SỨ
ĐIỆP CỦA ĐỨC GIÊSU
LOAN
BÁO TIN MỪNG :
BÀI GIẢNG TRÊN NÚI :
TÁM MỐI PHÚC
Chúng ta đọc Bài Giảng Trên Núi trong các chương 5,6 và 7 của Tin Mừng
Matthêu. Tác giả đã gom vào đây nhiều điều Chúa Giêsu nói trong những hoàn cảnh
khác nhau, làm thành bài giảng khai mạc Nước Trời, quen gọi là Bài Giảng Trên
Núi hay Hiến Chương Nước Trời.
Trước mặt Chúa có đám đông và bên cạnh Ngài có các môn đệ. Cảnh tượng
này có thể gợi ngay ra cho chúng ta một suy nghĩ : Đám đông thấy gì ? Các môn
đệ thấy gì ? Chúa Giêsu thấy gì ?
Đám đông thấy Chúa và các môn đệ bên Ngài. Những con người này, chỉ mới
đây thôi, còn thuộc vào số họ, sống đời thường như họ. Thế mà giờ đây, các ông
lại là những con người khác, hoàn toàn thuộc về Chúa, sống với Chúa, rong ruổi
với Chúa. Có điều gì đó xẩy đến với các ông mà không phải với người khác. Điều
đó, đám đông có thể biết rõ.
Còn các môn đệ thì sao ? Các ông thấy đám đông. Các ông đã xuất thân từ
họ, và sau này sẽ được Chúa sai đến với họ, bởi các ông sẽ được Chúa đặt làm
Tông đồ, tức những người được sai đi.
Cuối cùng là Chúa Giêsu. Ngài thấy gì ? Bên cạnh mình là hạt nhân của
Giáo Hội. Ngoài kia là tất cả những người được Ngài kêu gọi qua trung gian các
môn đệ, để làm thành một Giáo Hội rộng lớn. Ngài là Đấng được Chúa Cha sai đến.
Các môn đệ là những người được Ngài sai đi. Ngài biết các ông sẽ bị thế gian từ
chối, giống như Ngài bị thế gian chối từ. Cả Ngài lẫn các ông đều có cùng một
mầu nhiệm thập giá. Đương nhiên, tiếp theo chúng ta cũng phải suy nghĩ về mình,
để mỗi người có thể đi vào tinh thần của Tin Mừng.
“Chúa mở miệng dạy họ” : một công thức quen thuộc trong Kinh Thánh để
nhấn mạnh tầm quan trọng của những điều sắp được nói ra. Nhưng trước đó, hẳn đã
có những giây phút thinh lặng. Chúng ta cũng biết dành ra những giây phút thinh
lặng, trước khi suy niệm những lời Chúa công bố.
1. Phúc thay …
Lời Chúa tiên vàn nhằm nói với các môn đệ. Bản văn song song trong Tin
Mừng Luca cho thấy rõ điều này (Lc 6,20). Theo lời hứa thì cả đám đông phải
được hạnh phúc, nhưng các môn đệ đã đáp lời Chúa kêu gọi, được hạnh phúc ngay
từ lúc này. Các ông hạnh phúc vì được giải thoát khỏi những gì mình có. Niềm
vui là kết quả của tự do. Nước Trời thuộc về các ông trước khi thuộc về người
khác, vì các ông là những con người tự do.
Chúng ta hãy đọc chậm rãi từng mối phúc một. Cả tám mối phúc giống như
một viên kim cương, tuy toả ra những ánh sáng lấp lánh khác nhau nhưng chỉ là
một viên kim cương. Bẩy mối phúc trước quy về sự nghèo khó (Các mối phúc từ 2
đến 7 chỉ là những cách diễn tả chi tiết mối phúc đầu tiên về sự nghèo khó).
Mối phúc cuối cùng như một thứ kết luận : Nếu anh em sống như trên, chắc chắn
anh em sẽ bị người đời bách hại, vì khuấy động cuộc sống của họ khiến họ phải
lo lắng. Và vì không muốn lo lắng, họ sẽ gây khó dễ cho anh em.
2. Phúc thay những người nghèo
Theo Matthêu, đây là những người có tâm hồn nghèo khó. Nhưng Luca nói
đến những người nghèo khó thực sự, nghèo tiền túng của. Điều này áp dụng trước
hết cho các môn đệ. Quả thực, khi theo Chúa, các ông mất mọi sự, không có gì
bảo đảm, không còn gì sở hữu, không còn mảnh đất nào làm quê hương. Tất cả hy
vọng của các ông chỉ là ở nơi Chúa, Đấng đã kêu gọi các ông. Chấp nhận theo
Chúa là chấp nhận thiếu thốn hoàn toàn. Đó là nghèo khó.
Ý nghĩa của sự nghèo khó, tự nó, không rõ ràng. Tự nó, cái nghèo không
làm cho người ta vui. Do đó, Matthêu đã xác định thêm : nghèo trong tâm hồn.
Giá trị nằm trong tâm hồn, một tâm hồn nghèo khó. Tâm hồn hay tinh thần nghèo
khó giúp cho người ta có lòng tin, cậy, mến, tức là có đời sống theo thần đức.
Trước hết, người nghèo là người tin vào Thiên Chúa, tin tưởng vào Ngài.
Mà tin vào Thiên Chúa là đặt Ngài làm
tâm điểm cuộc đời ta. Sống đức tin là như vậy.
Người nghèo cũng là người cậy trông vào Chúa, không hy vọng nơi điều gì
khác ngoài Ngài, không cảm thấy an thân về những gì đang sở hữu. K. Marx đã
hiểu rõ là phải kêu gọi người vô sản nếu muốn xây dựng một xã hội vô giai cấp.
Nhưng như vậy là hạ thấp hạnh phúc của người nghèo vào hạnh phúc trần thế, biến
hạnh phúc ấy thành một phạm trù xã hội học và chính trị. Trong khi đó, theo
Chúa Giêsu, nghèo khó là một phạm trù tinh thần, nhưng có những ảnh hưởng xã
hội, chính trị.
Chắc chắn người giầu chỉ có thể ca ngợi quá khứ và không thích tương
lai. Ca ngợi quá khứ, vì nhờ quá khứ mà họ giầu có. Không thích tương lai, vì
tương lai có thể làm họ mất tài sản. Người nghèo không ca ngợi quá khứ, vì quá
khứ làm cho họ nghèo. Họ hy vọng vào một tương lai có thể bảo đảm cho họ một
cuộc sống khá hơn. Người giầu không thể hy vọng, vì đã có đầy đủ thừa thãi.
Chính theo nghĩa này mà F. Mauriac đã viết: “Hạnh phúc là bất hạnh”. Bất hạnh,
vì người được hạnh phúc không biết trông chờ hy vọng gì hết. Họ không có tâm
trạng “hướng tới”.
Người nghèo thì tìm kiếm. Đây là một từ chủ chốt của Kinh Thánh : “Ai
tìm thì sẽ thấy” (Mt 7,8), “Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công
chính của Người” (Mt 6,33). Vì tìm nên họ sẵn sàng để lời Chúa chất vấn họ.
Chính đó là kiểm điểm đời sống, một thái độ đang được cổ võ ngày hôm nay.
Cuối cùng, người nghèo có lòng yêu thương, vì được cởi trói bên trong.
Họ sẵn sàng phục vụ. Trong Kinh Thánh, ý tưởng phục vụ rất gần gũi với ý tưởng
nghèo khó. Người Tôi Trung phục vụ những người nghèo của Giavê. Những con người
này không đòi hỏi gì trước mặt Thiên Chúa, không phô trương công lao và những
việc tốt mình làm, như người biệt phái trong một dụ ngôn (Lc 18,9-14).
Cũng cần phân biệt nghèo khó với lầm than. Lầm than là một điều kiện
sống cần phải loại trừ. Thế nên đừng gán cho nó một mầu sắc thiêng thánh. Gán
như vậy là không còn cố gắng đưa người ta ra khỏi đó. Chúa không nói : Phúc cho
anh em là những người không có gì ăn. Chủ trương bần cùng hay chủ trương thống
khổ, lấy lý do chúng giúp ích cho đời sống đạo đức, là những chủ trương xa lạ
với kitô giáo. E. Mounier nói : thuyết bần cùng hay thuyết thống khổ không phải
là truyền thống kitô giáo.
Tuy vậy, có một mối liên hệ giữa sự nghèo khó tinh thần và sự nghèo khó
vật chất. Nếu xem xét sự nghèo khó tinh thần một cách nghiêm túc, ta sẽ phải từ
bỏ mọi thành kiến bảo vệ sự tiện nghi vật chất. Phải hiểu rằng tiền bạc hoạ
hoằn lắm mới không liên hệ gì với quyết định đức tin. Vì vậy mà Chúa đã nói:
“Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi tiền của được” (Lc 16,13).
Quả thực, người ta không thể phục vụ đồng thời cả hai chủ đó.
Chúa muốn chúng ta có tinh thần nghèo khó, tức sự nghèo khó cho phép ta
sống đời sống đức tin, đức cậy, đức mến, nhưng đừng quên sự nghèo khó ấy cũng
tác động trên đời sống vật chất của ta. Không được nghĩ rằng chỉ cần có tinh
thần nghèo khó là đủ, còn sống sung túc như những người giầu cũng chẳng sao.
Thánh Augustinô nói: “Nếu bạn muốn mở rộng không gian tình yêu, bạn phải hạn
chế không gian xác thịt”. Tiền bạc chính là những cái thuộc không gian xác
thịt.
Chúng ta có nguy cơ nói nhiều về sự nghèo khó mà lại không sống với
người nghèo. Chúng ta nên nói nhiều về những người nghèo hơn là về sự nghèo khó.
Bằng không, người khác dễ nghĩ rằng chúng ta chỉ biết nói những gì trừu tượng.
(còn tiếp)
Lm Micae Trần Đình Quảng