thói thường. Cũng vậy, nhiều người nhờ Mẹ Maria để dễ đến
với Chúa.
2. "Người môn đệ rước bà về nhà mình" (Ga
19,27)
Trở lại với cảnh trên đồi Canvê.
Sau khi trối Gioan cho Ðức Mẹ, Chúa tiếp tục trối Ðức Mẹ cho Gioan.
Ðúng ra, Chúa chẳng cần trối
thêm lời này. Câu Ngài nói với Ðức Mẹ đã quá đủ. Ðủ hiểu cho Ðức Mẹ cũng như đủ
hiểu cho Gioan. Tình mẫu tử thiêng liêng đã được thiết lập. Người môn đệ phải
nhận ngay Ðức Maria làm mẹ. Lời của Thày, ai nào dám trái?
Thế nhưng, Chúa không muốn lời
trối liên hệ đến hai người mà lại chỉ nói với một người, không muốn tình mẫu tử
vừa thiết lập bị coi như một lệnh truyền bó buộc. Ngài muốn cả Gioan nữa cũng
trực tiếp nghe một lời trối riêng. Nghe và đáp ứng. Ðáp ứng bằng cách tỏ lòng
hiếu thảo thật sự với Mẹ mình, trong tình yêu mến.
* Từ đầu đến giờ, chúng ta vẫn
gọi người môn đệ nhận lời trối là Gioan. Gọi thế là do suy nghĩ của người sau,
chứ trong bản văn, tác giả chỉ nói trống: "môn đệ được Chúa yêu mến".
Gioan khiêm nhường nên giấu tên, gây khó khăn một chút cho người đọc là phải
mày mò xác định danh tánh. Nhưng ở một khía cạnh khác, việc giấu tên lại là một
điều hay, lại được việc. Nghĩa là: ông như vượt lên trên một con người cụ thể,
để trở thành một môn đệ tiêu biểu, hấp dẫn mọi người, kêu gọi mọi người đồng
hoá với mình (Ga 19,35).
Tiêu biểu ở chỗ nào? Ở những
khía cạnh này: Ðó là người có lòng tin, tin Ðức Giêsu, Ðấng được Thiên Chúa sai
đến. Ðức tin nhạy bén khi thấy các dấu lạ (Ga 19,24.35; 20,8), khi được nghe
các lời thiêng liêng (Ga 2,21), khi trực giác thần tính của Chúa trong cách cư
xử của Ngài (Ga 21,7). Ðức tin làm cho người đó gắn bó ngày càng mật thiết hơn
với Chúa, yêu mến Chúa, mà dấu chỉ là có và giữ các mệnh lệnh của Ngài (Ga
14,21). Ðó là người được Chúa yêu, được gọi là bạn hữu (Ga 15,16), được thánh
hiến (Ga 17,19), chia sẻ sự sống của Thiên Chúa, đồng hoá với Thày, luôn ở lại
với Thày, cho tới lúc Thày chết. Những khía cạnh đó không làm nên một môn đệ lý
tưởng hay sao?
Nhưng để được thế, nhất thiết
phải làm một cuộc tái sinh. Cứ xem ngay Gioan. Không phải nhất đán mà ông trở
thành một môn đệ tiêu biểu đâu. Cùng với anh là Giacôbê, các ông được Chúa đặt
cho biệt danh là "con của thiên lôi" (Mc 3,17). Chắc là do tính khí,
hăng hái đấy mà cũng nóng tính đấy (Tên riêng ta gán cho ai trong các anh em
thường nói lên một nét gì đó của người ấy). Còn nhớ khi thày trò toan vào một
làng người Samari và bị họ ngăn cản, hai thiên lôi ấy đã xin Chúa để được hành
động, muốn lửa trời xuống đốt quách bọn vô đạo kia cho rồi. Dễ sợ! Thiên lôi
chỉ đâu đánh đó, nhưng lần này thì hố to. Chúa đã không cho thiên lôi ra oai,
mà còn mắng cho một trận cả thể (Lc 9,52tt).
Chưa hết. Còn cái tệ là ham
quyền chức nữa chứ! Hai anh em đã chẳng xin Chúa cho được ngồi hai bên tả hữu
Ngài trong nước Ngài đó sao? Và lời xin này đã làm cho các môn đệ khác đâm ghen
tức (Mc 10,35-41).
Một Gioan như thế chắc chắn đã
phải tái sinh mới có thể trở thành người môn đệ Chúa yêu.
Chúng ta hôm nay cũng không thể
làm khác hơn. Phải tái sinh làm môn đệ đích thực, để xứng đáng có Ðức Maria làm
Mẹ. Ngày xưa, nghe Chúa nói về sự tái sinh, Nicôđêmô đã lấy làm một sự thắc mắc:
Sao người ta lại có thể lại chui vào bụng mẹ để sinh ra lần nữa nhỉ? (Ga 3,4).
Ngày nay, chúng ta hiểu lời Chúa muốn nói gì. Hãy để Thần Khí tác sinh hành
động nơi ta. Vả lại, chúng ta còn có Ðức Mẹ. Người là tạo vật tuyệt mỹ của
Thánh Thần, sẽ giúp vào công việc của Thánh Thần làm cho ta. Nói theo cách của
Nicôđêmô, chúng ta hãy chui vào trong tâm hồn Ðức Mẹ, để ở đó, được Thánh Thần
cùng với Ðức Mẹ nắn đúc, chúng ta sinh ra thành những con người mới.
* Nghe lời trối của Chúa, Gioan
đã rước Ðức Mẹ về nhà mình. Trước hết là về nhà thực đó. Chúa muốn Gioan làm
cho Mẹ Ngài điều chính Ngài đã làm cho ông trong buổi đầu gặp gỡ. Khi ấy Gioan
bỏ vị Tiền Hô mà đi theo Chúa, và được Chúa dẫn vào nhà Ngài, nhờ đó mà thành
môn đệ (Ga 1,39). Nay, Gioan trả ơn Thày bằng cách đưa Mẹ của Thày về nhà mình.
Ðưa về nhà chỉ để phụng dưỡng
chăng? Hiểu như vậy thì nông cạn quá. Ðúng ra, việc đưa Ðức Mẹ về nhà có ích
cho Gioan hơn là cho Ðức Mẹ. Trong bài Tự ngôn sách Phúc Âm của mình, Gioan đã
viết: "Còn những ai đón nhận Người, thì Người ban cho họ quyền làm con
Thiên Chúa" (Ga 1,12). Môn đệ đón nhận Chúa thì chỉ có lợi cho mình, vì
được trở nên con của Thiên Chúa. Cũng vậy, môn đệ đón nhận Mẹ Chúa thì cũng chỉ
lợi cho mình, vì được trở nên con của Mẹ. Chúng ta không thể hình dung cho hết
hệ quả lớn lao của việc này. Ðược Ðức Mẹ ở bên mình ngày đêm, được nhìn gương
của Người, được Người chỉ dạy, điều này chắc chắn có ảnh hưởng lớn tới đời sống
của Gioan, và không thể không tác động đến công trình suy tư và trước tác của
ông.
Tuy nhiên, đưa về sống chung
dưới một mái nhà là một chuyện, sống chung có tốt đẹp hay không lại là chuyện
khác. Phải có yếu tố liên kết. Có khối gia đình Việt kiều về đón mẹ từ Việt Nam
sang ở cho có mẹ có con. Lúc đầu đoàn tụ vui vầy. Sau thì rắc rối, cơm không
lành, canh không ngọt. Ðấy không phải là trường hợp của Gioan. Bởi ông còn rước
Ðức Mẹ về nhà theo một nghĩa thiêng liêng hơn, tức rước vào tâm hồn mình. Ông
đón nhận Ðức Mẹ như một báu vật, với tất cả tấm lòng yêu mến. Ðó là tình yêu mà
Chúa dành cho người môn đệ. Từ đây, ông sẽ yêu mến Ðức Mẹ như Chúa đã yêu mến
Người.
* Chúng ta hãy bắt chước Gioan
rước Ðức Mẹ về nhà ta. Ðặt tượng hay ảnh Ðức Mẹ trong nhà, trong phòng, trên
bàn làm việc, tốt thôi, nhưng chưa đủ. Phải đón nhận Người trong tâm hồn ta,
trong cuộc đời của ta nữa kia! Và điều này mới cần thiết và quan trọng.
Trước hết là để Ðức Mẹ giúp cho
chính cuộc đời của ta. Linh đạo của thánh Louis Maria Grignion de Montfort có
thể được coi như mẫu mực, gói ghém trong công thức này: "Thực hiện mọi
hành vi nhờ Mẹ, với Mẹ, trong Mẹ, để thực hiện chúng cách hoàn hảo hơn nhờ Ðức
Giêsu, với Ðức Giêsu, trong Ðức Giêsu và vì Ðức Giêsu". Chúng ta phó thác
theo tinh thần của Ðức Mẹ, để Người thúc đẩy và dẫn dắt theo cách Người muốn.
Chúng ta đặt mình trong đôi tay tinh khiết của Người, như dụng cụ trong tay
người thợ, như chiếc đàn trong tay người nhạc công đại tài.
Phải chăng như thế là tiếm đoạt
vai trò của Chúa Thánh Thần trong đời sống ta, vì lời Sách Thánh nói ta phải để
cho Thánh Thần dẫn dắt (Gl 5,18), và phải làm mọi sự trong Thánh Thần? Ðâu có.
Ở đây phải xác định rõ vai trò và vị trí của mỗi bên. Thực ra, Ðức Mẹ là một
phương thế ưu việt mà Chúa Thánh Thần dùng để dẫn dắt các tâm hồn, và đưa họ
tới chỗ nên giống Chúa Kitô. Trung gian thụ tạo chỉ là phương tiện của Trung
Gian bất thụ tạo là Chúa Thánh Thần. Lại là dịp nại tới Phaolô để hiểu điều
trên. Phaolô viết cho các tín hữu Philipphê: "Những gì anh em đã học hỏi,
đã lãnh nhận, đã nghe, đã thấy ở nơi tôi, thì hãy đem ra thực hành" (Pl
4,9). Tín hữu thấy Phaolô làm thế nào thì hãy làm như vậy. Nói thế không có
nghĩa là Phaolô đoạt quyền của Thánh Thần. Chẳng qua ngài nghĩ rằng noi theo
ngài chính là giúp cho Thánh Thần, vì Thánh Thần đang hoạt động nơi ngài. Ðiều
này cũng đúng cho Ðức Mẹ.
Ðón nhận Ðức Mẹ để noi gương
Người, học hỏi với Người, yêu mến và tôn kính Người. Thái độ sau cùng, tức việc
tôn kính Mẹ, lẽ ra được khai triển trong một đề tài riêng mới phải. Tôi chỉ gợi
sơ một chút.
Dường như trong nhiều tôn giáo
và niềm tin dân gian, các nữ thần nữ thánh vẫn được mộ mến cách riêng. Nói ngay
ở Việt Nam, những Phật Bà Quan Âm, Bà Chúa Xứ (núi Sam, Châu Ðốc), Bà Ðen (Tây
Ninh), Thiên Y Thánh Mẫu (Nha Trang), Bà Chúa Liễu Hạnh (Thanh Hoá, Nam Ðịnh.)
Bà Chúa Kho (Bắc Ninh), thu hút không những tín nữ, mà cả thiện nam nữa mới kỳ.
Ðối với Ðức Mẹ thì từ xưa đến nay, bên Ðông cũng như bên Tây, các kitô hữu,
thậm chí một số người ngoại, vẫn dành cho Người một sự tôn kính đặc biệt. Người
kitô hữu Việt Nam cũng vậy.
Nhưng thành thật mà nói, lòng
tôn kính này đôi khi quá đáng, ít suy nghĩ, thiếu thận trọng, có khi còn lấn át
cả việc tôn thờ Chúa. Công đồng Vaticanô II nhắc rằng: "Lòng sùng kính
đích thực không hệ tại chút nào trong những tình cảm chóng qua và vô bổ, cũng
không hệ tại ở một sự dễ tin phù phiếm" (GH 67).
Công đồng muốn nói gì? Muốn nói
rằng đừng tôn kính bằng thứ tình cảm ướt át, uỷ mị, theo kiểu mẹ mẹ con con,
không hiểu đúng chân tính của Ðức Mẹ, và không có thay đổi nào trong đời sống.
Cũng đừng tôn kính đến độ mê tín, cả tin về những lời đồn đại Ðức Mẹ hiện ra
chỗ này chỗ nọ, chỉ để ý đến những cái bên ngoài mà không đi sâu vào đức tin.
Theo Tông huấn của Ðức Phaolô VI
về việc tôn sùng Ðức Mẹ (Marialis cultus, 2.2.1974), nguyên tắc căn bản hướng
dẫn việc tôn sùng này là phải quy hướng về mầu nhiệm Ba Ngôi, mầu nhiệm Chúa
Kitô và mầu nhiệm Giáo Hội. Ngoài ra, việc tôn sùng này phải có những đặc tính:
mang dấu ấn Kinh Thánh, hài hoà với phụng vụ, phản ánh mối quan tâm của Giáo
Hội về sự hiệp nhất các kitô hữu, lưu ý tới những kiến thức chắc chắn của các
khoa học nhân văn, đặc biệt lưu ý đến văn hoá thời đại.
Kết thúc phần nói về việc tôn
sùng Ðức Mẹ, Tông huấn còn nhấn mạnh: "Việc tôn sùng này phải đưa đến mục
đích tối hậu là tôn vinh Thiên Chúa, và mời gọi chúng ta dấn thân vào cuộc sống
hoàn toàn phù hợp với thánh ý của Ngài (các số 25-39).
* * *
Trong 3 Tông huấn "Kitô hữu
giáo dân", "Ðào tạo linh mục trong hoàn cảnh ngày nay" và
"Ðời sống thánh hiến", Ðức Gioan Phaolô II đều kết thúc bằng một lời
kinh dài dâng lên Ðức Mẹ. Tôi mượn đoạn cuối của lời kinh trong Tông huấn về
đào tạo, đặt trên môi miệng một người môn đệ Chúa cầu nguyện với Ðức Mẹ, để kết
thúc bài suy niệm hôm nay:
Lạy Mẹ là Mẹ Chúa Giêsu Kitô
và là Mẹ các môn đệ Chúa
Mẹ đã có mặt với Người
ngay từ buổi đầu cuộc đời và sứ vụ của Người
Mẹ đã đi tìm Người
lúc Người đang giảng dạy cho dân
Mẹ đã trợ giúp Người lúc Người bị treo trên cao
Và lúc Người đã hoàn tất hiến lễ duy nhất và vĩnh
tồn
Mẹ đã có Gioan ở kề bên làm con của Mẹ
Xin Mẹ đón nhận ngay từ bước đầu
những người được Chúa gọi
Xin che chở phù trì
cho sự tăng trưởng của những người con của Mẹ
Và xin đi cùng với họ
trên đường đời và đường sứ vụ của họ.
Amen
Lm Micae TRẦN ÐÌNH QUẢNG
(micquang@pmail.vnn.vn)