gặp gỡ đức
kitô
Lm Micae TRẦN ÐÌNH QUẢNG
micquang@pmail.vnn.vn
Mahatma
Gandhi, người được coi là vị thánh của Ấn Ðộ, người đã có công giải phóng quê
hương khỏi ách thống trị của thực dân Anh bằng phương pháp bất bạo động, đã nói
thế này : "Trong tâm hồn tôi, Ðức Giêsu chiếm địa vị một bậc thày của nhân
loại. Ngài là người đã có một ảnh hưởng quan trọng trong cuộc đời của
tôi". Một người ngoại mà còn thú nhận ảnh hưởng của Ðức Kitô trong cuộc
đời mình như thế, còn người kitô hữu chúng ta thì sao ?
Ðời sống
thiêng liêng của ta, dù dựa vào bất cứ phương pháp nào, theo bất cứ trường phái
nào, đều phải hướng về Ðức Kitô, coi mối tương giao với Ngài là chủ yếu, đặt
Ngài làm trung tâm. Phải nói được như thánh Phaolô: "Ðối với tôi, sống là
Ðức Kitô" (Pl 1,21).
Khi cần hiểu
rõ ý nghĩa của một từ, chúng ta tra tự điển. Khi cần hiểu rõ ý nghĩa của đời
sống, của mỗi thực tại hằng ngày, khi cần nguyên tắc để sống, chúng ta có cuốn
tự điển là chính Ðức Kitô. Phải thường xuyên tra cứu, lật đi lật lại tự điển
này. Thánh Têrêxa Hài Ðồng Giêsu viết trong cuốn Tự thuật là mỗi khi gặp một
khó khăn nào, ngài đều mở sách Kinh Thánh, để tìm một nguyên tắc chỉ đạo.Chúng
ta có Ðức Kitô là Thày, là người chỉ đạo. Phải tra cứu ở đó. Cuộc đời và lời
giảng dạy của Chúa luôn là mẫu mực cho ta. Có thăng tiến được cũng là nhờ không
ngừng đối chiếu và canh tân dựa vào khuôn mẫu ấy.
Dựa vào điều
trên đây, tôi khai triển một số đề tài qui đời sống của chúng ta về Ðức Kitô.
Hãy khởi đầu
bằng việc gặp gỡ Chúa.
1. Hãy "đến mà xem" (Ga 1,39)
Ðức Giêsu là
Con Thiên Chúa, là Lời Thiên Chúa đến dạy ta. Nhưng trước khi cho người ta
nghe, Ngài đã muốn cho người ta thấy. Mắt quan trọng hơn tai. Thấy đã rồi mới
nghe sau. Chứng cớ ? Thì cứ rảo qua một vài sự kiện được Phúc Âm ghi lại.
Ngay khi Chúa
sinh ra, các mục đồng được thần sứ loan báo, đã hối hả đi đến nơi và gặp Maria,
Giuse, cùng Hài Nhi nằm trong máng cỏ. Thấy rồi. họ trở về tôn vinh và ca ngợi
Thiên Chúa vì mọi điều đã được nghe và thấy (Lc 2,10-20). Họ có nghe, nhưng
nghe là nghe lời của thần sứ. Còn đối với lời mặc xác phàm, họ chỉ có thấy.
ngày Hài Nhi được dâng vào Ðền
thờ, ông già Simêon ẵm Chúa trong tay và kêu lên: "Chính mắt con được thấy
ơn cứu độ" (Lc 2,30).
Trong 30 năm
ở Nagiarét, tức tới 9/10 cuộc đời, Ðức Giêsu chỉ muốn là người có mặt mà thôi.
Thực ra, Chúa cũng có nói, như thấy trong trình thuật năm Chúa lên 12 tuổi cùng
với cha mẹ lên Ðền thờ. Thế nhưng đây chỉ là những lời vắn tắt, nói riêng cho
cha mẹ đã lo lắng tìm Ngài. Vậy thôi. Cũng thánh sử Luca cho biết : lúc ở Ðền
thờ, Chúa "ngồi giữa các thày dạy, vừa nghe họ vừa đặt câu hỏi" và
"ai nghe cũng ngạc nhiên. về những lời đáp của cậu" (Lc 2,46-47).
Nhưng Chúa đã nói gì, đối đáp ra sao, ai mà biết được ? Luca đâu có ghi lại.
Có thể nghĩ
rằng lời Chúa chỉ được công bố cho mọi người khi Chúa bắt đầu sống cuộc đời
công khai. Còn những năm dài ở Nagiarét chỉ là hiện diện suông, cho người ta
thấy thôi, đến nỗi sau này, khi nghe Chúa giảng dạy, dân chúng phải ngạc nhiên
mà hỏi nhau : "Ông ấy không phải là con bác thợ sao ? Mẹ ông không phải là
bà Maria. sao ?" (Mt 13,55)
Khi Chúa bắt
đầu cuộc đời công khai, người ta làm gì đối với Ngài ? Nhìn. Lần đầu tiên Ngài
đọc sách ở hội đường Nagiarét, nơi Ngài đã sống từ nhỏ đến lớn, mọi người trong
hội đường đều nhìn Ngài (Lc 4,20). Tuy
nhiên, lúc này không phải là thấy suông nữa, như họ vẫn thấy Ngài trước đây,
nhưng là đăm đăm nhìn, như chờ như đợi Ngài nói, vì họ đã nghe biết Ngài được
ca tụng ở những nơi khác.
Còn các môn
đệ đầu tiên, khi nghe Gioan Tẩy Giảõ giới thiệu Chúa, đã đi theo Ngài và hỏi:
"Thưa Thày, Thày ở đâu ?". Và Chúa trả lời: "Ðến mà xem".
Cho nên, vấn
đề quan trọng tiên quyết là phải xem, phải thấy, phải gặp gỡ. Nói như Têrêxa
Giêsu: "Tôi muốn nhìn thấy Thiên Chúa". Ở đây, phải thấy, phải gặp
Ðức Giêsu trước đã. Thánh sử Gioan hẳn đã thường xuyên suy niệm về điều này,
nên đã viết trong bài Tựa sách Phúc Âm của mình: "Ngôi Lời đã trở nên
người phàm. Chúng tôi đã nhìn thấy vinh quang của Người" (Gioan 1,14). Lưu
ý điều Gioan viết: "chúng tôi" chứ không phải "tôi". Thấy
là thấy của một tập thể, một cộng đồng sống theo Ðức Kitô, trung thành với
truyền thống tông đồ. Chúng ta có thấy Chúa là thấy theo cách đó.
Muốn thấy thì phải tìm. Giữa người này với người kia, đôi
khi chẳng cần tìm cũng lù lù mò đến. Với Chúa thì khác. Chính Chúa đã có sáng
kiến xuống thế tìm kiếm con người. Có thể thấy một dấu chỉ ngay trong câu
truyện Chúa gặp các môn đệ đầu tiên nói ở trên. Tác giả Phúc Âm thứ tư cho biết
: Gioan Tẩy Giả đứng ở đó với hai môn đồ, còn Dức Giêsu thì đi ngang qua. Hai
cung cách trái ngược nhau. Ðứng là cung cách cũ hoặc chấm dứt một cung cách cũ.
Ði là khởi đầu một sứ mệnh mới, sứ mệnh tìm kiếm liên tục cho tới khi Ðức Giêsu
về lại với Chúa Cha. Nói đúng ra, Thiên Chúa của Cựu Ước cũng đi tìm con người,
chẳng hạn Ngài đích thân đến gặp Ađam, Evà ở vườn Ðịa Ðàng, nhưng phần lớn Ngài
tìm kiếm con người qua các sứ giả.
Tuy Thiên
Chúa đi tìm con người, nhưng con người cũng phải tìm Ngài thì mới thấy, nghĩa
là con người phải đáp lại hành động của Thiên Chúa. Hãy làm như tác giả Thánh
vịnh 62 : "Lạy Chúa, Ngài là Chúa con thờ. Ngay từ rạng đông con tìm kiếm
Chúa". Có thể thấy việc con người phải tìm Chúa trong chính ý nghĩa của ý
tưởng "con người là hình ảnh của Thiên Chúa". Hình ảnh, một cách nào
đó, cũng là biểu tượng. Mà biểu tượng, xét theo ngữ nguyên symballein, là ráp
hai nửa của một vật lại với nhau. Vậy con người, hình ảnh biểu tượng của Thiên
Chúa, sẽ mãi mãi tìm ráp chính nó với cái nửa kia, cái nửa mà nó vẫn thiếu, vẫn
khao khát được ráp lại. Cái nửa ấy là chính Thiên Chúa.
Về phía Thiên
Chúa thì Ngài chỉ mạc khải mình cho những ai hết dạ tìm Ngài. "Ai tìm kiếm
Ðức Khôn Ngoan thì Ðức Khôn Ngoan cho gặp" (Kn 6,12). Sấm của Giavê qua
miệng Giêrêmia nói rằng: "Các ngươi sẽ tìm Ta và các ngươi sẽ thấy, vì các
ngươi sẽ hết lòng kiếm Ta, Ta sẽ cho các ngươi được gặp" (Gr 29,13-14).
Theo Phúc Âm
Gioan, lời đầu tiên Chúa mở miệng nói chính là lời liên hệ đến việc tìm kiếm.
Khi thấy hai môn đệ của Gioan Tẩy Giả theo mình, Chúa quay lại hỏi: : "Các
anh tìm gì thế ?" (Ga 1,38). Ðây cũng phải là câu Chúa hỏi chúng ta, mời
gọi ta tìm kiếm, lựa chọn, một cách tự do và sáng suốt. Chúa không muốn ta theo
Ngài mà chỉ dựa dẫm vào chứng từ của người khác. Ngài muốn ta vượt ra khỏi thái
độ thờ ơ bẩm sinh để đích thân tìm Ngài. Hơn nữa, khi đi tìm, phải ý thức việc
mình làm, không theo cách "ngớ ngẩn đi xia may vớ được" (Trần Tế
Xương), không phải tìm bất cứ cái gì, không phải tìm vì tò mò muốn biết để biết
vậy thôi. Tìm Chúa thực sự, tìm "nơi ở" của Chúa như hai môn đệ kia,
để có thể gặp gỡ sâu xa với Ngài.
Không những
phải tìm, phải thấy, mà còn phải lưu lại với Chúa. Chính Gioan là một trong hai
môn đệ đã hỏi Chúa, được Chúa trả lời, đã đến, đã thấy nơi Ngài lưu lại, và đã
lưu lại với Ngài ngày hôm đó (Ga 1,39). Việc lưu lại này hẳn phải tác động sâu
xa trên Gioan, khiến ông không thể quên, nên đã cẩn thận ghi rõ thời khắc : lúc
đó khoảng chừng giờ thứ mười (4 giờ chiều). Quên sao được, vì đây không phải là
một cuộc gặp gỡ bình thường, không phải là cuộc trò chuyện tầm phào, không chỉ
là xem cho biết. Về phía Chúa, Ngài đã qua giác quan của ông mà đi vào con
người của ông. Về phía Gioan, đây là một sự "thấy" vào sâu, vượt qua
bình diện hiện tượng, để nắm bắt thực tại sâu xa bị xác thịt che khuất.
Thực ra, ngay
từ câu hỏi "Thưa Thày, Thày ở đâu ?", hai môn đệ hẳn đã không chỉ hỏi
nơi Chúa ở, như hỏi một địa chỉ, một căn nhà, một nơi trú. Tác giả Gioan, vốn
quen sử dụng những từ gồm hai nghĩa, hẳn muốn cho người ta thấy một ý nghĩa thứ
hai, sâu sắc hơn, hàm chứa trong câu hỏi trên đây. Nó liên hệ tới nơi ở thiêng
liêng của Chúa nữa kia. Tương tự như câu mà sau này Philipphê sẽ thưa với Chúa
:"Xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế là chúng con mãn nguyện"
(Gioan 14,8). Chúa Cha chính là nơi mà Ðức Giêsu lưu lại.
Thế nên, nghe
lời Chúa bảo "Ðến mà xem", hai môn đệ đến, và không chỉ khám phá nơi
Chúa trú ngụ, mà còn khám phá ra chỗ ở thiêng liêng của Chúa, đặc biệt do lưu
lại và trao đổi lâu với Chúa ngày hôm đó. Chỗ ở thiêng liêng này chính là Chúa
Cha. Họ đã gặp được chính Chúa Cha. Thực như điều Chúa sẽ trả lời cho
Philipphe:â "Ai thấy Thày là thấy
Chúa Cha" (Ga 14,9).
Cũng vì tác
động sâu xa của cuộc gặo gỡ này, nên trong Thư thứ nhất của mình, Gioan đã
viết: "Ðiều vẫn có ngay từ lúc khởi đầu, điều chúng tôi đã nghe, điều
chúng tôi đã thấy tận mắt, điều chúng tôi đã chiêm ngưỡng và tay chúng tôi đã
chạm đến, đó là lời sự sống. Quả vậy, sự sống đó đã được tỏ bày, chúng tôi đã
thấy và làm chứng, chúng tôi loan báo cho anh em sự sống đời đời. Ðiều chúng
tôi đã thấy và đã nghe, chúng tôi loan báo cho cả anh em nữa" (1Ga 1,1-3).
Chúng ta cũng
vậy. Trong đức tin, phải đi tìm Chúa, gặp gỡ Chúa và lưu lại với Chúa. Tiếp xúc
với Chúa tới tận mức đó, Ngài sẽ tỏ cho ta thấy Ngài là ai. Và thấy Ðức Kitô là
thấy Chúa Cha, vì Ngài với Cha là một. Con người, lời nói và hành động của Ngài
chính là sự mạc khải chính xác về Chúa Cha. Ðức Kitô chính là hình ảnh của
Thiên Chúa vô hình (Cl 1,15). Chúng ta cũng gặp được Chúa Thánh Thần, vì Thánh
Thần là Thần Khí của Ðức Kitô.
2. "Thưa Thày, Thày ở đâu?" (Ga 1,38)
Hai môn đệ
đầu tiên đã hỏi Chúa như thế, và được Ngài cho biết chỗ Ngài ở. Còn chúng ta
hôm nay có thể gặp gỡ Chúa ở đâu ? Ta biết rằng sau khi sống lại, Chúa đã nhiều
lần hiện ra với các môn đệ, không chỉ để củng cố tinh thần các ông, nhưng còn,
và chủ yếu còn là để cho các ông hiểu rằng Ngài vẫn sống, hằng sống, và hiện
diện giữa các ông, giữa Giáo Hội và thế giới. Trước khi về trời, Chúa đã hứa
với các ông một cách chung chung: "Và đây, Thày ở cùng anh em mọi ngày cho
đến tận thế" (Mt 28,20).
Ngày xưa,
Chúa mới chỉ cho hai môn đệ thấy một chỗ ở, hoặc đúng hơn, một chỗ ở vật chất
và một chỗ ở thiêng liêng. Trước khi chịu Khổ Nạn, Chúa nói với các Tông đồ là
Ngài đi trước để dọn chỗ cho các ông trong nhà Cha trên trời (Ga 14,2). Khi
diễn giải điều này, thánh Augustinô viết :"Ðức Kitô chuẩn bị chỗ ở cho các
môn đệ bằng cách chuẩn bị họ cho các chỗ ở của Ngài. Tức là : không còn phải là
một chỗ ở, nhưng là rất nhiều. Không còn phải là hiện diện ở một nơi, nhưng là
ở nhiều nơi.
(Ngày xưa còn
bé, học bổn có câu : Hỏi : Ðức Chúa Trời ở đâu ? Thưa : Ðức Chúa Trời ở khắp
mọi nơi, trên trời dưới đất, chẳng có nơi nào mà chẳng có Ðức Chúa Trời. Mấy
đứa bạn thắc mắc : Làm sao cùng một lúc Chúa có thể ở lắm chỗ thế ? Nay thì
được nghe phân biệt : Ðây không phải là sự hiện diện đóng khung vào một nơi
nhất định. Tôi, một người có xác có thịt, thì hoặc ở trong phòng hoặc ở ngoài
phòng, không thể một trật ở cả hai nơi ("Thân này" đâu có "ví xẻ
làm đôi được"). Nhưng Chúa là thần thiêng, nên khác. Hơn nữa, phải hiểu
hiện diện theo quan niệm nhân vị. Không phải tương quan với một nơi, nhưng là
tương quan giữa người và người. Hiện diện này là truyền đạt và hiệp thông, nên
có mức độ. Càng tự hiến thì càng hiện diện).
Vậy rất nhiều
chỗ có thể gặp Chúa. Có những chỗ được Ngài xác định rõ ràng. Dĩ nhiên, để có
thể thấy Ngài, gặp Ngài, con mắt xác thịt không đủ. Có khi cũng chẳng cần.
Người mù mắt có thể gặp Chúa ngon hơn
người sáng mắt. Cần là cần đức tin, con mắt đức tin. Chính đức tin cho
thấy những hình thức trung gian Chúa chọn, để qua đó ta có thể tiếp xúc với
Ngài.
Nói chung, ta
có thể quả quyết rằng, vì Ðức Kitô ẩn tàng trong tạo thành, nên theo một nghĩa
nào đó, vũ trụ là dấu chỉ của Ngài. Mọi vật đều mang dấu vết của Chúa. Mọi sự
đều mạc khải Chúa. Augustinô viết :"Lịch sử chứa đầy Ðức Kitô"
(L’histoire est grosse du Christ). Như vậy, có quá nhiều trung gian và phương
tiện giúp ta có thể gặp Chúa. Chúng ta có thể chọn lấy một. Nguyên tắc là thế,
nhưng cũng phải nói: Kinh nghiệm về Chúa sẽ nghèo nàn biết bao nếu không sử
dụng một số phương tiện có ý nghĩa cách đặc biệt và rất đáp ứng với người thời
nay. Có thể kể :
- Gặp Chúa trong Giáo Hội và trong các bí tích
Nếu Ðức Kitô
hiện diện trong Thân Thể Ngài là Giáo Hội (Ep 1,23), thì chính giữa lòng cộng
đồng bác ái và cầu nguyện này mà ta có thể gặp Ngài, có kinh nghiệm về Ngài.
Quả thực,
trong Giáo Hội, nhất là trong Phụng vụ, ta thấy một loạt các phương tiện trung
gian dễ dàng giúp ta gặp gỡ thiêng liêng với Chúa. Hiến chế về Phụng vụ của CÐ
Vat.II, số 7, có kể ra những hình thức hiện diện của Chúa. Có hiện diện động.
Có hiện diện tĩnh.. Chúa hiện diện trong Thánh Lễ, không những nơi con người
linh mục chủ sự, mà nhất là hiện diện thực sự dưới hai hình Thánh Thể (Lưu ý : Tuy sự hiện diện nơi linh mục chủ
sự ở mức độ thấp hơn sự hiện diện trong Thánh Thể, nhưng sự hiện diện sau là
kết quả của sự hiện diện trước. Linh mục có đọc lời truyền phép thì Chúa mới
hiện diện trong Thánh Thể. Vì vậy, CÐ nói đến sự hiện diện nơi linh mục trước
khi nói đến sự hiện diện trong Thánh Thể).
Chúa còn hiện
diện trong các bí tích khác nhờ quyền năng của Ngài, và nơi thừa tác viên. Kinh
nguyện làm chung cũng khiến cho Ðức Kitô hiện diện giữa cộng đoàn, như chính
Ngài đã nói: "Ở đâu có hai, ba người họp lại nhân danh Thày, thì có Thày ở
đấy, giữa họ" (Mt 18,20).
Các bí tích
có cơ cấu kitô học, không những do Ðức Kitô thiết lập và để lại cho Giáo Hội,
mà còn là những hành động của Ngài và của Giáo Hội. Do đó, không nên coi bí tích chỉ như những phương tiện ban ân
sủng cứu độ, mà còn phải như một cuộc gặp gỡ cá nhân với Ðức Kitô, Ðấng nối dài
trong thời gian những hành vi cứu độ của mình. Hành vi này là giải thoát con
người khỏi tội lỗi, ban ơn tha thứ, ban Thần Khí, ban sự sống.
Từ những viễn
tượng này mà có một linh đạo Giáo Hội, chung cho mọi kitô hữu, giúp đưa họ tới
chỗ kết hợp mật thiết và bền bỉ với Chúa. Nếu không theo một linh đạo riêng
nào, cứ theo linh đạo chung đó. Tốt chán!
- Gặp Chúa trong lời Chúa
Trong tiếng
hipri, lời không chỉ một âm thanh trống rỗng (flatus vocis), nhưng có nghĩa
"cái ở phía sau, ở bên trong, ở dưới", tức là trọng tâm, sức mạnh,
chủ tính của một vật. Nếu lời là như thế thì đối với ngưòi Do thái, lời Thiên
Chúa có nghĩa là chính Thiên Chúa trong dấu chỉ lời của Ngài. Ðây cũng là ý
tưởng của Kinh Thánh về lời Thiên Chúa. Lời Thiên Chúa không phải là một cái gì
đo,ù nhưng là một AI đó, là Thiên Chúa hằng sống trong dấu chỉ lời của Ngài,
một Thiên Chúa mạc khải mình ra trong quyền năng của lời Ngài.
Vậy ai khám
phá Ðức Giêsu không thể không khám phá lời Thiên Chúa. Nếu mỗi gia đình có một
cuốn Kinh Thánh thì, một cách nào đó, Thiên Chúa đến với mỗi gia đình. Nếu mỗi
người có một cuốn Kinh Thánh, thì Thiên Chúa đến với mỗi người.
Kể từ khi
được Giáo Hội chính thức coi như Sách Thánh, 4 sách Phúc Âm và các sách Tông đồ
hay được các kitô hữu nại tới. Việc thường xuyên đọc hay nghe lời Chúa giúp
người ta có được "mối lợi tuyệt vời là được biết Ðức Kitô Giêsu" (Pl
3,8), vì, như thánh Giêronimô nói, "không biết Kinh Thánh là không biết
Ðức Kitô". Biết, không chỉ là biết thuần túy trí thức, nhưng còn là gặp gỡ
và kết hợp với Ngài hiện diện trong đó.
Quả thực,
việc suy niệm đời sống và lời dạy của Chúa, trong suốt dòng lịch sử Giáo Hội,
đã thường là một phương tiện để bắt gặp Chúa tự thâm tâm, noi gương Ngài, tìm
cách đồng hình đồng dạng với Ngài. Coi Ðức Giêsu như một kiểu mẫu sống quả đã
từng là một bổn phận cơ bản của người kitô hữu. Có lẽ ai trong chúng ta, ít
nhất những người lớn tuổi, cũng đều biết hay nghe nói đến cuốn Gương Chúa Giêsu
(cũng gọi là sách Gương Phúc). Nó được viết ra từ thế kỷ XIV. Số lượng in hầu
như chỉ thua Kinh Thánh. Tiếc rằng ngày nay không còn mấy ai đọc. Ðọc có thể bị
chê là lỗi thời. Vả, muốn đọc chăng nữa, tìm đâu ra sách ? Sách Gương Chúa
Giêsu chính là một cuốn sách cụ thể hoá lối sống theo Ðức Kitô.
Nói đến
chuyện bắt chước Ðức Kitô, thiết tưởng cần nêu ra một vấn đề. Bắt chước ở đây
không phải là lặp lại y chang, một cách máy móc, cách hành xử của Chúa. Lý do ?
Vì những hoàn cảnh chi phối hành động của Chúa khác xa với của ta; vì những
điều kiện của ta là tội nhân khác hẳn với điều kiện của Ngài là Ðấng chí thánh;
vì ngay đối với các tội nhân là chúng ta, các tình huống cũng luôn luôn mới mẻ
và khác nhau giữa người này kẻ kia.
Vậy thế nào
là bắt chước Chúa ? Là cố gắng thâm hiểu ý nghĩa thiêng liêng của cách hành xử
của Chúa, chứ không phải tái tạo nó. Ðể được thế, phải suy niệm và kết hợp tâm
hồn ta hài hoà với tâm hồn Ngài. Phải tập "mặc lấy Chúa Kitô" như
Phaolô nói, để mỗi lần tìm ra được một phản ứng, một cách hành xử đúng đắn. Khó
chứ không dễ đâu. Phải học tập cả đời người cũng chưa đủ.
- Gặp Chúa nơi con người
Con người
được tạo dựng theo hình ảnh của Thiên Chúa. Con người là phản ảnh hoặc dấu vết
rõ nhất của Thiên Chúa nơi tạo vật. Vậy có thể gặp gỡ Ðấng dược biểu thị qua
hình ảnh là con người. Con người kitô hữu, thậm chí mọi người, còn là đền thờ
của Thiên Chúa và của Chúa Thánh Thần, và là nơi ở của Ðức Kitô (1Cr 3,16-17;
Ga 14,23). Có thể gặp gỡ Chúa nơi con người là đền thờ của Ngài.
Nhưng rõ nét
nhất chính là điều nói trong đoạn văn nổi tiếng Mt 25,31-46 về ngày chung thẩm.
Lời Chúa trong đoạn văn này cho thấy người lân cận là dấu chỉ Ðức Kitô, vì Ngài
đồng hoá mình với những người nghèo hèn nhất, những người đói khát, trần
truồng, đau yếu, tù tội. Chúa coi mọi hành vi yêu thương và giúp đỡ làm cho
những người đó là làm cho chính Ngài, và không làm những hành vi ấy cho họ là
không làm cho chính Ngài.
Bởi vậy, ta
bắt gặp Chúa trong các mối tương giao của ta với con người, đặc biệt với những
người nghèo, người bên lề, người bị bỏ rơi, người bị bóc lột. Khi thực hiện
tình bác ái huynh đệ cho những con người như thế, chúng ta có thể nhận ra khôn
mặt của Ðức Kitô nơi họ. Ðâu có tình yêu, đấy có Thiên Chúa. Tình yêu thể hiện
nơi nào, Ðức Kitô hiện diện nơi đó.
Phải nhận
rằng, so với việc nhận diện và gặp gỡ Chúa trong Phụng vụ và trong lời Chúa,
việc nhận diện và gặp gỡ Ngài nơi con người khó hơn nhiều. Một con người đẹp,
cả thể xác lẫn tinh thần, dễ cho người ta nhận ra đó là hình ảnh và đền thờ của
Thiên Chúa. Ngược lại, làm sao có thể nhận ra Chúa nơi những con người xấu xí,
thương tật, nghèo đói, sống vất vưởng, khó tính khó nết, thù nghịch với mình .
? Phải có đức tin mạnh, có tình yêu vô vị lợi, biết quên mình, mới có thể vượt
qua khu vực giác quan mà vào tận bên trong con người, để có thể bắt gặp chính
Chúa ở đó.
- Gặp Chúa trong vũ trụ
Không thể
giới hạn sự hiện diện của Ðức Kitô nơi con người mà thôi. Ðức Kitô còn hiện
diện trong vũ trụ nói chung nữa. Mọi sự đã được tạo dựng bởi Ngài và do Ngài
(x.Cl 1,16). Nhờ sự Phục sinh, Ngài đã hiện diện thâm sâu hơn trong vũ trụ (x.Ep 1,9-10; Cl 1,13-20; Rm 8,28-30).
Cha Teilhard de Chardin đã nói về "Ðức Kitô vũ trụ" như là cùng đích
mà sự tiến triển tự nhiên của con người phải hướng tới. Cha đã nhìn thấy nơi
Ðức Kitô một tấm lòng khơi động toàn bộ thực tại vật chất. Nhờ năng lực của
việc Con Thiên Chúa nhập thể, vũ trụ dường như ở trong một loại từ trường của
Thiên Chúa. Trong Ðức Kitô, Thiên Chúa đã muốn trở thành trái tim của vật chất,
để nâng nó lên tình trạng thần linh. Tuy nhiên, Ðức Kitô không trở thành linh
hồn phổ quát của thế giới, như kiểu Brahman (hay Atman, Ðại Ngã) trong Ấn giáo
đâu. Là trung tâm vũ trụ, Ngài lôi kéo tới mình tất cả thực tại vật chất, theo
cách thức của một người yêu.
Cho dù không
đi vào viễn tượng đặc biệt này đi nữa, ta vẫn phải tuyên xưng Ðức Kitô như là
nguyên lý, cùng đich và lý do của mọi sự. Và phải cố gắng gặp gỡ Ngài, hiệp
thông với Ngài, nhờ cả vũ trụ nữa.
PhúcÂm thánh
Tôma, tuy chỉ là ngoại thư, tức không được Giáo Hội nhận vào quy điển Tân Ước,
đã viết những lời có ý nghĩa như sau: "Ta là ánh sáng trên mọi vật. Ta là
vũ trụ. Vũ trụ phát xuất từ Ta và trở về với Ta. Hãy bẻ một miếng gỗ : Ta ở
trong đó. Hãy nhấc một hòn đá lên : Ta ơ ûdưới đó". Chúa nói câu này sau
ngày Phục sinh. Ðây không phải là quan niệm phiếm thần đâu, nhưng chỉ muốn nói
lên rằng ÐứcKitô hằng sống chan hoà trong vũ trụ. Nghĩ như vậy nên các tu sĩ
Chính thống giáo ở núi Athos (Hy Lạp) có thói quen áp tai xuống nền nhà thờ, để
nghe nhịp đập của trái tim Chúa Kitô, và để khẳng định sự thống trị của Ngài
trong vũ trụ.
Thiền kitô
giáo cũng hướng về Ðức Kitô vũ trụ, nhưng làm theo cung cách khác, hợp thời
hơn. Chẳng cần thông qua hình ảnh gì ráo. Chẳng cần dựa vào ý niệm hay vật chất
gì ráo. Chỉ tiếp cận trực tiếp với Ðức Kitô vũ trụ, vì Ngài là một mầu nhiệm,
và là một thực tại vượt lên trên những hình thức biểu thị Ngài. Ở đó, tin yêu
và thinh lặng thần bí là những điều kiện để Ðức Kitô vũ trụ ùa vào trong ta. Ta
dễ nhận ra và gặp gỡ Ngài hơn.
Trong đời
sống hằng ngày, chúng ta phải cố gắng gặp gỡ Chúa. Nếu có khó khăn, cứ kiên
nhẫn tìm, vì tìm thì sẽ gặp. Một chỉ dẫn trong Phúc Âm có thể là điều khích lệ
chúng ta. Vào buổi sáng ngày Phục sinh, Maria Mađalêna đến viếng xác Chúa và
thấy ngôi mộ trống. Phêrô và Gioan được báo tin cũng đã đến, nhưng bỏ đi sau
đó. Chỉ mình cô nán lại. Cô không chấp nhận sự trống vắng này. Thày của cô
không thể biến mất một cách vô lý như thế. Cho nên, cô cứ tần ngần bên mộ, khóc
lóc, cúi xuống, nhìn ra ngó vào. Chính như vậy mà cuối cùng cô là người đầu
tiên gặp lại Chúa đấy.
Chúng ta hôm
nay hãy học lấy gương đó. Ðừng thấy cái dường như trống vắng mà tưởng là trống
vắng thực. đừng thấy Chúa dường
như không hiện diện mà tưởng Ngài không hiện diện. Cứ tìm kiếm sâu xa hơn, kiên
nhẫn, cậy trông. Chắc chắn Chúa sẽ cho ta được gặp gỡ Ngài.