Kết luận :
MẦU NHIỆM KINH
NGUYỆN TRONG THIÊN CHÚA (*)
1. Người kitô hữu không cầu nguyện với Thiên
Chúa, nhưng cầu nguyện trong Thiên Chúa
Người kitô hữu không ở trước nhan Thiên Chúa như trước một người xa lạ.
Khi cầu nguyện, họ đi vào trong chính mầu nhiệm Thiên Chúa. Họ được mầu nhiệm
ba ngôi bao bọc.
Không như bất cứ một hình thức kinh nguyện nào khác, kinh nguyện kitô
giáo có đặc điểm là một kinh nguyện ba ngôi. Phụng vụ của Giáo Hội luôn dạy
chúng ta cầu nguyện theo tiến trình : trong Chúa Thánh Thần, nhờ Chúa Con, ta
đến với Chúa Cha, và từ Chúa Cha, mọi ơn lành được ban cho ta nhờ Chúa Con,
trong Chúa Thánh Thần. Các lời nguyện phụng vụ đều kết thúc bằng công thức ba
ngôi.
Đặc biệt, Kinh Nguyện Thánh Thể chính là một cách cầu nguyện trong lòng
Ba Ngôi. Chúng ta chúc tụng Chúa Cha là Đấng chí thánh, xin Ngài sai Thần Khí
đến làm cho Chúa Kitô hiện diện. Sau khi chúc tụng và tạ ơn Chúa Cha, trong lời
cầu khẩn Chúa Thánh Thần và trong việc tưởng niệm Mầu nhiệm Vượt qua của Chúa
Con, chúng ta lại nhờ Chúa Con, trong Chúa Thánh Thần, nhờ bánh rượu đã trở nên
Mình Máu Chúa, hướng về Chúa Cha, như đọc trong Vinh tụng ca kết thúc: “Chính
nhờ Đức Kitô, cùng với Đức Kitô và trong Đức Kitô, hiệp nhất với Chúa Thánh
Thần, mọi vinh quang và danh dự đều thuộc về Cha là Thiên Chúa toàn năng đến
muôn thuở muôn đời”.
Như vậy, đặc điểm của kinh nguyện kitô giáo là cầu nguyện trong mầu
nhiệm Thiên Chúa. Cầu nguyện là chúng ta ở trong Chúa Cha, trong Thần Khí, nhờ
Chúa Con. Chúng ta xử sự như những con cái trong mầu nhiệm Chúa Cha. Phaolô
nhắc cho ta như thế trong chương 8 thư Rôma, cũng như trong thư Galát: “Thiên
Chúa đã sai Thần Khí của Con mình đến ngự trong lòng anh em mà kêu lên: Abba,
Cha ơi” (Gl 4,6). Như vậy, khi ta cầu nguyện thì Thần Khí sống trong ta và,
trong Thần Khí, ta kêu lên: “Cha ơi”. Chính Phaolô, khi cầu nguyện, cũng đã xin
Chúa Cha ban cho ta “nhờ lòng tin, được Đức Kitô ngự đến trong tâm hồn” (Ep
3,17).
Kinh nguyện là lúc Ba Ngôi đi vào lịch sử thế giới, lúc thể hiện giao
ước giữa lịch sử muôn đời của Thiên Chúa và lịch sử chóng qua của con người.
Kinh nguyện là bảo chứng niềm hy vọng, cho ta được nếm thử trước ngày thế giới
sẽ hoàn toàn ở trong Thiên Chúa, lúc Thiên Chúa là mọi sự cho mọi người. Trong
kinh nguyện, Ba Ngôi và con người thực sự kết hợp với nhau. Con người ý thức
mình ở trong lòng Ba Ngôi và Ba Ngôi được công bố hiện diện nơi tâm hồn con
người, như điều Đức Giêsu nói: “Cha của Thày và Thày sẽ đến và ở lại với người
ấy” (Ga 14,23).
Chính đó là mầu nhiệm kinh nguyện kitô giáo, mầu nhiệm giúp ta hiểu
rằng cầu nguyện là cầu nguyện trong Thiên Chúa, trong Ba Ngôi chí thánh.
Dựa vào những gì nói trên và qua cách thực hành của phụng vụ, chúng ta
khai triển ba khía cạnh: kinh nguyện hướng về Chúa Cha, nguồn mạch và cùng đích
mọi sự; kinh nguyện được thực hiện nhờ Chúa Con, “nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa
chúng con”; kinh nguyện được thực hiện trong Chúa Thánh Thần.
a) Kinh nguyện hướng về Chúa Cha
Kinh nguyện nói lên mối tương quan của Chúa Cha với ta và của ta với
Chúa Cha.
* Tương quan của Chúa Cha với ta
Thư Giacôbê cho biết Chúa Cha là nguồn mạch mọi ơn lành và phúc lộc
hoàn hảo (Gc 1,17).
Theo mạc khải, Chúa Cha là Đấng yêu ta trước, sai Chúa Con và Chúa
Thánh Thần đến với ta. Chúa Cha là nguyên lý vĩnh cửu và nguồn mạch của tình
yêu. Ngài không yêu vì lý do nào đó buộc Ngài phải yêu. Ngài yêu vì lấy đó làm
vui. Luthêrô nói: “Thiên Chúa không yêu ta vì ta tốt lành và đẹp đẽ, nhưng Ngài
làm cho ta nên tốt lành và đẹp đẽ vì
yêu ta”. Từ đời đời Ngài đã yêu ta và còn yêu ta mãi mãi. Và nếu Ngài là nguồn
mạch mọi ơn lành và phúc lộc hoàn hảo, thì mọi sự đều từ Ngài mà đến. Kinh
nguyện là nơi mà con người và Giáo Hội nhận ra tình yêu và mầu nhiệm Thiên Chúa
đến với họ.
Cầu nguyện không phải là nói nhiều để thổ lộ lòng yêu mến. Cầu nguyện
là để mình được Thiên Chúa yêu. Theo nghĩa này, cầu nguyện tiên vàn là lãnh
nhận, là thinh lặng nhẫn nại chờ đợi tình yêu của Thiên Chúa. Ai không có tâm
hồn nghèo khó trước Thiên Chúa sẽ không bao giờ biết cầu nguyện. Không có tâm
hồn này, việc cầu nguyện của người ấy chỉ là một hoạt động của con người. Nhưng
cầu nguyện lại là công việc của Thiên Chúa (opus Dei), như thánh Bênađô nói.
Thế nên con người phải để Thiên Chúa hoạt động.
Giáo Hội cầu nguyện mà biết đón nhận tình yêu của Thiên Chúa, sẽ giống
như Đức Maria, Đấng đã cảm nghiệm Thiên Chúa trong lòng dạ trước khi thấy và
chiêm ngắm Ngài. Trong kinh nguyện kitô giáo cũng như nơi Đức Maria, cảm nghiệm
mầu nhiệm đi trước chiêm ngắm mầu nhiệm.
Vì cầu nguyện trước hết là để mầu nhiệm Thiên Chúa tràn ngập nơi ta,
nên ta phải dành thời giờ cho Thiên Chúa. Theo Karl Barth, Thiên Chúa đã dành
thời gian cho con người. Đổi lại, con người cũng phải dành thời giờ cho Thiên
Chúa, với thái độ thinh lặng, ngoan ngoãn, kiên trì và trung thành để mình được
Ngài yêu. Khi ấy, kinh nguyện của ta không dựa trên sự phấn khởi nhất thời,
trên cảm xúc mau qua, nhưng trên sự lựa chọn ở trước nhan Thiên Chúa, chấp nhận
để Ngài lên tiếng khi nào và cách nào Ngài muốn.
* Tương quan của ta với Chúa Cha
Mọi sự từ Chúa Cha mà đến, nhưng cũng trở lại với Ngài. Trong kinh
nguyện, chúng ta không chỉ đón nhận phúc lộc từ Thiên Chúa, mà còn biết đáp lại
ơn Ngài, muốn đưa mọi sự về Ngài. Con người có sẵn trong tâm hồn ý hướng về
Thiên Chúa. Kinh nguyện sẽ giúp họ bộc lộ ý hướng này qua những hành vi ca
ngợi, tạ ơn, chuyển cầu, để đưa cả thế giới về lại với Thiên Chúa, nhờ đó mà nó
tìm lại được nguồn gốc đích thực của mình.
Nền tảng của ơn gọi kitô giáo là ở chiều đi lên này của kinh nguyện. Ơn
gọi này là dấn thân hoạt động nhằm phục vụ con người, đấu tranh cho công lý,
liên đới với người nghèo. Đây không phải là một thứ mốt của xã hội, nhưng là
đáp lại điều người ta cảm nghiệm được khi cầu nguyện. Nhờ cầu nguyện, người
kitô hữu tập xem xét mọi sự trong ánh sáng của Thiên Chúa, tố cáo những bất
công, công bố chân lý Nước Trời. Nhờ cầu nguyện, họ định hướng cuộc đời mình
tới ý nghĩa sâu xa và tối hậu của mọi sự. Nhờ cầu nguyện, họ tập nhận ra lịch
sử riêng của họ, của con người và của Giáo Hội, đang tiến về quê hương vĩnh
cửu.
Một dân tộc hay một Giáo Hội càng cầu nguyện thì càng theo sát lịch sử,
càng vào sâu trong lịch sử, để đảm nhận niềm hy vọng của con người và biến nó
thành một con đường cụ thể thực hiện công lý và hoà bình. Ai đi vào mầu nhiệm
Chúa Cha giữa lòng Ba Ngôi thì cũng ở giữa lòng lịch sử. Thánh Gioan Kim Khẩu
nói: “Người cầu nguyện là người lèo lái lịch sử”. Mọi sự từ Chúa Cha mà đến và
trở về với Ngài, được thực hiện trong một mạch kín là tình yêu Ba Ngôi. Tình
yêu này chan hoà trong lịch sử, một lịch sử mà chúng ta, khi cầu nguyện, phải
hội nhập với tất cả ý thức.
Tựu trung, cầu nguyện trong tương quan với Chúa Cha có nghĩa là thừa
nhận rằng mọi sự từ Ngài mà đến, coi kinh nguyện như một sự thinh lặng, đón
nhận, chờ đợi; đồng thời thừa nhận rằng mọi sự trở về với Ngài, coi kinh nguyện
như một lời ca ngợi, tạ ơn và chuyển cầu.
b) Kinh nguyện nhờ Chúa Con
Giáo Hội luôn dạy ta cầu nguyện nhờ Chúa Con. Điều này có nghĩa gì ?
Nếu Chúa Cha là nguồn mạch tình yêu, là Đấng yêu thương từ đời đời, thì
Chúa Con là Đấng được yêu từ đời đời, đón nhận tình yêu từ đời đời. Qua tình
yêu này, Chúa Con đã được sai xuống thế, chấp nhận cái chết thập giá và được
đầy tràn Thần Khí trong ngày phục sinh.
Chúa Cha dạy chúng ta rằng ban tặng và yêu thương là hành vi thần linh.
Chúa Con dạy chúng ta rằng đón nhận và để mình được yêu cũng là hành vi thần
linh. Vậy điều quan trọng là khám phá ý nghĩa thần linh của việc đón nhận tình
yêu. Cầu nguyện “nhờ Chúa Con” tiên vàn có nghĩa là đi vào trong mầu nhiệm đón
nhận của Chúa Con, để rồi, trong sự đón nhận này, chúng ta khi cầu nguyện sẽ
trở thành người đón nhận như thế nào trong đời sống cụ thể. Như vậy, kinh
nguyện cho thấy hai khía cạnh trong tương quan với Chúa Con : kinh nguyện như
một sự bắt chước Đức Kitô; kinh nguyện như một sự đồng hành với đức tin và đời
sống.
* Kinh nguyện như một sự bắt chước Đức Kitô.
Bắt chước ở đây là bắt chước sự đón nhận của Chúa. Hạn từ “bắt chước”
rất thường được nói đến trong truyền thống tu đức của Giáo Hội. Theo các Giáo
phụ, bắt chước không phải là xem xét một kiểu mẫu từ xa, rồi tìm cách rập theo
kiểu mẫu đó. Theo truyền thống tu đức lớn, bắt chước là thể hiện lại. Bắt chước
Đức Kitô là thể hiện lại Đức Kitô nơi ta. Nói như Phaolô, đó là để Đức Kitô
sống trong ta (x. Gl 2,20), để Ngài ngự trong tâm hồn nhờ lòng tin (x.Ep 3,17),
chi phối tư tưởng, lời nói, tình yêu và sự sống của ta. Điều này được thực hiện
trong việc cầu nguyện nhờ Chúa Con. Cầu nguyện là lúc mà Chúa Con cắm lều nơi
con người và lịch sử của ta.
Việc bắt chước này có hai khía cạnh. Trước khi sống lại, Chúa đã bị
đóng đinh thập giá. Vậy bắt chước Chúa Kitô là bắt chước Đấng bị đóng đinh và
bắt chước Đấng Phục sinh vinh hiển.
Trước hết, kinh nguyện làm cho ta có kinh nghiệm về thập giá của Chúa,
đưa ta đến chỗ bắt chước Đấng bị đóng đinh.
Chúng ta thường cho rằng sự khô khan khi cầu nguyện là do sự yếu đuối
của con người và cũng do tội lỗi nữa. Tuy nhiên, sự khó khăn khi cầu nguyện
không chỉ có một ý nghĩa nhân học, nhưng có một ý nghĩa thần học sâu sắc. Cầu
nguyện khó khăn chính là lúc đưa ta vào mầu nhiệm thập giá Chúa. Do đó ta hiểu
vì sao những người muốn cảm nghiệm Thiên Chúa một cách nghiêm túc vẫn trải qua
những lúc bị thử thách và khô khan khi cầu nguyện. Ai không bị thử thách, sẽ
không biết ý nghĩa của hy vọng, do đó không biết ý nghĩa của cầu nguyện. Thiên
Chúa là lò lửa bừng cháy. Ai không được lửa này thanh tẩy, sẽ không bao giờ là
một người cầu nguyện. Người đó có thể cầu nguyện nhiều lời, nhưng sẽ không cho
thấy ý nghĩa của tự do và an bình mà kinh nguyện đem lại cho tâm hồn con người.
Không phải tình cờù mà các nhà tu đức lớn thú nhận với chúng ta là các
ngài đã phải chiến đấu thế nào khi cầu nguyện. Têrêxa Avila đã khô khan tới 19
năm, và có lần đã nói là mình thích bất cứ điều gì khác hơn là trung thành cầu
nguyện. Ignatiô Loyola đã từng có kinh nghiệm về sự khó khăn này, nên khuyên:
“Lúc khô khan, bạn hãy làm chính những việc mà bạn hẳn sẽ làm lúc phấn khởi”.
Sự khô khan không chỉ là một thử thách, nhưng còn là một ân sủng, vì là
lúc Chúa đưa ta từ bóng tối ra ánh sáng. Về kinh nghiệm thử thách như một kinh nghiệm
ân sủng, Luthêrô có những lời lẽ rất hay như sau: “Nếu Thiên Chúa muốn làm cho
chúng ta sống, Ngài giết chết chúng ta. Chính khi dẫn ta tới thung lũng tối tăm
mà Ngài ban cho ta đầy ánh sáng của Ngài”. Sự khô khan khi cầu nguyện là cái
giá phải trả cho những ai muốn bắt chước Đức Kitô.
Muốn cầu nguyện mà lại không muốn biết đến những khó khăn, thì sẽ không
cầu nguyện nữa. Ta sẽ không bao giờ là một người cầu nguyện, nếu dừng lại trước
những khô khan và mệt nhọc đầu tiên. Nhưng ta sẽ là người cầu nguyện nếu chấp
nhận kiên trì trong lúc khó khăn, chấp nhận đôi khi vẫn tiếp tục cầu nguyện dù
không cảm thấy gì, hiến dâng cho Chúa thời giờ cầu nguyện tưởng là vô ích.
Điều này có giá trị cho cả cầu nguyện riêng lẫn cầu nguyện chung. Chúng
ta đã đánh mất ý nghĩa thần học của sự khô khan, đến nỗi không còn can đảm cùng
nhau cầu nguyện trong thinh lặng. Khi cầu nguyện chung với nhau, chúng ta luôn
có nhiều lời, hầu như sợ thinh lặng vì dễ chia trí. Thực ra, trong kinh nguyện,
thinh lặng cũng có giá trị ngang với lời nói. Nó cho phép ta cảm nghiệm được ý
nghĩa của việc một mình đối diện với Thiên Chúa, thinh lặng bày tỏ mình trước
sự thinh lặng đầy yêu thương của Thiên Chúa.
Kinh nguyện cũng giúp ta bắt chước Đức Kitô vinh hiển. Ngài không chỉ
là Đấng bị đóng đinh, mà còn là Đấng được tôn vinh. Đây là khía cạnh thứ hai
cho thấy kinh nguyện là nguồn mạch hoan lạc và bình an. Đó là sự hoan lạc và
bình an của người đã chiến thắng sự chết, nhờ quyền năng của Chúa Phục sinh.
Chỉ trong mầu nhiệm kinh nguyện kitô giáo, chúng ta mới biết đến niềm vui này.
Người không có kinh nghiệm về Thiên Chúa thì không thể có nó. Người ta có thể
vui lúc nào đó, nhưng niềm vui này mau qua, khác với niềm vui sâu xa của người
được sống lại, dự phần vào sự sống mới.
Niềm vui sâu xa này, chúng ta vẫn giữ được cả khiø đang mất hết mọi sự,
thất bại, cô đơn, buồn phiền. Sự buồn phiền cũng có một giá trị. Đừng tin người
kitô hữu nào nói với ta là họ không bao giờ biết buồn, nhất là vì Đức Kitô cũng
đã biết buồn. Nhưng đồng thời, vẫn còn có kinh nghiệm về sự chiến thắng, hoan
lạc và bình an. Kinh nguyện là nguồn mạch bình an, vì bắt chước và tham dự vào
mầu nhiệm Phục sinh của Chúa.
* Kinh nguyện như một sự đồng hành với đức
tin và đời sống.
Trong kinh nguyện, ta trở thành thân thể Đức Kitô. Kinh nguyện là nguồn
mạch của Giáo Hội. Nếu Giáo Hội sinh ra từ lời Chúa, thì kinh nguyện, nơi mà
lời Chúa được đón nhận trong thinh lặng, là nguồn gốc của tất cả đời sống Giáo
Hội. Con người càng cầu nguyện thì càng ý thức về Giáo Hội, vì càng cầu nguyện
càng cảm thấy mình đối diện với Thiên Chúa và hiệp thông với những người khác.
Chiêm niệm là gì ? Contemplatio gồm cum và templum. Cum có nghĩa là
cùng với; templum (từ hy lạp temnein = tách biệt). Chiêm niệm là đặt hai thực
thể gần nhau, tách biệt nhau nhưng ở với nhau. Người chiêm niệm là người vừa cô
độc vừa hiệp thông. Theo D. Bonhoeffer, ai không có khả năng sống cô độc với
Thiên Chúa, thì không thể hiệp thông với các anh chị em mình. Cũng vậy, ai
không có khả năng hiệp thông với người khác thì không thể một mình đối diện với
Thiên Chúa. Kinh nguyện là chiêm niệm nếu là sự cô độc với Đức Kitô, nhưng cũng
là sự hiệp thông với thân thể Đức Kitô.
Ý thức về Giáo Hội, trước khi được nuôi dưỡng bằng những ý tưởng thần
học, thì đã được nuôi dưỡng bằng kinh nghiệm đích thực về mầu nhiệm kinh nguyện
kitô giáo, về phụng vụ.
Người thực sự cầu nguyện là một nhà cách mạng, theo nghĩa là người kiến
tạo hoà bình. Người đó giống như thánh Phanxicô Assisi, suốt đời mưu cầu hoà
bình nhằm xoá bỏ hận thù, vì biết Đức Kitô đồng hành với mọi người.
Không những đồng hành với đức tin, kinh nguyện còn đồng hành với đời
sống. Đó là do con người được đón nhận trong Đức Kitô. Đồng hành có nghĩa là
cùng nhau bẻ bánh hoặc ăn chung với nhau. Đồng hành với đời sống là liên đới,
“ở với”, “sống cho”. Theo nghĩa này, kinh nguyện dạy ta sống liên đới với người
khác. Người cầu nguyện sẽ tập mang gánh nặng của người khác, biết nhìn người
khác bằng đôi mắt yêu thương. Và ở đâu có yêu thương, ở đấy người ta hiểu được
cần phải làm gì, như câu tục ngữ thời Trung cổ nói: Đâu có tình yêu, đấy có con
mắt (ubi amor, ibi oculus).
Điều quan trọng là phải quan niệm kinh nguyện như một trường đào tạo
tình liên đới. Nơi đó, chúng ta được dạy cho biết nhìn tới người khác, biện
biệt các ý định của Thiên Chúa và các nhu cầu của nhân loại. Kinh nguyện chính
là nơi tuyên dương bác ái kitô giáo.
c) Kinh nguyện trong Thần Khí
Theo truyền thống tây phương, Thần Khí là mối dây tình yêu vĩnh cửu
giữa Đấng yêu và Đấng được yêu. Thần Khí là Tình Yêu. Nhãn quan trên đây của Augustinô
đã ảnh hưởng trên toàn thể Tây phương
la tinh đến nỗi, cả trong kinh Tin Kính, chúng ta tuyên xưng Chúa Thánh Thần
“bởi Chúa Cha và Chúa Con mà ra”. Người ta giải thích mầu nhiệm như thế này :
Chúa Thánh Thần là dây tình yêu liên kết Chúa Cha và Chúa Con, là sự bình an
của Thiên Chúa, sự hiệp thông của Thiên Chúa. Ngài cũng là Đấng tạo ra sự bình
an và hiệp thông trong lòng con người.
Trong khi truyền thống tây phương để ý hơn khía cạnh phục sinh của Đức
Kitô khi bàn về Chúa Thánh Thần, thì truyền thống đông phương để ý hơn khía
cạnh tử nạn. Theo truyền thống này, Đức Giêsu liên đới với các tội nhân là nhờ
Thần Khí. Đối với Đông phương, Thần Khí còn hơn là một mối dây hiệp nhất. Ngài
là hồng ân của Thiên Chúa, là sự hướng ngoại của Thiên Chúa. Nếu “yêu không
phải là nhìn vào mắt nhau, nhưng là cùng nhau nhìn về một hướng” (A. de
Saint-Exupéry), thì Chúa Thánh Thần là Đấng thực hiện điều này nơi Thiên Chúa.
Trong Chúa Thánh Thần, Thiên Chúa ra khỏi mình, hướng tới thụ tạo. Do đó, việc
tạo dựng được thực hiện trong Thần Khí, vì Thần Khí bay lượn trên mặt nước.
Việc nhập thể được thực hiện trong Thần Khí, vì Thần Khí phủ bóng trên Đức
Trinh Nữ Maria. Giáo Hội khai sinh ngày lễ Ngũ tuần là do Thần Khí. Các lời
tiên tri luôn được Thần Khí gợi ra. Thần Khí đem lại sự mới mẻ, mở ra tương
lai.
Chính vì vậy mà đối với Đông phương, Chúa Thánh Thần không phải bởi
Chúa Cha và Chúa Con mà ra. Người Đông phương vốn nhạy cảm nên không hiểu nổi
điều này. Cũng vì vậy mà trong kinh Tin Kính của Đông phương, không có từ
filioque (và Đức Chúa Con), bởi Đông phương quan niệm Chúa Thánh Thần từ Chúa
Cha mà ra, nhờ Chúa Con.
Nếu dùng đồ hình, ta sẽ vẽ truyền thống tây phương về Ba Ngôi bằng một
vòng tròn lưu chuyển tình yêu, Chúa Cha và Chúa Con yêu nhau trong Chúa Thánh
Thần; và vẽ truyền thống đông phương về Ba Ngôi bằng một đường thẳng kéo dài
đến vô tận, từ Chúa Cha, nhờ Chúa Con, trong Chúa Thánh Thần, để sự sống luôn
vọt ra theo một cách thức mới mẻ, và được đưa vào lòng Ba Ngôi.
Dựa vào cả hai truyền thống, chúng ta tự hỏi : cầu nguyện trong Thần
Khí, “hiệp nhất với Chúa Thánh Thần” như phụng vụ dạy ta đọc, điều ấy có nghĩa
gì ?
Vì Thần Khí là nguồn mạch hiệp nhất, kinh nguyện trong Thần Khí đưa ta
tới sự hiệp nhất của mầu nhiệm. Kinh nguyện dạy ta đối thoại và hiệp thông.
Người cầu nguyện tập tôn trọng tha nhân dù họ khác với mình, biết thừa
nhận người khác như một hồng ân làm một với mình. Không có khoan dung thì không
có đối thoại, và thường ra không có tinh thần cầu nguyện đích thực. Người không
khoan dung ít khi cầu nguyện hoặc cầu nguyện mà không có tinh thần. Còn người
thực sự cầu nguyện là người kiến tạo hoà bình.
Nói tới Thần Khí là nói tới sự mới mẻ và mở rộng. Người cầu nguyện
trong Thần Khí sẽ không thể là người bảo thủ chỉ biết khư khư với quá khứ,
nhưng luôn hy vọng vào tương lai, vì Thần Khí hằng sống trong lịch sử. Tuy
trung thành với cái cũ, với Đức Kitô, với Chúa Cha, với truyền thống giáo hội,
nhưng người cầu nguyện cũng thực sự là con người đổi mới, vì sẵn sàng đón nhận
điều mới. Trung thành và mới mẻ không đối nghịch nhau, nhưng là hai khía cạnh
của cùng một kinh nghiệm. Người thực sự trung thành thì cũng thực sự đổi mới,
nhưng không phải là người chỉ ham thích những gì mới mẻ. Sống trong Thần Khí,
cầu nguyện trong Thần Khí, họ biết làm những gì mới mẻ do Thần Khí gợi hứng mà
vẫn là con người trung thành.
Thời Trung cổ, người ta khẳng định điều này bằng một kiểu nói rất hay :
chúng ta như những người lùn ngồi trên vai những người khổng lồ. Người khổng lồ
là các tổ phụ của ta trong đức tin, vĩ đại hơn ta nhiều. Tuy vậy, nếu các ngài
là những người khổng lồ và chúng ta là những người lùn, chúng ta lại ngồi trên
vai các ngài. Ngồi trên đó tức là chúng ta nhìn xa hơn các ngài. Nhìn xa trông
rộng hơn người thường, chính là các tiên tri. Trong Thần Khí, người ta trở
thành tiên tri mà không biết, vì đây là công việc của Thần Khí. Một Giáo Hội
cầu nguyện trong Thần Khí là một Giáo Hội biết nhìn xa, không phàn nàn về những
thất bại, đau khổ. Đó là một Giáo Hội có tràn đầy hy vọng, luôn đổi mới, hướng
tới sự trẻ trung vĩnh cửu.
2. Đào tạo việc cầu nguyện
Dựa vào những gì vừa khai triển, ta có thể khẳng định rằng cầu nguyện
là lịch sử Thiên Chúa trong lịch sử con người, đưa Ba Ngôi ngày càng vào sâu
trong cuộc sống của ta. Chính vì cầu nguyện là lịch sử mà nó phải đương đầu với
ba cám dỗ : sợ hãi, thoái thác và thiếu kiên nhẫn. Do sợ mà chúng ta từ chối
tương lai. Do thoái thác mà chúng ta phủ nhận hiện tại. Do thiếu kiên nhẫn mà
chúng ta phủ nhận quá khứ. Tự nền tảng, các cám dỗ trên làm cho kinh nguyện
không còn phải là một lịch sử, nhưng là một hoạt động bên lề, tuỳ phụ, tách rời
khỏi đời sống.
a) Cám dỗ lớn thứ nhất : sợ hãi
Người ta sợ Thiên Chúa, sợ những đòi hỏi của Ngài. Thời Trung cổ gọi đó
là sự lười biếng về đường thiêng liêng, một ý tưởng quan trọng nhưng ít nhiều
bị lãng quên. Người ta sợ Thiên Chúa vì biết rằng những đòi hỏi của Ngài là
những đòi hỏi chết người.
Nhưng ai thực sự gặp gỡ Thiên Chúa đều sẵn sàng chết cho mình, để đi
vào một thế giới chưa từng biết đến. Ai thực sự cầu nguyện đều dám chấp nhận
không tự liệu lý cuộc đời của mình, nhưng đặt nó trong bàn tay của một Đấng
khác. Theo nghĩa này, kinh nguyện thực hiện đầy đủ kinh nghiệm đức tin. Thời
Trung cổ cho rằng tin là trao tặng tấm lòng mình (credere = cor + dare). Trao
tặng tấm lòng mình là biến mình thành tù nhân của Thiên Chúa vô hình. Tin là đi
vào trong đêm tối của Thiên Chúa, mà không chắc chắn sẽ có ban ngày, chân nhận
rằng chỉ mình Thiên Chúa có thể soi sáng giúp mình bước đi. “Lạy Chúa, lời Chúa
là đèn rọi bước chân con”.
Có được thái độ như trên quả là khó. Chúng ta bị cám dỗ tự vệ chống lại
tương lai của Thiên Chúa, tin tưởng vào những gì đã là và đã làm hơn là chờ đợi
những điều bất ngờ Chúa cho xẩy đến. Cám dỗ này, chàng thanh niên giầu có trong
Phúc âm (Mc 10,7tt) đã gặp. Trước những đòi hỏi của Chúa (bán mọi sự mình có và
bố thí cho người nghèo), anh tỏ ra sợ hãi, không dám vứt bỏ quá khứ để phó thác
vô điều kiện cho bàn tay của một người xa lạ đang mời gọi anh, dù ngài nhìn anh
bằng cặp mắt yêu thương.
Bài học đầu tiên dạy thực tập cầu nguyện là can đảm để lòng được tự do,
chấp nhận một mình đối diện với Thiên Chúa, không tìm cớ thoái thác, bào chữa.
Cớ thoái thác này có thể có ngay cả trong kinh nguyện, khi ta chỉ biết nói
nhiều như dân ngoại quen làm, không dành khoảng trống nào để Thiên Chúa có thể
nói với ta. Khi chấp nhận một mình đối diện với Thiên Chúa, ta cũng dám chấp
nhận tác động mạnh mẽ của kinh nghiệm này trong tâm hồn và cuộc sống của ta.
Dân nào sợ thay đổi thì sẽ không cầu nguyện. Ngược lại, nếu thực sự cầu
nguyện, dân đó sẽ không còn sợ hãi. Họ để cho Thiên Chúa hành động, sẵn sàng
cho những việc bất ngờ Ngài làm. Họ sẽ là một dân lữ hành, luôn trẻ trung và tự
do.
Kinh nguyện giúp ta thoát khỏi sự trống rỗng và khốn cùng của ta, cho
ta thấy những điều mới mẻ của Thiên Chúa, không những thế, nó còn thực hiện
trước tương lai của Thiên Chúa trong thời gian hiện tại của con người. Do đó,
điều quan trọng là biết cầu nguyện khi gặp những thách đố, khó khăn và nghịch
lý mà chúng ta đang đương đầu. Khi ấy, cầu nguyện là một hành vi can đảm. Đó là
sự can đảm của con người tự do trong tình yêu.
b) Cám dỗ lớn thứ hai : thoái thác hoặc trốn
tránh
Nếu sợ hãi từ chối tương lai của Thiên Chúa, thì thoái thác từ chối
hiện tại của con người. Thoái thác là nói, chẳng hạn: Tôi mà sống trong điều
kiện khác, thì tôi đã là một kitô hữu tốt …
Một cách cơ bản, cám dỗ trốn tránh là cám dỗ nhắm mắt trước điều kiện
hiện tại, mà Thiên Chúa đã đặt ta trong đó và là nơi Thiên Chúa nói với ta
trước tiên. Có lần Chúa bảo: “Khi các người thấy mây kéo lên ở phía tây, các
người nói ngay: “Mưa đến nơi rồi”, và xẩy ra đúng như vậy. Khi thấy gió nồm
thổi, các người nói: “Trời sẽ oi bức”, và xẩy ra đúng như vậy … cảnh sắc trời
đất, thì các người biết nhận xét, còn thời đại này, sao các người lại không
biết nhận xét ?” (Lc 12,54-56). Đây là lời quan trọng nhắc nhở ta đón nhận sự
hiện diện của Thiên Chúa, không phải ở nơi đâu khác, nhưng ngay ở đây và lúc
này, trong điều kiện hiện tại của ta.
Để học tập cầu nguyện, phải thắng mọi cám dỗ thoái thác. Phải có lòng
can đảm của một người trung thành trong tình yêu. Kinh nguyện của ta không
chính thực, nếu ta không coi là một bổn phận để bày tỏ lòng trung thành này.
Ai cầu nguyện mà không nhớ đến sự đau khổ của những người chung quanh,
của chính mình, của những điều kiện mà mình sống trong đó, thì không thực sự
cầu nguyện. Phải mang vào kinh nguyện tất cả con người của mình. Chỉ mang một
phần của mình hay một phần lịch sử mà mình đang sống, thì không phải là thực sự
cầu nguyện. Kinh nguyện sẽ giúp ta chiến thắng cám dỗ này, nếu nó đảm trách
lịch sử của ta, nếu nó đưa những con người của thời đại này về cho Thiên Chúa
và đem Thiên Chúa đến cho họ. Kinh nguyện giúp ta trung thành với thế giới hiện
tại và thế giới sẽ đến, trung thành với Thiên Chúa và với con người. Kinh
nguyện là lúc Thiên Chúa biến đổi ta, giúp ta có thể nhận ra Ngài trong hiện
tại, không phải để trốn tránh Ngài, nhưng là yêu Ngài ở nơi Ngài hiện diện.
Chúng ta học cầu nguyện nếu trung thành với ngày hôm nay của ta, biến
nó thành ngày hôm nay của Thiên Chúa, để thời gian này (kronos, theo ngôn ngữ
Tân ước) trở thành giờ (kairos) của Thiên Chúa, cho ta và cho người khác.
c) Cám dỗ lớn thứ ba : thiếu kiên nhẫn
Thiếu kiên nhẫn phủ nhận quá khứ. Nếu sợ hãi không cho ta nhìn tới
tương lai, nếu trốn tránh làm ta ngoảnh mặt trước hiện tại, thì thiếu kiên nhẫn
khiến ta quên rằng đàng sau ta đã có một quá khứ liên hệ đến ta. Chính đây là
một lịch sử đòi có thời gian chín muồi, đòi sự chậm rãi mà đôi khi ta không
muốn. Thiếu nhẫn nại là cám dỗ của người muốn có ngay mọi sự, muốn tập cầu
nguyện mà có ngay được kinh nghiệm về Thiên Chúa, muốn lời cầu xin mang lại
ngay kết quả.
Kinh nguyện giúp ta hiểu rằng Thiên Chúa không cưỡng ép thời gian của
con người. Ngài đã nhẫn nại trước khi tỏ lòng thương xót, đã tôn trọng phẩm giá
của sự sống con người, cả khi họ lầm lạc tội lỗi. Biết nhẫn nại trước thời giờ
của Thiên Chúa là can đảm chấp nhận rằng sự việc chỉ có thể thay đổi khi mọi sự
khác cũng dần dần thay đổi, vì chúng có liên hệ với nhau; chấp nhận rằng thế
giới này không bao giờ là quê hương, và nó không thay đổâi dễ dàng nhưng luôn
phải trả giá đắt.
Ơn Thiên Chúa là ơn lạ lùng và cho không, nhưng con người phải khó nhọc
suốt đời để đáp lại. Phải nhẫn nại. Đừng chiều theo cám dỗ của các con ông
Dêbêđê: “Xin cho hai anh em chúng con, một người được ngồi bên hữu, một người
được ngồi bên tả Thày, khi Thày được vinh quang” (Mc 10,37). Chúng ta biết câu
Chúa trả lời cho họ : ngồi chỗ nào là tuỳ Chúa Cha xếp đặt, nhưng họ sẽ phải
uống chén. Uống chén là chấp nhận sự nhẫn nại của Thiên Chúa.
Một Giáo Hội hay một cá nhân sẽ không bao giờ có thể trở thành dân hay
người cầu nguyện nếu không thể có tự do trong tình yêu, không thể trung thành
với thời gian hiện tại, không thể nhẫn nại trước hành động của Thiên Chúa.
Trên đây là những cám dỗ cơ bản liên hệ đến việc cầu nguyện. Nếu ngày
qua ngày chúng ta biết chiến thắng những cám dỗ đó, thì kinh nguyện trở thành
lịch sử, lịch sử của Thiên Chúa trong đời sống ta và lịch sử của đời sống ta
cũng như của dân ta trong Thiên Chúa.
3. Đức Maria, hình ảnh của người cầu nguyện
Đức Maria cầu nguyện như một trinh nữ, một người mẹ. Nhờ hai tư cách
lớn này mà Người trở thành hình ảnh của người cầu nguyện.
Là trinh nữ, Đức Maria là thụ tạo hoàn toàn lắng nghe lời Thiên Chúa.
Người là sự thinh lặng để lời Thiên Chúa vang lên. Karl Barth đã viết những
trang tuyệt vời về sự đồng trinh của Người, nhấn mạnh rằng sự đồng trinh này là
một thánh thi dâng lên vinh quang của Đấng Tối Cao. Là trinh nữ, Đức Maria là
thửa đất được chuẩn bị sẵn sàng cho Chúa đến, là cung lòng của Thiên Chúa để
Thiên Chúa là cung lòng của thế giới.
Nhưng Đức Maria còn là mẹ. Nơi Người, thinh lặng đã trở thành lời nói;
người trinh nữ đã trở thành người mẹ. Đức Maria là một người mẹ tế nhị, dịu
dàng, ban tặng, tất cả đều là những đặc điểm của nữ tính nơi Người. Đức Maria
giúp ta hiểu rằng kinh nghiệm về Thiên Chúa, trong Thiên Chúa, tức là cầu
nguyện, thực sự mang lại kết quả khi Giáo Hội cũng trở thành mẹ : một Giáo Hội
sinh ra các con cái cho Thiên Chúa, trong sự tế nhị, dịu dàng của tình yêu; một
Giáo Hội không chỉ hát lên kinh Ngợi Khen, nhưng còn thực hiện những công trình
của kinh này trong đời sống con người.
Lm Micae Trần Đình Quảng
------------
(*) lấy ý trong Bruno Forte, Dans la mémoire du Sauveur,
éd.
Paulines & Médiaspaul, 1991, tr. 205-228